Blog chuyển đến địa chỉ mới

Quý độc giả thân mến, bắt đầu từ mùng 1 Tết năm Mậu Tuất (tức 16.02.2018 DL) chúng tôi chuyển sang blog mới tại địa chỉ https://thudoquan.wordpress.com (Thư Đồ Quán)

Ngoài Thư Đồ Quán trên wordpress, quý độc giả còn có thể  xem thêm Truyện Tàu tại

quyensach.blogspot.com

thudoquan.blogspot.com

sites.google.com/site/thudoquan

textviet.wordpress.com

chimviet.wordpress.com

Trân trọng!

.

nvsam-TQCtoanbo34hoi

[Tuồng Cổ] Phụng Kiều

nvsam-phungkieu

[Tuồng] Nhạc Phi

nvsam-nhacphi[hai]

nvsam-nhacphi[mot]

Từ Điển Hán Việt

1 NÉT

1. [乙] ất 2. [丨] cổn 3. [丶] chủ 4. [一] nhất 5. [乀] phật 6.[丿] phiệt, triệt 7. [亅] quyết

2 NÉT

1. [刂] đao 2. [刀] đao 3. [亠] đầu 4. [刁] điêu 5. [丁] đinh, chênh, trành 6. [勹] bao 7. [卜] bốc, bặc 8. [八] bát 9. [冫] băng 10. [九] cửu, cưu 11. [匕] chủy 12. [匸] hệ 13. [又] hựu14. [厂] hán, xưởng 15. [几] kỉ, ki, cơ 16. [凵] khảm 17. [丂] khảo 18. [厶] khư, mỗ 19. [力] lực 20. [了] liễu 21. [冖] mịch22. [乃] nãi, ái 23. [乂] nghệ 24. [入] nhập 25. [二] nhị 26.[亻] nhân 27. [人] nhân 28. [儿] nhân, nhi 29. [匚] phương30. [冂] quynh 31. [七] thất 32. [十] thập 33. [卩] tiết

3 NÉT

1. [亿] ức 2. [大] đại, thái 3. [𠫓] đột 4. [干] can, cán 5. [巹] cẩn 6. [孒] củng 7. [廾] củng 8. [久] cửu 9. [乆] cửu 10.[个] cá 11. [巾] cân 12. [工] công 13. [勺] chước, thược 14.[弓] cung 15. [廴] dẫn 16. [弋] dặc 17. [也] dã 18. [已] dĩ19. [下] hạ, há 20. [乡] hương 21. [丸] hoàn 22. [彐] kệ 23.[彑] kệ 24. [己] kỉ 25. [乞] khất, khí 26. [口] khẩu 27. [亏] khuy 28. [犭] khuyển 29. [孑] kiết 30. [刄] lạng 31. [马] mã32. [门] môn 33. [宀] miên 34. [女] nữ, nứ, nhữ 35. [兀] ngột 36. [义] nghĩa 37. [广] nghiễm, yểm, quảng 38. [丫] nha 39. [刃] nhận 40. [卄] nhập, chấp 41. [阝] phụ 42. [凢] phàm 43. [凡] phàm 44. [飞] phi 45. [孓] quyết, củng 46.[彡] sam, tiệm 47. [山] san, sơn 48. [士] sĩ 49. [三] tam, tám 50. [习] tập 51. [巳] tị 52. [夕] tịch 53. [子] tử, tí 54.[才] tài 55. [忄] tâm 56. [寸] thốn 57. [土] thổ, độ, đỗ 58.[扌] thủ 59. [氵] thủy 60. [上] thượng, thướng 61. [尸] thi62. [千] thiên 63. [小] tiểu 64. [丈] trượng 65. [夂] tri, truy66. [屮] triệt 67. [夊] tuy 68. [尢] uông 69. [万] vạn, mặc70. [卫] vệ 71. [囗] vi 72. [亡] vong, vô 73. [于] vu, hu, ư74. [彳] xích 75. [亍] xúc 76. [叉] xoa 77. [川] xuyên 78.[巛] xuyên, khôn 79. [幺] yêu 80. [么] yêu, ma

4 NÉT

1. [忆] ức 2. [厄] ách, ngỏa 3. [乌] ô 4. [丹] đan 5. [斗] đẩu, đấu 6. [歹] đãi, ngạt 7. [订] đính 8. [弔] điếu 9. [仃] đinh10. [巴] ba 11. [办] bạn, biện 12. [不] bất, phầu, phủ, phi, phu 13. [比] bỉ, bí, bì, tỉ 14. [贝] bối 15. [仌] băng 16. [卞] biện 17. [仅] cận 18. [及] cập 19. [仇] cừu 20. [丐] cái 21.[斤] cân 22. [勾] câu 23. [公] công 24. [冈] cương 25. [止] chỉ 26. [仉] chưởng 27. [支] chi 28. [之] chi 29. [专] chuyên 30. [引] dẫn, dấn 31. [与] dữ, dự, dư 32. [予] dữ, dư33. [丏] diễn, cái 34. [尹] duẫn, doãn 35. [允] duẫn, doãn36. [介] giới 37. [兮] hề 38. [火] hỏa 39. [灬] hỏa 40. [互] hỗ 41. [戶] hộ 42. [户] hộ 43. [友] hữu 44. [迒] hàng 45.[爻] hào 46. [化] hóa, hoa 47. [凶] hung 48. [幻] huyễn, ảo49. [计] kế, kê 50. [开] khai 51. [孔] khổng 52. [亢] kháng, cang, cương 53. [气] khí, khất 54. [欠] khiếm 55. [区] khu, âu 56. [劝] khuyến 57. [犬] khuyển 58. [讥] ki, cơ 59. [见] kiến, hiện 60. [今] kim 61. [历] lịch 62. [六] lục 63. [仑] lôn 64. [毛] mao 65. [木] mộc 66. [内] nội, nạp 67. [內] nội, nạp 68. [卬] ngang 69. [刈] ngải 70. [午] ngọ 71. [五] ngũ 72. [牛] ngưu 73. [月] nguyệt 74. [元] nguyên 75. [牙] nha 76. [弌] nhất 77. [认] nhận 78. [廿] nhập, chấp 79. [日] nhật, nhựt 80. [壬] nhâm 81. [仁] nhân 82. [冗] nhũng 83.[仍] nhưng 84. [冄] nhiễm 85. [反] phản, phiên 86. [巿] phất 87. [仏] phật 88. [攴] phộc 89. [父] phụ, phủ 90. [分] phân, phần, phận 91. [讣] phó 92. [仆] phó, bộc 93. [凤] phượng 94. [方] phương 95. [片] phiến 96. [风] phong 97.[丰] phong 98. [丯] phong 99. [夫] phu, phù 100. [戈] qua101. [夬] quái 102. [勻] quân 103. [匀] quân 104. [厷] quăng, hoành 105. [刅] sang 106. [丑] sửu, xú 107. [辶] sước 108. [闩] soan 109. [双] song 110. [卅] tạp 111. [币] tệ 112. [井] tỉnh 113. [帀] táp 114. [心] tâm 115. [从] tòng, tụng, thung, túng, tung, tùng 116. [爿] tường, bản 117. [艹] thảo 118. [匹] thất 119. [什] thập, thậm 120. [氏] thị, chi121. [手] thủ 122. [水] thủy 123. [太] thái 124. [厅] thính, sảnh 125. [殳] thù 126. [升] thăng 127. [书] thư 128. [仓] thương, thảng 129. [切] thiết, thế 130. [少] thiểu, thiếu 131.[天] thiên 132. [爪] trảo 133. [爫] trảo 134. [仄] trắc 135.[扎] trát 136. [屯] truân, đồn 137. [中] trung, trúng 138.[勿] vật 139. [云] vân 140. [无] vô, mô 141. [毋] vô, mưu142. [文] văn, vấn 143. [王] vương, vượng 144. [尤] vưu145. [韦] vi 146. [为] vi, vị 147. [曰] viết 148. [车] xa 149.[尺] xích 150. [夭] yêu, yểu

5 NÉT

1. [凹] ao 2. [幼] ấu 3. [肊] ức 4. [戹] ách 5. [忉] đao 6.[代] đại 7. [打] đả 8. [头] đầu 9. [邓] đặng 10. [氐] để, đê11. [对] đối 12. [仝] đồng 13. [队] đội 14. [凸] đột 15. [旦] đán 16. [氹] đãng 17. [饤] đính 18. [冬] đông 19. [东] đông20. [田] điền 21. [鸟] điểu 22. [电] điện 23. [叼] điêu 24.[汀] đinh 25. [叮] đinh 26. [央] ương 27. [包] bao 28. [白] bạch 29. [北] bắc 30. [布] bố 31. [本] bổn, bản, bôn 32.[叭] bá 33. [扒] bái 34. [半] bán 35. [癶] bát 36. [皮] bì 37.[平] bình, biền 38. [丙] bính 39. [氷] băng 40. [弁] biện, bàn, biền 41. [甘] cam 42. [讫] cật, ngật 43. [古] cổ 44. [纠] củ, kiểu 45. [巨] cự, há 46. [旧] cựu 47. [匃] cái 48. [功] công 49. [句] cú, câu, cấu 50. [饥] cơ, ki 51. [汁] chấp, hiệp52. [只] chỉ, chích 53. [主] chủ 54. [正] chánh, chính, chinh55. [卮] chi 56. [占] chiêm, chiếm 57. [用] dụng 58. [孕] dựng 59. [民] dân 60. [以] dĩ 61. [匜] di, dị 62. [灭] diệt 63.[由] do, yêu 64. [加] gia 65. [甲] giáp 66. [汇] hối, vị, vựng67. [乎] hồ, hô 68. [囘] hồi 69. [讧] hồng 70. [卉] hủy 71.[右] hữu 72. [号] hào, hiệu 73. [汉] hán 74. [禾] hòa 75.[叶] hiệp, diệp 76. [弘] hoằng 77. [训] huấn 78. [玄] huyền79. [穴] huyệt 80. [兄] huynh 81. [叽] kỉ 82. [示] kì, thị 83.[记] kí 84. [旡] kí 85. [击] kích 86. [刊] khan, san 87. [可] khả, khắc 88. [叩] khấu 89. [凷] khối 90. [厺] khứ 91. [去] khứ, khu 92. [尻] khào, cừu 93. [丘] khâu, khiêu 94. [叫] khiếu 95. [讦] kiết, yết 96. [兰] lan 97. [立] lập 98. [叻] lặc99. [礼] lễ 100. [厉] lệ, lại 101. [令] lệnh, linh 102. [屴] lực103. [另] lánh 104. [卢] lô, lư 105. [龙] long, sủng 106.[末] mạt 107. [母] mẫu, mô 108. [戊] mậu 109. [目] mục110. [矛] mâu 111. [皿] mãnh 112. [卯] mão, mẹo 113. [们] môn 114. [疒] nạch 115. [奶] nãi 116. [奴] nô 117. [卭] ngang 118. [歺] ngạt 119. [仡] ngật 120. [玉] ngọc, túc 121.[驭] ngự 122. [瓦] ngõa, ngóa 123. [艺] nghệ 124. [议] nghị125. [仪] nghi 126. [业] nghiệp 127. [外] ngoại 128. [乐] nhạc, lạc, nhạo 129. [讱] nhẫn 130. [仞] nhận 131. [弍] nhị132. [禸] nhựu 133. [尔] nhĩ 134. [尒] nhĩ 135. [宂] nhũng136. [让] nhượng 137. [扔] nhưng, nhận 138. [冉] nhiễm139. [尼] ni, nệ, nặc, nật 140. [犯] phạm 141. [乏] phạp142. [叵] phả 143. [弗] phất 144. [庀] phỉ 145. [扑] phốc, phác 146. [发] phát 147. [付] phó 148. [冯] phùng, bằng149. [丕] phi 150. [氾] phiếm 151. [瓜] qua 152. [宄] quỹ153. [丱] quán 154. [归] quy 155. [讪] san, sán 156. [生] sanh, sinh 157. [乍] sạ, tác 158. [叱] sất 159. [史] sử 160.[冊] sách 161. [册] sách 162. [刍] sô 163. [甩] súy 164.[仕] sĩ 165. [疋] sơ, nhã, thất 166. [帅] suất, súy 167. [卡] tạp, ca 168. [写] tả 169. [左] tả, tá 170. [讯] tấn 171. [卌] tấp 172. [必] tất 173. [四] tứ 174. [仔] tử, tể 175. [匝] táp176. [囚] tù 177. [丛] tùng 178. [他] tha 179. [它] tha, đà180. [台] thai, đài, di 181. [叨] thao, đao 182. [夲] thao, bổn 183. [石] thạch, đạn 184. [且] thả, thư 185. [讨] thảo186. [失] thất 187. [世] thế 188. [矢] thỉ 189. [礻] thị 190.[市] thị 191. [讬] thác 192. [叹] thán 193. [圣] thánh 194.[申] thân 195. [匆] thông 196. [闪] thiểm 197. [仟] thiên198. [术] thuật 199. [丝] ti 200. [司] ti, tư 201. [仙] tiên202. [戋] tiên, tàn 203. [宁] trữ, ninh 204. [札] trát 205.[长] trường, trưởng, trướng 206. [仗] trượng 207. [召] triệu, thiệu 208. [朮] truật 209. [未] vị, mùi 210. [务] vụ, vũ 211.[罒] võng 212. [永] vĩnh 213. [巧] xảo 214. [処] xứ 215.[处] xử, xứ 216. [斥] xích 217. [出] xuất, xúy 218. [轧] yết, loát

6 NÉT

1. [安] an, yên 2. [印] ấn 3. [穵] ấp 4. [伛] ủ 5. [亚] á 6.[襾] á 7. [压] áp 8. [讴] âu 9. [圬] ô 10. [汚] ô 11. [污] ô 12.[汙] ô, oa, ố, hu 13. [多] đa 14. [导] đạo 15. [地] địa 16.[対] đối 17. [扥] đốn 18. [同] đồng 19. [动] động 20. [阤] đà 21. [驮] đà, đạ 22. [丟] đâu 23. [丢] đâu 24. [凼] đãng25. [朵] đóa 26. [朶] đóa 27. [灯] đăng 28. [饧] đường 29.[当] đương, đang, đáng 30. [吊] điếu 31. [夺] đoạt 32. [团] đoàn 33. [団] đoàn 34. [约] ước 35. [优] ưu 36. [闭] bế 37.[乓] bàng 38. [百] bách, bá, mạch 39. [冰] băng 40. [圮] bĩ41. [边] biên 42. [乒] binh 43. [艮] cấn 44. [伋] cấp 45. [级] cấp 46. [求] cầu 47. [吃] cật 48. [亙] cắng 49. [共] cộng, cung, củng 50. [扢] cột, hất 51. [巩] củng 52. [臼] cữu 53.[讵] cự 54. [各] các 55. [吉] cát 56. [肌] cơ 57. [机] cơ, ki58. [刚] cương 59. [执] chấp 60. [旨] chỉ 61. [州] châu 62.[至] chí 63. [众] chúng 64. [妁] chước 65. [舟] chu 66. [朱] chu 67. [邛] cung 68. [名] danh 69. [异] dị 70. [屺] dĩ 71.[伃] dư 72. [扬] dương 73. [羊] dương 74. [夷] di 75. [圯] di 76. [亦] diệc 77. [聿] duật 78. [曳] duệ 79. [爷] gia 80.[奸] gian 81. [扛] giang 82. [江] giang 83. [交] giao 84.[艽] giao, cừu, bông 85. [讲] giảng 86. [价] giới, giá 87.[夹] giáp 88. [好] hảo, hiếu 89. [后] hậu, hấu 90. [伙] hỏa91. [回] hồi 92. [红] hồng 93. [冱] hộ 94. [会] hội, cối 95.[纥] hột 96. [亥] hợi 97. [合] hợp, cáp, hiệp 98. [朽] hủ 99.[许] hứa, hử, hổ 100. [有] hữu, dựu 101. [邗] hàn 102. [行] hành, hạnh, hàng, hạng 103. [吓] hách 104. [闬] hãn 105.[扞] hãn 106. [汗] hãn, hàn 107. [刑] hình 108. [戏] hí, hô, huy 109. [虍] hô 110. [灰] hôi, khôi 111. [旭] húc 112. [讳] húy 113. [向] hướng 114. [兴] hưng, hứng 115. [休] hưu116. [协] hiệp 117. [页] hiệt 118. [华] hoa, hóa 119. [划] hoa, hoạch, họa 120. [欢] hoan 121. [纨] hoàn 122. [汍] hoàn 123. [吁] hu 124. [纡] hu, u 125. [匈] hung 126. [讻] hung 127. [兇] hung 128. [血] huyết 129. [吅] huyên, tụng130. [纪] kỉ 131. [乩] kê 132. [伎] kĩ 133. [攷] khảo 134.[考] khảo 135. [扣] khấu 136. [肎] khẳng 137. [岂] khởi, khải 138. [伉] kháng 139. [匟] kháng 140. [庆] khánh, khương, khanh 141. [曲] khúc 142. [夸] khoa 143. [扩] khoách, khoáng 144. [纩] khoáng 145. [圹] khoáng 146.[圭] khuê 147. [匡] khuông 148. [玑] ki 149. [乔] kiều 150.[囝] kiển, cưỡng, tể, nga, niên, nguyệt 151. [件] kiện 152.[吏] lại 153. [両] lạng 154. [肋] lặc 155. [耒] lỗi 156. [甪] lộc 157. [吕] lữ, lã 158. [老] lão 159. [刘] lưu 160. [列] liệt161. [劣] liệt 162. [辽] liêu 163. [灳] linh 164. [论] luận, luân 165. [纶] luân 166. [伦] luân 167. [妈] ma 168. [忙] mang 169. [邙] mang 170. [吗] mạ, ma 171. [米] mễ 172.[糸] mịch 173. [买] mãi 174. [扪] môn 175. [牟] mưu, mâu176. [囡] nam 177. [讷] nột 178. [氖] nãi 179. [农] nông180. [犴] ngạn, ngan, hãn 181. [艾] ngải, nghệ 182. [屹] ngật 183. [仵] ngỗ 184. [阢] ngột 185. [屼] ngột 186. [伪] ngụy 187. [伍] ngũ 188. [仰] ngưỡng 189. [尧] nghiêu 190.[讹] ngoa 191. [刓] ngoan 192. [刖] ngoạt 193. [危] nguy194. [讶] nhạ 195. [任] nhậm, nhâm, nhiệm 196. [肉] nhục, nậu 197. [汝] nhữ 198. [因] nhân 199. [纫] nhân, nhận 200.[耳] nhĩ 201. [如] như 202. [礽] nhưng 203. [而] nhi 204.[戎] nhung 205. [年] niên 206. [伐] phạt 207. [仿] phảng, phỏng 208. [份] phần, bân 209. [妇] phụ 210. [负] phụ 211.[伏] phục, phu 212. [缶] phữu, phẫu, phũ 213. [帆] phàm214. [朴] phác 215. [访] phóng, phỏng 216. [凫] phù 217.[讽] phúng 218. [妃] phi, phối 219. [汎] phiếm 220. [伕] phu 221. [关] quan, loan 222. [观] quan, quán 223. [光] quang 224. [邝] quảng 225. [轨] quỹ 226. [犷] quánh 227.[军] quân 228. [诀] quyết 229. [决] quyết 230. [权] quyền231. [创] sang, sáng 232. [伧] sanh 233. [产] sản 234. [闯] sấm 235. [色] sắc 236. [奼] sá 237. [忏] sám 238. [汕] sán239. [杀] sát, sái, tát 240. [师] sư 241. [充] sung 242. [舛] suyễn 243. [弎] tam 244. [在] tại 245. [杂] tạp 246. [扫] tảo247. [早] tảo 248. [汛] tấn 249. [毕] tất 250. [寻] tầm 251.[牝] tẫn, bẫn 252. [尽] tẫn, tận 253. [则] tắc 254. [齐] tề, tư, trai 255. [仳] tỉ 256. [汜] tỉ, dĩ 257. [汐] tịch 258. [并] tịnh, tinh 259. [存] tồn 260. [讼] tụng 261. [死] tử 262. [自] tự263. [屿] tự 264. [字] tự 265. [寺] tự 266. [再] tái 267. [伞] tán, tản 268. [西] tây, tê 269. [囟] tín 270. [孙] tôn, tốn 271.[夙] túc 272. [匠] tượng 273. [她] tha 274. [汤] thang, sương, thãng 275. [艸] thảo 276. [臣] thần 277. [卋] thế278. [弛] thỉ 279. [忖] thốn 280. [吐] thổ 281. [汆] thộn, thoản, tù 282. [守] thủ, thú 283. [次] thứ 284. [式] thức285. [丞] thừa, chưng 286. [此] thử 287. [托] thác 288. [饦] thác 289. [戍] thú 290. [伤] thương 291. [设] thiết 292. [舌] thiệt 293. [扦] thiên 294. [阡] thiên 295. [收] thu, thú 296.[节] tiết, tiệt 297. [纤] tiêm 298. [尖] tiêm 299. [先] tiên300. [全] toàn 301. [扠] tra, sa 302. [庄] trang 303. [妆] trang 304. [争] tranh, tránh 305. [宅] trạch 306. [状] trạng307. [尘] trần 308. [仲] trọng 309. [纣] trụ 310. [伫] trữ311. [场] tràng, trường 312. [伥] trành 313. [吒] trá 314.[壮] tráng 315. [驰] trì 316. [池] trì 317. [虫] trùng, hủy318. [冲] trùng, xung 319. [竹] trúc 320. [兆] triệu 321.[贞] trinh 322. [传] truyện, truyền, truyến 323. [戌] tuất324. [驯] tuần 325. [旬] tuần, quân 326. [岁] tuế 327. [亘] tuyên, hoàn 328. [卍] vạn 329. [卐] vạn 330. [问] vấn 331.[刎] vẫn 332. [妄] vọng 333. [网] võng 334. [伟] vĩ 335.[羽] vũ 336. [宇] vũ 337. [贠] viên 338. [圩] vu 339. [邘] vu 340. [厍] xá 341. [汊] xá 342. [企] xí 343. [伊] y 344.[衣] y, ý 345. [厌] yếm, áp, yêm, ấp 346. [吆] yêu

7 NÉT

1. [抝] ảo 2. [邑] ấp 3. [饮] ẩm, ấm 4. [妪] ẩu, ủ 5. [沤] ẩu, âu 6. [呕] ẩu, âu, hú 7. [沃] ốc 8. [邬] ổ 9. [坞] ổ 10. [饫] ứ, ốc 11. [抑] ức 12. [应] ứng, ưng 13. [亜] á 14. [呃] ách 15.[扼] ách 16. [阨] ách, ải 17. [阴] âm 18. [杇] ô 19. [呜] ô20. [达] đạt 21. [岛] đảo 22. [投] đầu 23. [抖] đẩu 24. [豆] đậu 25. [诋] để 26. [杕] đệ 27. [弟] đệ, đễ 28. [狄] địch, thích 29. [妒] đố 30. [吨] đốn 31. [冻] đống 32. [饨] đồn33. [忳] đồn, truân 34. [彤] đồng 35. [肚] đỗ 36. [杜] đỗ 37.[沌] độn 38. [囤] độn 39. [佗] đà, tha 40. [坛] đàn 41. [但] đãn 42. [低] đê 43. [廷] đình 44. [佟] đông 45. [佃] điền 46.[条] điều, thiêu, điêu 47. [甸] điện, điền 48. [钉] đinh 49.[町] đinh 50. [疔] đinh 51. [抟] đoàn, chuyên 52. [兑] đoái53. [兌] đoái, đoài 54. [扵] ư 55. [忧] ưu 56. [吧] ba 57.[扳] ban, bản 58. [邦] bang 59. [伴] bạn 60. [把] bả 61. [佈] bố 62. [貝] bối 63. [抔] bồi 64. [芃] bồng 65. [步] bộ 66.[坌] bộn 67. [孛] bột 68. [彷] bàng, phảng 69. [刨] bào 70.[坝] bá 71. [伯] bá, bách 72. [驳] bác 73. [狈] bái 74. [呗] bái 75. [报] báo 76. [邠] bân 77. [纰] bì, phi 78. [评] bình79. [伻] bình 80. [诐] bí 81. [抃] biến, biện 82. [忭] biện83. [釆] biện 84. [汴] biện 85. [別] biệt 86. [别] biệt 87.[兵] binh 88. [玕] can 89. [肝] can 90. [杆] can 91. [更] canh, cánh 92. [改] cải 93. [妗] cấm 94. [汲] cấp 95. [虬] cầu 96. [谷] cốc, lộc, dục 97. [贡] cống 98. [汩] cốt, duật99. [估] cổ 100. [诂] cổ, hỗ 101. [局] cục 102. [糺] củ 103.[究] cứu 104. [灸] cứu 105. [玖] cửu 106. [极] cực 107.[肐] cách 108. [旰] cán, hãn 109. [告] cáo, cốc 110. [吿] cáo, cốc 111. [沟] câu 112. [佝] câu 113. [攻] công 114.[劬] cù 115. [穷] cùng 116. [纲] cương 117. [岗] cương118. [鸠] cưu 119. [诊] chẩn 120. [阯] chỉ 121. [纸] chỉ122. [扺] chỉ 123. [沚] chỉ 124. [址] chỉ 125. [厎] chỉ, để126. [证] chứng 127. [抍] chửng 128. [针] châm 129. [志] chí 130. [灼] chước 131. [巵] chi 132. [吱] chi 133. [折] chiết, đề 134. [诏] chiếu 135. [佔] chiêm, chiếm 136. [忪] chung 137. [狂] cuồng 138. [謠] dao 139. [佚] dật, điệt 140.[酉] dậu 141. [丣] dậu 142. [役] dịch 143. [译] dịch 144.[芋] dụ, hu, vu 145. [卣] dữu 146. [杙] dực 147. [冶] dã148. [迆] dĩ 149. [甬] dũng 150. [妤] dư 151. [余] dư 152.[欤] dư 153. [礿] dược, thược 154. [杨] dương 155. [飏] dương 156. [旸] dương 157. [阳] dương 158. [炀] dương, dượng 159. [诒] di 160. [妙] diệu 161. [延] diên 162. [犹] do, dứu 163. [佣] dong 164. [攸] du 165. [狁] duẫn 166.[曵] duệ 167. [肜] dung 168. [沩] duy 169. [沇] duyện 170.[吮] duyện 171. [阶] giai 172. [间] gian, gián, nhàn 173.[肛] giang 174. [杠] giang, cống 175. [戒] giới 176. [尬] giới 177. [伽] già 178. [角] giác, giốc, lộc 179. [夾] giáp180. [诃] ha 181. [亨] hanh, hưởng, phanh 182. [旱] hạn183. [杏] hạnh 184. [匣] hạp 185. [吸] hấp 186. [迄] hất187. [系] hệ 188. [吼] hống 189. [汞] hống, cống 190. [囫] hốt 191. [囬] hồi 192. [沪] hỗ 193. [护] hộ 194. [佑] hựu195. [何] hà 196. [含] hàm 197. [吭] hàng, hạng 198. [忻] hãn 199. [沆] hãng, hàng 200. [形] hình 201. [邢] hình 202.[饩] hí, hi, khái 203. [旴] húc 204. [矣] hĩ 205. [刭] hĩnh206. [芗] hương 207. [希] hi 208. [忾] hi, khái, khải, hất209. [孝] hiếu 210. [岘] hiện 211. [轩] hiên 212. [肓] hoang213. [怀] hoài 214. [芄] hoàn 215. [完] hoàn 216. [宏] hoành 217. [纮] hoành 218. [闳] hoành 219. [奂] hoán 220.[况] huống 221. [诇] huýnh 222. [汹] hung 223. [县] huyền, huyện 224. [杞] kỉ 225. [忌] kị, kí 226. [鸡] kê 227. [岐] kì228. [祁] kì 229. [圻] kì, ngân 230. [劲] kính 231. [忮] kĩ232. [妓] kĩ 233. [技] kĩ 234. [庋] kĩ, quỷ 235. [坑] khanh236. [阬] khanh 237. [启] khải 238. [坎] khảm 239. [忼] khảng 240. [克] khắc 241. [芑] khỉ 242. [库] khố 243. [块] khối 244. [困] khốn 245. [抗] kháng 246. [弃] khí 247. [汽] khí 248. [佉] khư 249. [呌] khiếu 250. [汧] khiên 251. [快] khoái 252. [旷] khoáng 253. [抠] khu 254. [岖] khu 255.[驱] khu 256. [芎] khung 257. [矶] ki 258. [見] kiến, hiện259. [刦] kiếp 260. [刧] kiếp 261. [劫] kiếp 262. [坚] kiên263. [来] lai, lãi 264. [岚] lam 265. [劳] lao, lạo 266. [牢] lao, lâu, lạo 267. [吝] lận 268. [励] lệ 269. [丽] lệ, li 270.[沥] lịch 271. [呖] lịch 272. [弄] lộng 273. [利] lợi 274.[呂] lữ, lã 275. [冷] lãnh 276. [李] lí 277. [里] lí 278. [庐] lư 279. [驴] lư 280. [两] lưỡng, lạng 281. [良] lương 282.[疗] liệu 283. [奁] liêm 284. [灵] linh 285. [伶] linh 286.[忴] linh 287. [乱] loạn 288. [抡] luân 289. [囵] luân 290.[沦] luân 291. [杗] mang 292. [芒] mang 293. [尨] mang, mông 294. [祃] mạ 295. [迈] mại 296. [闵] mẫn 297. [牡] mẫu 298. [亩] mẫu 299. [芈] mị 300. [羋] mị 301. [汨] mịch 302. [每] mỗi, môi 303. [沐] mộc 304. [沒] một 305.[没] một 306. [玛] mã 307. [戼] mão 308. [沔] miện 309.[闷] muộn 310. [那] na, nả 311. [男] nam 312. [纳] nạp313. [伱] nễ 314. [佞] nịnh 315. [努] nỗ 316. [吶] nột, niệt317. [呐] nột, niệt 318. [狃] nữu 319. [纽] nữu 320. [扭] nữu 321. [妞] nữu 322. [忸] nữu 323. [疓] nãi 324. [呆] ngai, bảo 325. [吽] ngầu, hồng 326. [岌] ngập 327. [圾] ngập, sắc 328. [禿] ngốc, thốc 329. [秃] ngốc, thốc 330.[忤] ngỗ 331. [杌] ngột 332. [吟] ngâm 333. [我] ngã 334.[呉] ngô 335. [吴] ngô 336. [吾] ngô 337. [吳] ngô 338.[言] ngôn, ngân 339. [呓] nghệ 340. [沂] nghi, ngân 341.[严] nghiêm 342. [囮] ngoa 343. [吪] ngoa 344. [阮] nguyễn 345. [沅] nguyên 346. [呀] nha 347. [饪] nhẫm 348.[忍] nhẫn 349. [轫] nhận 350. [韧] nhận 351. [牣] nhận352. [驲] nhật 353. [闲] nhàn 354. [妊] nhâm 355. [纴] nhâm 356. [你] nhĩ, nễ 357. [扰] nhiễu 358. [闰] nhuận 359.[汭] nhuế 360. [尿] niệu 361. [卵] noãn 362. [抛] phao 363.[饭] phạn 364. [阪] phản 365. [坂] phản 366. [汾] phần367. [坟] phần, phẫn, bổn 368. [扮] phẫn, ban, bán 369.[佛] phật, phất, bột, bật 370. [吠] phệ 371. [甫] phủ 372.[否] phủ, bĩ, phầu 373. [抚] phủ, mô 374. [沛] phái, bái375. [判] phán 376. [吩] phân 377. [纷] phân 378. [批] phê379. [防] phòng 380. [坏] phôi, bùi, hoại 381. [扶] phù 382.[夆] phùng 383. [坊] phường 384. [纺] phưởng 385. [邡] phương 386. [妨] phương, phướng 387. [孚] phu 388. [过] quá, qua 389. [君] quân 390. [均] quân, vận 391. [冏] quýnh 392. [妫] quy 393. [龟] quy, cưu, quân 394. [決] quyết 395. [抉] quyết 396. [纱] sa 397. [沙] sa, sá 398. [杉] sam 399. [删] san 400. [刪] san 401. [呛] sang 402. [抄] sao403. [刬] sản 404. [怆] sảng 405. [吵] sảo 406. [岑] sầm407. [饬] sức 408. [床] sàng 409. [初] sơ 410. [辵] sước411. [诌] sưu, sảo 412. [些] ta, tá 413. [災] tai 414. [灾] tai415. [皂] tạo 416. [皁] tạo 417. [迅] tấn 418. [走] tẩu 419.[层] tằng 420. [妣] tỉ 421. [阱] tỉnh 422. [坐] tọa 423. [诉] tố 424. [宋] tống 425. [却] tức 426. [即] tức 427. [词] từ428. [序] tự 429. [似] tự 430. [邪] tà, da, từ 431. [财] tài432. [材] tài 433. [佐] tá 434. [作] tác 435. [灶] táo 436.[辛] tân 437. [阰] tì 438. [庇] tí 439. [伺] tí, tứ 440. [秀] tú441. [足] túc, tú 442. [纵] túng, tổng, tung 443. [私] tư 444.[孜] tư 445. [牠] tha, đà 446. [坍] than 447. [声] thanh 448.[忐] thảm 449. [沁] thấm, sấm 450. [忱] thầm 451. [辰] thần, thìn 452. [忑] thắc 453. [忒] thắc 454. [沏] thế, thiết455. [体] thể 456. [豕] thỉ 457. [寿] thọ 458. [妥] thỏa 459.[兎] thố 460. [识] thức, chí 461. [成] thành 462. [汰] thái, thải 463. [伸] thân 464. [身] thân, quyên 465. [时] thì, thời466. [屁] thí 467. [听] thính 468. [吞] thôn 469. [村] thôn470. [邨] thôn 471. [囱] thông, song 472. [囪] thông, song473. [束] thúc, thú 474. [纾] thư 475. [抢] thưởng, thương, thướng 476. [芍] thược 477. [沧] thương 478. [劭] thiệu479. [佋] thiệu, chiêu 480. [卲] thiệu, thiều 481. [佥] thiêm482. [芊] thiên 483. [迁] thiên 484. [纯] thuần, chuẩn, đồn, truy 485. [疖] tiết 486. [肖] tiếu, tiêu 487. [歼] tiêm 488.[杓] tiêu, thược 489. [妝] trang 490. [找] trảo 491. [抓] trảo, trao 492. [沉] trầm 493. [沈] trầm, thẩm, trấm 494.[阵] trận 495. [诅] trớ 496. [助] trợ 497. [住] trụ, trú 498.[坠] trụy 499. [肘] trửu 500. [抒] trữ 501. [纻] trữ 502. [佇] trữ 503. [肠] tràng, trường 504. [盯] trành, đinh 505. [诈] trá 506. [壯] tráng 507. [扱] tráp, hấp 508. [呈] trình 509.[沖] trùng, xung 510. [豸] trĩ, trãi 511. [帐] trướng 512.[怅] trướng 513. [杖] trượng, tráng 514. [张] trương, trướng515. [彻] triệt 516. [诎] truất 517. [巡] tuần 518. [汪] uông519. [尫] uông 520. [尪] uông 521. [抆] vấn 522. [汶] vấn, môn, mân 523. [吻] vẫn 524. [位] vị 525. [纭] vân 526. [纹] văn 527. [尾] vĩ 528. [纬] vĩ 529. [妩] vũ 530. [怃] vũ, hủ531. [庑] vũ, vu 532. [围] vi 533. [帏] vi 534. [闱] vi 535.[园] viên 536. [员] viên, vân 537. [忘] vong 538. [巫] vu539. [迂] vu 540. [杅] vu 541. [車] xa 542. [扯] xả 543.[佘] xà 544. [壳] xác 545. [灿] xán 546. [社] xã 547. [呎] xích 548. [赤] xích, thích 549. [岔] xóa 550. [杈] xoa 551.[忡] xung 552. [吹] xuy, xúy 553. [串] xuyến, quán 554.[医] y 555. [宎] yểu 556. [妖] yêu

8 NÉT

1. [妸] a 2. [阿] a, á 3. [呵] a, ha 4. [坳] ao 5. [拗] ảo, áo, nữu, húc 6. [殴] ẩu 7. [拥] ủng, ung 8. [委] ủy, uy 9. [泑] ửu10. [亞] á 11. [呝] ách 12. [轭] ách 13. [阸] ách 14. [押] áp15. [闸] áp, sạp 16. [侌] âm 17. [欧] âu, ẩu 18. [担] đam, đảm 19. [单] đan, thiền, thiện 20. [舠] đao 21. [岱] đại 22.[沓] đạp 23. [诞] đản 24. [弤] để 25. [邸] để 26. [底] để 27.[抵] để, chỉ 28. [籴] địch 29. [定] định 30. [妬] đố 31. [咄] đốt 32. [图] đồ 33. [侗] đồng, động 34. [毒] độc, đốc 35.[沱] đà 36. [陀] đà 37. [驼] đà 38. [抬] đài 39. [骀] đài, đãi40. [昙] đàm 41. [狚] đán 42. [到] đáo 43. [怛] đát 44. [妲] đát, đán 45. [绐] đãi 46. [隶] đãi, lệ 47. [宕] đãng 48. [的] đích, để 49. [顶] đính 50. [刴] đóa 51. [剁] đóa 52. [炖] đôn, đốn 53. [東] đông 54. [咚] đông 55. [坫] điếm 56. [店] điếm 57. [钓] điếu 58. [典] điển 59. [佻] điêu, điệu, diêu 60.[於] ư, ô 61. [怏] ưởng 62. [泱] ương, anh 63. [爬] ba 64.[波] ba 65. [芭] ba 66. [杷] ba, bà 67. [祊] banh 68. [泊] bạc, phách 69. [帛] bạch 70. [败] bại 71. [拌] bạn, phan 72.[坺] bạt 73. [拔] bạt, bội 74. [爸] bả 75. [板] bản 76. [版] bản 77. [宝] bảo 78. [贫] bần 79. [邲] bật 80. [凭] bằng 81.[朋] bằng 82. [彼] bỉ 83. [秉] bỉnh 84. [备] bị 85. [补] bổ86. [佩] bội 87. [邶] bội, bắc 88. [庞] bàng 89. [咆] bào 90.[庖] bào 91. [佰] bách, mạch 92. [绊] bán 93. [拨] bát 94.[泼] bát 95. [攽] bân 96. [饱] bão 97. [抱] bão 98. [坪] bình99. [泙] bình, bàng 100. [帔] bí 101. [泌] bí 102. [坯] bôi103. [杯] bôi 104. [邮] bưu 105. [邳] bi 106. [陂] bi, pha107. [贬] biếm 108. [变] biến, biện 109. [拚] biện, phấn, phiên 110. [咇] biệt, tất 111. [该] cai 112. [剀] cai, cái 113.[泔] cam, hạm 114. [矼] cang, khang, xoang 115. [庚] canh116. [杲] cảo 117. [构] cấu 118. [诟] cấu 119. [购] cấu 120.[芩] cầm 121. [芹] cần 122. [虯] cầu 123. [卺] cẩn 124.[岣] cẩu 125. [狗] cẩu 126. [近] cận 127. [芨] cập 128. [诘] cật 129. [劼] cật 130. [固] cố 131. [股] cổ 132. [具] cụ 133.[糾] củ, kiểu 134. [疚] cứu 135. [咎] cữu, cao 136. [拒] cự, củ 137. [绀] cám 138. [秆] cán 139. [佶] cát 140. [驹] câu141. [拘] câu, cù 142. [泒] cô 143. [姑] cô 144. [咕] cô 145.[孤] cô 146. [沽] cô, cổ 147. [昆] côn 148. [匊] cúc 149.[居] cư, kí 150. [岡] cương 151. [厔] chất 152. [侄] chất153. [质] chất, chí 154. [枕] chẩm, chấm 155. [制] chế 156.[祉] chỉ 157. [芷] chỉ 158. [织] chức, chí, xí 159. [政] chánh, chính 160. [炙] chích, chá 161. [注] chú 162. [呪] chú 163. [咒] chú 164. [肢] chi 165. [芝] chi 166. [枝] chi, kì 167. [呫] chiếp 168. [沼] chiểu 169. [招] chiêu, thiêu, thiều 170. [怔] chinh 171. [征] chinh 172. [侏] chu 173.[周] chu 174. [肫] chuân, thuần, đồn 175. [终] chung 176.[隹] chuy 177. [拙] chuyết 178. [叕] chuyết 179. [转] chuyển, chuyến 180. [诓] cuống 181. [供] cung 182. [夜] dạ183. [佾] dật 184. [泆] dật 185. [怿] dịch 186. [峄] dịch187. [绎] dịch 188. [驿] dịch 189. [易] dịch, dị 190. [育] dục 191. [狖] dứu 192. [岷] dân, mân 193. [佯] dương 194.[怡] di 195. [弥] di 196. [饴] di, tự 197. [杪] diểu 198. [阽] diêm, điếm 199. [鸢] diên 200. [油] du 201. [臾] du, dũng202. [兖] duyện 203. [沿] duyên 204. [佳] giai 205. [艰] gian 206. [疘] giang 207. [拣] giản, luyến 208. [佼] giảo209. [芥] giới 210. [屆] giới 211. [届] giới 212. [咖] già213. [驾] giá 214. [这] giá, nghiện 215. [玨] giác 216. [岬] giáp 217. [呴] ha 218. [咍] hai 219. [幸] hạnh 220. [昊] hạo221. [呷] hạp 222. [肹] hật 223. [肸] hật, bị 224. [劾] hặc225. [画] họa, hoạch 226. [学] học 227. [戽] hố 228. [忽] hốt 229. [狐] hồ 230. [弧] hồ 231. [虎] hổ 232. [怙] hỗ 233.[岵] hỗ 234. [枑] hộ 235. [姁] hủ 236. [诩] hủ 237. [兕] hủy238. [侑] hựu 239. [河] hà 240. [邯] hàm 241. [函] hàm242. [杭] hàng 243. [肴] hào 244. [欣] hân 245. [昕] hân246. [罕] hãn 247. [和] hòa, họa 248. [货] hóa 249. [呼] hô250. [昏] hôn 251. [享] hưởng 252. [胁] hiếp 253. [贤] hiền254. [苋] hiện 255. [现] hiện 256. [狎] hiệp 257. [侠] hiệp258. [協] hiệp 259. [効] hiệu 260. [祆] hiên, yêu 261. [呺] hiêu, hào 262. [花] hoa 263. [怳] hoảng 264. [泓] hoằng265. [或] hoặc, vực 266. [环] hoàn 267. [还] hoàn, toàn268. [盱] hu 269. [況] huống 270. [泂] huýnh 271. [弦] huyền 272. [泫] huyễn, huyên 273. [虮] kỉ, kì 274. [芰] kị275. [枅] kê, kiên 276. [歧] kì 277. [祈] kì 278. [芪] kì 279.[奇] kì, cơ 280. [祇] kì, chỉ 281. [其] kì, kí, ki 282. [泾] kính 283. [径] kính 284. [坩] kham 285. [岢] khả 286. [坷] khả, kha 287. [凯] khải 288. [侃] khản 289. [肮] khảng 290.[泣] khấp 291. [刻] khắc 292. [肯] khẳng, khải 293. [矻] khốt, ngột 294. [炕] kháng 295. [邱] khâu 296. [坵] khâu297. [炁] khí 298. [弆] khí 299. [刳] khô 300. [诙] khôi301. [坤] khôn 302. [空] không, khống, khổng 303. [呿] khư 304. [羌] khương 305. [芡] khiếm 306. [怯] khiếp 307.[顷] khoảnh, khuynh, khuể 308. [券] khoán 309. [屈] khuất, quật 310. [囷] khuân 311. [刲] khuê 312. [劻] khuông 313.[穹] khung 314. [岿] khuy 315. [刼] kiếp 316. [拑] kiềm317. [侨] kiều 318. [杰] kiệt 319. [肩] kiên 320. [枭] kiêu321. [金] kim 322. [经] kinh 323. [京] kinh, nguyên 324.[罗] la 325. [來] lai, lãi 326. [拦] lan 327. [泷] lang 328.[拉] lạp 329. [垃] lạp 330. [泐] lặc 331. [例] lệ 332. [沴] lệ333. [泪] lệ 334. [疠] lệ 335. [戾] lệ, liệt 336. [枥] lịch 337.[苈] lịch 338. [虏] lỗ 339. [彔] lục 340. [录] lục 341. [陆] lục 342. [诔] lụy 343. [侣] lữ 344. [林] lâm 345. [邻] lân346. [佬] lão 347. [垆] lô 348. [芦] lô 349. [泸] lô 350. [炉] lô 351. [夌] lăng 352. [岭] lĩnh 353. [垅] lũng 354. [陇] lũng 355. [垄] lũng 356. [兩] lưỡng, lượng 357. [牦] li 358.[冽] liệt 359. [帘] liêm 360. [连] liên 361. [怜] liên, lân362. [泠] linh 363. [囹] linh 364. [拎] linh 365. [茏] long366. [拢] long 367. [轮] luân 368. [侖] luân, lôn 369. [咙] lung 370. [练] luyện 371. [枚] mai 372. [玫] mai, môi 373.[盲] manh 374. [氓] manh 375. [卖] mại 376. [孟] mạnh, mãng 377. [芼] mạo, mao 378. [沫] mạt 379. [帓] mạt 380.[抹] mạt 381. [帕] mạt, phách, phạ 382. [泯] mẫn, dân, miến 383. [畂] mẫu 384. [拇] mẫu 385. [宓] mật, phục 386.[命] mệnh 387. [觅] mịch 388. [姆] mỗ 389. [歿] một 390.[歾] một 391. [殁] một 392. [牧] mục 393. [旻] mân 394.[玟] mân, văn 395. [侔] mâu 396. [码] mã 397. [泖] mão398. [門] môn 399. [庙] miếu 400. [免] miễn, vấn 401. [鸣] minh 402. [明] minh 403. [妹] muội 404. [沬] muội, mội405. [枏] nam 406. [狞] nanh 407. [呶] nao 408. [奈] nại409. [肭] nạp 410. [侫] nịnh 411. [弩] nỗ 412. [杻] nữu, sứu413. [妳] nãi, nễ 414. [砀] nãng, nương 415. [泥] nê, nệ, nễ416. [泞] nính 417. [驽] nô 418. [孥] nô 419. [帑] nô, thảng420. [侬] nông 421. [昂] ngang 422. [岸] ngạn 423. [疙] ngật 424. [臥] ngọa 425. [卧] ngọa 426. [迕] ngỗ 427. [诨] ngộn 428. [邷] ngõa 429. [鱼] ngư 430. [疟] ngược 431.[诣] nghệ 432. [迎] nghênh, nghịnh 433. [拟] nghĩ 434. [宜] nghi 435. [邺] nghiệp 436. [侥] nghiêu, kiểu 437. [玩] ngoạn 438. [芫] nguyên 439. [芽] nha 440. [枒] nha 441.[厓] nhai 442. [岩] nham 443. [迓] nhạ 444. [岳] nhạc 445.[佴] nhị, nại 446. [闹] nháo, náo 447. [刵] nhĩ 448. [乳] nhũ449. [兒] nhi, nghê 450. [枘] nhuế 451. [芮] nhuế 452. [软] nhuyễn 453. [妮] ni 454. [怩] ni 455. [呢] ni, nỉ 456. [念] niệm 457. [拈] niêm 458. [秊] niên 459. [拧] ninh 460. [咛] ninh 461. [呱] oa 462. [轰] oanh, hoanh 463. [瀅] oánh, uynh, huỳnh 464. [坡] pha, ba 465. [怦] phanh 466. [抨] phanh, bình 467. [拋] phao 468. [泡] phao, bào 469. [怕] phạ 470. [尀] phả 471. [返] phản 472. [奋] phấn 473. [咈] phất 474. [绂] phất 475. [绋] phất 476. [彿] phất 477. [拂] phất, bật, phật 478. [枌] phần 479. [忿] phẫn 480. [怫] phật, phí 481. [废] phế 482. [肺] phế 483. [怖] phố, bố 484. [附] phụ 485. [阜] phụ 486. [坿] phụ 487. [驸] phụ, phò 488.[服] phục 489. [奉] phụng, bổng 490. [府] phủ 491. [斧] phủ 492. [拊] phủ, phu 493. [矾] phàn 494. [拍] phách 495.[泮] phán 496. [法] pháp 497. [芬] phân 498. [氛] phân499. [肥] phì 500. [狒] phí 501. [芾] phí, phất 502. [沸] phí, phất 503. [房] phòng, bàng 504. [放] phóng, phỏng 505.[肧] phôi 506. [芣] phù 507. [芙] phù 508. [咐] phù, phó509. [昉] phưởng 510. [芳] phương 511. [枋] phương 512.[肪] phương 513. [非] phi 514. [呸] phi 515. [狉] phi 516.[狓] phi 517. [披] phi, bia 518. [泛] phiếm 519. [贩] phiến, phán 520. [枫] phong 521. [玞] phu 522. [肤] phu 523. [乖] quai 524. [官] quan 525. [果] quả 526. [拐] quải 527. [刿] quế 528. [国] quốc 529. [诡] quỷ 530. [匦] quỹ 531. [刽] quái 532. [侩] quái 533. [卦] quái 534. [诖] quái 535. [怪] quái 536. [贯] quán 537. [矿] quáng 538. [刮] quát 539.[昀] quân 540. [季] quý 541. [肱] quăng 542. [规] quy 543.[玦] quyết 544. [卷] quyển, quyến, quyền 545. [坰] quynh546. [钗] sai, thoa 547. [芟] sam 548. [姗] san, tiên 549.[姍] san, tiên 550. [炒] sao 551. [抶] sất 552. [虱] sắt 553.[所] sở 554. [宠] sủng 555. [饰] sức 556. [驶] sử 557. [使] sử, sứ 558. [事] sự 559. [侪] sài 560. [牀] sàng 561. [诧] sá562. [侘] sá 563. [拆] sách 564. [坼] sách 565. [疝] sán566. [刱] sáng 567. [刹] sát 568. [诜] sân 569. [侁] sân, tân570. [驺] sô 571. [芻] sô 572. [畅] sướng 573. [怊] siêu574. [杶] suân 575. [叁] tam 576. [丧] tang, táng 577. [怍] tạc 578. [泻] tả 579. [姐] tả, thư 580. [驵] tảng, tổ 581. [枣] tảo 582. [际] tế 583. [细] tế 584. [剂] tề, tễ 585. [姊] tỉ 586.[穸] tịch 587. [矽] tịch 588. [並] tịnh 589. [净] tịnh 590.[幷] tịnh, bình 591. [泝] tố 592. [卒] tốt, tuất, thốt 593. [徂] tồ 594. [组] tổ 595. [阼] tộ, tạc 596. [岫] tụ 597. [驷] tứ598. [泗] tứ 599. [祀] tự 600. [饲] tự 601. [姒] tự, tỉ 602.[沮] tự, trở, thư 603. [卸] tá 604. [咂] táp 605. [芯] tâm606. [枇] tì 607. [畀] tí 608. [析] tích 609. [昔] tích 610.[性] tính 611. [姓] tính 612. [併] tính 613. [狌] tính, tinh614. [苏] tô 615. [宗] tông 616. [泅] tù 617. [松] tùng, tông618. [怂] túng 619. [详] tường 620. [戕] tường 621. [拕] tha622. [祂] tha 623. [拖] tha, đà 624. [邰] thai 625. [贪] tham626. [参] tham, xam, sâm 627. [青] thanh 628. [弢] thao629. [采] thải, thái 630. [坦] thản 631. [审] thẩm 632. [肾] thận 633. [实] thật, thực 634. [势] thế 635. [屉] thế 636.[侍] thị 637. [视] thị 638. [兔] thố 639. [钍] thổ 640. [受] thụ 641. [取] thủ 642. [始] thủy, thí 643. [佽] thứ 644. [刺] thứ, thích 645. [承] thừa 646. [诚] thành 647. [拓] thác, tháp, chích 648. [态] thái 649. [绅] thân 650. [呻] thân 651.[妻] thê, thế 652. [旹] thì 653. [试] thí 654. [刾] thích 655.[忩] thông 656. [垂] thùy 657. [叔] thúc 658. [昇] thăng659. [肿] thũng, trũng 660. [狙] thư 661. [尙] thượng 662.[尚] thượng 663. [斨] thương 664. [玱] thương 665. [戗] thương, sang 666. [枪] thương, sanh 667. [苍] thương, thưởng 668. [鸤] thi 669. [诗] thi 670. [帖] thiếp 671. [妾] thiếp 672. [岧] thiều 673. [忝] thiểm 674. [邵] thiệu 675.[绍] thiệu 676. [话] thoại 677. [沭] thuật 678. [苁] thung679. [佺] thuyên 680. [诠] thuyên 681. [卑] ti 682. [芘] ti, tỉ683. [进] tiến 684. [绁] tiết 685. [泄] tiết, duệ 686. [狝] tiển687. [饯] tiễn 688. [秈] tiên 689. [戔] tiên, tàn 690. [枨] tranh, trành 691. [爭] tranh, tránh 692. [择] trạch 693. [泽] trạch 694. [狀] trạng 695. [斩] trảm 696. [陈] trần, trận 697.[帙] trật 698. [昃] trắc 699. [侧] trắc 700. [治] trị 701. [咀] trớ, tứ 702. [阻] trở 703. [宙] trụ 704. [拄] trụ 705. [妯] trục, trừu 706. [绉] trứu 707. [抽] trừu 708. [帚] trửu, chửu709. [苎] trữ 710. [贮] trữ 711. [芧] trữ, tự 712. [杼] trữ, thự, thữ 713. [直] trực 714. [秅] trà, nà 715. [咋] trá, trách716. [卓] trác 717. [责] trách, trái 718. [诤] tránh 719. [邹] trâu 720. [泜] trì 721. [坻] trì, để 722. [迟] trì, trí 723. [驻] trú 724. [竺] trúc, đốc 725. [账] trướng 726. [胀] trướng727. [苌] trường 728. [長] trường, trưởng, trướng 729. [知] tri, trí 730. [沾] triêm, điếp 731. [侦] trinh 732. [诛] tru 733.[绌] truất, chuyết 734. [怵] truật 735. [迍] truân 736. [忠] trung 737. [卹] tuất 738. [侚] tuẫn 739. [询] tuân 740. [枞] tung 741. [线] tuyến 742. [呦] u 743. [枉] uổng 744. [宛] uyển, uyên 745. [运] vận 746. [物] vật 747. [味] vị 748.[泳] vịnh 749. [咏] vịnh 750. [芸] vân 751. [往] vãng 752.[罔] võng 753. [炜] vĩ 754. [玮] vĩ 755. [武] vũ, võ 756.[雨] vũ, vú 757. [旺] vượng 758. [肬] vưu 759. [违] vi 760.[苇] vi 761. [远] viễn 762. [炎] viêm, đàm, diễm 763. [盂] vu 764. [芜] vu 765. [齿] xỉ 766. [侈] xỉ 767. [杵] xử 768.[舍] xá, xả 769. [帜] xí 770. [厕] xí, trắc 771. [昌] xương772. [刷] xoát, loát 773. [枢] xu 774. [旾] xuân 775. [炊] xuy, xúy 776. [钏] xuyến 777. [祎] y 778. [依] y, ỷ 779.[軋] yết, ca, loát 780. [奄] yểm, yêm 781. [殀] yểu 782.[杳] yểu, liểu

9 NÉT

1. [哀] ai 2. [哎] ai 3. [英] anh 4. [屋] ốc 5. [娅] á 6. [垩] ác7. [哑] ách, á, nha 8. [按] án 9. [映] ánh 10. [音] âm 11.[鸥] âu 12. [瓯] âu 13. [洿] ô 14. [郁] úc, uất 15. [瓮] úng16. [畏] úy 17. [眈] đam 18. [玳] đại 19. [炧] đả 20. [柁] đả, đà 21. [胆] đảm 22. [帝] đế 23. [牴] để 24. [柢] để, đế25. [苐] đệ 26. [迪] địch 27. [苖] địch 28. [挆] đỏa 29. [挅] đỏa 30. [笃] đốc 31. [栋] đống 32. [柮] đốt 33. [怼] đỗi 34.[峝] đỗng 35. [恸] đỗng 36. [恫] đỗng 37. [洞] đỗng, động38. [度] độ, đạc 39. [独] độc 40. [钝] độn 41. [峒] động, đồng 42. [突] đột 43. [炱] đài 44. [苔] đài 45. [咷] đào 46.[带] đái 47. [挡] đáng, đảng 48. [耷] đáp 49. [殆] đãi 50.[怠] đãi 51. [迨] đãi 52. [待] đãi 53. [亭] đình 54. [訂] đính55. [酊] đính 56. [垛] đóa 57. [侹] đĩnh, thính, đỉnh 58. [玷] điếm 59. [垫] điếm 60. [扂] điếm 61. [恬] điềm 62. [畋] điền 63. [迢] điều 64. [苕] điều, thiều 65. [点] điểm 66. [茑] điểu 67. [屌] điểu 68. [殄] điễn 69. [垤] điệt 70. [迭] điệt71. [姪] điệt 72. [绖] điệt 73. [昳] điệt, diễm 74. [敁] điêm75. [段] đoạn, đoàn 76. [約] ước 77. [殃] ương 78. [钯] ba79. [疤] ba 80. [苞] bao 81. [叛] bạn 82. [茇] bạt, bái 83.[绑] bảng 84. [保] bảo 85. [鸨] bảo 86. [钚] bất 87. [苾] bật88. [甭] bằng 89. [秕] bỉ 90. [炳] bỉnh 91. [昺] bỉnh 92. [钡] bối 93. [背] bối, bội 94. [匍] bồ 95. [盆] bồn 96. [苯] bổn97. [勃] bột 98. [柈] bàn 99. [胖] bàn, phán 100. [厖] bàng, mang 101. [炰] bào 102. [胞] bào 103. [爮] bào 104. [迫] bách 105. [柏] bách, bá 106. [拜] bái 107. [斾] bái 108. [趴] bát 109. [毘] bì 110. [毗] bì, tì 111. [洴] bình 112. [苹] bình113. [枰] bình 114. [屏] bình, bính 115. [毖] bí 116. [贲] bí, phần, bôn 117. [柄] bính 118. [饼] bính 119. [拼] bính, phanh 120. [盃] bôi 121. [奔] bôn 122. [骈] biền 123. [扁] biển, thiên 124. [表] biểu 125. [俜] binh 126. [牁] ca 127.[陔] cai 128. [垓] cai, giai 129. [柑] cam 130. [竿] can, cán131. [秔] canh 132. [畊] canh 133. [给] cấp 134. [急] cấp135. [姤] cấu 136. [垢] cấu 137. [苟] cẩu 138. [枸] cẩu, củ139. [姞] cật 140. [故] cố 141. [牯] cổ 142. [侷] cục 143.[赳] củ 144. [拱] củng 145. [茍] cức 146. [亟] cức, khí 147.[举] cử 148. [柜] cử, quỹ 149. [韭] cửu 150. [柩] cữu 151.[苣] cự 152. [钜] cự 153. [炬] cự 154. [阁] các 155. [革] cách, cức 156. [钙] cái 157. [诰] cáo 158. [郃] cáp 159. [觔] cân 160. [钩] câu 161. [轱] cô 162. [苽] cô 163. [朐] cù164. [胊] cù 165. [矜] căng, quan 166. [钢] cương 167. [咱] cha, gia 168. [郅] chất, chí 169. [怎] chẩm 170. [轸] chẩn171. [胗] chẩn 172. [鸩] chậm, trậm 173. [咫] chỉ 174. [恉] chỉ 175. [枳] chỉ 176. [指] chỉ 177. [胏] chỉ 178. [轵] chỉ179. [种] chủng, chúng 180. [拯] chửng 181. [柘] chá, giá182. [洲] châu 183. [炷] chú 184. [柷] chúc 185. [祝] chúc, chú 186. [斫] chước 187. [栀] chi 188. [战] chiến 189. [炤] chiếu 190. [毡] chiên 191. [昭] chiêu 192. [邾] chu 193.[钟] chung 194. [盅] chung 195. [耑] chuyên 196. [専] chuyên 197. [诳] cuống 198. [宫] cung 199. [耶] da, gia200. [胤] dận 201. [轶] dật, điệt, triệt 202. [弈] dịch 203.[奕] dịch 204. [疫] dịch 205. [诱] dụ 206. [昱] dục 207.[柚] dữu, trục 208. [苡] dĩ 209. [苢] dĩ 210. [迤] dĩ 211.[羐] dũ 212. [羑] dũ, dữu 213. [俑] dũng 214. [勇] dũng215. [疡] dương 216. [昜] dương 217. [徉] dương 218. [洋] dương 219. [姨] di 220. [贻] di 221. [咦] di 222. [洟] di, thế223. [衍] diễn, diên 224. [靣] diện 225. [面] diện, miến226. [枼] diệp 227. [玅] diệu 228. [姚] diêu 229. [轺] diêu230. [盈] doanh 231. [兪] du 232. [斿] du 233. [俞] du, dũ234. [拽] duệ 235. [枻] duệ, tiết 236. [兗] duyện 237. [茄] gia 238. [枷] gia 239. [皆] giai 240. [姦] gian 241. [郊] giao242. [叚] giả 243. [柬] giản 244. [狡] giảo 245. [姣] giảo246. [咬] giảo 247. [绞] giảo, hào 248. [玠] giới 249. [界] giới 250. [诫] giới 251. [疥] giới 252. [珈] già 253. [迦] già, ca 254. [架] giá 255. [珏] giác 256. [觉] giác, giáo 257. [绛] giáng 258. [洚] giáng, hồng 259. [饺] giáo 260. [郏] giáp261. [胛] giáp 262. [哈] ha, hà, cáp 263. [顸] han 264. [舡] hang 265. [缸] hang, cang 266. [亯] hanh 267. [贺] hạ 268.[限] hạn 269. [巷] hạng 270. [项] hạng 271. [盇] hạp 272.[峡] hạp, giáp 273. [曷] hạt 274. [矦] hầu 275. [侯] hầu276. [恨] hận 277. [厚] hậu 278. [郈] hậu 279. [後] hậu, hấu 280. [姮] hằng 281. [恒] hằng, cắng, căng 282. [恆] hằng, cắng, căng 283. [盻] hễ, phán 284. [係] hệ 285. [诲] hối 286. [哄] hống 287. [胡] hồ 288. [洄] hồi 289. [廻] hồi290. [徊] hồi 291. [浑] hồn 292. [羾] hồng 293. [洪] hồng294. [虹] hồng 295. [紅] hồng, công 296. [祜] hỗ 297. [绘] hội 298. [紇] hột 299. [虺] hủy, hôi 300. [洫] hức, dật 301.[浒] hử 302. [囿] hữu 303. [祐] hựu 304. [宥] hựu 305. [虾] hà 306. [苛] hà 307. [孩] hài 308. [凾] hàm 309. [咸] hàm, giảm 310. [降] hàng, giáng 311. [茎] hành 312. [洨] hào313. [骇] hãi 314. [郉] hình 315. [型] hình 316. [咥] hí, điệt317. [昬] hôn 318. [昫] hú 319. [剄] hĩnh 320. [胫] hĩnh321. [饷] hướng 322. [响] hưởng 323. [香] hương 324. [庥] hưu 325. [咻] hưu, hủ 326. [宪] hiến 327. [显] hiển 328.[狭] hiệp 329. [柙] hiệp 330. [俠] hiệp 331. [恊] hiệp 332.[洽] hiệp, hợp 333. [挟] hiệp, tiệp 334. [頁] hiệt 335. [恔] hiệu 336. [枵] hiêu 337. [哓] hiêu 338. [骅] hoa 339. [哗] hoa 340. [衁] hoang 341. [訇] hoanh 342. [砉] hoạch 343.[宦] hoạn 344. [活] hoạt, quạt 345. [恍] hoảng 346. [紈] hoàn 347. [洹] hoàn, viên 348. [皇] hoàng 349. [奐] hoán350. [紆] hu, u 351. [贶] huống 352. [勋] huân 353. [迥] huýnh, quýnh 354. [恟] hung 355. [洶] hung 356. [挥] huy357. [绚] huyến 358. [炫] huyễn 359. [計] kế, kê 360. [结] kết 361. [紀] kỉ 362. [洎] kịp 363. [咭] kê 364. [秖] kì 365.[既] kí 366. [迳] kính 367. [勁] kính 368. [轲] kha 369. [珂] kha 370. [柯] kha 371. [垲] khải 372. [恺] khải 373. [闿] khải, khai 374. [砍] khảm 375. [衎] khản 376. [拷] khảo377. [敂] khấu 378. [垦] khẩn 379. [剋] khắc 380. [契] khế, tiết, khiết, khất 381. [垮] khỏa 382. [绔] khố 383. [苦] khổ, cổ 384. [恪] khác 385. [客] khách 386. [咳] khái 387. [看] khán, khan 388. [帢] kháp 389. [恰] kháp 390. [钦] khâm391. [枯] khô 392. [恢] khôi 393. [祛] khư 394. [胠] khư395. [卻] khước 396. [姜] khương 397. [洁] khiết 398. [牵] khiên, khản 399. [氢] khinh 400. [轻] khinh, khánh 401.[姱] khoa 402. [科] khoa 403. [哙] khoái 404. [闺] khuê405. [奎] khuê 406. [恇] khuông 407. [弮] khuyên 408. [剑] kiếm 409. [建] kiến, kiển 410. [拮] kiết, cát 411. [钤] kiềm412. [娇] kiều 413. [俭] kiệm 414. [挢] kiệu, kiểu 415. [峤] kiệu, kiêu 416. [骄] kiêu 417. [骁] kiêu 418. [浇] kiêu, nghiêu 419. [俫] lai 420. [栏] lan 421. [郎] lang 422. [络] lạc 423. [洛] lạc 424. [骆] lạc 425. [泺] lạc, bạc 426. [咯] lạc, khách, khạc 427. [烂] lạn 428. [剌] lạt 429. [恡] lận430. [苙] lập 431. [陋] lậu 432. [峛] lệ 433. [俪] lệ 434.[俐] lị 435. [轹] lịch 436. [疬] lịch 437. [栎] lịch, lao 438.[卤] lỗ 439. [侶] lữ 440. [临] lâm, lấm 441. [娄] lâu, lũ, lu442. [览] lãm 443. [俚] lí 444. [轳] lô 445. [栌] lô 446. [胧] lông 447. [昽] lông 448. [垒] lũy, luật 449. [闾] lư 450. [胪] lư, lô 451. [俩] lưỡng 452. [亮] lượng 453. [流] lưu 454.[浏] lưu, lựu 455. [厘] li, hi 456. [柳] liễu 457. [洌] liệt458. [咧] liệt 459. [玲] linh 460. [苓] linh 461. [孪] loan462. [弯] loan 463. [峦] loan 464. [类] loại 465. [栊] long466. [律] luật 467. [珑] lung 468. [娈] luyến 469. [炼] luyện 470. [虻] manh 471. [茅] mao 472. [骂] mạ 473. [陌] mạch 474. [脉] mạch 475. [眊] mạo 476. [冒] mạo, mặc477. [茉] mạt 478. [畆] mẫu 479. [贸] mậu 480. [茂] mậu481. [咪] mễ, mị 482. [某] mỗ 483. [姥] mỗ, mụ 484. [凂] mỗi 485. [苜] mục 486. [闽] mân 487. [珉] mân, dân 488.[蚂] mã 489. [昴] mão 490. [茆] mão, mao 491. [苺] môi492. [美] mĩ 493. [眉] mi 494. [秒] miểu 495. [勉] miễn496. [眇] miễu 497. [眄] miện 498. [苗] miêu 499. [昧] muội 500. [南] nam 501. [柟] nam 502. [柰] nại 503. [耐] nại 504. [挠] nạo 505. [昵] nật 506. [祢] nỉ 507. [柠] nịnh, ninh 508. [怒] nộ 509. [钠] nột 510. [衂] nục 511. [钮] nữu512. [廼] nãi 513. [恼] não 514. [哝] nông 515. [浓] nùng516. [俄] nga 517. [阂] ngại 518. [彥] ngạn 519. [彦] ngạn520. [很] ngận 521. [狠] ngận, ngoan 522. [误] ngộ 523.[卼] ngột 524. [狱] ngục 525. [语] ngữ, ngứ 526. [垠] ngân527. [虐] ngược 528. [帠] nghễ 529. [羿] nghệ 530. [蚁] nghĩ 531. [舣] nghĩ 532. [俨] nghiễm 533. [砚] nghiễn 534.[姸] nghiên 535. [妍] nghiên 536. [研] nghiên, nghiễn 537.[峣] nghiêu 538. [禺] ngu, ngẫu 539. [鸦] nha 540. [砑] nhạ541. [洱] nhị 542. [饵] nhị 543. [贰] nhị 544. [弭] nhị 545.[姙] nhâm 546. [姻] nhân 547. [骃] nhân 548. [紉] nhân, nhận 549. [洇] nhân, yên 550. [迩] nhĩ 551. [洳] như 552.[若] nhược, nhã 553. [染] nhiễm 554. [苒] nhiễm 555. [绕] nhiễu 556. [饶] nhiêu 557. [娆] nhiêu, nhiễu, liểu 558. [柔] nhu 559. [狨] nhung 560. [绒] nhung 561. [耎] nhuyễn 562.[苶] niết 563. [拏] noa 564. [哇] oa 565. [娃] oa 566. [洼] oa 567. [歪] oai, oa 568. [茔] oanh, doanh 569. [挖] oạt570. [怨] oán 571. [玻] pha 572. [姘] phanh 573. [范] phạm574. [罚] phạt 575. [氟] phất 576. [韨] phất 577. [茀] phất, bột 578. [品] phẩm 579. [朏] phỉ 580. [祔] phụ 581. [負] phụ 582. [洑] phục 583. [复] phục, phúc, phú, phức 584.[俛] phủ, miễn 585. [珀] phách 586. [派] phái 587. [盼] phán 588. [炮] pháo, bào 589. [珐] pháp 590. [费] phí, bỉ591. [訃] phó 592. [赴] phó 593. [怤] phô 594. [胚] phôi595. [罘] phù 596. [苻] phù 597. [瓬] phưởng 598. [飛] phi599. [阀] phiệt 600. [疯] phong 601. [封] phong 602. [風] phong, phúng 603. [俘] phu 604. [砆] phu 605. [柎] phu, phủ, phụ 606. [枹] phu, phù, bao 607. [挝] qua 608. [冠] quan, quán 609. [洸] quang, hoảng 610. [剐] quả 611. [挂] quải 612. [枴] quải 613. [茕] quỳnh 614. [垝] quỷ 615. [軌] quỹ 616. [浍] quái 617. [恠] quái 618. [狯] quái 619. [括] quát, hoạt 620. [軍] quân 621. [钧] quân 622. [癸] quý 623.[贵] quý 624. [炯] quýnh, huỳnh 625. [皈] quy 626. [畎] quyến 627. [巻] quyển 628. [扃] quynh 629. [砂] sa 630.[衫] sam 631. [珊] san 632. [舢] san 633. [疮] sang 634.[柽] sanh 635. [钞] sao, sáo 636. [栈] sạn, xiễn, trăn, chăn637. [衬] sấn 638. [疢] sấn 639. [哂] sẩn 640. [勅] sắc 641.[姹] sá 642. [柵] sách 643. [栅] sách 644. [衩] sái 645. [虿] sái, mại 646. [洒] sái, tẩy, thối 647. [耍] sái, xọa 648. [剏] sáng 649. [臿] sáp 650. [剎] sát 651. [炽] sí 652. [俟] sĩ653. [狮] sư 654. [昶] sưởng 655. [觇] siêm, chiêm 656.[牲] sinh 657. [閂] soan 658. [帥] suất, súy 659. [哉] tai660. [昨] tạc 661. [胙] tạc, tộ 662. [炸] tạc, trác 663. [柞] tạc, trách 664. [拶] tạt 665. [哔] tất 666. [奏] tấu 667. [浔] tầm 668. [洗] tẩy, tiển 669. [則] tắc 670. [济] tể, tế 671.[哜] tễ 672. [挤] tễ, tê 673. [枲] tỉ 674. [耔] tỉ, tì 675. [穽] tỉnh 676. [省] tỉnh, tiển 677. [剉] tỏa 678. [殂] tồ 679. [祖] tổ 680. [总] tổng 681. [俗] tục 682. [诵] tụng 683. [卽] tức684. [呰] tử 685. [籽] tử 686. [叙] tự 687. [飒] táp 688. [津] tân 689. [砒] tì 690. [信] tín, thân 691. [狲] tôn 692. [酋] tù693. [疭] túng 694. [俬] tư 695. [姿] tư 696. [咨] tư 697.[胥] tư 698. [思] tư, tứ, tai 699. [苴] tư, trạ, tra 700. [削] tước 701. [庠] tường 702. [奖] tưởng 703. [相] tương, tướng 704. [将] tương, thương, tướng 705. [胎] thai 706.[洮] thao, diêu, đào 707. [贷] thải, thắc 708. [柒] thất 709.[室] thất 710. [神] thần 711. [矧] thẩn 712. [甚] thậm 713.[昚] thận 714. [拾] thập, thiệp, kiệp 715. [胜] thắng, thăng716. [剃] thế 717. [贳] thế 718. [砌] thế 719. [屎] thỉ, hi720. [柹] thị 721. [柿] thị 722. [是] thị 723. [恃] thị 724.[柨] thị, sĩ 725. [统] thống 726. [树] thụ 727. [竖] thụ 728.[谥] thụy 729. [首] thủ, thú 730. [拭] thức 731. [泚] thử732. [蚀] thực 733. [饣] thực 734. [飠] thực 735. [食] thực, tự 736. [城] thành 737. [柝] thác 738. [泰] thái 739. [炭] thán 740. [闼] thát 741. [挞] thát 742. [珅] thân 743. [亲] thân, thấn 744. [怱] thông 745. [洙] thù, chu 746. [狩] thú747. [烁] thước 748. [尝] thường 749. [钥] thược 750. [殇] thương 751. [鸧] thương 752. [屍] thi 753. [施] thi, thí, dị, thỉ 754. [贴] thiếp 755. [窃] thiết 756. [陕] thiểm 757. [浅] thiển, tiên 758. [苫] thiêm 759. [挑] thiêu, thiểu, khiêu 760.[彖] thoán 761. [秋] thu 762. [盾] thuẫn 763. [顺] thuận764. [述] thuật 765. [说] thuyết, duyệt, thuế 766. [拴] thuyên 767. [洊] tiến 768. [牮] tiến 769. [浃] tiếp 770. [洩] tiết, duệ 771. [诮] tiếu 772. [咲] tiếu 773. [俏] tiếu 774.[前] tiền 775. [贱] tiện 776. [便] tiện 777. [籼] tiên 778.[标] tiêu, phiêu 779. [星] tinh 780. [查] tra 781. [狰] tranh782. [峥] tranh 783. [庢] trất 784. [栉] trất 785. [恻] trắc786. [测] trắc 787. [郑] trịnh 788. [浊] trọc, trạc 789. [重] trọng, trùng 790. [俎] trở 791. [爼] trở 792. [冑] trụ 793.[胄] trụ 794. [紂] trụ 795. [柱] trụ, trú 796. [轴] trục 797.[苧] trữ 798. [咤] trá 799. [挣] tránh 800. [帧] tránh 801.[珍] trân 802. [竾] trì 803. [茌] trì 804. [持] trì 805. [致] trí806. [俦] trù 807. [诪] trù 808. [昼] trú 809. [峙] trĩ 810.[胝] tri, đê 811. [飐] triển 812. [赵] triệu 813. [挦] triêm, tầm 814. [貞] trinh 815. [浈] trinh 816. [茁] truất 817. [盹] truân 818. [窀] truân 819. [须] tu 820. [俊] tuấn 821. [恤] tuất 822. [紃] tuần 823. [狥] tuẫn 824. [徇] tuẫn, tuân 825.[洵] tuân 826. [郇] tuân 827. [峋] tuân 828. [恂] tuân 829.[娀] tung 830. [虽] tuy 831. [泉] tuyền, toàn 832. [绝] tuyệt833. [宣] tuyên 834. [幽] u 835. [恽] uẩn 836. [威] uy 837.[哕] uyết, hối 838. [苑] uyển, uất, uẩn 839. [郓] vận 840.[洧] vị 841. [胃] vị 842. [闻] văn, vấn, vặn 843. [侮] vũ844. [禹] vũ 845. [疣] vưu 846. [韋] vi 847. [為] vi, vị 848.[爰] viên 849. [垣] viên 850. [貟] viên, vân 851. [竽] vu852. [诬] vu 853. [砗] xa 854. [哆] xỉ, đá 855. [虵] xà 856.[厙] xá 857. [侵] xâm 858. [促] xúc 859. [姝] xu 860. [春] xuân 861. [穿] xuyên 862. [咿] y 863. [咽] yết, yến, ế 864.[要] yếu, yêu 865. [弇] yểm 866. [匽] yển 867. [恹] yêm868. [哟] yêu

10 NÉT

1. [疴] a, kha 2. [埃] ai 3. [唉] ai 4. [挨] ai, ải 5. [荫] ấm 6.[悒] ấp 7. [挹] ấp 8. [浥] ấp 9. [唈] ấp 10. [诿] ủy, dụy 11.[倚] ỷ 12. [扆] ỷ 13. [恶] ác, ố, ô 14. [爱] ái 15. [案] án 16.[桉] án 17. [盎] áng 18. [袄] áo 19. [鸭] áp 20. [恩] ân 21.[殷] ân, an 22. [益] ích 23. [烏] ô 24. [翁] ông 25. [彧] úc26. [爹] đa, đà 27. [耽] đam 28. [耼] đam, tham 29. [珰] đang 30. [铎] đạc 31. [荙] đạt 32. [疸] đản 33. [党] đảng 34.[捣] đảo 35. [島] đảo 36. [倒] đảo 37. [鬥] đấu 38. [蚪] đẩu39. [陡] đẩu 40. [饾] đậu 41. [特] đặc 42. [绨] đề 43. [荑] đề, di 44. [悌] đễ 45. [娣] đễ, đệ 46. [敌] địch 47. [涤] địch48. [顿] đốn 49. [凍] đống 50. [涂] đồ 51. [徒] đồ 52. [茼] đồng 53. [桐] đồng 54. [胴] đỗng 55. [读] độc, đậu 56. [趸] độn 57. [砣] đà 58. [鸵] đà 59. [谈] đàm 60. [桃] đào 61.[逃] đào 62. [涛] đào 63. [荅] đáp 64. [荡] đãng, đảng 65.[庭] đình, thính 66. [飣] đính 67. [疼] đông 68. [挺] đĩnh69. [唐] đường 70. [档] đương, đáng 71. [窎] điếu 72. [钿] điền 73. [调] điều, điệu 74. [瓞] điệt 75. [凋] điêu 76. [釘] đinh 77. [秧] ương 78. [鸯] ương 79. [笆] ba 80. [羓] ba 81.[班] ban 82. [颁] ban, phân 83. [帮] bang 84. [浜] banh 85.[亳] bạc 86. [铂] bạc 87. [畔] bạn 88. [蚌] bạng 89. [钹] bạt90. [舨] bản 91. [陛] bệ 92. [狴] bệ 93. [病] bệnh 94. [粃] bỉ 95. [钸] bố 96. [畚] bổn 97. [俸] bổng 98. [埄] bổng 99.[哺] bộ 100. [捕] bộ 101. [珮] bội 102. [倍] bội 103. [悖] bội, bột 104. [饽] bột 105. [浡] bột 106. [俳] bài 107. [般] bàn, ban, bát 108. [逄] bàng 109. [旁] bàng, bạng 110. [铇] bào 111. [耙] bá 112. [垻] bá 113. [剝] bác 114. [剥] bác115. [趵] bác 116. [栢] bách 117. [狽] bái 118. [旆] bái119. [唄] bái, bối 120. [豹] báo 121. [捌] bát 122. [钵] bát123. [罢] bãi, bì 124. [疲] bì 125. [紕] bì, phi 126. [祕] bí127. [秘] bí 128. [迸] bính 129. [笔] bút 130. [窆] biếm131. [胼] biền 132. [俵] biểu 133. [砭] biêm 134. [哥] ca135. [荄] cai 136. [赅] cai 137. [疳] cam 138. [耕] canh139. [埂] canh 140. [浭] canh 141. [粇] canh 142. [高] cao143. [髙] cao 144. [皋] cao 145. [羔] cao 146. [竞] cạnh147. [哿] cả, khả 148. [赶] cản 149. [耿] cảnh 150. [绠] cảnh 151. [笈] cấp 152. [級] cấp 153. [冓] cấu 154. [逅] cấu155. [訖] cật, ngật 156. [顾] cố 157. [桧] cối 158. [貢] cống159. [骨] cốt 160. [罟] cổ 161. [羖] cổ 162. [贾] cổ, giá, giả163. [衮] cổn 164. [矩] củ 165. [珙] củng 166. [栱] củng167. [倨] cứ 168. [桕] cữu 169. [秬] cự 170. [個] cá 171.[胳] cách 172. [格] cách, các 173. [鬲] cách, lịch 174. [郜] cáo 175. [衿] câm 176. [俱] câu 177. [痀] câu, củ 178. [鸪] cô 179. [罛] cô 180. [蚣] công 181. [鸲] cù 182. [根] căn183. [姬] cơ 184. [剛] cương 185. [罡] cương, cang 186.[阄] cưu 187. [振] chấn, chân 188. [桎] chất 189. [畛] chẩn190. [疹] chẩn 191. [紙] chỉ 192. [砥] chỉ 193. [衹] chỉ 194.[聀] chức 195. [症] chứng 196. [砧] châm 197. [針] châm198. [真] chân 199. [眞] chân 200. [珠] châu 201. [晊] chí202. [贽] chí 203. [轾] chí 204. [挚] chí 205. [剚] chí, tứ206. [隻] chích 207. [疰] chú 208. [烛] chúc 209. [诸] chư210. [酌] chước 211. [烝] chưng 212. [脂] chi 213. [祗] chi214. [浙] chiết 215. [栴] chiên 216. [旃] chiên 217. [釗] chiêu 218. [钲] chinh 219. [辀] chu 220. [株] chu, châu221. [隼] chuẩn 222. [准] chuẩn, chuyết 223. [谆] chuân224. [躬] cung 225. [恭] cung 226. [宮] cung 227. [捓] da228. [恙] dạng 229. [样] dạng 230. [蚓] dẫn 231. [唒] dẫu232. [眙] dị, di 233. [剔] dịch 234. [浴] dục 235. [峪] dục236. [预] dự 237. [郢] dĩnh 238. [涌] dũng 239. [舁] dư240. [馀] dư 241. [氧] dưỡng 242. [养] dưỡng, dượng 243.[药] dược, ước, điếu 244. [烊] dương 245. [迻] di 246. [栘] di 247. [貤] di 248. [胰] di 249. [訑] di, đản, đà 250. [艳] diễm 251. [剡] diệm 252. [晔] diệp 253. [烨] diệp 254. [盐] diêm 255. [埏] diên, thiên 256. [珧] diêu 257. [铀] do 258.[容] dong, dung 259. [谀] du 260. [笋] duẩn, tuẩn 261. [捗] duệ 262. [阅] duyệt 263. [悦] duyệt 264. [悅] duyệt 265.[铅] duyên, diên 266. [家] gia, cô 267. [监] giam, giám 268.[豇] giang 269. [胶] giao 270. [茭] giao 271. [者] giả 272.[涧] giản 273. [蚧] giới 274. [痂] già 275. [较] giác, giếu, giảo 276. [校] giáo, hiệu, hào 277. [钾] giáp 278. [荚] giáp279. [郟] giáp 280. [哼] hanh 281. [虓] hao 282. [哮] hao283. [夏] hạ, giá 284. [鸴] hạc 285. [核] hạch 286. [害] hại, hạt 287. [舰] hạm 288. [荇] hạnh 289. [浩] hạo 290. [盍] hạp 291. [峽] hạp, hiệp, giáp 292. [海] hải 293. [候] hậu294. [奚] hề 295. [贿] hối 296. [悔] hối, hổi 297. [笏] hốt298. [壶] hồ 299. [蚘] hồi 300. [迴] hồi 301. [茴] hồi 302.[珲] hồn 303. [烘] hồng 304. [訌] hồng 305. [圂] hỗn, hoạn306. [祫] hợp 307. [栩] hủ 308. [娢] hàm 309. [圅] hàm310. [航] hàng 311. [颃] hàng, kháng 312. [珩] hành 313.[桁] hành, hàng, hãng 314. [蚝] hào 315. [鸮] hào 316. [郝] hác 317. [唅] hám, hàm 318. [耗] háo, mạo, mao, hao 319.[捍] hãn 320. [猂] hãn 321. [悍] hãn 322. [倖] hãnh 323.[陘] hình, kính 324. [豗] hôi 325. [牺] hi 326. [唏] hi 327.[娭] hi, ai 328. [脅] hiếp 329. [痃] hiền, huyền 330. [崄] hiểm 331. [险] hiểm 332. [猃] hiểm 333. [晓] hiểu 334.[峴] hiện 335. [蚬] hiện 336. [狹] hiệp 337. [挾] hiệp, tiệp338. [效] hiệu 339. [軒] hiên 340. [桦] hoa 341. [荒] hoang342. [晄] hoảng 343. [晃] hoảng, hoàng 344. [桓] hoàn 345.[翃] hoành 346. [紘] hoành 347. [换] hoán 348. [涣] hoán349. [唤] hoán 350. [浣] hoán, cán 351. [冔] hu 352. [訏] hu, hủ 353. [訓] huấn 354. [荥] huỳnh 355. [荧] huỳnh 356.[荤] huân 357. [埙] huân 358. [逈] huýnh 359. [胸] hung360. [袆] huy 361. [晖] huy 362. [眩] huyễn 363. [铉] huyễn 364. [烜] huyên 365. [继] kế 366. [桔] kết 367. [剞] kỉ 368. [屐] kịch 369. [剧] kịch 370. [笄] kê 371. [旂] kì372. [耆] kì 373. [蚑] kì 374. [颀] kì, khẩn 375. [勍] kình376. [記] kí 377. [觊] kí 378. [徑] kính 379. [涇] kính, kinh380. [悭] khan, san 381. [硁] khanh 382. [唘] khải 383. [烤] khảo 384. [栲] khảo 385. [宼] khấu 386. [冦] khấu 387.[恳] khẩn 388. [紧] khẩn 389. [尅] khắc 390. [倮] khỏa391. [庫] khố 392. [胯] khố, khóa 393. [哭] khốc 394. [捆] khổn 395. [悃] khổn 396. [阃] khổn 397. [起] khởi 398.[豈] khởi, khải 399. [恐] khủng, khúng 400. [欬] khái, ái401. [衾] khâm 402. [氣] khí, khất 403. [绤] khích 404. [郤] khích, khước 405. [课] khóa 406. [悝] khôi, lí 407. [倥] không 408. [挈] khiết, khế 409. [窍] khiếu 410. [宽] khoan411. [恚] khuể 412. [珪] khuê 413. [框] khuông 414. [缺] khuyết 415. [倾] khuynh 416. [衱] kiếp 417. [砝] kiếp, pháp418. [恝] kiết 419. [訐] kiết, yết 420. [钳] kiềm 421. [虔] kiền 422. [荞] kiều 423. [桥] kiều, khiêu, cao 424. [笕] kiển425. [茧] kiển 426. [桀] kiệt 427. [轿] kiệu 428. [兼] kiêm429. [栟] kiên 430. [痉] kinh 431. [荊] kinh 432. [荆] kinh433. [崃] lai 434. [倈] lai 435. [涞] lai 436. [徕] lai, lại 437.[勑] lai, sắc 438. [狼] lang 439. [郞] lang 440. [唠] lao 441.[捞] lao, liệu 442. [荦] lạc 443. [珞] lạc 444. [烙] lạc 445.[涝] lạo, lão, lao 446. [栗] lật 447. [茘] lệ 448. [荔] lệ 449.[砺] lệ 450. [猁] lị 451. [涖] lị 452. [砾] lịch 453. [赂] lộ454. [辂] lộ, nhạ 455. [哢] lộng 456. [挵] lộng 457. [浰] lợi458. [旅] lữ 459. [虑] lự, lư 460. [阆] lãng, lang 461. [浪] lãng, lang 462. [栳] lão 463. [娌] lí 464. [浬] lí 465. [哩] lí466. [鸬] lô 467. [凌] lăng 468. [倆] lưỡng 469. [谅] lượng470. [悢] lượng, lãng 471. [凉] lương, lượng 472. [琉] lưu473. [留] lưu 474. [骊] li 475. [狸] li 476. [郦] li, lịch 477.[烈] liệt 478. [埒] liệt 479. [料] liệu 480. [涟] liên 481. [铃] linh 482. [瓴] linh 483. [鸰] linh 484. [栾] loan 485. [捋] loát 486. [竜] long 487. [倫] luân 488. [砻] lung 489. [恋] luyến 490. [挛] luyên, luyến 491. [埋] mai 492. [茫] mang493. [哤] mang 494. [庬] mang, bàng 495. [旄] mao, mạo496. [脈] mạch 497. [耄] mạo 498. [秣] mạt 499. [悯] mẫn500. [畞] mẫu 501. [畝] mẫu 502. [宻] mật 503. [袂] mệ, duệ 504. [敉] mị 505. [浼] mỗi, miễn 506. [罠] mân 507.[馬] mã 508. [莽] mãng 509. [迷] mê 510. [茗] mính 511.[們] môn 512. [眠] miên 513. [冥] minh 514. [眛] muội515. [挪] na 516. [娜] na 517. [哪] na 518. [难] nan, nạn519. [桡] nạo, nhiêu 520. [衲] nạp 521. [納] nạp 522. [衵] nật 523. [诺] nặc 524. [砮] nỗ 525. [馁] nỗi 526. [衄] nục527. [恧] nục 528. [朒] nục 529. [紐] nữu 530. [拿] nã 531.[迺] nãi 532. [脑] não 533. [脓] nùng 534. [烫] năng 535.[能] năng, nai, nại 536. [娘] nương 537. [娥] nga 538. [峩] nga 539. [哦] nga 540. [峨] nga 541. [豻] ngan 542. [饿] ngạ 543. [唁] ngạn 544. [哽] ngạnh 545. [钰] ngọc 546.[悮] ngộ 547. [捂] ngộ 548. [悞] ngộ 549. [悟] ngộ 550.[圄] ngữ 551. [狺] ngân 552. [唔] ngô 553. [桅] ngôi, nguy554. [谊] nghị 555. [逆] nghịch 556. [倪] nghê 557. [验] nghiệm 558. [臬] nghiệt, niết 559. [顽] ngoan 560. [娛] ngu561. [娱] ngu 562. [軏] nguyệt, ngột 563. [蚖] nguyên, ngoan 564. [原] nguyên, nguyện 565. [蚜] nha 566. [桠] nha 567. [衽] nhẫm 568. [赁] nhẫm 569. [荏] nhẫm 570.[恁] nhẫm 571. [訒] nhẫn 572. [軔] nhận 573. [珥] nhị 574.[辱] nhục 575. [娴] nhàn 576. [紝] nhâm 577. [氤] nhân578. [茵] nhân 579. [茹] như, nhự 580. [弱] nhược 581.[胹] nhi 582. [热] nhiệt 583. [蚦] nhiêm 584. [荛] nhiêu, nghiêu 585. [润] nhuận 586. [蚋] nhuế 587. [毧] nhung 588.[茸] nhung, nhũng 589. [聂] niếp, nhiếp 590. [捏] niết 591.[涅] niết 592. [陧] niết 593. [袅] niểu 594. [涊] niễn 595.[挼] noa 596. [挐] noa, nư 597. [窊] oa 598. [娲] oa 599.[剜] oan 600. [眢] oan 601. [冤] oan 602. [盌] oản 603. [荟] oái, hội 604. [砰] phanh 605. [舫] phảng, phang 606. [粉] phấn 607. [祓] phất 608. [剖] phẫu 609. [匪] phỉ 610. [诽] phỉ 611. [倣] phỏng 612. [圃] phố 613. [埔] phố, bộ 614.[配] phối 615. [浿] phối, phái, bái 616. [浦] phổ, phố 617.[茯] phục 618. [釜] phủ 619. [俯] phủ 620. [破] phá 621.[皰] pháo 622. [疱] pháo 623. [砲] pháo 624. [紛] phân625. [剕] phí 626. [蚨] phù 627. [紑] phù 628. [浮] phù629. [紡] phưởng 630. [厞] phi 631. [铍] phi 632. [疿] phi633. [扇] phiến, thiên 634. [烦] phiền 635. [娉] phinh 636.[峯] phong 637. [峰] phong 638. [衭] phu 639. [郛] phu640. [尃] phu 641. [垺] phu, bôi 642. [埚] qua 643. [涡] qua, oa 644. [倌] quan 645. [胱] quang 646. [捃] quấn 647.[郡] quận 648. [倔] quật 649. [桂] quế 650. [鬼] quỷ 651.[烩] quái 652. [脍] quái, khoái 653. [桄] quáng, quang 654.[栝] quát 655. [适] quát, thích 656. [狷] quyến 657. [拳] quyền 658. [倦] quyện 659. [捐] quyên 660. [涓] quyên661. [娟] quyên 662. [绢] quyên 663. [悁] quyên, quyến664. [挱] sa 665. [紗] sa 666. [娑] sa 667. [差] sai, sái, si668. [栞] san 669. [訕] san, sán 670. [捎] sao, siếu 671. [剗] sản 672. [凊] sảnh 673. [眚] sảnh 674. [龀] sấn 675. [涔] sầm 676. [恥] sỉ 677. [耻] sỉ 678. [础] sở 679. [茈] sài 680.[豺] sài 681. [柴] sài, trại 682. [晒] sái 683. [套] sáo 684.[涩] sáp 685. [甡] sân 686. [翅] sí 687. [骋] sính 688. [朔] sóc 689. [畜] súc, húc 690. [涘] sĩ 691. [師] sư 692. [鬯] sưởng 693. [鸱] si 694. [郗] si 695. [谄] siểm 696. [茺] sung 697. [衰] suy, thôi 698. [罝] ta 699. [烖] tai 700. [桑] tang 701. [牂] tang 702. [赃] tang 703. [脏] tạng, tảng 704.[唕] tạo 705. [砸] tạp 706. [蚤] tảo 707. [晉] tấn 708. [訊] tấn 709. [晋] tấn 710. [荜] tất 711. [荨] tầm 712. [秦] tần713. [浸] tẩm 714. [叟] tẩu 715. [烬] tẫn 716. [赆] tẫn 717.[荩] tẫn 718. [疾] tật 719. [贼] tặc 720. [荠] tề 721. [脐] tề722. [宰] tể 723. [毙] tễ 724. [秭] tỉ 725. [俾] tỉ 726. [玺] tỉ727. [席] tịch 728. [竝] tịnh 729. [凈] tịnh 730. [座] tọa, tòa731. [唢] tỏa 732. [挫] tỏa 733. [素] tố 734. [涑] tốc 735.[谇] tối 736. [逊] tốn 737. [送] tống 738. [损] tổn 739. [祚] tộ 740. [颂] tụng 741. [耸] tủng 742. [悚] tủng 743. [恣] tứ, thư 744. [息] tức 745. [唧] tức 746. [徐] từ 747. [祠] từ748. [酒] tửu 749. [牸] tự 750. [衺] tà 751. [財] tài 752.[栽] tài, tải 753. [蚕] tàm 754. [残] tàn 755. [曺] tào 756.[借] tá 757. [索] tác, sách 758. [载] tái, tại, tải 759. [宾] tân, thấn 760. [栖] tê, thê 761. [茨] tì 762. [疵] tì 763. [蚍] tì764. [眦] tí, xải, trại 765. [眥] tí, xải, trại 766. [迹] tích 767.[脊] tích 768. [积] tích, tí 769. [倂] tính 770. [租] tô 771.[荪] tôn 772. [孫] tôn, tốn 773. [凇] tùng 774. [绣] tú 775.[肃] túc 776. [祟] túy, trúy 777. [鸶] tư 778. [资] tư 779.[兹] tư, từ 780. [茲] tư, từ 781. [祥] tường 782. [桨] tưởng783. [浆] tương 784. [诹] tưu 785. [绦] thao 786. [倘] thảng787. [草] thảo 788. [討] thảo 789. [娠] thần 790. [唇] thần791. [宸] thần 792. [谂] thẩm 793. [紏] thẩu, củ 794. [涕] thế 795. [舐] thỉ, để 796. [请] thỉnh, tính 797. [眎] thị 798.[眡] thị 799. [厝] thố, thác 800. [倅] thối, tốt 801. [退] thối, thoái 802. [捅] thống 803. [俶] thục, thích 804. [栨] thứ805. [恕] thứ 806. [轼] thức 807. [乘] thừa, thặng 808. [託] thác 809. [砷] thân 810. [凄] thê 811. [埘] thì 812. [時] thì, thời 813. [倜] thích 814. [殊] thù 815. [茱] thù 816. [倕] thùy 817. [谁] thùy 818. [倏] thúc 819. [脃] thúy 820. [脆] thúy 821. [陞] thăng 822. [書] thư 823. [砠] thư 824. [紓] thư 825. [疽] thư 826. [铄] thước 827. [晌] thưởng 828.[舱] thương 829. [倉] thương, thảng 830. [茜] thiến 831.[倩] thiến, sai 832. [铁] thiết 833. [脁] thiếu, thiểu 834. [閃] thiểm 835. [陝] thiểm 836. [朓] thiểu 837. [涉] thiệp 838.[痁] thiêm 839. [祧] thiêu, diêu 840. [烧] thiêu, thiếu 841.[純] thuần, chuẩn, đồn, truy 842. [秫] thuật 843. [帨] thuế844. [桩] thung 845. [舩] thuyền 846. [悛] thuyên 847. [荃] thuyên 848. [辁] thuyên 849. [赀] ti 850. [虒] ti 851. [荐] tiến 852. [浹] tiếp 853. [屑] tiết 854. [卨] tiết 855. [笑] tiếu856. [歬] tiền 857. [钱] tiền, tiễn 858. [峭] tiễu 859. [悄] tiễu, thiểu 860. [倢] tiệp 861. [涎] tiên, diện, diên 862. [消] tiêu 863. [绡] tiêu 864. [宵] tiêu 865. [髟] tiêu, bưu 866.[哨] tiêu, sáo 867. [唆] toa 868. [狻] toan 869. [钻] toản, toàn 870. [祘] toán 871. [笇] toán 872. [斋] trai 873. [奘] trang 874. [砦] trại 875. [站] trạm 876. [盏] trản 877. [朕] trẫm 878. [陣] trận 879. [秩] trật 880. [陟] trắc 881. [値] trị882. [值] trị 883. [冢] trủng 884. [皱] trứu 885. [除] trừ886. [竚] trữ 887. [酎] trữu 888. [茶] trà 889. [倀] trành890. [痄] trá 891. [桌] trác 892. [诼] trác 893. [倬] trác 894.[浞] trác 895. [窄] trách 896. [债] trái 897. [笊] tráo 898.[紥] trát 899. [眨] trát 900. [埕] trình 901. [捉] tróc 902.[帱] trù, đào 903. [涨] trướng 904. [翀] trưng 905. [哳] triết906. [哲] triết 907. [晁] triều 908. [展] triển 909. [祯] trinh910. [桢] trinh 911. [衷] trung, trúng 912. [追] truy, đôi913. [修] tu 914. [骏] tuấn 915. [峻] tuấn 916. [捘] tuấn917. [浚] tuấn 918. [馂] tuấn 919. [殉] tuẫn 920. [荀] tuân921. [浽] tuy 922. [绥] tuy, thỏa, nhuy 923. [隽] tuyển, tuấn924. [选] tuyển, tuyến 925. [骍] tuynh, tinh 926. [痈] ung927. [邕] ung 928. [倭] uy, oa, nụy 929. [鸳] uyên 930. [紊] vấn 931. [陨] vẫn, viên 932. [娓] vỉ 933. [晕] vựng 934.[郧] vân 935. [紜] vân 936. [耘] vân 937. [挽] vãn 938. [娩] vãn, miễn, phiền 939. [芠] văn 940. [蚊] văn 941. [紋] văn942. [院] viện 943. [钺] việt 944. [袁] viên 945. [圆] viên946. [員] viên, vân 947. [荣] vinh 948. [射] xạ, dạ, dịch949. [秤] xứng 950. [骎] xâm 951. [臭] xú, khứu 952. [倡] xướng, xương 953. [称] xưng, xứng 954. [蚩] xi 955. [陜] xiểm 956. [浺] xung 957. [剟] xuyết 958. [荈] xuyễn 959.[栓] xuyên 960. [宴] yến 961. [晏] yến 962. [窈] yểu 963.[舀] yểu 964. [窅] yểu 965. [俺] yêm 966. [胭] yên 967.[烟] yên

11 NÉT

1. [婀] a 2. [屙] a 3. [啊] a 4. [欸] ai, ái 5. [谙] am 6. [庵] am 7. [婴] anh 8. [淤] ứ 9. [婭] á 10. [堊] ác 11. [惡] ác 12.[偓] ác 13. [悪] ác 14. [軛] ách 15. [啞] ách, á, nha 16. [厣] áp 17. [阏] át, yên 18. [陰] âm, ám, uẩn 19. [偎] ôi 20. [勗] úc 21. [勖] úc 22. [唵] úm, án 23. [尉] úy, uất 24. [聃] đam25. [躭] đam 26. [酖] đam, trậm 27. [郸] đan 28. [铛] đang, sanh 29. [埭] đại 30. [袋] đại 31. [啗] đạm 32. [淡] đạm 33.[啖] đạm 34. [惮] đạn 35. [掸] đạn, đàn 36. [弹] đạn, đàn37. [盗] đạo 38. [蛋] đản 39. [袒] đản 40. [焘] đảo 41. [祷] đảo 42. [逗] đậu 43. [荳] đậu 44. [脰] đậu 45. [得] đắc 46.[谛] đế, đề 47. [第] đệ 48. [递] đệ, đái 49. [笛] địch 50. [荻] địch 51. [堕] đọa, huy 52. [途] đồ 53. [荼] đồ, gia 54. [阇] đồ, xà 55. [豚] đồn, độn 56. [铜] đồng 57. [渎] độc, đậu 58.[動] động 59. [硐] động 60. [舵] đà 61. [郯] đàm 62. [惔] đàm 63. [淘] đào 64. [梼] đào 65. [绹] đào 66. [掏] đào 67.[啕] đào 68. [陶] đào, dao 69. [帶] đái 70. [畣] đáp 71. [笪] đát 72. [兜] đâu 73. [紿] đãi 74. [羝] đê 75. [停] đình 76.[莛] đình 77. [頂] đính 78. [堆] đôi 79. [惇] đôn 80. [梃] đĩnh 81. [脡] đĩnh 82. [铤] đĩnh, thính 83. [堂] đường 84.[惦] điếm 85. [捵] điến 86. [淟] điến 87. [淀] điến 88. [釣] điếu 89. [甜] điềm 90. [條] điều, thiêu, điêu 91. [鳥] điểu92. [谍] điệp 93. [悼] điệu 94. [窕] điệu, thiêu 95. [掉] điệu, trạo 96. [掂] điêm 97. [彫] điêu 98. [断] đoạn, đoán 99. [啪] ba 100. [豝] ba 101. [梆] bang 102. [绷] banh, băng 103.[笣] bao 104. [舶] bạc 105. [敗] bại 106. [跁] bả, bà 107.[貧] bần 108. [弸] bằng 109. [匐] bặc 110. [閉] bế 111. [梐] bệ 112. [啚] bỉ, đồ 113. [偹] bị 114. [被] bị, bí 115. [徘] bồi116. [陪] bồi 117. [培] bồi, bậu 118. [掊] bồi, phẩu, bẫu119. [埲] bồng 120. [笨] bổn 121. [部] bộ 122. [荸] bột123. [脖] bột 124. [桲] bột 125. [偪] bức 126. [婆] bà 127.[排] bài 128. [盘] bàn 129. [匏] bào 130. [袍] bào 131. [絆] bán 132. [缽] bát 133. [彬] bân 134. [斌] bân 135. [捭] bãi, phách 136. [袌] bão 137. [郫] bì 138. [陴] bì, bài 139. [埤] bì, bi 140. [瓶] bình 141. [偋] bình 142. [帲] bình 143. [屛] bình, bính 144. [庳] bí, bỉ, tì 145. [蛃] bính 146. [掽] bính147. [晡] bô 148. [逋] bô 149. [桮] bôi 150. [崩] băng 151.[彪] bưu 152. [郵] bưu 153. [匾] biển 154. [谝] biển 155.[殍] biễu 156. [笾] biên 157. [袈] ca 158. [祴] cai 159. [淦] cam 160. [桿] can 161. [乾] can, kiền, càn 162. [皐] cao163. [颈] cảnh 164. [唫] cấm 165. [俅] cầu 166. [赇] cầu167. [毬] cầu 168. [球] cầu 169. [逑] cầu 170. [訄] cầu, cừu171. [耈] cẩu, củ 172. [耇] cẩu, củ 173. [堇] cận 174. [梏] cốc 175. [蛊] cổ 176. [袞] cổn 177. [绲] cổn 178. [埧] cụ179. [救] cứu 180. [厩] cứu 181. [莒] cử 182. [蚷] cự 183.[盖] cái 184. [紺] cám 185. [竟] cánh 186. [鸽] cáp 187.[蛄] cô 188. [晜] côn 189. [崑] côn 190. [釭] công, cang191. [笱] cú, cẩu 192. [够] cú, hú 193. [夠] cú, hú 194. [掬] cúc 195. [飢] cơ 196. [基] cơ 197. [据] cư, cứ 198. [脚] cước 199. [強] cường, cưỡng 200. [崗] cương 201. [執] chấp 202. [貭] chất 203. [袗] chẩn 204. [赈] chẩn 205. [紾] chẩn, diễn 206. [猘] chế 207. [趾] chỉ 208. [蚳] chỉ 209.[茝] chỉ 210. [畤] chỉ 211. [笫] chỉ 212. [捶] chủy 213. [职] chức 214. [陼] chử 215. [渚] chử 216. [郰] châu 217. [鸷] chí 218. [蛀] chú 219. [眾] chúng 220. [章] chương 221.[梔] chi 222. [淛] chiết 223. [硃] chu 224. [缀] chuế, chuyết, xuyết 225. [終] chung 226. [骓] chuy 227. [棁] chuyết 228. [梲] chuyết 229. [惙] chuyết, xuyết 230. [啭] chuyển 231. [砖] chuyên 232. [專] chuyên 233. [逛] cuống234. [龚] cung 235. [琊] da 236. [寅] dần 237. [袟] dật 238.[液] dịch 239. [埸] dịch 240. [惕] dịch 241. [掖] dịch 242.[谕] dụ 243. [欲] dục 244. [莠] dửu, tú 245. [翊] dực 246.[翌] dực 247. [淫] dâm 248. [婬] dâm 249. [野] dã 250.[埜] dã 251. [恿] dũng 252. [桶] dũng 253. [跃] dược 254.[痒] dương, dưỡng 255. [痍] di 256. [眱] di 257. [移] di, dị, xỉ 258. [阎] diêm 259. [窑] diêu 260. [铫] diêu, điệu, điều261. [庸] dong, dung 262. [莸] du 263. [蚰] du 264. [悠] du265. [勚] duệ 266. [帷] duy 267. [惟] duy 268. [维] duy269. [唯] duy, dụy 270. [耞] gia 271. [痎] giai 272. [偕] giai273. [假] giả, giá 274. [减] giảm 275. [铰] giảo 276. [械] giới 277. [笳] già 278. [這] giá, nghiện 279. [桷] giác 280.[谏] gián 281. [教] giáo, giao 282. [敎] giáo, giao 283. [莢] giáp 284. [蚶] ham 285. [脝] hanh 286. [涸] hạc 287. [盒] hạp 288. [衅] hấn 289. [祸] họa 290. [晦] hối 291. [惚] hốt292. [瓠] hồ, hoạch 293. [馄] hồn 294. [鸿] hồng 295. [扈] hỗ 296. [混] hỗn, cổn 297. [斛] hộc 298. [龁] hột 299. [許] hứa, hử, hổ 300. [荷] hà, hạ 301. [谐] hài 302. [晗] hàm303. [衔] hàm 304. [琀] hàm 305. [啣] hàm 306. [涵] hàm307. [莖] hành 308. [淆] hào 309. [毫] hào 310. [崤] hào311. [唬] hách, hổ, hào, hao 312. [訢] hân, hi 313. [馅] hãm314. [陷] hãm 315. [焊] hãn 316. [閈] hãn 317. [釬] hãn318. [悻] hãnh 319. [硎] hình 320. [铏] hình 321. [觋] hích322. [貨] hóa 323. [虖] hô 324. [婚] hôn 325. [阍] hôn 326.[涽] hôn 327. [惛] hôn 328. [酗] hú, húng 329. [脛] hĩnh330. [虚] hư, khư 331. [谑] hước 332. [鸺] hưu 333. [晞] hi334. [欷] hi 335. [莧] hiện 336. [晛] hiện 337. [現] hiện338. [莶] hiêm 339. [掀] hiên, hân 340. [崋] hoa 341. [谎] hoang 342. [获] hoạch 343. [患] hoạn 344. [淮] hoài 345.[莞] hoàn, hoản, quản 346. [凰] hoàng 347. [偟] hoàng 348.[焕] hoán 349. [畦] huề 350. [阋] huých 351. [訩] hung352. [蚿] huyền 353. [舷] huyền 354. [悬] huyền 355. [絃] huyền 356. [衒] huyễn 357. [谖] huyên 358. [偈] kệ 359.[掎] kỉ 360. [骑] kị 361. [跂] kì 362. [骐] kì 363. [淇] kì364. [寄] kí 365. [旣] kí 366. [逕] kính 367. [谌] kham 368.[龛] kham, khám 369. [康] khang, khương 370. [牼] khanh371. [卿] khanh 372. [硗] khao, nghiêu 373. [舸] khả 374.[啟] khải 375. [铠] khải 376. [啓] khải 377. [埳] khảm 378.[寇] khấu 379. [釦] khẩu 380. [掯] khẳng 381. [绮] khỉ, ỷ382. [控] khống 383. [壸] khổn 384. [梱] khổn, khốn, ngôn385. [悫] khác 386. [勘] khám 387. [掐] kháp 388. [唭] khí389. [盔] khôi 390. [堃] khôn 391. [悾] không 392. [崆] không 393. [涳] không 394. [袪] khư 395. [蚯] khưu 396.[崎] khi 397. [惬] khiếp, thiếp 398. [啸] khiếu 399. [牽] khiên 400. [氫] khinh 401. [欵] khoản 402. [頃] khoảnh, khuynh, khuể 403. [躯] khu 404. [區] khu, âu 405. [眶] khuông 406. [秸] kiết 407. [戛] kiết 408. [检] kiểm 409.[脸] kiểm, thiểm 410. [矫] kiểu 411. [皎] kiểu, hiệu 412.[健] kiện 413. [铗] kiệp 414. [掮] kiên 415. [堅] kiên 416.[梟] kiêu 417. [惊] kinh 418. [淶] lai 419. [莱] lai 420. [崍] lai 421. [徠] lai, lại 422. [婪] lam 423. [惏] lam, lâm 424.[莨] lang 425. [桹] lang 426. [琅] lang 427. [笠] lạp 428.[啦] lạp 429. [粒] lạp 430. [唰] lạt 431. [勒] lặc 432. [粝] lệ433. [淚] lệ 434. [悷] lệ 435. [唳] lệ 436. [蛎] lệ 437. [逦] lệ 438. [莅] lị 439. [莉] lị 440. [鹵] lỗ 441. [掳] lỗ 442. [鹿] lộc 443. [禄] lộc 444. [渌] lục 445. [陸] lục 446. [淥] lục447. [绿] lục 448. [铝] lữ 449. [梠] lữ 450. [绺] lữu 451.[淋] lâm 452. [婁] lâu, lũ, lu 453. [赉] lãi 454. [朗] lãng455. [犁] lê 456. [梨] lê 457. [理] lí 458. [舻] lô 459. [颅] lô 460. [玈] lô 461. [崚] lăng 462. [绫] lăng 463. [淩] lăng464. [陵] lăng 465. [领] lĩnh 466. [偻] lũ 467. [畧] lược468. [掠] lược 469. [略] lược 470. [辆] lượng 471. [梁] lương 472. [涼] lương, lượng 473. [离] li 474. [殓] liễm475. [敛] liễm, liệm 476. [琏] liễn 477. [猎] liệp 478. [捩] liệt, lệ 479. [翏] liệu 480. [連] liên 481. [梿] liên 482. [莲] liên 483. [聊] liêu 484. [舲] linh 485. [聆] linh 486. [羚] linh 487. [蛉] linh 488. [棂] linh 489. [翎] linh 490. [鸾] loan 491. [圇] luân 492. [崙] luân 493. [掄] luân 494. [淪] luân 495. [聋] lung 496. [笼] lung, lộng 497. [累] luy, lũy, lụy 498. [麻] ma 499. [梅] mai 500. [铓] mang 501. [酕] mao 502. [莫] mạc, mộ, mạch, mịch 503. [麦] mạch 504.[眽] mạch 505. [麥] mạch 506. [曼] mạn, man 507. [偭] mạn, miến 508. [袜] mạt, miệt 509. [敏] mẫn 510. [密] mật511. [袤] mậu 512. [眯] mị 513. [覓] mịch 514. [覔] mịch515. [梦] mộng, mông 516. [眸] mâu 517. [猛] mãnh 518.[谜] mê 519. [莓] môi 520. [捫] môn 521. [谋] mưu 522.[猕] mi, di 523. [堍] miễn 524. [冕] miện 525. [绵] miên526. [铭] minh 527. [焖] muộn 528. [硇] nao 529. [铙] nao, nạo 530. [捺] nại 531. [匿] nặc 532. [旎] nỉ 533. [訥] nột534. [淖] náo 535. [您] nâm 536. [秾] nùng 537. [莪] nga538. [皑] ngai 539. [敖] ngao, ngạo 540. [谔] ngạc 541.[硙] ngại, cai 542. [谚] ngạn 543. [梗] ngạnh 544. [偶] ngẫu 545. [晤] ngộ 546. [牾] ngộ 547. [焐] ngộ 548. [偽] ngụy 549. [敔] ngữ 550. [圉] ngữ 551. [御] ngự, nhạ, ngữ552. [痕] ngân 553. [银] ngân 554. [梧] ngô, ngộ 555. [魚] ngư 556. [渔] ngư 557. [掜] nghễ, nghiệt 558. [埶] nghệ, thế 559. [猊] nghê 560. [堄] nghê 561. [硏] nghiên, nghiễn562. [訛] ngoa 563. [涯] nhai 564. [啀] nhai 565. [崖] nhai566. [捱] nhai 567. [訝] nhạ 568. [偌] nhạ 569. [淽] nhị570. [婣] nhân 571. [眼] nhãn 572. [鸸] nhi 573. [唲] nhi574. [蚺] nhiêm 575. [軟] nhuyễn 576. [啮] niết, khiết 577.[埝] niệm 578. [唸] niệm 579. [捻] niệp, niệm, nẫm 580.[粘] niêm 581. [捼] noa 582. [莴] oa 583. [帵] oan 584.[寃] oan 585. [莺] oanh 586. [绾] oản 587. [捥] oản 588.[惋] oản, uyển 589. [莹] oánh 590. [颇] pha, phả 591. [淜] phanh 592. [烹] phanh 593. [脬] phao 594. [笵] phạm 595.[梵] phạm, phạn 596. [紼] phất 597. [紱] phất 598. [偾] phẫn 599. [艴] phật 600. [陫] phỉ 601. [悱] phỉ 602. [屝] phỉ 603. [婦] phụ 604. [辅] phụ 605. [埠] phụ 606. [虙] phục 607. [莆] phủ, bồ 608. [脯] phủ, bô 609. [捧] phủng610. [唪] phủng 611. [粕] phách 612. [啡] phê, phỉ 613.[淝] phì 614. [副] phó, phức 615. [訪] phóng, phỏng 616.[涪] phù 617. [符] phù 618. [烰] phù, bào 619. [桴] phù, phu 620. [逢] phùng, bồng 621. [旊] phưởng 622. [耚] phi623. [绯] phi 624. [販] phiến, phán 625. [票] phiếu, tiêu, phiêu 626. [畨] phiên 627. [烽] phong 628. [趺] phu 629.[旉] phu 630. [麸] phu 631. [莩] phu, biễu 632. [剮] quả633. [惈] quả 634. [掛] quải 635. [脘] quản, oản 636. [崛] quật 637. [掘] quật 638. [堀] quật 639. [帼] quắc 640. [阈] quắc, vực 641. [掴] quặc, quách 642. [國] quốc 643. [馗] quỳ 644. [匭] quỹ 645. [匮] quỹ 646. [郭] quách 647. [崞] quách 648. [罣] quái, khuể 649. [貫] quán 650. [惯] quán651. [馆] quán 652. [掼] quán 653. [鸹] quát 654. [桰] quát655. [莙] quân 656. [皲] quân 657. [悸] quý 658. [絅] quýnh 659. [烱] quýnh 660. [規] quy 661. [眷] quyến 662.[訣] quyết 663. [傕] quyết 664. [觖] quyết, khụy 665. [趹] quyết, quế 666. [惓] quyền 667. [绻] quyển 668. [圈] quyển, khuyên 669. [圏] quyển, khuyên 670. [捲] quyển, quyền 671. [挲] sa 672. [桫] sa 673. [桬] sa 674. [猜] sai675. [釵] sai, thoa 676. [蛏] sanh 677. [笙] sanh 678. [梢] sao, tiêu 679. [铲] sạn 680. [産] sản 681. [產] sản 682. [爽] sảng 683. [渗] sấm 684. [啬] sắc 685. [敕] sắc 686. [谗] sàm 687. [巢] sào 688. [啧] sách, trách 689. [釤] sám 690.[铩] sát 691. [殺] sát, sái, tát 692. [郴] sâm 693. [莘] sân, sằn, tân 694. [逞] sính 695. [崇] sùng 696. [铳] súng 697.[梳] sơ 698. [厢] sương 699. [眵] si 700. [笞] si 701. [窓] song 702. [率] suất, súy, luật, soát 703. [毢] tai 704. [唣] tạo 705. [造] tạo, tháo 706. [埽] tảo 707. [掃] tảo, táo 708.[畢] tất 709. [悉] tất 710. [祲] tẩm 711. [袭] tập 712. [習] tập 713. [曽] tằng 714. [細] tế 715. [祭] tế, sái 716. [徙] tỉ717. [耜] tỉ, cử 718. [寂] tịch 719. [淨] tịnh 720. [琐] tỏa721. [莝] tỏa 722. [做] tố 723. [速] tốc 724. [综] tống, tông725. [捽] tốt 726. [崒] tốt, tụy 727. [組] tổ 728. [捴] tổng729. [偬] tổng 730. [族] tộc, tấu, thấu 731. [袖] tụ 732. [续] tục 733. [訟] tụng 734. [悴] tụy 735. [笥] tứ 736. [瓷] từ737. [梓] tử 738. [紫] tử 739. [敘] tự 740. [绪] tự 741. [斜] tà, gia 742. [惭] tàm 743. [曹] tào 744. [趿] tát, táp 745.[梹] tân 746. [婢] tì 747. [情] tình 748. [渍] tí 749. [胔] tí, tích 750. [惜] tích 751. [绩] tích 752. [淅] tích, tí 753. [從] tòng, tụng, thung, túng, tung, tùng 754. [悰] tông 755. [骔] tông 756. [淙] tông 757. [淞] tùng 758. [琇] tú 759. [粛] túc760. [骕] túc 761. [宿] túc, tú 762. [睁] tĩnh, tranh 763. [谞] tư 764. [雀] tước 765. [將] tương, tướng, thương 766. [掫] tưu 767. [陬] tưu 768. [叄] tham 769. [骖] tham 770. [貪] tham 771. [探] tham, thám 772. [參] tham, xam, sâm 773.[清] thanh 774. [圊] thanh 775. [硕] thạc 776. [採] thải, thái777. [埰] thải, thái 778. [彩] thải, thái 779. [惨] thảm 780.[惝] thảng 781. [徜] thảng 782. [淌] thảng 783. [铴] thảng784. [凑] thấu 785. [透] thấu 786. [脣] thần 787. [晨] thần788. [渖] thẩm 789. [婶] thẩm 790. [淰] thẩm, niệm 791.[脤] thận 792. [绳] thằng 793. [渑] thằng, mẫn 794. [剰] thặng 795. [屜] thế 796. [婇] thể 797. [逝] thệ 798. [珽] thỉnh 799. [豉] thị 800. [視] thị 801. [晟] thịnh, thạnh 802.[盛] thịnh, thình 803. [脞] thỏa, tỏa, thoa 804. [措] thố, trách 805. [淬] thối 806. [啐] thối, ngạt 807. [猝] thốt 808.[釷] thổ 809. [售] thụ 810. [绶] thụ 811. [授] thụ 812. [孰] thục 813. [淑] thục 814. [庶] thứ 815. [埴] thực 816. [飥] thác 817. [寀] thái 818. [深] thâm 819. [紳] thân 820. [偸] thâu 821. [偷] thâu 822. [梯] thê 823. [悽] thê 824. [淒] thê, thiến 825. [莳] thì, thi 826. [逖] thích 827. [戚] thích 828.[唾] thóa 829. [粗] thô 830. [崔] thôi 831. [推] thôi, suy832. [悤] thông 833. [通] thông 834. [痌] thông 835. [铢] thù 836. [陲] thùy 837. [娶] thú 838. [兽] thú 839. [焂] thúc840. [蛆] thư 841. [偿] thường 842. [常] thường 843. [商] thương 844. [跄] thương 845. [匙] thi 846. [絁] thi 847.[設] thiết 848. [眺] thiếu 849. [粜] thiếu 850. [婵] thiền851. [掞] thiểm, diễm 852. [淺] thiển, tiên 853. [紹] thiệu854. [添] thiêm 855. [笘] thiêm 856. [偏] thiên 857. [脫] thoát, đoái 858. [脱] thoát, đoái 859. [偢] thu 860. [眴] thuấn 861. [淳] thuần 862. [莼] thuần 863. [術] thuật, toại864. [逡] thuân 865. [舂] thung 866. [船] thuyền 867. [痊] thuyên 868. [铨] thuyên 869. [啤] ti 870. [偲] ti, tai 871.[谘] ti, tư 872. [接] tiếp 873. [紲] tiết 874. [铣] tiển 875.[剪] tiễn 876. [崭] tiệm 877. [堑] tiệm 878. [渐] tiệm, tiêm, tiềm 879. [婕] tiệp 880. [捷] tiệp, thiệp 881. [铦] tiêm 882.[笺] tiên 883. [逍] tiêu 884. [旌] tinh 885. [莎] toa, sa 886.[梭] toa, thoa 887. [旋] toàn, tuyền 888. [莊] trang 889. [铮] tranh 890. [猙] tranh 891. [崢] tranh 892. [斬] trảm 893.[窒] trất, chất 894. [趻] trần 895. [陳] trần, trận 896. [眹] trẫm 897. [袠] trật, dật 898. [側] trắc 899. [掷] trịch 900.[舳] trục 901. [逐] trục 902. [着] trứ, trước, trữ 903. [紬] trừu 904. [紵] trữ 905. [羜] trữ 906. [啁] trào 907. [涿] trác908. [啄] trác 909. [舴] trách 910. [蚱] trách 911. [帻] trách912. [責] trách, trái 913. [绽] trán 914. [掙] tránh 915. [铡] trát 916. [紮] trát 917. [惆] trù 918. [绸] trù, thao 919. [晝] trú 920. [痔] trĩ 921. [猪] trư 922. [悵] trướng 923. [帳] trướng 924. [張] trương, trướng 925. [辄] triếp 926. [偵] trinh 927. [絀] truất, chuyết 928. [淄] truy 929. [缁] truy930. [羞] tu 931. [脩] tu 932. [彗] tuệ 933. [崧] tung 934.[荽] tuy 935. [雪] tuyết 936. [琁] tuyền 937. [脧] tuyên, thôi 938. [酝] uấn 939. [秽] uế 940. [婉] uyển 941. [渊] uyên 942. [淵] uyên 943. [問] vấn 944. [殒] vẫn 945. [脗] vẫn 946. [谓] vị 947. [痏] vị 948. [望] vọng 949. [務] vụ, vũ 950. [域] vực 951. [晚] vãn 952. [惘] võng 953. [阌] văn954. [偉] vĩ 955. [娬] vũ 956. [雩] vu 957. [赊] xa 958. [捨] xả 959. [處] xử, xứ 960. [蛇] xà, di 961. [赦] xá 962. [猞] xá 963. [殻] xác 964. [厠] xí, trắc 965. [婥] xước 966. [绰] xước 967. [娼] xướng 968. [唱] xướng 969. [猖] xương970. [阊] xương 971. [偁] xưng 972. [阐] xiển 973. [唼] xiệp 974. [啑] xiệp, tiệp 975. [釧] xuyến 976. [啜] xuyết977. [掇] xuyết 978. [猗] y, ỷ, ả 979. [谒] yết 980. [掩] yểm981. [偃] yển 982. [偠] yểu 983. [窔] yểu, diểu 984. [崦] yêm 985. [阉] yêm 986. [淹] yêm, yểm 987. [焉] yên

12 NÉT

1. [菴] am 2. [媪] ảo 3. [揖] ấp, tập 4. [隐] ẩn, ấn 5. [猥] ổi6. [飫] ứ, ốc 7. [犄] ỷ, cơ 8. [幄] ác 9. [渥] ác 10. [握] ác11. [惡] ác, ố, ô 12. [喔] ác, ốc 13. [軶] ách 14. [奥] áo, úc15. [隂] âm 16. [愔] âm 17. [喑] âm, ấm 18. [隈] ôi 19. [温] ôn, uẩn 20. [缊] ôn, uân, uẩn 21. [單] đan, đơn, thiền, thiện22. [裆] đang 23. [萏] đạm 24. [氮] đạm 25. [盜] đạo 26.[谠] đảng 27. [敨] đẩu 28. [痘] đậu 29. [等] đẳng 30. [缔] đế 31. [啼] đề 32. [稊] đề 33. [鹈] đề 34. [缇] đề 35. [提] đề, thì, để 36. [詆] để 37. [觝] để 38. [锑] đễ 39. [觌] địch40. [棟] đống 41. [稌] đồ 42. [屠] đồ, chư 43. [鲀] đồn 44.[筒] đồng 45. [衕] đồng 46. [童] đồng 47. [赌] đổ 48. [堵] đổ 49. [渡] độ 50. [牍] độc 51. [椟] độc 52. [犊] độc 53.[隊] đội 54. [鈍] độn 55. [惪] đức 56. [跎] đà 57. [堶] đà58. [酡] đà 59. [跆] đài 60. [覃] đàm 61. [殚] đàn, đạn 62.[萄] đào 63. [答] đáp 64. [逮] đãi, đệ 65. [菪] đãng 66. [堤] đê 67. [隄] đê 68. [渟] đình 69. [婷] đình 70. [靮] đích 71.[椗] đính 72. [埵] đóa, đỏa 73. [都] đô 74. [敦] đôn, độn, đôi, đối 75. [登] đăng 76. [腚] đĩnh 77. [棠] đường 78. [筜] đương 79. [菾] điềm 80. [觍] điễn 81. [奠] điện 82. [堞] điệp 83. [喋] điệp 84. [蛭] điệt 85. [耊] điệt 86. [絰] điệt 87.[耋] điệt 88. [跌] điệt, trật 89. [傎] điên 90. [貂] điêu 91.[缎] đoạn 92. [短] đoản 93. [菸] ư, yên 94. [菠] ba 95. [鈀] ba 96. [斑] ban 97. [惫] bại 98. [跋] bạt 99. [跛] bả, bí 100.[堡] bảo 101. [鈈] bất 102. [弼] bật 103. [弻] bật 104. [棚] bằng 105. [菔] bặc 106. [備] bị 107. [辈] bối 108. [菩] bồ109. [焙] bồi 110. [毰] bồi 111. [赔] bồi 112. [湓] bồn 113.[棒] bổng 114. [琫] bổng 115. [琲] bội 116. [鹁] bột 117.[渤] bột 118. [琶] bà 119. [牌] bài 120. [雱] bàng 121. [傍] bàng, bạng 122. [彭] bành, bang, bàng 123. [跑] bào 124.[博] bác 125. [谤] báng 126. [報] báo 127. [袯] bát 128.[缾] bình 129. [萍] bình 130. [評] bình 131. [詖] bí 132.[赑] bí 133. [賁] bí, phần, bôn 134. [逬] bính 135. [犇] bôn136. [筆] bút 137. [絣] băng 138. [痞] bĩ 139. [悲] bi 140.[貶] biếm 141. [徧] biến 142. [缏] biền 143. [腁] biền 144.[编] biên 145. [渮] ca 146. [剴] cai 147. [赓] canh 148. [臯] cao 149. [敢] cảm 150. [港] cảng 151. [景] cảnh, ảnh 152.[給] cấp 153. [琴] cầm 154. [琹] cầm 155. [菫] cận 156.[雇] cố 157. [詁] cổ, hỗ 158. [惧] cụ 159. [飓] cụ 160. [椇] củ 161. [棘] cức 162. [渠] cừ 163. [詎] cự 164. [距] cự 165.[虡] cự 166. [搁] các 167. [鈣] cái 168. [溉] cái, khái 169.[稈] cán 170. [蛤] cáp 171. [割] cát 172. [筋] cân 173. [鈎] câu 174. [缑] câu 175. [酤] cô 176. [觚] cô 177. [軱] cô178. [菰] cô 179. [菇] cô 180. [軲] cô 181. [辜] cô 182. [棍] côn 183. [裈] côn 184. [琨] côn 185. [軥] cù, câu 186. [菊] cúc 187. [絚] căng 188. [琚] cư 189. [椐] cư, cử 190. [强] cường 191. [揕] chấm 192. [骘] chất 193. [診] chẩn 194.[軫] chẩn 195. [黹] chỉ 196. [軹] chỉ 197. [証] chứng 198.[煮] chử 199. [胾] chí 200. [痣] chí 201. [跖] chích 202.[铸] chú 203. [註] chú 204. [粥] chúc, dục 205. [属] chúc, thuộc, chú 206. [衆] chúng 207. [湩] chúng 208. [惴] chúy209. [掌] chưởng 210. [詔] chiếu 211. [赒] chu 212. [週] chu 213. [蛛] chu, thù 214. [筇] cung 215. [蛩] cung, cùng216. [揶] da 217. [谣] dao 218. [蛘] dạng, dưỡng 219. [逸] dật 220. [軼] dật, điệt, triệt 221. [異] dị, di 222. [腋] dịch223. [喻] dụ 224. [鹆] dục 225. [釉] dứu 226. [庾] dữu 227.[崺] dĩ 228. [惥] dũng 229. [湧] dũng 230. [畬] dư 231.[揚] dương 232. [陽] dương 233. [敭] dương 234. [貽] di235. [詒] di 236. [琰] diễm 237. [焰] diễm 238. [焱] diễm239. [軺] diêu 240. [猶] do, dứu 241. [营] doanh, dinh 242.[隃] du 243. [渝] du 244. [揄] du 245. [猷] du 246. [游] du247. [愉] du, thâu 248. [筍] duẩn, tấn 249. [矞] duật 250.[锐] duệ, nhuệ 251. [溈] duy 252. [掾] duyện 253. [缘] duyên 254. [鈆] duyên, diên 255. [傢] gia 256. [階] giai257. [喈] giai 258. [堦] giai 259. [缄] giam 260. [菅] gian261. [間] gian, gián, nhàn 262. [蛟] giao 263. [斝] giả 264.[減] giảm 265. [锏] giản 266. [痫] giản 267. [揀] giản, luyến 268. [搅] giảo 269. [絞] giảo, hào 270. [跏] già 271.[絳] giáng 272. [窖] giáo 273. [颊] giáp 274. [袷] giáp, kiếp, khiếp 275. [訶] ha 276. [頇] han 277. [賀] hạ 278.[厦] hạ 279. [菡] hạm 280. [睅] hạn 281. [衖] hạng 282.[項] hạng 283. [皓] hạo 284. [喊] hảm 285. [翕] hấp 286.[猴] hầu 287. [喉] hầu 288. [堠] hậu 289. [黑] hắc 290. [傒] hề 291. [喜] hỉ, hí, hi 292. [畫] họa, hoạch 293. [欻] hốt294. [湖] hồ 295. [壺] hồ 296. [猢] hồ 297. [蛕] hồi 298.[蛔] hồi 299. [渾] hồn 300. [琥] hổ 301. [焜] hỗn, côn 302.[鹄] hộc, cốc 303. [阓] hội 304. [愦] hội 305. [溃] hội 306.[缋] hội 307. [颏] hài 308. [酣] hàm 309. [韩] hàn 310. [寒] hàn 311. [殽] hào, hiệu 312. [喝] hát, ới 313. [焮] hân 314.[雄] hùng 315. [喣] hú 316. [虛] hư, khư 317. [飨] hưởng318. [鄊] hương 319. [鄉] hương, hướng 320. [瓻] hi 321.[睎] hi 322. [稀] hi 323. [献] hiến 324. [睍] hiển 325. [陿] hiệp 326. [颉] hiệt 327. [傚] hiệu 328. [敩] hiệu, giáo 329.[華] hoa, hóa 330. [睆] hoản 331. [惑] hoặc 332. [萑] hoàn, chuy 333. [皖] hoàn, hoán 334. [黄] hoàng 335. [湟] hoàng336. [惶] hoàng 337. [徨] hoàng 338. [隍] hoàng 339. [喤] hoàng 340. [黃] hoàng 341. [閎] hoành 342. [揘] hoành343. [換] hoán 344. [喚] hoán 345. [逭] hoán 346. [渙] hoán 347. [痪] hoán 348. [缓] hoãn 349. [惠] huệ 350. [貺] huống 351. [萤] huỳnh 352. [勛] huân 353. [詗] huýnh 354.[揮] huy 355. [絢] huyến 356. [喧] huyên 357. [結] kết 358.[袺] kết 359. [惎] kị 360. [嵇] kê 361. [嵆] kê 362. [筓] kê363. [琦] kì 364. [琪] kì 365. [棊] kì 366. [棋] kì, kí 367.[期] kì, ki 368. [塈] kí 369. [戟] kích 370. [軻] kha 371.[開] khai 372. [揩] khai, giai 373. [堪] kham 374. [腔] khang, xoang 375. [铿] khanh 376. [硜] khanh 377. [凱] khải 378. [欿] khảm 379. [嵌] khảm 380. [揿] khấm 381.[愒] khế, khái 382. [棨] khể, khải 383. [棵] khỏa 384. [絝] khố 385. [袴] khố 386. [喾] khốc 387. [睏] khốn 388. [揢] khách 389. [喀] khách 390. [慨] khái 391. [渴] khát, kiệt, hạt 392. [欽] khâm 393. [棄] khí 394. [傀] khôi, quỷ 395.[髠] khôn 396. [蛐] khúc 397. [欺] khi 398. [攲] khi 399.[愜] khiếp, thiếp 400. [喫] khiết 401. [傔] khiểm 402. [谦] khiêm, khiệm 403. [款] khoản 404. [絖] khoáng 405. [阔] khoát 406. [蛞] khoát 407. [菌] khuẩn 408. [袿] khuê 409.[筐] khuông 410. [阒] khuých 411. [阕] khuyết 412. [棬] khuyên, quyển 413. [朞] ki 414. [萁] ki 415. [幾] ki, kỉ, kí, cơ 416. [戞] kiết 417. [絜] kiết, hiệt, khiết 418. [鈐] kiềm419. [硷] kiềm, thiêm 420. [翘] kiều 421. [荍] kiều 422.[喬] kiều, kiêu 423. [睑] kiểm 424. [蛱] kiệp, hiệp 425. [傑] kiệt 426. [𠔥] kiêm 427. [痙] kinh 428. [萝] la 429. [逻] la430. [椤] la 431. [萊] lai 432. [嵐] lam 433. [阑] lan 434.[稂] lang 435. [锒] lang 436. [嫏] lang 437. [啷] lang 438.[廊] lang 439. [痨] lao 440. [勞] lao, lạo 441. [絡] lạc 442.[喇] lạt 443. [凓] lật 444. [棣] lệ, đại, thế, đệ 445. [詈] lị446. [痢] lị 447. [雳] lịch 448. [厤] lịch 449. [跞] lịch 450.[鲁] lỗ 451. [虜] lỗ 452. [逯] lục 453. [氯] lục 454. [菉] lục455. [琳] lâm 456. [喽] lâu 457. [搂] lâu 458. [睐] lãi 459.[缆] lãm 460. [揽] lãm 461. [棃] lê 462. [犂] lê 463. [愣] lăng 464. [菱] lăng 465. [棱] lăng 466. [屡] lũ 467. [嵝] lũ468. [缕] lũ, lâu 469. [絫] lũy 470. [晾] lượng 471. [喨] lượng 472. [量] lượng, lương 473. [硫] lưu 474. [鹂] li 475.[辇] liễn 476. [裂] liệt 477. [裣] liêm, liễm 478. [链] liên479. [联] liên 480. [軨] linh 481. [湾] loan 482. [隆] long483. [脔] luyến 484. [湅] luyện 485. [锊] luyệt 486. [蛮] man 487. [萌] manh 488. [貃] mạch 489. [衇] mạch 490.[帽] mạo 491. [媢] mạo 492. [閔] mẫn 493. [湣] mẫn 494.[畮] mẫu 495. [谧] mật, mịch 496. [貿] mậu 497. [寐] mị498. [媚] mị 499. [幂] mịch 500. [痗] mội 501. [缗] mân502. [蛑] mâu 503. [買] mãi 504. [莾] mãng 505. [谟] mô506. [媒] môi 507. [渼] mĩ 508. [睂] mi 509. [嵋] mi 510.[湄] mi 511. [郿] mi 512. [淼] miểu 513. [缈] miểu, diểu514. [渺] miểu, diểu 515. [缅] miễn, diến 516. [湎] miện517. [棉] miên 518. [猫] miêu 519. [描] miêu 520. [悶] muộn 521. [傩] na 522. [喃] nam 523. [掿] nạch 524. [惄] nịch 525. [甯] nịnh, ninh 526. [惰] nọa 527. [鈉] nột 528.[鈕] nữu 529. [惱] não 530. [鹅] nga 531. [愕] ngạc 532.[鄂] ngạc 533. [喭] ngạn 534. [硬] ngạnh 535. [奡] ngạo536. [寓] ngụ 537. [铻] ngữ 538. [馭] ngự 539. [龂] ngân540. [硯] nghiễn 541. [堯] nghiêu 542. [鼋] ngoan 543. [嵎] ngu, ngung 544. [隅] ngung 545. [喁] ngung, ngu 546. [椏] nha 547. [街] nhai 548. [嵒] nham 549. [喏] nhạ 550. [雁] nhạn 551. [壹] nhất 552. [袵] nhẫm 553. [飪] nhẫm 554.[韌] nhận 555. [惢] nhị 556. [貳] nhị 557. [絮] nhứ 558.[鹇] nhàn 559. [閑] nhàn 560. [閒] nhàn, gian, gián 561.[絍] nhâm 562. [絪] nhân 563. [堙] nhân 564. [陻] nhân565. [裀] nhân 566. [湮] nhân, yên 567. [雅] nhã 568. [袽] như 569. [渃] nhược 570. [鄀] nhược 571. [然] nhiên 572.[蛲] nhiêu 573. [猱] nhu 574. [揉] nhu, nhụ 575. [閏] nhuận576. [絨] nhung 577. [羢] nhung 578. [隉] niết 579. [揑] niết 580. [赧] noản 581. [猧] oa 582. [媧] oa 583. [锅] oa584. [喎] oa 585. [蛙] oa 586. [窝] oa 587. [萦] oanh 588.[椀] oản 589. [腕] oản, uyển 590. [棼] phần 591. [焚] phần, phẫn 592. [粪] phẩn 593. [愤] phẫn, phấn 594. [棐] phỉ 595.[斐] phỉ, phi 596. [菲] phỉ, phi 597. [普] phổ 598. [跗] phụ599. [袱] phục 600. [復] phục, phú 601. [腑] phủ 602. [愎] phức 603. [愊] phức 604. [湃] phái 605. [琺] pháp 606. [發] phát 607. [雰] phân 608. [腓] phì 609. [費] phí, bỉ 610. [萉] phí, phì 611. [傅] phó, phụ 612. [痡] phô 613. [铺] phô, phố614. [罦] phù 615. [稃] phù 616. [馮] phùng, bằng 617. [赋] phú 618. [富] phú 619. [幅] phúc, bức 620. [喷] phún, phôn621. [鲂] phường 622. [扉] phi 623. [骗] phiến 624. [筏] phiệt 625. [番] phiên, phan, ba, bà 626. [锋] phong 627.[鈇] phu 628. [堝] qua 629. [渦] qua, oa 630. [棺] quan, quán 631. [菓] quả 632. [琯] quản 633. [窘] quẫn 634. [骙] quỳ 635. [逵] quỳ 636. [琼] quỳnh 637. [惸] quỳnh 638.[揆] quỹ 639. [晷] quỹ 640. [馈] quỹ 641. [椁] quách 642.[祼] quán 643. [聒] quát 644. [鈞] quân 645. [貴] quý 646.[颎] quýnh 647. [媯] quy 648. [睊] quyến 649. [罥] quyến650. [厥] quyết 651. [鈌] quyết 652. [菤] quyển 653. [鹃] quyên 654. [鄄] quyên 655. [痧] sa 656. [搀] sam 657. [跚] san 658. [創] sang, sáng 659. [傖] sanh 660. [牚] sanh 661.[甥] sanh 662. [鈔] sao, sáo 663. [棧] sạn, xiễn, trăn, chăn664. [稍] sảo, sao 665. [趁] sấn 666. [趂] sấn 667. [揣] sủy, tuy, đoàn 668. [锄] sừ 669. [馋] sàm 670. [孱] sàn 671. [策] sách 672. [矟] sáo, sác 673. [揷] sáp 674. [插] sáp, tráp 675.[森] sâm 676. [琛] sâm 677. [飧] sôn, tôn, san 678. [竢] sĩ679. [疎] sơ 680. [疏] sơ, sớ 681. [凔] sương 682. [廂] sương 683. [馊] sưu 684. [廀] sưu 685. [筛] si, sư 686. [蛳] si, tư, sư 687. [覘] siêm, chiêm 688. [超] siêu 689. [窗] song 690. [喘] suyễn 691. [傞] ta 692. [揌] tai 693. [毵] tam694. [喪] tang, táng 695. [骚] tao 696. [谢] tạ 697. [凿] tạc698. [酢] tạc, thố 699. [暂] tạm 700. [椠] tạm, thiễm 701.[棗] tảo, táo 702. [傧] tấn 703. [筚] tất 704. [尋] tầm 705.[锓] tẩm, tiêm 706. [集] tập 707. [缉] tập 708. [谡] tắc 709.[曾] tằng, tăng 710. [壻] tế 711. [婿] tế 712. [蛴] tề 713.[崽] tể 714. [敝] tệ 715. [渻] tỉnh 716. [腊] tịch, lạp 717.[靓] tịnh 718. [矬] tọa 719. [痤] tọa 720. [锉] tỏa 721. [锁] tỏa 722. [訴] tố 723. [最] tối 724. [晬] tối 725. [巽] tốn 726.[惣] tổng 727. [揔] tổng 728. [萃] tụy 729. [脺] tụy 730.[竦] tủng 731. [赐] tứ 732. [喞] tức 733. [詞] từ 734. [溆] tự735. [就] tựu 736. [裁] tài 737. [喒] tàm, gia 738. [殘] tàn739. [傘] tán, tản 740. [散] tán, tản 741. [萨] tát 742. [锌] tân 743. [粞] tê 744. [赍] tê 745. [犀] tê 746. [棲] tê, thê747. [琵] tì 748. [脾] tì, bễ, bài 749. [萆] tì, tế 750. [晴] tình751. [訾] tí, ti 752. [舃] tích 753. [舄] tích 754. [晰] tích755. [酥] tô 756. [甦] tô 757. [尊] tôn 758. [棕] tông 759.[琮] tông 760. [嵕] tông 761. [嵏] tông 762. [菘] tùng 763.[随] tùy 764. [隋] tùy, đọa 765. [锈] tú 766. [粟] túc 767.[湑] tư 768. [滋] tư 769. [斯] tư 770. [粢] tư, tế 771. [翔] tường 772. [象] tượng 773. [缃] tương 774. [湘] tương, sương 775. [湫] tưu, tiểu, tiều 776. [湯] thang, sương, thãng777. [貸] thải, thắc 778. [跐] thải, thử 779. [毯] thảm 780.[菼] thảm 781. [傥] thảng 782. [湿] thấp, chập 783. [揍] thấu 784. [湊] thấu 785. [腎] thận 786. [寔] thật, thực 787.[勝] thắng, thăng 788. [剩] thặng 789. [替] thế 790. [貰] thế791. [躰] thể 792. [椭] thỏa 793. [菟] thố, đồ 794. [湥] thốc795. [焠] thối 796. [痛] thống 797. [統] thống 798. [赎] thục 799. [菽] thục 800. [椉] thừa 801. [暑] thử 802. [黍] thử 803. [湜] thực 804. [殖] thực 805. [植] thực, trĩ 806.[跅] thác 807. [菜] thái 808. [傣] thái 809. [媮] thâu, du810. [萋] thê 811. [睇] thê, đệ 812. [弑] thí 813. [啻] thí814. [逷] thích 815. [释] thích, dịch 816. [圌] thùy 817.[趄] thư 818. [舒] thư 819. [赏] thưởng 820. [觞] thương, tràng, trường 821. [貼] thiếp 822. [跕] thiếp, điệt 823. [腆] thiển, điến 824. [愀] thiểu, sậu 825. [善] thiện 826. [禅] thiện, thiền 827. [揲] thiệt, điệp 828. [湍] thoan 829. [窜] thoán 830. [揪] thu 831. [啾] thu 832. [舜] thuấn 833. [順] thuận 834. [稅] thuế, thối, thoát 835. [税] thuế, thối, thoát836. [毳] thuế, thúy 837. [皴] thuân 838. [竣] thuân, thuyên839. [筌] thuyên 840. [絲] ti 841. [貲] ti 842. [缌] ti 843.[進] tiến 844. [絏] tiết 845. [亵] tiết 846. [揳] tiết 847. [渫] tiết 848. [媟] tiết 849. [筅] tiển 850. [践] tiễn 851. [揃] tiễn852. [羡] tiện, di 853. [萐] tiệp 854. [湔] tiên 855. [牋] tiên856. [溅] tiên, tiễn 857. [猋] tiêu 858. [椒] tiêu 859. [硝] tiêu 860. [萧] tiêu 861. [销] tiêu 862. [痟] tiêu 863. [焦] tiêu, tiều 864. [猩] tinh 865. [菁] tinh 866. [晶] tinh 867.[惺] tinh 868. [痠] toan 869. [颍] toánh, dĩnh 870. [喳] tra871. [渣] tra 872. [揸] tra 873. [粧] trang 874. [装] trang875. [琤] tranh 876. [筝] tranh 877. [棖] tranh 878. [椓] trạc879. [湛] trạm, đam, trầm, tiêm 880. [棹] trạo, trác 881.[琖] trản 882. [絷] trập 883. [蛰] trập 884. [測] trắc 885.[崱] trắc 886. [惻] trắc 887. [彘] trệ 888. [滞] trệ 889. [詛] trớ 890. [軸] trục 891. [著] trứ, trước, trữ 892. [惩] trừng893. [貯] trữ 894. [储] trữ, trừ 895. [場] tràng, trường 896.[詐] trá 897. [斮] trác 898. [晫] trác 899. [琢] trác 900. [逴] trác, sước 901. [幀] tránh 902. [剳] tráp 903. [程] trình 904.[智] trí 905. [厨] trù 906. [畴] trù 907. [椎] trùy, chuy 908.[筑] trúc 909. [缒] trúy 910. [菹] trư, thư 911. [脹] trướng912. [萇] trường, trành 913. [菑] tri, trại, tai 914. [晳] triết915. [旐] triệu 916. [朝] triêu, triều 917. [湞] trinh 918. [詘] truất 919. [湽] truy 920. [辎] truy 921. [須] tu 922. [湏] tu, hối 923. [畯] tuấn 924. [睃] tuấn 925. [揗] tuần 926. [循] tuần 927. [渲] tuyển 928. [絶] tuyệt 929. [絕] tuyệt 930.[揎] tuyên 931. [愠] uấn 932. [揾] uấn 933. [惲] uẩn 934.[喙] uế 935. [逶] uy 936. [崴] uy 937. [喂] uy 938. [萎] uy, ủy 939. [琬] uyển 940. [晼] uyển 941. [菀] uyển, uất, uẩn942. [嵘] vanh 943. [鄆] vận 944. [渭] vị 945. [猬] vị 946.[喟] vị 947. [媦] vị 948. [詠] vịnh 949. [婺] vụ 950. [骛] vụ951. [棫] vực 952. [雲] vân 953. [無] vô, mô 954. [辋] võng 955. [菵] võng 956. [雯] văn 957. [珷] vũ 958. [鱿] vưu 959. [幃] vi 960. [圍] vi 961. [爲] vi, vị 962. [逺] viễn963. [媛] viện, viên 964. [粤] việt 965. [越] việt, hoạt 966.[湲] viên 967. [援] viên, viện 968. [硨] xa 969. [奢] xa 970.[叅] xam 971. [湌] xan 972. [掣] xế, xiết 973. [殼] xác 974.[确] xác 975. [廁] xí, trắc 976. [敞] xưởng 977. [菖] xương978. [趋] xu, xúc 979. [敪] xuyết 980. [辍] xuyết, chuyết981. [欹] y 982. [椅] y, ỷ 983. [揭] yết 984. [揠] yết, yển985. [揜] yểm 986. [晻] yểm 987. [隁] yển 988. [堰] yển989. [郾] yển 990. [揞] yêm 991. [腌] yêm, khảng 992. [喲] yêu 993. [喓] yêu

13 NÉT

1. [痾] a, kha 2. [嗳] ai 3. [鹌] am 4. [瑛] anh 5. [缢] ải 6.[隘] ải 7. [矮] ải, nụy 8. [媼] ảo 9. [裛] ấp 10. [飮] ẩm 11.[飲] ẩm, ấm 12. [嗢] ốt 13. [榅] ốt 14. [隖] ổ 15. [鄔] ổ 16.[塢] ổ 17. [煨] ổi 18. [滃] ổng 19. [腽] ột 20. [傴] ủ 21. [骫] ủy 22. [瘀] ứ 23. [搤] ách 24. [嗌] ách, ải 25. [嫒] ái 26.[愛] ái 27. [暗] ám 28. [暎] ánh 29. [奧] áo, úc 30. [閘] áp, sạp 31. [遏] át 32. [嗚] ô 33. [椳] ôi 34. [溫] ôn, uẩn 35.[嗡] ông 36. [意] ý, y 37. [瑇] đại 38. [窞] đạm 39. [道] đạo, đáo 40. [達] đạt 41. [蜑] đản 42. [亶] đản 43. [瘅] đản, đan 44. [搗] đảo 45. [窦] đậu 46. [滕] đằng 47. [誊] đằng48. [腾] đằng 49. [戥] đẳng 50. [蒂] đế 51. [禘] đế 52. [嗁] đề 53. [綈] đề 54. [鼎] đỉnh 55. [督] đốc 56. [碓] đối 57.[頓] đốn 58. [塗] đồ 59. [颓] đồi 60. [飩] đồn 61. [筩] đồng62. [詷] đồng 63. [酮] đồng 64. [董] đổng 65. [遁] độn, tuần 66. [働] động 67. [腯] đột 68. [葖] đột 69. [馱] đà, đạ70. [痰] đàm 71. [搭] đáp 72. [蜓] đình 73. [葶] đình 74.[筳] đình 75. [躲] đóa 76. [跺] đóa 77. [躱] đóa 78. [豋] đăng 79. [碇] đĩnh 80. [艇] đĩnh 81. [锭] đĩnh 82. [搪] đường 83. [溏] đường 84. [塘] đường 85. [當] đương, đang, đáng 86. [腼] điến 87. [阗] điền 88. [鈿] điền 89. [滇] điền90. [填] điền, trấn 91. [塡] điền, trần, điễn, trấn 92. [龆] điều 93. [碘] điển 94. [電] điện 95. [殿] điện 96. [牒] điệp97. [叠] điệp 98. [碉] điêu 99. [煅] đoán 100. [葯] ước, dược 101. [麀] ưu 102. [筢] ba 103. [葩] ba 104. [斒] ban105. [頒] ban, phân 106. [雹] bạc 107. [鉑] bạc 108. [稗] bại 109. [徬] bạng, bàng 110. [鈸] bạt 111. [綁] bảng 112.[搒] bảng, bang 113. [煲] bảo 114. [葆] bảo 115. [摈] bấn, thấn 116. [裒] bầu 117. [稟] bẩm, lẫm 118. [禀] bẩm, lẫm119. [瓿] bẫu, phẫu 120. [硼] bằng 121. [鹏] bằng 122. [睥] bễ 123. [媲] bễ 124. [僃] bị 125. [鈽] bố 126. [葡] bồ 127.[補] bổ 128. [逼] bức 129. [搬] bàn, ban 130. [滂] bàng131. [鲍] bào 132. [鉋] bào 133. [靶] bá 134. [愽] bác 135.[搏] bác 136. [馎] bác 137. [鉢] bát 138. [鲅] bát, phệ 139.[酦] bát, phát 140. [摆] bãi 141. [飽] bão 142. [軿] bình143. [甁] bình 144. [閟] bí 145. [辔] bí 146. [碑] bi 147.[遍] biến 148. [楄] biên 149. [賅] cai 150. [該] cai 151. [鹒] canh 152. [粳] canh, cánh, ngạnh 153. [筸] cao 154. [感] cảm, hám 155. [綆] cảnh, bính 156. [搞] cảo 157. [缟] cảo158. [禁] cấm, câm 159. [詬] cấu 160. [彀] cấu 161. [媾] cấu 162. [搆] cấu, câu 163. [禽] cầm 164. [勤] cần 165.[锦] cẩm 166. [谨] cẩn 167. [雊] cẩu 168. [靳] cận 169.[僅] cận 170. [厪] cận 171. [詰] cật 172. [痼] cố 173. [锢] cố 174. [毂] cốc 175. [鼓] cổ 176. [鈷] cổ 177. [賈] cổ, giá, giả 178. [榘] củ 179. [锯] cứ 180. [殛] cức 181. [裘] cừu182. [筥] cử 183. [榉] cử 184. [韮] cửu 185. [舅] cữu 186.[鉅] cự 187. [極] cực 188. [隔] cách 189. [搿] cách 190.[嗝] cách 191. [戤] cái 192. [骭] cán 193. [裥] cán, giản194. [幹] cán, hàn 195. [葛] cát 196. [跟] cân, ngân 197.[溝] câu 198. [鉤] câu 199. [鹍] côn 200. [腳] cước 201.[畺] cương 202. [鳩] cưu 203. [锧] chất 204. [缜] chẩn 205.[酯] chỉ 206. [滓] chỉ 207. [歱] chủng 208. [煑] chử 209.[楮] chử 210. [嗏] chà 211. [斟] châm 212. [椹] châm, thẩm 213. [輊] chí 214. [锥] chùy 215. [锤] chùy 216. [傽] chương 217. [搘] chi 218. [嗫] chiếp 219. [照] chiếu 220.[詹] chiêm 221. [鉦] chinh 222. [輈] chu 223. [準] chuẩn, chuyết 224. [剸] chuyển, chuyên 225. [椽] chuyên 226. [誆] cuống 227. [跫] cung 228. [椰] da 229. [爺] da 230. [徭] dao 231. [猺] dao 232. [蝆] dạng 233. [靷] dẫn 234. [溢] dật 235. [媵] dắng 236. [肄] dị 237. [睪] dịch, cao 238. [裕] dụ 239. [毓] dục 240. [煜] dục 241. [誉] dự 242. [預] dự243. [颖] dĩnh 244. [颕] dĩnh 245. [愈] dũ 246. [蛹] dũng247. [楊] dương 248. [暘] dương 249. [煬] dương, dượng250. [颐] di 251. [椸] di 252. [遗] di, dị 253. [飴] di, tự254. [葉] diệp 255. [馌] diệp, ấp 256. [葉] diệp, diếp 257.[滅] diệt 258. [綖] diên 259. [蜒] diên 260. [筵] diên 261.[飖] diêu 262. [搖] diêu, dao 263. [摇] diêu, dao 264. [楢] do 265. [鈾] do 266. [楹] doanh 267. [傭] dong, dũng 268.[溶] dong, dung 269. [歈] du 270. [毹] du 271. [萸] du 272.[瑜] du 273. [逾] du 274. [遊] du 275. [牏] du 276. [榆] du277. [觎] du 278. [腴] du 279. [楡] du 280. [裔] duệ 281.[鉛] duyên, diên 282. [葭] gia 283. [楷] giai, khải 284. [尲] giam 285. [尴] giam 286. [椷] giam, hàm 287. [跤] giao288. [解] giải, giái, giới 289. [简] giản 290. [嫁] giá 291.[較] giác, giếu, giảo 292. [鉴] giám 293. [鉀] giáp 294. [滈] hao 295. [暇] hạ 296. [煆] hạ 297. [廈] hạ 298. [嗃] hạc, hao 299. [貉] hạc, mạch 300. [嗐] hại 301. [颔] hạm 302.[鄗] hạo, khao 303. [阖] hạp 304. [嗑] hạp 305. [舝] hạt306. [嗨] hải 307. [鲎] hấu 308. [徯] hề, hễ 309. [旤] họa310. [禍] họa 311. [匯] hối 312. [滙] hối 313. [賄] hối 314.[颒] hối 315. [葫] hồ 316. [琿] hồn 317. [溷] hỗn 318. [楛] hộ, khổ 319. [會] hội, cối 320. [搰] hột, cốt 321. [詡] hủ322. [毁] hủy 323. [毀] hủy 324. [瑕] hà 325. [遐] hà 326.[頏] hàng, kháng 327. [嗥] hào 328. [號] hào, hiệu 329.[赩] hách 330. [歆] hâm 331. [瑚] hô, hồ 332. [煦] hú 333.[頊] húc 334. [顼] húc 335. [鄕] hương, hướng 336. [貅] hưu 337. [煕] hi 338. [絺] hi 339. [愾] hi, khái, khải, hất340. [歇] hiết 341. [嫌] hiềm 342. [蜆] hiện 343. [貆] hoan344. [豢] hoạn 345. [猾] hoạt 346. [滑] hoạt, cốt 347. [幌] hoảng 348. [慌] hoảng 349. [滉] hoảng 350. [煌] hoàng351. [遑] hoàng 352. [煥] hoán 353. [携] huề 354. [滎] huỳnh 355. [塤] huân 356. [葷] huân 357. [詾] hung 358.[煇] huy 359. [暉] huy 360. [鉉] huyễn 361. [暄] huyên362. [萱] huyên 363. [煊] huyên 364. [萲] huyên 365. [楦] huyên 366. [楥] huyên 367. [継] kế 368. [麂] kỉ 369. [楳] kì370. [祺] kì 371. [碁] kì 372. [頎] kì, khẩn 373. [兾] kí 374.[敬] kính 375. [锜] kĩ, ki 376. [戡] kham 377. [搕] khạp378. [溘] khạp 379. [愷] khải 380. [塏] khải 381. [窠] khỏa, khoa 382. [裤] khố 383. [塊] khối 384. [綑] khổn 385. [壼] khổn 386. [嗅] khứu 387. [概] khái 388. [溪] khê 389. [嵠] khê 390. [綌] khích 391. [隙] khích 392. [跨] khóa 393.[詼] khôi 394. [髡] khôn 395. [慊] khiểm, khiếp 396. [嗛] khiêm, hàm, khiểm 397. [愆] khiên 398. [骞] khiên, kiển399. [跷] khiêu 400. [跳] khiêu 401. [稞] khoa 402. [誇] khoa, khỏa 403. [筷] khoái 404. [跬] khuể 405. [頍] khuể406. [暌] khuê 407. [窥] khuy 408. [阙] khuyết 409. [傾] khuynh 410. [畸] ki 411. [跲] kiếp 412. [鉗] kiềm 413. [鉆] kiềm 414. [犍] kiền 415. [筧] kiển 416. [趼] kiển, nghiễn417. [键] kiện 418. [毽] kiện 419. [腱] kiện, kiên 420. [蛺] kiệp, hiệp, giáp 421. [嵥] kiệt 422. [楬] kiệt, kệ 423. [缣] kiêm 424. [經] kinh 425. [锣] la 426. [筤] lang 427. [蜋] lang 428. [榔] lang 429. [落] lạc 430. [酪] lạc 431. [赖] lại432. [滥] lạm, lãm, cãm 433. [溧] lật 434. [慄] lật 435. [蜊] lị 436. [路] lộ 437. [賂] lộ 438. [輅] lộ, nhạ, hạch 439. [祿] lộc 440. [勠] lục 441. [僇] lục 442. [碌] lục 443. [誄] lụy444. [滤] lự 445. [馏] lựu 446. [溜] lựu, lưu 447. [痳] lâm448. [蒌] lâu 449. [楼] lâu 450. [睞] lãi 451. [榄] lãm 452.[裏] lí 453. [裡] lí 454. [雷] lôi 455. [稜] lăng 456. [睖] lăng 457. [楞] lăng 458. [僂] lũ 459. [榈] lư 460. [鲈] lư461. [粱] lương 462. [粮] lương 463. [骝] lưu 464. [旒] lưu465. [漓] li 466. [剺] li 467. [缡] li 468. [滟] liễm 469. [廉] liêm 470. [龄] linh 471. [鈴] linh 472. [零] linh 473. [滦] loan 474. [亂] loạn 475. [亂] loạn 476. [楝] luyện 477. [煉] luyện 478. [媽] ma 479. [痲] ma 480. [嗎] mạ, ma 481. [貊] mạch 482. [谩] mạn, man 483. [锰] mạnh 484. [瑁] mạo, mội 485. [暋] mẫn 486. [愍] mẫn 487. [鉧] mẫu 488. [楙] mậu 489. [谬] mậu 490. [鬽] mị 491. [募] mộ 492. [楘] mộc 493. [睦] mục 494. [毷] máo 495. [瑉] mân 496. [满] mãn 497. [黽] mãnh, mẫn 498. [黾] mãnh, mẫn 499. [酩] mính 500. [禖] môi 501. [煤] môi 502. [媺] mĩ 503. [楣] mi504. [絻] miện, vấn 505. [锚] miêu 506. [溟] minh 507.[盟] minh 508. [楠] nam 509. [搦] nạch, nhược 510. [腩] nạm 511. [腻] nị, nhị 512. [溺] nịch, niệu 513. [閙] náo514. [腦] não 515. [瑙] não 516. [農] nông 517. [蛾] nga, nghĩ 518. [獃] ngai 519. [厫] ngao 520. [骜] ngao, ngạo521. [蕚] ngạc 522. [萼] ngạc 523. [遌] ngạc 524. [碍] ngại525. [傲] ngạo 526. [鈺] ngọc 527. [遇] ngộ 528. [獄] ngục529. [蜈] ngô 530. [隗] ngôi 531. [嵬] ngôi 532. [睨] nghễ533. [詣] nghệ 534. [義] nghĩa 535. [跰] nghiễn, kiển 536.[業] nghiệp 537. [靴] ngoa 538. [頑] ngoan 539. [虞] ngu540. [愚] ngu 541. [嫄] nguyên 542. [源] nguyên 543. [衙] nha 544. [睚] nhai 545. [惹] nhạ 546. [賃] nhẫm 547. [稔] nhẫm, nẫm 548. [鄏] nhục 549. [溽] nhục 550. [缛] nhục551. [輀] nhi 552. [慑] nhiếp 553. [摄] nhiếp 554. [裊] niểu555. [嫋] niệu 556. [鲇] niêm 557. [暖] noãn 558. [煖] noãn, huyên 559. [痿] nuy 560. [萵] oa 561. [搲] oa 562.[蜗] oa 563. [塋] oanh, doanh 564. [碗] oản 565. [閛] phanh 566. [飯] phạn 567. [綍] phất 568. [緐] phồn 569.[溥] phổ 570. [鲋] phụ 571. [腷] phức 572. [煏] phức 573.[蜉] phù 574. [鳬] phù 575. [鳧] phù 576. [缝] phùng, phúng 577. [福] phúc 578. [腹] phúc 579. [辐] phúc, bức580. [赗] phúng 581. [滏] phũ 582. [缚] phược, phọc 583.[鈹] phi 584. [痱] phi, phỉ 585. [骟] phiến 586. [剽] phiếu, phiểu 587. [煩] phiền 588. [萹] phiên 589. [楓] phong 590.[犎] phong 591. [蜂] phong 592. [葑] phong, phúng 593.[粰] phu 594. [觥] quang 595. [锞] quả 596. [罫] quải 597.[筦] quản 598. [裙] quần 599. [裠] quần 600. [群] quần601. [羣] quần 602. [窟] quật 603. [葵] quỳ 604. [煢] quỳnh605. [跪] quỵ 606. [詭] quỷ 607. [蒉] quỹ 608. [過] quá, qua 609. [詿] quái 610. [筠] quân 611. [媿] quý 612. [愧] quý 613. [絹] quyên 614. [蜎] quyên 615. [裟] sa 616. [飱] san 617. [嗆] sang 618. [艄] sao 619. [蛸] sao 620. [筲] sao621. [旓] sao 622. [剷] sản 623. [愴] sảng 624. [榇] sấn625. [愁] sầu 626. [嗇] sắc 627. [瑟] sắt 628. [傺] sế 629.[傻] sọa 630. [雏] sồ 631. [数] sổ, số, sác, xúc 632. [楚] sở633. [飾] sức 634. [飭] sức 635. [耡] sừ, sự 636. [鉏] sừ, trở, tư 637. [溲] sửu, sưu 638. [喍] sài 639. [鄛] sào 640.[詫] sá 641. [嗄] sá, hạ 642. [嗦] sách 643. [筞] sách 644.[筴] sách, giáp, kiệp 645. [牐] sáp 646. [歰] sáp 647. [歃] sáp 648. [煠] sáp 649. [詧] sát 650. [煞] sát 651. [詵] sân652. [嗔] sân, điền 653. [聘] sính 654. [搠] sóc 655. [搐] súc 656. [摅] sư 657. [獅] sư 658. [雎] sư, thư 659. [瑒] sướng 660. [廋] sưu 661. [獀] sưu 662. [搜] sưu, sảo 663.[搊] sưu, trửu 664. [痴] si 665. [蒇] siển 666. [嗟] ta 667.[腮] tai 668. [賍] tang 669. [搔] tao, trảo 670. [筰] tạc 671.[艁] tạo 672. [嗓] tảng 673. [缙] tấn 674. [搢] tấn 675. [厀] tất 676. [跸] tất 677. [嫔] tần 678. [频] tần 679. [寝] tẩm680. [寖] tẩm 681. [嫂] tẩu 682. [葺] tập 683. [辑] tập 684.[戢] tập 685. [嫉] tật 686. [塞] tắc, tái 687. [賊] tặc 688.[跻] tễ, tê 689. [葸] tỉ 690. [嗩] tỏa 691. [愫] tố 692. [嗉] tố693. [溯] tố 694. [塑] tố 695. [窣] tốt 696. [損] tổn 697.[傯] tổng 698. [罪] tội 699. [辠] tội 700. [頌] tụng 701. [瘁] tụy 702. [愯] tủng 703. [肆] tứ, thích 704. [媳] tức 705. [辞] từ 706. [辝] từ 707. [飼] tự 708. [嗣] tự 709. [僌] tái 710.[載] tái, tại, tải 711. [葬] táng 712. [搡] táng 713. [塟] táng714. [靸] táp 715. [缤] tân 716. [新] tân 717. [滨] tân 718.[睛] tình 719. [痺] tí 720. [痹] tí 721. [皙] tích 722. [勣] tích 723. [锡] tích 724. [跡] tích 725. [辟] tích, tịch, phích, thí 726. [稣] tô 727. [猻] tôn 728. [搎] tôn 729. [椶] tông730. [遒] tù 731. [綉] tú 732. [肅] túc 733. [哫] túc 734.[鹔] túc 735. [睟] túy 736. [竫] tĩnh 737. [靖] tĩnh 738. [睜] tĩnh, tranh 739. [嵫] tư 740. [趑] tư 741. [資] tư 742. [孳] tư743. [詳] tường 744. [想] tưởng 745. [酱] tương 746. [葙] tương 747. [嵯] tha 748. [搓] tha, sai 749. [滩] than 750.[摊] than 751. [絛] thao 752. [慆] thao 753. [滔] thao, đào754. [跴] thải 755. [睬] thải 756. [溼] thấp 757. [腠] thấu758. [辏] thấu 759. [葚] thậm, thầm 760. [愼] thận 761. [蜃] thận 762. [慎] thận 763. [髢] thế 764. [勢] thế 765. [筮] thệ, phệ 766. [嗜] thị 767. [竪] thụ 768. [裋] thụ 769. [蜀] thục770. [瑞] thụy 771. [軾] thức 772. [蜍] thừ 773. [鼠] thử774. [署] thự 775. [错] thác 776. [聖] thánh 777. [塔] tháp778. [阘] tháp 779. [塌] tháp 780. [搨] tháp 781. [嗒] tháp, đáp 782. [输] thâu, thú 783. [塒] thì 784. [試] thí 785. [弒] thí 786. [碛] thích 787. [催] thôi 788. [葱] thông 789. [酧] thù 790. [酬] thù 791. [塍] thăng 792. [腫] thũng, trũng793. [葅] thư 794. [雌] thư 795. [鹊] thước 796. [碏] thước, tích 797. [搶] thưởng, thương, thướng, sang 798. [滄] thương 799. [傷] thương 800. [詩] thi 801. [葹] thi 802.[鉄] thiết 803. [覜] thiếu 804. [睒] thiểm 805. [僉] thiêm806. [签] thiêm 807. [搧] thiên 808. [話] thoại 809. [楸] thu810. [萩] thu 811. [揫] thu 812. [鹑] thuần 813. [楯] thuẫn814. [鉥] thuật 815. [蛻] thuế 816. [蜕] thuế 817. [跧] thuyên 818. [遄] thuyên 819. [輇] thuyên 820. [詮] thuyên821. [飔] ti 822. [楫] tiếp 823. [節] tiết 824. [楔] tiết 825.[尟] tiển 826. [跣] tiển 827. [筱] tiểu 828. [谫] tiễn 829.[剿] tiễu 830. [勦] tiễu 831. [楩] tiện 832. [羨] tiện, diên833. [睫] tiệp 834. [綅] tiêm, xâm 835. [跹] tiên 836. [僊] tiên 837. [椾] tiên 838. [煎] tiên, tiễn 839. [綃] tiêu 840.[翛] tiêu, dựu 841. [腥] tinh 842. [遂] toại 843. [碎] toái844. [筭] toán 845. [楂] tra 846. [裝] trang 847. [鲊] trả, trá848. [盞] trản 849. [龃] trở 850. [筯] trợ 851. [甀] trụy 852.[塚] trủng 853. [滁] trừ 854. [搽] trà 855. [腸] tràng, trường856. [搾] trá 857. [債] trái 858. [罩] tráo 859. [媰] trâu 860.[鄒] trâu 861. [馳] trì 862. [遅] trì 863. [裎] trình 864. [寘] trí 865. [置] trí 866. [谪] trích 867. [筹] trù 868. [稠] trù869. [跦] trù 870. [搥] trùy, đôi 871. [瘃] trúc 872. [溱] trăn873. [獉] trăn 874. [稚] trĩ 875. [跱] trĩ 876. [雉] trĩ 877.[廌] trĩ, trãi 878. [趍] tri, xu, xúc 879. [蜇] triết 880. [缠] triền 881. [瑑] triện 882. [禎] trinh 883. [遉] trinh 884. [楨] trinh 885. [誅] tru 886. [锱] truy 887. [葘] truy, tai 888.[傳] truyền, truyện, truyến 889. [馐] tu 890. [馴] tuần 891.[歲] tuế 892. [詢] tuân 893. [嵩] tung 894. [睢] tuy, huy895. [觜] tuy, tủy 896. [綏] tuy, thỏa, nhuy 897. [腺] tuyến898. [雋] tuyển, tuấn 899. [瑄] tuyên 900. [慍] uấn 901.[搵] uấn 902. [韫] uẩn 903. [雍] ung, ủng, úng 904. [葳] uy905. [畹] uyển 906. [鹓] uyên 907. [萬] vạn 908. [隕] vẫn, viên 909. [韵] vận 910. [運] vận 911. [彙] vị 912. [雾] vụ913. [罭] vực 914. [暈] vựng 915. [鄖] vân 916. [筼] vân917. [煒] vĩ 918. [韪] vĩ 919. [暐] vĩ 920. [葦] vĩ 921. [瑋] vĩ 922. [瑀] vũ 923. [鹉] vũ 924. [碔] vũ 925. [溦] vi 926.[違] vi 927. [微] vi 928. [瑗] viện 929. [鉞] việt 930. [粵] việt 931. [猿] viên 932. [園] viên 933. [圓] viên 934. [蛼] xa 935. [赪] xanh, trinh 936. [搉] xác, giác 937. [粲] xán938. [溴] xú 939. [触] xúc 940. [媸] xi 941. [嗤] xi 942.[椿] xuân, thung 943. [禕] y 944. [暍] yết 945. [罨] yểm, ấp946. [煙] yên 947. [禋] yên 948. [腰] yêu

14 NÉT

1. [嘤] anh 2. [缨] anh 3. [罂] anh 4. [撄] anh, oanh 5. [廕] ấm 6. [窨] ấm, huân 7. [隠] ẩn 8. [嫗] ẩu, ủ 9. [漚] ẩu, âu10. [嘔] ẩu, âu, hú 11. [瘗] ế 12. [蓊] ống, ông 13. [榲] ốt14. [稳] ổn 15. [膃] ột 16. [暧] ái 17. [靿] áo 18. [瘖] âm19. [慇] ân 20. [箪] đan 21. [遝] đạp 22. [誕] đản 23. [僤] đản, đàn 24. [骰] đầu 25. [凳] đắng 26. [蝃] đế 27. [禔] đề28. [遞] đệ, đái 29. [滌] địch 30. [翟] địch, trạch 31. [對] đối 32. [酴] đồ 33. [圖] đồ 34. [瘏] đồ 35. [銅] đồng 36.[僮] đồng, tráng 37. [睹] đổ 38. [慟] đỗng 39. [镀] độ 40.[碡] độc 41. [徳] đức 42. [臺] đài 43. [颱] đài, thai, di 44.[谭] đàm 45. [鞀] đào 46. [綯] đào 47. [靼] đát 48. [髧] đãm 49. [碭] đãng, nãng, nương 50. [嫡] đích 51. [蝀] đông52. [瑭] đường 53. [墊] điếm 54. [蒧] điểm 55. [碟] điệp56. [蜨] điệp 57. [槙] điên 58. [槇] điên 59. [蜩] điêu 60.[端] đoan 61. [奪] đoạt 62. [漙] đoàn 63. [慱] đoàn 64. [團] đoàn 65. [摶] đoàn, chuyên 66. [锻] đoán 67. [鞅] ưởng 68.[綳] banh 69. [箔] bạc 70. [鞄] bạc, bào 71. [粺] bại 72.[蒡] bảng 73. [牓] bảng 74. [榜] bảng 75. [凴] bằng 76. [箆] bề 77. [鄙] bỉ 78. [蒱] bồ 79. [蒲] bồ 80. [僕] bộc 81. [誖] bội 82. [蓓] bội 83. [箄] bài, tị, phỉ 84. [槃] bàn 85. [膀] bàng 86. [膊] bác 87. [駁] bác 88. [裨] bì, tì 89. [碧] bích90. [摒] bính 91. [餅] bính 92. [碰] bính 93. [酺] bô 94.[裴] bùi, bồi 95. [罴] bi 96. [裱] biểu 97. [辡] biện 98. [歌] ca 99. [槔] cao 100. [睾] cao 101. [膏] cao, cáo 102. [趕] cản 103. [境] cảnh 104. [槁] cảo 105. [槀] cảo 106. [構] cấu107. [觏] cấu 108. [遘] cấu 109. [賕] cầu 110. [馑] cận 111.[墐] cận 112. [廑] cận, cần 113. [僱] cố 114. [榖] cốc 115.[槓] cống 116. [榾] cốt 117. [蓇] cốt 118. [滚] cổn 119.[滾] cổn 120. [緄] cổn, hỗn 121. [愳] cụ 122. [跼] cục 123.[蒟] củ 124. [廄] cứu 125. [廏] cứu 126. [廐] cứu 127. [箇] cá 128. [閣] các 129. [榷] các, giác 130. [膈] cách 131. [槅] cách, hạch 132. [蓋] cái, hạp 133. [漑] cái, khái 134. [榦] cán, hàn 135. [誥] cáo 136. [閤] cáp, hợp 137. [箍] cô 138.[瑰] côi, khôi 139. [兢] căng 140. [寠] cũ 141. [窭] cũ, lũ142. [裾] cư, cứ 143. [綱] cương 144. [賑] chẩn 145. [製] chế 146. [種] chủng, chúng 147. [箠] chủy 148. [蜡] chá, lạp 149. [碪] châm 150. [甄] chân, chấn 151. [誌] chí 152.[疐] chí, đế 153. [摭] chích 154. [槌] chùy 155. [嶂] chướng 156. [鄣] chướng 157. [障] chướng 158. [嫜] chương 159. [慞] chương 160. [獐] chương 161. [彰] chương 162. [漳] chương 163. [蒸] chưng 164. [摺] chiệp, lạp 165. [榫] chuẩn 166. [赘] chuế 167. [綴] chuế, chuyết, xuyết 168. [锺] chung 169. [裰] chuyết, xuyết 170. [塼] chuyên 171. [誑] cuống 172. [躳] cung 173. [瑤] dao 174.[瑶] dao 175. [漾] dạng 176. [靾] dị 177. [蜴] dịch 178.[誘] dụ 179. [與] dữ, dự, dư 180. [蓣] dự 181. [滛] dâm182. [蝇] dăng 183. [瘐] dũ 184. [瘉] dũ 185. [慂] dũng186. [踊] dũng 187. [瘍] dương 188. [夤] di, dần 189. [酵] diếu 190. [演] diễn 191. [鳶] diên 192. [銚] diêu, điệu, điều193. [遙] diêu, dao 194. [遥] diêu, dao 195. [熔] dong 196.[墉] dong 197. [鄘] dong 198. [榕] dong 199. [蓉] dong, dung 200. [窬] du 201. [勩] duệ 202. [睿] duệ 203. [瑢] dung 204. [維] duy 205. [潍] duy 206. [嘉] gia 207. [稭] giai, kiết 208. [監] giam, giám 209. [鲛] giao 210. [槚] giả211. [榎] giả 212. [僩] giản, gián, nhàn 213. [鉸] giảo 214.[骱] giới 215. [誡] giới 216. [瑴] giác 217. [斠] giác 218.[餃] giáo 219. [蒿] hao 220. [嘐] hao, giao 221. [槛] hạm222. [暤] hạo 223. [鹖] hạt 224. [辖] hạt 225. [瘊] hầu 226.[睺] hầu 227. [禊] hễ 228. [熇] hốc, khảo 229. [誨] hối 230.[閧] hống 231. [鹕] hồ 232. [魂] hồn 233. [嘏] hỗ 234. [滬] hỗ 235. [慁] hỗn 236. [鄠] hộ 237. [腐] hủ, phụ 238. [滸] hử 239. [瘕] hà, gia 240. [銜] hàm 241. [豪] hào 242. [赫] hách 243. [阚] hám, giảm 244. [漢] hán 245. [鉶] hình 246.[覡] hích 247. [槐] hòe 248. [滹] hô 249. [嘑] hô, hố 250.[熊] hùng 251. [踁] hĩnh 252. [嘘] hư 253. [噓] hư 254.[餉] hướng 255. [髤] hưu 256. [熙] hi 257. [僖] hi 258. [豨] hi 259. [劃] hoạch 260. [熀] hoảng 261. [锾] hoàn 262. [瘓] hoán 263. [漶] hoán 264. [熒] huỳnh 265. [熏] huân 266.[蓟] kế 267. [暨] kị 268. [誋] kị 269. [跽] kị 270. [旗] kì271. [綦] kì 272. [蜞] kì 273. [墍] kí 274. [獍] kính 275.[慳] khan, san 276. [犒] khao 277. [榼] khạp 278. [锴] khải, hài 279. [慷] khảng 280. [骯] khảng 281. [銬] khảo 282.[緊] khẩn 283. [瘈] khế, xiết 284. [綮] khể, khính 285. [綺] khỉ, ỷ 286. [裹] khỏa 287. [颗] khỏa 288. [夥] khỏa 289.[酷] khốc 290. [愨] khác 291. [槩] khái 292. [嘅] khái 293.[魁] khôi 294. [箜] không 295. [蜣] khương 296. [箧] khiếp297. [锲] khiết 298. [朅] khiết 299. [歉] khiểm 300. [遣] khiển, khán 301. [搴] khiên 302. [輕] khinh 303. [蒯] khoái304. [駃] khoái, quyết 305. [彄] khu 306. [摳] khu 307. [嶇] khu 308. [廓] khuếch 309. [閨] khuê 310. [睽] khuê 311.[鲑] khuê, hài 312. [銎] khung 313. [箕] ki, cơ 314. [箝] kiềm 315. [碱] kiềm, thiêm 316. [僑] kiều 317. [竭] kiệt318. [榤] kiệt 319. [碣] kiệt, kệ 320. [蒹] kiêm 321. [箩] la322. [蓝] lam 323. [谰] lan 324. [瑯] lang 325. [雒] lạc 326.[犖] lạc 327. [辣] lạt 328. [辢] lạt 329. [瘌] lạt 330. [漏] lậu331. [蒞] lị 332. [厯] lịch 333. [歴] lịch 334. [蓏] lỏa 335.[裸] lỏa, khỏa 336. [滷] lỗ 337. [酹] lỗi 338. [漉] lộc 339.[緑] lục 340. [箓] lục 341. [綠] lục 342. [膂] lữ 343. [綹] lữu 344. [粼] lân 345. [漊] lâu 346. [嘍] lâu 347. [摟] lâu348. [罱] lãm 349. [綾] lăng 350. [領] lĩnh, lãnh 351. [嶁] lũ 352. [屢] lũ 353. [塿] lũ 354. [瘘] lũ 355. [镂] lũ 356.[緉] lưỡng 357. [撂] lược 358. [踉] lương, lượng 359. [畱] lưu 360. [飗] lưu 361. [遛] lưu 362. [榴] lưu, lựu 363. [蓠] li 364. [嫠] li 365. [貍] li, uất 366. [潋] liễm 367. [廖] liệu368. [奩] liêm 369. [漣] liên 370. [寥] liêu 371. [膋] liêu372. [僚] liêu 373. [骡] loa 374. [銮] loan 375. [綸] luân, quan 376. [缧] luy 377. [摩] ma 378. [麼] ma 379. [嘛] ma380. [麽] ma, yêu 381. [槑] mai 382. [馒] man 383. [缦] man, mạn 384. [髦] mao 385. [禡] mạ 386. [漠] mạc 387.[幙] mạc 388. [幕] mạc, mộ, mán 389. [摸] mạc, mô 390.[蓦] mạch 391. [墁] mạn 392. [嫚] mạn 393. [慢] mạn 394.[幔] mạn 395. [漫] mạn, man 396. [貌] mạo, mạc 397. [靺] mạt 398. [蜜] mật 399. [瞀] mậu 400. [寞] mịch 401. [墓] mộ 402. [夣] mộng 403. [夢] mộng, mông 404. [閩] mân405. [缪] mâu, cù, mậu, mục 406. [瑪] mã 407. [滿] mãn408. [艋] mãnh 409. [蜢] mãnh 410. [嫫] mô 411. [酶] môi412. [蒙] mông 413. [镁] mĩ 414. [瞄] miểu 415. [綿] miên416. [銘] minh 417. [蓂] minh 418. [鳴] minh 419. [暝] minh, mính 420. [嫩] nộn 421. [碯] não 422. [廒] ngao 423.[嗷] ngao 424. [獒] ngao 425. [嗸] ngao 426. [鹗] ngạc427. [锷] ngạc 428. [閡] ngại 429. [誤] ngộ 430. [寤] ngụ431. [僞] ngụy 432. [語] ngữ, ngứ 433. [銀] ngân 434. [鄞] ngân 435. [龈] ngân, khẩn 436. [漁] ngư 437. [蜺] nghê438. [疑] nghi 439. [酽] nghiệm 440. [僥] nghiêu, kiểu 441.[愿] nguyện 442. [碞] nham 443. [認] nhận 444. [馹] nhật445. [蓐] nhục 446. [爾] nhĩ 447. [酿] nhưỡng 448. [蒻] nhược 449. [髥] nhiêm 450. [需] nhu 451. [蜹] nhuế 452.[緌] nhuy, tuy 453. [寧] ninh, trữ 454. [窪] oa 455. [窩] oa456. [漥] oa 457. [潆] oanh, uynh 458. [綰] oản 459. [斡] oát, quản 460. [頗] pha, phả 461. [罰] phạt 462. [髣] phảng463. [韍] phất 464. [僨] phẫn 465. [翡] phỉ 466. [榧] phỉ467. [蜚] phỉ, phi 468. [谱] phổ, phả 469. [輔] phụ 470.[赙] phụ 471. [鳳] phụng, phượng 472. [頖] phán 473. [蜰] phì 474. [榑] phù 475. [緋] phi 476. [煽] phiến 477. [撇] phiết 478. [慓] phiếu 479. [骠] phiếu 480. [摽] phiếu, phiêu481. [缥] phiếu, phiêu 482. [閥] phiệt 483. [彯] phiêu 484.[嫖] phiêu 485. [漂] phiêu, phiếu 486. [瘋] phong 487. [鄜] phu 488. [孵] phu 489. [寡] quả 490. [蜾] quả 491. [粿] quả492. [管] quản 493. [嘓] quắc 494. [幗] quắc 495. [蝈] quắc496. [摑] quặc, quách 497. [匱] quỹ 498. [褂] quái 499.[鲙] quái, khoái 500. [慣] quán 501. [摜] quán 502. [皸] quân 503. [瞆] quý 504. [鴃] quyết 505. [劂] quyết 506.[蜷] quyền 507. [綣] quyển 508. [谲] quyệt 509. [摻] sam, tiêm, sảm, tham 510. [煼] sao 511. [僝] sạn, sàn 512. [塽] sảng 513. [滲] sấm 514. [潄] sấu, thấu 515. [漱] sấu, thấu516. [缫] sào, tảo 517. [嘖] sách, trách 518. [翣] sáp 519.[察] sát 520. [蒴] sóc 521. [槊] sóc, sáo 522. [閦] súc 523.[蓄] súc 524. [缩] súc 525. [銃] súng 526. [踈] sơ 527. [摴] sư 528. [暢] sướng 529. [锼] sưu 530. [飕] sưu 531. [蒐] sưu 532. [酾] si 533. [摛] si 534. [僎] soạn, tuân 535. [摔] suất 536. [榱] suy 537. [臧] tang 538. [榭] tạ 539. [冩] tả540. [糁] tảm 541. [髩] tấn 542. [殡] tấn, thấn 543. [嗶] tất544. [漆] tất, thế 545. [鲟] tầm 546. [寢] tẩm 547. [膑] tẫn, bận 548. [盡] tận, tẫn 549. [嶍] tập 550. [蒺] tật 551. [鲗] tặc 552. [際] tế 553. [漈] tế 554. [齊] tề, tư, trai, tễ 555.[霁] tễ 556. [鲚] tễ 557. [屣] tỉ, xí 558. [鼻] tị, tì 559. [蓆] tịch 560. [獕] tỏa 561. [瑣] tỏa 562. [膆] tố 563. [遡] tố564. [愬] tố, sách 565. [觫] tốc 566. [綷] tối, túy 567. [遜] tốn 568. [粽] tống 569. [綜] tống, tông 570. [摧] tồi, tỏa571. [憁] tổng 572. [総] tổng 573. [摠] tổng 574. [聚] tụ575. [誦] tụng 576. [熄] tức 577. [慈] từ 578. [甆] từ 579.[磁] từ 580. [漵] tự 581. [緒] tự 582. [僦] tựu 583. [慚] tàm584. [漕] tào 585. [嘈] tào 586. [赛] tái, trại 587. [颯] táp588. [槟] tân 589. [賔] tân 590. [賓] tân, thấn 591. [漬] tí592. [蜥] tích 593. [裼] tích, thế 594. [滴] tích, trích 595.[蓀] tôn 596. [粹] túy, toái 597. [僧] tăng 598. [增] tăng599. [増] tăng 600. [静] tĩnh 601. [鹚] tư 602. [凘] tư 603.[厮] tư 604. [镃] tư 605. [孶] tư, tứ 606. [墙] tường 607.[嫱] tường 608. [獎] tưởng 609. [鲞] tưởng 610. [奬] tưởng611. [像] tượng 612. [蒋] tương, tưởng 613. [緅] tưu 614.[滫] tưu 615. [賖] tha 616. [韬] thao 617. [碩] thạc 618.[綵] thải 619. [慘] thảm 620. [嗽] thấu 621. [漘] thần 622.[實] thật, thực 623. [誓] thệ 624. [壽] thọ 625. [嗾] thốc626. [腿] thối 627. [綬] thụ 628. [塾] thục 629. [睡] thụy630. [龇] thử, sài 631. [墅] thự 632. [誠] thành 633. [箨] thác 634. [態] thái 635. [嘆] thán 636. [碳] thán 637. [慥] tháo 638. [榻] tháp 639. [漯] tháp 640. [遢] tháp 641. [蒔] thì, thi 642. [嘁] thích 643. [聡] thông 644. [骢] thông 645.[銖] thù 646. [翠] thúy 647. [裳] thường 648. [嘗] thường649. [嫦] thường 650. [瑲] thương 651. [锵] thương 652.[戧] thương, sang 653. [槍] thương, sanh 654. [蒼] thương, thưởng 655. [蓍] thi 656. [鳲] thi 657. [蒨] thiến 658. [瑱] thiến, trấn 659. [僣] thiết 660. [蝉] thiền 661. [韶] thiều662. [舔] thiểm 663. [餂] thiểm 664. [锹] thiêu 665. [蓑] thoa, toa, tuy 666. [畽] thoản 667. [瞅] thu 668. [蒓] thuần669. [踆] thuân, tồn 670. [摏] thung 671. [慵] thung, dong, dung 672. [説] thuyết, duyệt, thuế 673. [說] thuyết, duyệt, thuế 674. [銓] thuyên 675. [罳] ti 676. [僭] tiếm 677. [誚] tiếu 678. [谯] tiếu 679. [戩] tiển 680. [戬] tiển 681. [銑] tiển 682. [塹] tiệm 683. [嶄] tiệm, sàm 684. [漸] tiệm, tiêm, tiềm 685. [箑] tiệp 686. [截] tiệt 687. [銛] tiêm 688. [箋] tiên 689. [鲜] tiên, tiển 690. [潇] tiêu 691. [箫] tiêu 692.[僬] tiêu 693. [精] tinh 694. [蜻] tinh 695. [酸] toan 696.[算] toán 697. [蒜] toán 698. [碴] tra 699. [槎] tra 700. [箏] tranh 701. [寨] trại 702. [谮] trấm, tiếm 703. [塵] trần 704.[馽] trập 705. [滯] trệ 706. [硾] trụy 707. [甃] trứu 708.[箒] trửu, chửu 709. [塲] tràng 710. [榨] trá 711. [斲] trác712. [箦] trách 713. [幘] trách 714. [赚] trám 715. [綻] trán716. [箚] tráp 717. [锸] tráp 718. [劄] tráp 719. [箎] trì 720.[墀] trì 721. [酲] trình 722. [摘] trích 723. [踌] trù 724. [裯] trù, đao 725. [綢] trù, thao 726. [榛] trăn 727. [蓁] trăn 728.[幛] trướng 729. [漲] trướng 730. [徴] trưng, chủy, trừng731. [蜘] tri 732. [輒] triếp 733. [颭] triển 734. [辗] triển, niễn 735. [慴] triệp, điệp 736. [趙] triệu 737. [肇] triệu 738.[肈] triệu 739. [緇] truy 740. [綫] tuyến 741. [漩] tuyền742. [踅] tuyệt, thệ 743. [嘒] uế 744. [氳] uân 745. [氲] uân746. [蜿] uyển 747. [殞] vẫn 748. [蜼] vị, dữu 749. [鹜] vụ750. [緎] vực 751. [蜮] vực, quắc 752. [輓] vãn 753. [網] võng 754. [聞] văn, vấn 755. [鲔] vĩ 756. [舞] vũ 757. [遠] viễn 758. [辕] viên 759. [榮] vinh 760. [誣] vu 761. [賒] xa762. [敲] xao 763. [綽] xước 764. [厰] xưởng 765. [稱] xưng, xứng 766. [旖] y 767. [漪] y 768. [厭] yếm, áp, yêm, ấp 769. [嫣] yên 770. [鄢] yên, yển

15 NÉT

1. [鞍] an, yên 2. [璎] anh 3. [樱] anh 4. [甇] anh 5. [影] ảnh 6. [蔭] ấm, âm 7. [毆] ẩu 8. [噎] ế 9. [瘞] ế 10. [鋈] ốc11. [諉] ủy 12. [磈] ủy 13. [億] ức 14. [噁] ác, ố 15. [蔼] ái16. [僾] ái 17. [頞] át 18. [歐] âu, ẩu 19. [瘟] ôn 20. [慰] úy, ủy 21. [蔚] úy, uất 22. [儋] đam 23. [鄲] đan 24. [凙] đạc25. [噉] đạm 26. [憚] đạn 27. [撣] đạn, đàn 28. [彈] đạn, đàn 29. [稻] đạo 30. [導] đạo 31. [踏] đạp 32. [镋] đảng 33.[鋀] đậu 34. [嶝] đặng 35. [鄧] đặng 36. [締] đế 37. [慸] đế38. [蔕] đế 39. [緹] đề 40. [题] đề 41. [銻] đễ 42. [遰] đệ, thệ 43. [墬] địa 44. [敵] địch 45. [踧] địch, túc 46. [墯] đọa47. [墮] đọa, huy 48. [隤] đồi 49. [魨] đồn 50. [獞] đồng51. [潼] đồng 52. [遯] độn 53. [德] đức 54. [駝] đà, trì 55.[駘] đài, đãi 56. [潭] đàm 57. [憛] đàm 58. [談] đàm 59.[醄] đào 60. [瘩] đáp 61. [撘] đáp 62. [霆] đình 63. [嘟] đô64. [墩] đôn 65. [鋌] đĩnh, thính 66. [鲦] điều 67. [調] điều, điệu 68. [踮] điểm 69. [蔦] điểu 70. [覥] điễn 71. [蝶] điệp72. [蓧] điệu, thiểu, địch, 73. [瘨] điên 74. [緞] đoạn 75.[箹] ước 76. [憂] ưu 77. [嶓] ba 78. [瘢] ban 79. [褒] bao, bầu 80. [暴] bạo, bộc 81. [魃] bạt 82. [緥] bảo 83. [褓] bảo84. [鴇] bảo 85. [蔔] bặc, bốc 86. [骳] bị 87. [輩] bối 88.[鋇] bối 89. [褙] bối 90. [賠] bồi 91. [蓬] bồng 92. [餑] bột93. [蝠] bức 94. [鄱] bà 95. [盤] bàn 96. [磐] bàn 97. [镑] bàng, bảng 98. [磅] bàng, bảng 99. [澎] bành 100. [播] bá, bả 101. [镈] bác 102. [霈] bái 103. [撥] bát 104. [潑] bát105. [罷] bãi, bì 106. [輧] bình 107. [蓱] bình 108. [頩] bình 109. [瘪] biết, tất 110. [緶] biền 111. [麃] biều, bào112. [褊] biển 113. [彆] biệt 114. [編] biên 115. [蝙] biên, biển 116. [賡] canh 117. [槹] cao 118. [憬] cảnh 119. [儆] cảnh 120. [稾] cảo 121. [稿] cảo 122. [噙] cầm 123. [璆] cầu 124. [瑾] cẩn 125. [觐] cận 126. [槿] cận 127. [殣] cận128. [穀] cốc 129. [鹘] cốt, hốt 130. [鲧] cổn 131. [鞏] củng 132. [踞] cứ 133. [緱] câu 134. [駒] câu 135. [褌] côn136. [樛] cù 137. [窮] cùng 138. [踘] cúc 139. [緪] căng, cánh 140. [僵] cương 141. [震] chấn 142. [質] chất, chí143. [稹] chẩn 144. [整] chỉnh 145. [嘴] chủy 146. [翥] chứ147. [箴] châm 148. [禛] chân 149. [觯] chí 150. [摯] chí151. [澍] chú 152. [嘱] chúc 153. [樟] chương 154. [璋] chương 155. [谵] chiêm, thiềm 156. [賙] chu 157. [諄] chuân 158. [蔠] chung 159. [醊] chuyết 160. [颛] chuyên161. [磗] chuyên 162. [樣] dạng 163. [熠] dập, tập 164.[镒] dật 165. [黓] dặc 166. [慾] dục 167. [槱] dửu 168. [窳] dũ 169. [牖] dũ, dữu 170. [養] dưỡng, dượng 171. [鹞] diêu172. [窰] diêu 173. [窯] diêu 174. [镕] dong, dung 175. [蝣] du 176. [褕] du 177. [蝓] du 178. [諛] du 179. [銳] duệ, nhuệ 180. [鋭] duệ, nhuệ 181. [閱] duyệt 182. [閲] duyệt183. [緣] duyên 184. [緘] giam 185. [膠] giao 186. [澗] giản 187. [噛] giảo 188. [遮] già 189. [稼] giá 190. [駕] giá191. [蔗] giá 192. [價] giá, giới 193. [鹤] hạc 194. [撖] hạm195. [暭] hạo 196. [皞] hạo 197. [皜] hạo, cảo 198. [镐] hạo, cảo 199. [瞎] hạt 200. [褐] hạt, cát 201. [蝎] hạt, hiết202. [噏] hấp 203. [篌] hầu 204. [糇] hầu 205. [澒] hống206. [蝴] hồ 207. [衚] hồ 208. [糊] hồ 209. [鳸] hỗ 210.[槲] hộc 211. [潰] hội 212. [憒] hội 213. [聩] hội 214. [鄦] hứa 215. [蝦] hà 216. [鞋] hài 217. [頦] hài 218. [嘷] hào219. [諕] hách, hào 220. [暵] hán 221. [銲] hãn 222. [熯] hãn 223. [戱] hí 224. [戯] hí 225. [踝] hõa, khỏa 226. [嘻] hi 227. [嬉] hi 228. [賢] hiền 229. [勰] hiệp 230. [撷] hiệt231. [頡] hiệt, kiết 232. [嘵] hiêu 233. [嘩] hoa 234. [潢] hoàng 235. [篁] hoàng 236. [蝗] hoàng 237. [横] hoành, hoạnh, quáng 238. [緩] hoãn 239. [魆] huất 240. [勲] huân241. [翬] huy 242. [撝] huy 243. [辉] huy 244. [麾] huy245. [輝] huy 246. [褘] huy, y 247. [儇] huyên 248. [嘰] kỉ249. [踦] kỉ, kì, khi 250. [劇] kịch 251. [稽] kê, khể 252.[畿] kì 253. [撃] kích 254. [瞌] khạp 255. [撳] khấm 256.[蔻] khấu 257. [憇] khế 258. [閫] khổn 259. [慤] khác 260.[磕] khái 261. [慶] khánh, khương, khanh 262. [靠] kháo, khốc 263. [噐] khí 264. [課] khóa 265. [骷] khô 266. [墟] khư 267. [篋] khiếp 268. [潔] khiết 269. [嘯] khiếu 270.[谴] khiển 271. [撬] khiêu 272. [蝌] khoa 273. [寬] khoan274. [駈] khu 275. [敺] khu 276. [劎] kiếm 277. [劍] kiếm278. [嬌] kiều 279. [儉] kiệm 280. [鋏] kiệp 281. [撟] kiệu, kiểu 282. [嶠] kiệu, kiêu 283. [鹣] kiêm 284. [儌] kiêu 285.[憍] kiêu 286. [澆] kiêu, nghiêu 287. [澜] lan 288. [鋃] lang289. [嘮] lao 290. [撈] lao, liệu 291. [潦] lạo, lao 292. [澇] lạo, lão, lao 293. [凛] lẫm 294. [凜] lẫm 295. [蔺] lận 296.[厲] lệ, lại 297. [魯] lỗ 298. [噜] lỗ, rô 299. [磊] lỗi 300.[潞] lộ 301. [辘] lộc 302. [醁] lục 303. [戮] lục 304. [鋁] lữ305. [罶] lữu 306. [慮] lự, lư 307. [澑] lựu 308. [瘤] lựu309. [鄰] lân 310. [嶙] lân 311. [潾] lân 312. [樓] lâu 313.[蔞] lâu 314. [蝼] lâu 315. [篓] lâu, lũ 316. [賚] lãi 317.[閬] lãng 318. [獠] lão, liêu 319. [黎] lê 320. [鲤] lí 321.[履] lí 322. [畾] lôi, lũy 323. [蔆] lăng 324. [輘] lăng 325.[屦] lũ 326. [褛] lũ 327. [閭] lư 328. [輛] lượng 329. [諒] lượng 330. [樑] lương 331. [鹠] lưu 332. [劉] lưu 333. [氂] li 334. [鲡] li 335. [璃] li 336. [璉] liễn 337. [輦] liễn 338.[缭] liễu 339. [憭] liễu, liêu 340. [嘹] liệu 341. [蓼] liệu, lục 342. [蔹] liêm 343. [匳] liêm 344. [蓮] liên 345. [聫] liên 346. [槤] liên 347. [噒] liên 348. [鲢] liên 349. [憐] liên, lân 350. [寮] liêu 351. [嫽] liêu 352. [撩] liêu, liệu353. [論] luận, luân 354. [輪] luân 355. [蔂] luy 356. [練] luyện 357. [鋝] luyệt 358. [蔴] ma 359. [樠] man 360. [瞒] man, môn 361. [鋩] mang 362. [蝱] manh 363. [犛] mao, li364. [罵] mạ 365. [勱] mại 366. [賣] mại 367. [熳] mạn368. [蔓] mạn, man 369. [憫] mẫn 370. [僶] mẫn 371. [墨] mặc 372. [嘿] mặc, hắc 373. [瞇] mị 374. [魅] mị 375. [鼏] mịch 376. [暮] mộ 377. [慕] mộ 378. [霂] mộc 379. [緡] mân 380. [蝥] mâu, mao 381. [碼] mã 382. [模] mô 383.[摹] mô 384. [膜] mô, mạc 385. [霉] môi 386. [嬍] mĩ 387.[麫] miến 388. [麪] miến 389. [廟] miếu 390. [緲] miểu, diểu 391. [緬] miễn, diến 392. [蔑] miệt 393. [緜] miên394. [瞑] minh, miễn 395. [蝻] nam 396. [撓] nạo 397. [暱] nật 398. [鬧] náo 399. [鼐] nãi 400. [駑] nô 401. [儂] nông, nùng 402. [皚] ngai 403. [熬] ngao 404. [遨] ngao 405. [璈] ngao 406. [颚] ngạc 407. [额] ngạch 408. [磑] ngại, cai 409.[鲠] ngạnh 410. [耦] ngẫu 411. [龉] ngữ 412. [鋙] ngữ 413.[誾] ngân 414. [瘧] ngược 415. [蓺] nghệ 416. [誼] nghị417. [毅] nghị 418. [鹢] nghịch 419. [輗] nghê 420. [儀] nghi 421. [谳] nghiện 422. [摰] nghiệt 423. [揅] nghiên424. [嶢] nghiêu 425. [翫] ngoạn 426. [颙] ngung 427. [鴉] nha 428. [颜] nhan 429. [樂] nhạc, lạc, nhạo 430. [鴈] nhạn431. [餌] nhị 432. [糅] nhữu 433. [嫺] nhàn 434. [嫻] nhàn435. [箬] nhược 436. [镊] nhiếp 437. [熱] nhiệt 438. [髯] nhiêm 439. [嬈] nhiêu, nhiễu, liểu 440. [潤] nhuận 441.[蝡] nhuyễn 442. [镍] niết 443. [碾] niễn, chiển 444. [撵] niện 445. [慹] niệp, triệp 446. [撚] niên, niễn, nhiên 447.[蝸] oa 448. [豌] oản 449. [瑩] oánh 450. [潘] phan 451.[範] phạm 452. [髴] phất 453. [踣] phấu, bặc 454. [幩] phần 455. [墳] phần, phẫn, bổn 456. [憤] phẫn, phấn 457.[廢] phế 458. [誹] phỉ 459. [幞] phốc 460. [諩] phổ 461.[駙] phụ, phò 462. [撫] phủ, mô 463. [頫] phủ, thiếu 464.[複] phức 465. [撲] phác, bạc, phốc 466. [劈] phách 467.[魄] phách, bạc, thác 468. [髮] phát 469. [褔] phó 470. [舖] phô 471. [鋪] phô, phố 472. [醅] phôi 473. [賦] phú 474.[蝮] phúc 475. [噴] phún, phôn 476. [魴] phường 477. [墦] phiền 478. [樊] phiền, phàn 479. [翩] phiên 480. [幡] phiên, phan 481. [膘] phiêu 482. [飘] phiêu 483. [鋒] phong 484.[敷] phu 485. [麩] phu 486. [膚] phu 487. [瘝] quan 488.[輠] quả 489. [廣] quảng, quáng 490. [虢] quắc, quách 491.[劌] quế 492. [篑] quỹ 493. [槨] quách 494. [儈] quái 495.[劊] quái 496. [颳] quát 497. [熲] quýnh 498. [敻] quýnh, huyến 499. [嬀] quy 500. [槼] quy 501. [鴂] quyết 502. [噘] quyết 503. [獗] quyết, quệ 504. [踡] quyền 505. [権] quyền506. [撅] quyệt, quệ, quyết 507. [駉] quynh 508. [鲨] sa509. [潸] san 510. [瘡] sang 511. [撑] sanh 512. [撐] sanh513. [瘦] sấu 514. [僽] sậu 515. [蔷] sắc, tường 516. [蝨] sắt 517. [蓰] sỉ 518. [儍] sọa 519. [數] sổ, số, sác, xúc 520.[鋤] sừ 521. [駛] sử 522. [潺] sàn 523. [澁] sáp 524. [賝] sâm 525. [蔘] sâm, tam 526. [瞋] sân 527. [蔬] sơ 528. [樗] sư 529. [諂] siểm 530. [馔] soạn 531. [撰] soạn, tuyển, chuyển 532. [牕] song 533. [憧] sung 534. [瘥] ta, sái 535.[毿] tam 536. [遭] tao 537. [槧] tạm 538. [暫] tạm 539. [寫] tả 540. [馓] tản 541. [磉] tảng 542. [駔] tảng, tổ 543. [镔] tấn 544. [膝] tất 545. [蓽] tất 546. [潯] tầm 547. [鋟] tẩm, tiêm 548. [瞍] tẩu 549. [緝] tập 550. [稷] tắc 551. [層] tằng552. [嶒] tằng 553. [幣] tệ 554. [弊] tệ, tế 555. [靚] tịnh, tĩnh 556. [璅] tỏa 557. [銼] tỏa 558. [蔌] tốc 559. [誶] tối560. [噀] tốn 561. [糉] tống 562. [噂] tổn 563. [撙] tỗn 564.[褏] tụ 565. [褎] tụ, hựu 566. [駟] tứ 567. [賜] tứ 568. [蝍] tức 569. [鲫] tức 570. [瘜] tức 571. [辤] từ 572. [慙] tàm573. [槽] tào 574. [儎] tái 575. [僿] tái 576. [賛] tán 577.[撒] tát, tản 578. [鋅] tân 579. [賫] tê 580. [嘶] tê 581. [樨] tê 582. [齑] tê 583. [髭] tì 584. [踖] tích 585. [僻] tích 586.[鹡] tích 587. [瘠] tích 588. [潟] tích 589. [蝤] tù, tưu, du590. [銹] tú 591. [蓿] túc 592. [槭] túc, sắc 593. [慫] túng594. [醉] túy 595. [缯] tăng 596. [憎] tăng 597. [餈] tư 598.[糈] tư 599. [廝] tư 600. [樯] tường 601. [槳] tưởng 602.[漿] tương 603. [螀] tương 604. [緗] tương 605. [箱] tương, sương 606. [蔣] tương, tưởng 607. [諏] tưu 608. [磋] tha609. [瘫] than 610. [膛] thang 611. [撡] thao 612. [踩] thải613. [憯] thảm 614. [躺] thảng 615. [趟] thảng, tranh 616.[鴄] thất 617. [審] thẩm 618. [諗] thẩm 619. [慝] thắc 620.[殢] thế 621. [請] thỉnh, tình 622. [夀] thọ 623. [醋] thố, tạc624. [蔟] thốc, thấu 625. [豎] thụ 626. [熟] thục 627. [艏] thủ 628. [觑] thứ 629. [蝕] thực 630. [蔡] thái, sái, tát 631.[歎] thán 632. [鞑] thát 633. [鲥] thì 634. [慼] thích 635.[踢] thích 636. [奭] thích 637. [適] thích, đích 638. [麄] thô639. [璀] thôi 640. [蓷] thôi 641. [蔥] thông 642. [聪] thông643. [誰] thùy 644. [趣] thú, xúc 645. [賞] thưởng 646. [殤] thương 647. [踥] thiếp 648. [嬋] thiền 649. [髫] thiều 650.[缮] thiện 651. [鄯] thiện 652. [墡] thiện 653. [墠] thiện654. [篇] thiên 655. [撺] thoán 656. [蓴] thuần 657. [醇] thuần 658. [膞] thuần, thuyền 659. [蓯] thung 660. [樁] thung, chang, trang 661. [緦] ti 662. [澌] ti, tê 663. [撕] ti, tê 664. [禠] ti, tư 665. [緤] tiết 666. [噍] tiếu 667. [潜] tiềm668. [潛] tiềm 669. [憔] tiều 670. [箲] tiển 671. [翦] tiễn672. [踐] tiễn 673. [箭] tiễn 674. [賤] tiện 675. [屧] tiệp676. [蔪] tiêm, sam 677. [箯] tiên 678. [熛] tiêu 679. [銷] tiêu 680. [霄] tiêu 681. [標] tiêu, phiêu 682. [潁] toánh, dĩnh 683. [嘬] toát 684. [撮] toát 685. [樝] tra 686. [醆] trản687. [镇] trấn 688. [鴆] trậm 689. [踯] trịch 690. [鄭] trịnh691. [墜] trụy 692. [箸] trứ, trợ 693. [皺] trứu 694. [澄] trừng 695. [澂] trừng 696. [褚] trữ 697. [膓] tràng 698. [噇] tràng 699. [撞] tràng 700. [幢] tràng 701. [嘲] trào 702.[諑] trác 703. [踔] trác, xước 704. [磔] trách, trích 705. [諍] tránh 706. [霅] tráp, sáp 707. [踟] trì 708. [緻] trí 709. [踬] trí 710. [廚] trù 711. [駐] trú 712. [稺] trĩ 713. [橥] trư 714.[潴] trư 715. [賬] trướng 716. [徵] trưng, chủy, trừng 717.[輙] triếp 718. [廛] triền 719. [潮] triều 720. [篆] triện 721.[徹] triệt 722. [撤] triệt 723. [澈] triệt 724. [撏] triêm 725.[輜] truy 726. [嬃] tu 727. [餕] tuấn 728. [儁] tuấn 729.[槥] tuệ 730. [慧] tuệ, huệ 731. [踪] tung 732. [賨] tung733. [樅] tung 734. [線] tuyến 735. [璇] tuyền 736. [镌] tuyên 737. [熨] uất, úy 738. [踠] uyển 739. [衛] vệ 740.[蝟] vị 741. [輞] võng 742. [緯] vĩ 743. [嫵] vũ 744. [憮] vũ, hủ 745. [廡] vũ, vu 746. [魷] vưu 747. [蝯] viên 748.[蝾] vinh 749. [撦] xả 750. [齒] xỉ 751. [確] xác 752. [幟] xí 753. [龊] xúc 754. [廠] xưởng 755. [瘛] xiết, khiết 756.[樞] xu 757. [憃] xuẩn 758. [衝] xung 759. [瑽] xung 760.[輟] xuyết, chuyết 761. [餍] yếm 762. [靥] yếp 763. [羯] yết 764. [蝘] yển 765. [醃] yêm

16 NÉT

1. [噯] ai 2. [諳] am 3. [盦] am 4. [瘿] anh 5. [鹦] anh 6.[縊] ải 7. [瘾] ẩn 8. [瞖] ế 9. [殪] ế 10. [擁] ủng 11. [壅] ủng, ung 12. [憶] ức 13. [嬡] ái 14. [懊] áo 15. [澳] áo, úc16. [鴨] áp 17. [閼] át, yên 18. [甌] âu 19. [曀] ê 20. [鹥] ê21. [蕰] ôn, uẩn 22. [縕] ôn, uân, uẩn 23. [螉] ông 24. [噢] úc, ủ 25. [隩] úc, áo 26. [擔] đam, đảm 27. [踱] đạc 28. [禫] đạm 29. [澹] đạm, đam 30. [亸] đả 31. [頭] đầu 32. [餖] đậu 33. [縢] đằng 34. [螣] đằng, đặc 35. [諦] đế, đề 36. [蹄] đề 37. [踶] đệ, trĩ, trì 38. [螙] đố 39. [篤] đốc 40. [噸] đốn41. [頽] đồi 42. [頹] đồi 43. [頺] đồi 44. [曈] đồng 45. [橦] đồng, tràng 46. [賭] đổ 47. [覩] đổ 48. [懂] đổng 49. [憝] đỗi 50. [獨] độc 51. [鮀] đà 52. [鴕] đà 53. [儓] đài, thải 54.[曇] đàm 55. [壇] đàn 56. [殫] đàn, đạn 57. [擋] đáng, đảng58. [褡] đáp 59. [蕩] đãng, đảng 60. [镝] đích 61. [燉] đôn, đốn 62. [燈] đăng 63. [錠] đĩnh 64. [糖] đường 65. [螗] đường 66. [噹] đương, đang, đáng 67. [靦] điến 68. [澱] điến 69. [窵] điếu 70. [靛] điện 71. [諜] điệp 72. [蹀] điệp73. [颠] điên 74. [鲷] điêu 75. [雕] điêu 76. [毈] đoạn 77.[糐] đoàn 78. [踹] đoán 79. [鴦] ương 80. [憊] bại 81. [辦] bạn, biện 82. [憑] bằng, bẵng 83. [嬖] bế 84. [篦] bề 85.[擗] bịch, tịch, phích 86. [螃] bàng 87. [膨] bành 88. [鮑] bào 89. [麅] bào 90. [駮] bác 91. [鮁] bát, phệ 92. [糒] bí93. [壁] bích 94. [餔] bô 95. [駢] biền 96. [瓢] biều 97. [諞] biển 98. [飚] biểu 99. [錶] biểu 100. [辩] biện 101. [辨] biện, biến 102. [憋] biệt 103. [蹁] biên 104. [篙] cao 105.[翱] cao 106. [糕] cao 107. [橰] cao 108. [橄] cảm 109.[頸] cảnh 110. [璟] cảnh 111. [縞] cảo 112. [噤] cấm 113.[擒] cầm 114. [錦] cẩm 115. [錮] cố 116. [踽] củ 117. [鋸] cứ 118. [據] cứ 119. [蕖] cừ 120. [鼽] cừu 121. [舉] cử 122.[翮] cách 123. [骼] cách 124. [澣] cán 125. [噶] cát 126.[獦] cát, liệp, hát 127. [篝] câu 128. [鴣] cô 129. [鲲] côn130. [鴝] cù 131. [窶] cũ, lũ 132. [機] cơ, ki 133. [彊] cường, cưỡng, cương 134. [噱] cược 135. [鋼] cương 136.[缰] cương 137. [縝] chẩn 138. [麈] chủ 139. [踵] chủng140. [樴] chức 141. [鹧] chá, gia 142. [錐] chùy 143. [錘] chùy 144. [諸] chư, gia 145. [缴] chước, kiểu 146. [瘴] chướng 147. [戰] chiến 148. [曌] chiếu 149. [鲭] chinh, thinh 150. [竱] chuyển 151. [磚] chuyên 152. [甎] chuyên153. [艗] dật 154. [嶧] dịch 155. [懌] dịch 156. [諭] dụ 157.[澦] dự 158. [豫] dự, tạ 159. [穎] dĩnh 160. [頴] dĩnh 161.[踴] dũng 162. [舆] dư 163. [餘] dư 164. [篗] dược 165.[頤] di 166. [遺] di, dị 167. [燄] diễm 168. [燁] diệp 169.[曄] diệp 170. [閻] diêm 171. [嬴] doanh 172. [镛] dong173. [覦] du 174. [踰] du 175. [輶] du 176. [蕕] du 177.[遹] duật 178. [叡] duệ 179. [融] dung, dong 180. [橼] duyên 181. [蕑] gian 182. [赭] giả 183. [懈] giải 184. [嶰] giải 185. [廨] giải, giới 186. [獬] giải, hải 187. [韰] giới188. [諫] gián 189. [頰] giáp 190. [頷] hạm 191. [皡] hạo192. [澥] hải, giải 193. [歙] hấp, thiệp 194. [學] học 195.[頮] hối 196. [鬨] hống 197. [歘] hốt 198. [醐] hồ 199. [縠] hộc 200. [諧] hài 201. [骸] hài 202. [憨] hàm 203. [翰] hàn204. [衡] hành, hoành 205. [鴞] hào 206. [撼] hám 207.[憾] hám 208. [駭] hãi 209. [憙] hí 210. [膴] hô, vũ 211.[閽] hôn 212. [諱] húy 213. [歔] hư 214. [興] hưng, hứng215. [髹] hưu 216. [羲] hi 217. [熹] hi 218. [憲] hiến 219.[險] hiểm 220. [嶮] hiểm 221. [獫] hiểm 222. [曉] hiểu223. [樺] hoa 224. [霍] hoắc 225. [褱] hoài 226. [寰] hoàn227. [擐] hoàn 228. [阛] hoàn 229. [璜] hoàng 230. [熿] hoàng 231. [橫] hoành, hoạnh 232. [缳] hoán 233. [擕] huề234. [蕙] huệ 235. [螢] huỳnh 236. [勳] huân 237. [縣] huyền, huyện 238. [諠] huyên 239. [諼] huyên 240. [髻] kế, kết, cát 241. [曁] kị 242. [蕲] kì 243. [鲸] kình 244. [冀] kí245. [擊] kích 246. [激] kích 247. [墼] kích 248. [镜] kính249. [錡] kĩ, ki 250. [諶] kham 251. [穅] khang 252. [墾] khẩn 253. [憩] khế 254. [褲] khố 255. [糗] khứu 256. [磬] khánh 257. [器] khí 258. [髷] khúc 259. [噭] khiếu 260.[歗] khiếu 261. [缱] khiển 262. [褰] khiên 263. [橇] khiêu264. [噲] khoái, hồi 265. [蕈] khuẩn 266. [窺] khuy 267.[璣] ki 268. [劔] kiếm 269. [徼] kiếu, kiêu, yêu 270. [黔] kiềm 271. [蕎] kiều 272. [橋] kiều, khiêu, cao 273. [撿] kiểm 274. [縑] kiêm 275. [篮] lam 276. [褴] lam 277. [斓] lan 278. [螂] lang 279. [駱] lạc 280. [賴] lại 281. [濑] lại282. [遴] lấn, lân 283. [懍] lẫm 284. [壈] lẫm 285. [廩] lẫm286. [懔] lẫm 287. [廪] lẫm 288. [篥] lật 289. [澧] lễ 290.[隷] lệ 291. [歷] lịch 292. [曆] lịch 293. [壢] lịch 294. [磠] lỗ 295. [橹] lỗ 296. [擄] lỗ 297. [瘰] lỗi, lõa 298. [璐] lộ299. [録] lục 300. [錄] lục 301. [霖] lâm 302. [燐] lân 303.[辚] lân 304. [覧] lãm 305. [懒] lãn, lại 306. [蔾] lê 307.[盧] lô, lư 308. [擂] lôi, lụy 309. [鲮] lăng 310. [瘺] lũ 311.[瘻] lũ 312. [镠] lưu 313. [橊] lưu, lựu 314. [罹] li, duy315. [燎] liệu 316. [濂] liêm 317. [遼] liêu 318. [橑] liêu319. [鴒] linh 320. [龍] long, sủng 321. [磨] ma, má 322.[颟] man 323. [镘] man 324. [鞔] man 325. [瞞] man, môn326. [儚] manh 327. [甍] manh 328. [駡] mạ 329. [瘼] mạc330. [錳] mạnh 331. [默] mặc 332. [冪] mịch 333. [穆] mục, mặc 334. [螞] mã 335. [橅] mô 336. [穈] môn 337.[瞢] măng 338. [謀] mưu 339. [貓] miêu 340. [螟] minh341. [燜] muộn 342. [諵] nam 343. [褦] nại 344. [橈] nạo, nhiêu 345. [耨] nậu 346. [諾] nặc 347. [膩] nị, nhị 348. [餒] nỗi 349. [燙] nãng 350. [噥] nông 351. [憹] nông, não 352.[濃] nùng 353. [嬢] nương 354. [餓] ngạ 355. [噩] ngạc356. [諤] ngạc 357. [諺] ngạn 358. [憗] ngận 359. [憖] ngận 360. [諢] ngộn 361. [禦] ngự 362. [凝] ngưng 363.[鲵] nghê 364. [霓] nghê 365. [儗] nghĩ 366. [螘] nghĩ 367.[鄴] nghiệp 368. [螈] nguyên 369. [樲] nhị 370. [橤] nhị371. [蕊] nhị 372. [蕋] nhị 373. [劓] nhị, tị 374. [輮] nhụ375. [褥] nhục 376. [縟] nhục 377. [蹂] nhựu, nhu 378. [駰] nhân 379. [駬] nhĩ 380. [氄] nhũng 381. [篛] nhược 382.[颞] nhiếp 383. [遶] nhiễu 384. [燃] nhiên 385. [蕘] nhiêu, nghiêu 386. [儒] nho 387. [蕤] nhuy 388. [輭] nhuyễn, nhuyến 389. [臲] niết 390. [嬝] niệu 391. [鲶] niêm 392.[鮎] niêm 393. [縈] oanh 394. [罃] oanh 395. [璠] phan396. [奮] phấn 397. [燔] phần 398. [蕡] phần, phí 399. [濆] phần, phún 400. [澨] phệ 401. [噬] phệ 402. [篚] phỉ 403.[鮒] phụ 404. [璞] phác 405. [樸] phác, bốc 406. [孹] phách407. [擘] phách, bịch 408. [澼] phích 409. [輹] phúc 410.[輻] phúc, bức 411. [賵] phúng 412. [諷] phúng 413. [縛] phược, phọc 414. [霏] phi 415. [瞟] phiếu 416. [膰] phiền, phần 417. [蕃] phiền, phiên 418. [瘭] phiêu 419. [镖] phiêu420. [歕] phun 421. [撾] qua 422. [瘸] qua 423. [錁] quả424. [錧] quản 425. [橘] quất 426. [閾] quắc, vực 427. [頯] quỳ 428. [璚] quỳnh 429. [嬛] quỳnh, huyên, hoàn 430.[蕢] quỹ 431. [澮] quái 432. [獪] quái 433. [盥] quán 434.[舘] quán 435. [麇] quân, quần, khuân 436. [褧] quýnh 437.[龜] quy, quân, cưu 438. [獧] quyến 439. [蕨] quyết 440.[橛] quyết 441. [橜] quyết 442. [穇] sam, sâm 443. [瞠] sanh 444. [橕] sanh 445. [鞘] sao 446. [穑] sắc 447. [褫] sỉ448. [餙] sức 449. [儕] sài 450. [缲] sào 451. [瘵] sái 452.[氅] sưởng 453. [瘳] sưu 454. [螋] sưu 455. [鴟] si 456.[篩] si, sư 457. [螄] si, tư, sư 458. [霎] siếp, sáp 459. [蕆] siển 460. [篡] soán 461. [窻] song 462. [踳] suyễn, xuẩn463. [鹾] ta 464. [艘] tao, sưu 465. [錾] tạm 466. [颡] tảng467. [縉] tấn 468. [儐] tấn, tân 469. [窸] tất 470. [觱] tất471. [燂] tầm 472. [燖] tầm 473. [蕁] tầm, đàm 474. [濒] tần 475. [頻] tần 476. [螓] tần, trăn 477. [儘] tẫn 478. [賮] tẫn 479. [輯] tập 480. [赠] tặng 481. [穄] tế 482. [蔽] tế, phất 483. [劑] tề, tễ 484. [鮆] tễ 485. [獘] tệ 486. [鼒] tỉ, tài487. [醒] tỉnh 488. [餗] tốc 489. [蕞] tối, tụi 490. [膵] tụy491. [醑] tữ 492. [禩] tự 493. [赞] tán 494. [噪] táo 495.[澡] táo, tháo 496. [膍] tì 497. [積] tích 498. [錫] tích 499.[穌] tô 500. [樽] tôn 501. [樷] tùng 502. [隨] tùy 503. [縦] túng 504. [瘲] túng 505. [橧] tăng, tằng 506. [靜] tĩnh 507.[諝] tư 508. [趦] tư 509. [墻] tường 510. [嬙] tường 511.[橡] tượng 512. [鲰] tưu 513. [镗] thang 514. [縚] thao 515.[縧] thao 516. [操] thao, tháo 517. [錔] thạp 518. [踼] thảng519. [輳] thấu 520. [澠] thằng, mẫn 521. [醍] thể, đề 522.[諟] thị, đế 523. [橢] thỏa 524. [瘯] thốc 525. [镞] thốc 526.[褪] thốn 527. [樹] thụ 528. [諡] thụy 529. [橐] thác 530.[錯] thác, thố 531. [獭] thát 532. [撻] thát 533. [親] thân, thấn 534. [黈] thâu 535. [輸] thâu, thú 536. [磧] thích 537.[縗] thôi 538. [暾] thôn 539. [艙] thương 540. [澶] thiền, đạn 541. [擅] thiện 542. [膳] thiện 543. [嬗] thiện 544. [遷] thiên 545. [幧] thiêu 546. [燒] thiêu, thiếu 547. [鞓] thinh548. [簑] thoa 549. [瞚] thuấn 550. [醕] thuần 551. [錞] thuần, đối 552. [諮] ti, tư 553. [辥] tiết 554. [錢] tiền, tiễn555. [樵] tiều 556. [篠] tiểu 557. [憸] tiêm 558. [蕉] tiêu559. [燋] tiêu 560. [飙] tiêu 561. [蕭] tiêu 562. [隧] toại563. [皻] tra 564. [鬇] tranh 565. [錚] tranh 566. [橙] tranh, đắng 567. [澤] trạch 568. [擇] trạch 569. [鮓] trả, trá 570.[濁] trọc, trạc 571. [縐] trứu, sứu 572. [篨] trừ 573. [篪] trì574. [遲] trì, trí 575. [橱] trù 576. [儔] trù 577. [築] trúc578. [縋] trúy 579. [臻] trăn 580. [豬] trư 581. [辙] triệt582. [霑] triêm 583. [輺] truy 584. [錙] truy 585. [寯] tuấn586. [遵] tuân 587. [镟] tuyền 588. [選] tuyển, tuyến, toản589. [蕝] tuyệt, khiêu 590. [醖] uấn 591. [褞] uấn 592. [蕴] uẩn, uấn 593. [濊] uế, hoát 594. [噦] uyết, hối 595. [鴛] uyên 596. [澫] vạn 597. [衞] vệ 598. [謂] vị 599. [篔] vân600. [蕓] vân 601. [閺] văn 602. [閿] văn 603. [螡] văn604. [儛] vũ 605. [樾] việt 606. [圜] viên, hoàn 607. [蕪] vu608. [餐] xan 609. [赬] xanh, trinh 610. [頳] xanh, trinh611. [熾] xí 612. [閶] xương 613. [鲳] xương 614. [幨] xiêm 615. [暹] xiêm, tiêm 616. [噫] y, ức, ái 617. [燕] yến, yên 618. [謁] yết 619. [魇] yểm 620. [閹] yêm

17 NÉT

1. [霙] anh 2. [嬰] anh 3. [隱] ẩn, ấn 4. [翳] ế 5. [檃] ổn 6.[餧] ủy, nỗi 7. [臆] ức 8. [應] ứng, ưng 9. [黝] ửu 10. [龌] ác 11. [叆] ái 12. [薆] ái 13. [曖] ái 14. [闇] ám 15. [擪] áp16. [擫] áp 17. [壓] áp 18. [繄] ê 19. [謚] ích, tự, thụy 20.[薀] ôn, uẩn 21. [燠] úc, áo 22. [薏] ý 23. [璫] đang 24. [黛] đại 25. [蹈] đạo 26. [蹋] đạp 27. [薘] đạt 28. [膽] đảm 29.[薝] đảm, chiêm 30. [癉] đản, đan 31. [壔] đảo 32. [擣] đảo33. [謄] đằng 34. [磴] đặng 35. [螮] đế 36. [嚏] đế, sí 37.[蹏] đề 38. [篴] địch 39. [镦] đối, đôn 40. [闍] đồ, xà 41.[臀] đồn 42. [瞳] đồng 43. [罿] đồng 44. [鍍] độ 45. [凟] độc 46. [匵] độc 47. [擡] đài 48. [檀] đàn 49. [濤] đào 50.[篼] đâu 51. [盪] đãng 52. [镫] đăng, đặng 53. [赯] đường54. [餳] đường 55. [螳] đường 56. [檔] đương, đáng 57.[點] điểm 58. [鲽] điệp 59. [褶] điệp, triệp, tập 60. [蹎] điên 61. [簖] đoán 62. [鍛] đoán 63. [膺] ưng 64. [優] ưu65. [幫] bang 66. [繃] banh, băng 67. [襃] bao 68. [謈] bạc69. [薄] bạc, bác 70. [儤] bạo 71. [闆] bản 72. [擯] bấn, thấn 73. [薜] bệ 74. [篷] bồng 75. [髼] bồng 76. [濮] bộc77. [皤] bà 78. [磻] bàn, bà 79. [蹒] bàn, man 80. [檗] bách, nghiệt 81. [謗] báng 82. [豳] bân 83. [璧] bích 84. [餠] bính85. [辫] biện 86. [鳊] biên 87. [謌] ca 88. [翶] cao 89. [購] cấu 90. [覯] cấu 91. [檎] cầm 92. [懃] cần 93. [轂] cốc 94.[檜] cối 95. [皼] cổ 96. [颶] cụ 97. [龋] củ, khủ 98. [璩] cừ99. [磲] cừ 100. [遽] cự 101. [擱] các 102. [檊] cán 103.[鴿] cáp 104. [鞠] cúc 105. [镪] cưỡng 106. [襁] cưỡng107. [臄] cược 108. [殭] cương 109. [隲] chất 110. [鍼] châm 111. [懥] chí, sí 112. [燭] chúc 113. [瞩] chúc 114.[蟑] chương 115. [氈] chiên 116. [盩] chu, trưu 117. [螽] chung 118. [鍾] chung 119. [謡] dao 120. [繇] dao, do, chựu, lựu 121. [斁] dịch, đố 122. [蕷] dự 123. [輿] dư 124.[龠] dược, thược 125. [鍚] dương 126. [彌] di 127. [鍱] diệp, hiệp 128. [檐] diêm, thiềm 129. [赢] doanh 130. [營] doanh, dinh 131. [鹬] duật 132. [濰] duy 133. [尷] giam134. [艱] gian 135. [鮫] giao 136. [檟] giả 137. [邂] giải138. [薢] giải 139. [癎] giản 140. [癇] giản 141. [講] giảng142. [薤] giới 143. [鍳] giám 144. [瞷] gián 145. [薅] hao146. [嚆] hao 147. [謞] hao, hiêu 148. [轄] hạt 149. [醢] hải150. [薧] hảo, khảo 151. [蹊] hề 152. [檄] hịch 153. [蕻] hống 154. [餛] hồn 155. [鴻] hồng 156. [觳] hộc, giác 157.[燬] hủy 158. [霞] hà 159. [韓] hàn 160. [餚] hào 161. [嚎] hào 162. [濠] hào 163. [壕] hào 164. [罅] há 165. [壑] hác166. [嚇] hách 167. [餡] hãm 168. [鼾] hãn, han 169. [戲] hí, hô, huy 170. [謔] hước 171. [曏] hướng 172. [薌] hương173. [鵂] hưu 174. [禧] hi 175. [薟] hiêm 176. [謊] hoang177. [獲] hoạch 178. [謋] hoạch 179. [濩] hoạch 180. [擭] hoạch, oách, hộ 181. [環] hoàn 182. [鍰] hoàn 183. [還] hoàn, toàn 184. [磺] hoàng 185. [鳇] hoàng 186. [豁] hoát, khoát 187. [薨] hoăng 188. [黉] huỳnh 189. [獯] huân 190.[壎] huân 191. [徽] huy 192. [瞲] huyết 193. [薊] kế 194.[罽] kế 195. [檠] kềnh 196. [擎] kình 197. [覬] kí 198. [糠] khang 199. [磽] khao, nghiêu 200. [鍇] khải, hài 201. [懇] khẩn 202. [顆] khỏa 203. [鞚] khống 204. [瞰] khám 205.[罄] khánh 206. [豀] khê, hề 207. [谿] khê, hề 208. [麯] khúc 209. [薑] khương 210. [鍥] khiết 211. [謙] khiêm, khiệm 212. [縴] khiên 213. [窾] khoản 214. [闊] khoát 215.[鮭] khuê, hài 216. [闃] khuých 217. [虧] khuy 218. [闋] khuyết 219. [羁] ki 220. [磯] ki 221. [檢] kiểm 222. [臉] kiểm, liệm, thiểm 223. [謇] kiển 224. [蹇] kiển, giản 225.[矯] kiểu 226. [鍵] kiện 227. [闌] lan 228. [襕] lan 229.[癆] lao 230. [濫] lạm, lãm, cãm 231. [臈] lạp 232. [勵] lệ233. [隸] lệ 234. [鬁] lị 235. [儡] lỗi 236. [簏] lộc 237. [癅] lựu 238. [臨] lâm 239. [疄] lân 240. [磷] lân, lấn 241. [螻] lâu 242. [簍] lâu, lũ 243. [檑] lôi 244. [蕾] lôi 245. [薐] lăng 246. [嶺] lĩnh 247. [褸] lũ 248. [屨] lũ 249. [縷] lũ, lâu250. [魉] lượng 251. [璢] lưu 252. [螭] li 253. [褵] li 254.[縭] li 255. [篱] li 256. [歛] liễm 257. [殮] liễm 258. [斂] liễm, liệm 259. [療] liệu 260. [瞭] liệu, liễu, liêu 261. [褳] liên 262. [聯] liên 263. [镣] liêu 264. [鹩] liêu 265. [霛] linh 266. [螺] loa 267. [繂] luật 268. [癃] lung 269. [窿] lung 270. [縲] luy 271. [鍊] luyện 272. [嬤] ma 273. [嬷] ma 274. [縵] man 275. [邁] mại 276. [鬂] mấn, tấn 277.[謐] mật, mịch 278. [懋] mậu 279. [懜] mộng 280. [蟊] mâu 281. [鍪] mâu 282. [麰] mâu 283. [繆] mâu, cù, mậu, mục 284. [謎] mê 285. [蟆] mô 286. [糢] mô 287. [濛] mông 288. [曚] mông 289. [幪] mông 290. [鎂] mĩ 291.[糜] mi 292. [麋] mi 293. [縻] mi 294. [瞥] miết 295. [篾] miệt 296. [錨] miêu 297. [懑] muộn 298. [獰] nanh 299.[懦] nọa, nhu 300. [嬭] nãi, nễ 301. [濘] nính 302. [膿] nùng 303. [螯] ngao 304. [聱] ngao 305. [鍔] ngạc 306.[鳄] ngạc 307. [骾] ngạnh 308. [騃] ngãi, ngai 309. [鮠] ngôi, nguy 310. [擬] nghĩ 311. [檥] nghĩ 312. [嶷] nghi, ngực 313. [黿] ngoan 314. [鮰] nguy 315. [癌] nham 316.[嶽] nhạc 317. [孺] nhụ 318. [闉] nhân 319. [擩] nhũ 320.[鴽] như 321. [鴯] nhi 322. [嚅] nhu 323. [濡] nhu, nhi 324.[壖] nhuyên 325. [蹑] niếp 326. [嬲] niễu 327. [黏] niêm328. [擰] ninh 329. [嚀] ninh 330. [鍋] oa 331. [薈] oái, hội332. [黻] phất 333. [糞] phẩn 334. [鼢] phẫn 335. [馡] phỉ336. [繁] phồn, bàn 337. [賻] phụ 338. [鳆] phục 339. [鬴] phủ 340. [縫] phùng, phúng 341. [謆] phiến 342. [縹] phiếu, phiêu 343. [螵] phiêu 344. [髽] qua 345. [镢] quắc346. [蟈] quắc 347. [馘] quắc, hức 348. [簋] quỹ 349. [燴] quái 350. [膾] quái, khoái 351. [館] quán 352. [鴰] quát353. [瞶] quý 354. [襂] sam 355. [縿] sam 356. [檉] sanh357. [齔] sấn 358. [骤] sậu 359. [薔] sắc, tường 360. [縰] sỉ361. [簉] sứu 362. [繅] sào, tảo 363. [縩] sái 364. [澀] sáp365. [嚓] sát 366. [擦] sát 367. [薓] sâm 368. [騁] sính 369.[縮] súc 370. [韔] sướng 371. [霜] sương 372. [謅] sưu, sảo373. [篹] soạn, toản 374. [簒] soán 375. [蟀] suất 376. [醝] ta 377. [鳃] tai 378. [糟] tao 379. [臊] tao, táo 380. [謝] tạ381. [糝] tảm 382. [璪] tảo 383. [蟋] tất 384. [篳] tất 385.[嬪] tần 386. [擞] tẩu 387. [薮] tẩu 388. [謖] tắc 389. [甑] tắng 390. [濟] tế, tể 391. [嚌] tễ 392. [擠] tễ, tê 393. [濞] tị394. [避] tị 395. [簌] tốc 396. [總] tổng 397. [顇] tụy 398.[聳] tủng 399. [儩] tứ 400. [嶼] tự, dữ, dư 401. [螬] tào402. [賽] tái, trại 403. [氉] táo 404. [燥] táo 405. [薪] tân406. [濱] tân 407. [貔] tì 408. [臂] tí 409. [績] tích 410.[蹐] tích 411. [襀] tích 412. [縱] túng, tổng, tung 413. [罾] tăng 414. [矰] tăng 415. [檣] tường 416. [牆] tường 417.[鮝] tưởng 418. [螿] tương 419. [襄] tương 420. [蹉] tha, sa421. [聲] thanh 422. [隰] thấp 423. [濕] thấp 424. [賸] thặng 425. [薙] thế 426. [簇] thốc, thấu 427. [骽] thối 428.[鹫] thứu 429. [糙] tháo 430. [鍮] thâu 431. [螫] thích 432.[聰] thông 433. [鲿] thường 434. [償] thường 435. [嚐] thường 436. [蹌] thương 437. [赡] thiệm 438. [禪] thiện, thiền 439. [膻] thiên, đãn 440. [鍫] thiêu 441. [鍬] thiêu442. [鳅] thu 443. [瞬] thuấn 444. [薦] tiến 445. [燮] tiếp446. [檝] tiếp 447. [薛] tiết 448. [褻] tiết 449. [瞧] tiều 450.[礁] tiều 451. [獮] tiển 452. [謏] tiểu, tẩu 453. [餞] tiễn454. [韱] tiêm 455. [鮮] tiên, tiển 456. [魈] tiêu 457. [蟏] tiêu 458. [鹪] tiêu 459. [燧] toại 460. [齋] trai 461. [擢] trạc462. [濯] trạc 463. [蟄] trập 464. [縶] trập 465. [瞪] trừng466. [儲] trữ, trừ 467. [斵] trác 468. [簀] trách 469. [賺] trám 470. [鍤] tráp, sáp 471. [鍘] trát 472. [鄹] trâu 473.[幬] trù, đào 474. [穉] trĩ 475. [蹍] triển, niễn 476. [輾] triển, niễn 477. [邅] triên, truyên 478. [黜] truất 479. [鍿] truy 480. [縳] truyện 481. [濬] tuấn 482. [駿] tuấn 483. [篲] tuệ 484. [穗] tuệ 485. [檇] tuy 486. [雖] tuy, vị 487. [騂] tuynh, tinh 488. [醞] uấn 489. [蕹] ung 490. [臃] ung, ủng491. [嶸] vanh 492. [蟁] văn 493. [鮪] vĩ 494. [甒] vũ 495.[薇] vi 496. [闈] vi 497. [轅] viên 498. [燦] xán 499. [璨] xán 500. [駸] xâm 501. [醜] xú 502. [斶] xúc 503. [趨] xu, xúc 504. [竁] xuế 505. [鴳] yến 506. [懨] yêm 507. [邀] yêu

18 NÉT

1. [餲] ế, ái, át 2. [餵] ủy 3. [謳] âu 4. [甕] úng 5. [簞] đan6. [襌] đan 7. [鎲] đảng 8. [禱] đảo 9. [燾] đảo 10. [闘] đấu11. [題] đề 12. [鵜] đề 13. [魋] đồi 14. [艟] đồng 15. [懟] đỗi 16. [瀆] độc, đậu 17. [鼧] đà 18. [薹] đài 19. [罈] đàn20. [檮] đào 21. [戴] đái 22. [鞮] đê 23. [鼕] đông 24. [簦] đăng 25. [癜] điến 26. [闐] điền 27. [簟] điệm 28. [鼦] điêu29. [斷] đoạn, đoán 30. [鹰] ưng 31. [鼥] bạt 32. [鬅] bằng33. [鎞] bề 34. [髀] bễ 35. [襆] bộc 36. [瀑] bộc 37. [鵓] bột 38. [蹣] bàn, man 39. [蟠] bàn, phiền 40. [龎] bàng 41.[鎊] bàng, bảng 42. [蟛] bành 43. [餺] bác 44. [鎛] bác 45.[襏] bát 46. [擺] bãi 47. [甓] bích 48. [鞞] bính, bỉ 49. [騈] biền 50. [藊] biển 51. [邉] biên 52. [翺] cao 53. [藁] cảo 54.[謹] cẩn 55. [覲] cận 56. [盬] cổ 57. [瞽] cổ 58. [鯀] cổn59. [擧] cử 60. [舊] cựu 61. [襇] cán, giản 62. [瞿] cù, cụ63. [鞫] cúc 64. [繈] cưỡng 65. [屩] cược 66. [蟕] chủy 67.[職] chức 68. [織] chức, chí, xí 69. [䬡] chử 70. [贄] chí, trập 71. [蹠] chích 72. [鎚] chùy 73. [瞾] chiếu 74. [瞻] chiêm 75. [鹯] chiên 76. [贅] chuế 77. [騅] chuy 78. [轉] chuyển, chuyến 79. [顓] chuyên 80. [鎰] dật 81. [鵒] dục82. [鼬] dứu 83. [翼] dực 84. [蟫] dâm, tầm 85. [癒] dũ 86.[歟] dư 87. [璵] dư 88. [颺] dương 89. [彝] di 90. [謻] di91. [彞] di 92. [曜] diệu 93. [燿] diệu 94. [鳐] diêu 95. [鎔] dong, dung 96. [鯈] du 97. [轊] duệ 98. [轇] giao 99. [簡] giản 100. [嚙] giảo 101. [檻] hạm 102. [鎬] hạo, cảo 103.[颢] hạo, hiệu 104. [闔] hạp 105. [鎋] hạt 106. [鞨] hạt 107.[餱] hầu 108. [蟢] hỉ 109. [餬] hồ 110. [鵠] hộc, cốc 111.[聵] hội 112. [繢] hội 113. [齕] hột 114. [謼] hô 115. [黠] hiệt 116. [擷] hiệt 117. [嚣] hiêu 118. [蘤] hoa 119. [镬] hoạch 120. [雘] hoạch 121. [繣] hoạch 122. [瀇] hoảng, quảng 123. [镮] hoàn 124. [簧] hoàng 125. [蟥] hoàng 126.[雟] huề, tủy 127. [繐] huệ 128. [蟪] huệ 129. [曛] huân130. [燻] huân 131. [薰] huân 132. [鬩] huých 133. [隳] huy 134. [蟣] kỉ, kì 135. [騎] kị 136. [雞] kê 137. [鳍] kì138. [騏] kì 139. [鎧] khải 140. [闓] khải, khai 141. [髁] khỏa 142. [謦] khánh 143. [櫆] khôi 144. [竅] khiếu 145.[彍] khoách 146. [擴] khoách, khoáng 147. [壙] khoáng148. [軀] khu 149. [蹞] khuế 150. [闕] khuyết 151. [礆] kiềm, thiêm 152. [翹] kiều 153. [瞼] kiểm 154. [蟜] kiểu155. [皦] kiểu 156. [鞬] kiện 157. [鳒] kiêm 158. [藍] lam159. [簩] lao 160. [醪] lao, dao 161. [濼] lạc, bạc 162. [癞] lại 163. [禮] lễ 164. [癘] lệ 165. [嚕] lỗ 166. [癗] lỗi 167.[鹭] lộ 168. [轆] lộc 169. [騄] lục 170. [羀] lữu 171. [濾] lự172. [霤] lựu 173. [鯉] lí 174. [镭] lôi 175. [礌] lôi 176.[壘] lũy, luật 177. [魎] lượng 178. [糧] lương 179. [瀏] lưu, lựu 180. [醨] li 181. [釐] li, hi 182. [繚] liễu 183. [獵] liệp184. [鎌] liêm 185. [镰] liêm 186. [襝] liêm, liễm 187. [儱] lung 188. [薶] mai 189. [謾] man, mạn 190. [邈] mạc 191.[霢] mạch 192. [霡] mạch 193. [謬] mậu 194. [嚜] mặc, ma195. [謨] mô 196. [檬] mông 197. [朦] mông 198. [藐] miểu, mạc 199. [懱] miệt 200. [懣] muộn 201. [孻] nai 202.[臑] nạo, nhu, nhi, nộn, noãn 203. [禰] nễ 204. [檸] nịnh, ninh 205. [穠] nùng 206. [鵝] nga 207. [鵞] nga 208. [鳌] ngao 209. [謷] ngao 210. [顎] ngạc 211. [額] ngạch 212.[鯁] ngạnh 213. [魏] ngụy, nguy 214. [嚚] ngân 215. [騐] nghiệm 216. [麌] ngu 217. [顒] ngung 218. [顔] nhan 219.[顏] nhan 220. [邇] nhĩ 221. [擾] nhiễu 222. [繞] nhiễu 223.[蟯] nhiêu 224. [薷] nhu 225. [瓀] nhuyên 226. [聶] niếp, chiệp, nhiếp 227. [鎳] niết 228. [闑] niết 229. [攆] niện 230.[輷] oanh 231. [旛] phan 232. [羵] phần 233. [簠] phủ 234.[馥] phức, phốc 235. [癖] phích, tích 236. [覆] phúc, phú237. [騑] phi 238. [翻] phiên 239. [繙] phiên 240. [薸] phiêu 241. [豐] phong 242. [鳏] quan 243. [鄺] quảng 244.[簣] quỹ 245. [櫃] quỹ, cự 246. [獷] quánh, cảnh 247. [歸] quy, quý 248. [鵙] quyết 249. [鬈] quyền 250. [鵑] quyên251. [鯊] sa 252. [鎗] sanh, thương, sang 253. [鮹] sao 254.[闖] sấm 255. [儭] sấn 256. [穡] sắc 257. [蹝] sỉ 258. [雛] sồ 259. [礎] sở 260. [蹜] súc 261. [攄] sư 262. [鎪] sưu263. [鼪] sinh 264. [雙] song 265. [顋] tai 266. [藉] tạ, tịch267. [雜] tạp 268. [瀉] tả 269. [糤] tản 270. [繖] tản 271.[薻] tảo 272. [殯] tấn, thấn 273. [蹕] tất 274. [鬵] tẩm 275.[擻] tẩu 276. [燼] tẫn 277. [藎] tẫn 278. [臏] tẫn, bận 279.[襍] tập 280. [薺] tề 281. [臍] tề 282. [齌] tễ 283. [斃] tễ284. [鎖] tỏa 285. [藏] tàng, tạng 286. [薩] tát 287. [檳] tân288. [蹟] tích 289. [罇] tôn 290. [鬃] tông 291. [謥] tông292. [騌] tông 293. [鬆] tông, tùng 294. [藂] tùng 295. [叢] tùng 296. [繡] tú 297. [蹙] túc, xúc 298. [繒] tăng 299. [鎡] tư 300. [爵] tước 301. [醬] tương 302. [檯] thai, đài, di 303.[鼫] thạch 304. [嬸] thẩm 305. [鬄] thế 306. [覰] thứ 307.[癙] thử 308. [薯] thự 309. [曙] thự 310. [闒] tháp 311. [鳎] tháp 312. [聴] thính 313. [雠] thù 314. [邃] thúy 315. [蹡] thương 316. [觴] thương, tràng, trường 317. [韘] thiếp, nhiếp 318. [餮] thiết 319. [蟬] thiền, thuyền 320. [蟮] thiện321. [繕] thiện 322. [靝] thiên 323. [竄] thoán 324. [鞧] thu325. [鞦] thu 326. [颸] ti 327. [燹] tiển 328. [藓] tiển 329.[謭] tiễn 330. [濺] tiễn, tiên 331. [鞯] tiên 332. [鞭] tiên333. [瀌] tiêu 334. [簫] tiêu 335. [攅] toàn 336. [镯] trạc337. [戳] trạc, sác 338. [櫂] trạo, trạc 339. [鎭] trấn 340.[鎮] trấn 341. [瀋] trầm, thẩm, trấm 342. [擲] trịch 343.[蹢] trịch, đích 344. [謯] trớ 345. [薴] trữ 346. [鼂] trào347. [赜] trách 348. [賾] trách 349. [簪] trâm 350. [簮] trâm351. [謫] trích 352. [擿] trích, thích 353. [櫉] trù 354. [幮] trù 355. [蟲] trùng 356. [鮿] triếp 357. [瀍] triền 358. [簨] tuẩn, soạn 359. [蹤] tung 360. [璿] tuyền 361. [鎸] tuyên362. [穢] uế 363. [雝] ung 364. [霣] vẫn 365. [魊] vực 366.[魍] võng 367. [韙] vĩ 368. [鵡] vũ 369. [冁] xiên 370. [醫] y 371. [黟] y 372. [檿] yểm 373. [黡] yểm 374. [懕] yêm

19 NÉT

1. [鵪] am 2. [甖] anh 3. [鏖] ao 4. [豷] ế 5. [穩] ổn 6. [霭] ái 7. [襖] áo 8. [厴] áp 9. [醯] ê 10. [罋] úng 11. [襠] đang12. [贉] đảm 13. [襢] đản 14. [藤] đằng 15. [蹬] đặng 16.[騠] đề 17. [鬌] đỏa 18. [穨] đồi 19. [臋] đồn 20. [譈] đỗi21. [櫝] độc 22. [犢] độc 23. [牘] độc 24. [譚] đàm 25. [壜] đàm 26. [醰] đàm 27. [鼗] đào 28. [鏑] đích 29. [簹] đương30. [顛] điên 31. [巅] điên 32. [顚] điên 33. [鵰] điêu 34.[鯛] điêu 35. [櫌] ưu 36. [礡] bạc 37. [爆] bạo, bạc, bộc 38.[寳] bảo 39. [鵬] bằng 40. [鞴] bị 41. [蹼] bốc, phốc 42.[簿] bộ, bạ, bạc 43. [曝] bộc 44. [鞶] bàn 45. [龐] bàng 46.[簸] bá 47. [醱] bát, phát 48. [襞] bích 49. [羆] bi 50. [癟] biết 51. [瓣] biện 52. [蹩] biệt 53. [邊] biên 54. [鶊] canh55. [羹] canh, lang 56. [餻] cao 57. [櫜] cao 58. [藳] cảo59. [簴] cự 60. [韝] câu 61. [鞲] câu 62. [鵾] côn 63. [鯤] côn 64. [藭] cùng 65. [鏹] cưỡng 66. [繮] cương 67. [疆] cương 68. [櫍] chất 69. [證] chứng 70. [觶] chí 71. [繳] chước, kiểu 72. [颤] chiến, đản 73. [旜] chiên 74. [鯖] chinh, thinh 75. [繹] dịch 76. [礜] dự 77. [霪] dâm 78. [蠅] dăng 79. [藥] dược 80. [艶] diễm 81. [饁] diệp, ấp 82. [簷] diêm, thiềm 83. [颻] diêu 84. [瀛] doanh 85. [鳙] dong 86.[鏞] dong 87. [瀜] dung, dong 88. [櫞] duyên 89. [鵻] giai90. [蠏] giải 91. [蟹] giải 92. [瀣] giới 93. [齘] giới 94. [覸] gián 95. [覈] hạch 96. [齁] hầu 97. [繫] hệ 98. [翽] hối 99.[鬍] hồ 100. [繪] hội 101. [騢] hà 102. [鞵] hài 103. [瀚] hãn 104. [餼] hí, hi, khái 105. [蠁] hưởng 106. [嚮] hưởng, hướng 107. [譆] hi 108. [獻] hiến 109. [蠍] hiết 110. [幰] hiển 111. [譁] hoa 112. [矱] hoạch 113. [穫] hoạch 114.[騞] hoạch 115. [壞] hoại 116. [爌] hoảng 117. [懷] hoài118. [繯] hoán 119. [蠉] huyên 120. [翾] huyên 121. [麒] kì122. [鯨] kình 123. [骥] kí 124. [鏡] kính 125. [鏗] khanh126. [襟] khâm 127. [麴] khúc 128. [蹺] khiêu 129. [曠] khoáng 130. [闚] khuy 131. [勸] khuyến 132. [譏] ki, cơ133. [繭] kiển 134. [蹻] kiểu, cược 135. [轎] kiệu 136. [覶] la 137. [羅] la 138. [鯠] lai 139. [瀨] lại 140. [籁] lại, lãi141. [臘] lạp 142. [邋] lạp 143. [鳓] lặc 144. [麗] lệ, li 145.[嚦] lịch 146. [櫟] lịch 147. [瀝] lịch 148. [蠃] lỏa, loa 149.[艣] lỗ 150. [櫓] lỗ 151. [麓] lộc 152. [餾] lựu 153. [轔] lân154. [髅] lâu 155. [擥] lãm 156. [嬾] lãn 157. [懶] lãn, lại158. [藜] lê 159. [瀘] lô 160. [壚] lô 161. [鯪] lăng 162.[鏤] lũ 163. [隴] lũng 164. [壠] lũng 165. [壟] lũng 166.[藟] lũy 167. [櫚] lư 168. [廬] lư 169. [鏐] lưu 170. [飀] lưu 171. [離] li 172. [斄] li 173. [瓈] li 174. [簾] liêm 175.[蠊] liêm 176. [鏈] liên 177. [類] loại 178. [攏] long, lũng179. [嚨] lung 180. [瀧] lung, sang 181. [羸] luy, nuy 182.[鳗] man 183. [鏝] man 184. [羃] mạc 185. [鳘] mẫn 186.[懵] mộng, mặng 187. [蟒] mãng 188. [礞] mông 189. [矇] mông 190. [靡] mĩ, mi 191. [鳖] miết 192. [難] nan, nạn, na193. [譊] nao 194. [襛] nùng 195. [鏊] ngao 196. [礙] ngại197. [藕] ngẫu 198. [齗] ngân 199. [藝] nghệ 200. [鶃] nghịch 201. [鶂] nghịch 202. [鯢] nghê 203. [麑] nghê 204.[顗] nghĩ 205. [蟻] nghĩ 206. [艤] nghĩ 207. [孼] nghiệt208. [願] nguyện 209. [鵶] nha 210. [赝] nhạn 211. [贋] nhạn 212. [勷] nhương 213. [爇] nhiệt 214. [穤] nhu 215.[鯰] niêm 216. [鼃] oa 217. [瀠] oanh, uynh 218. [醭] phốc219. [譜] phổ, phả 220. [鵩] phục 221. [黼] phủ 222. [攀] phàn, phan 223. [礟] pháo 224. [騙] phiến 225. [蹯] phiền226. [藩] phiên, phan 227. [臕] phiêu 228. [鳔] phiêu 229.[鏢] phiêu, tiêu 230. [騧] qua 231. [關] quan, loan 232. [觵] quang 233. [攈] quấn 234. [騤] quỳ 235. [瓊] quỳnh 236.[餽] quỹ 237. [旝] quái 238. [麕] quân 239. [鯚] quý 240.[蹷] quyết 241. [蹶] quyết, quệ 242. [譎] quyệt 243. [蟶] sanh 244. [鏟] sạn 245. [谶] sấm 246. [寵] sủng 247. [儳] sàm 248. [繰] sào 249. [蠆] sái, mại 250. [譅] sáp 251. [鎩] sát 252. [餿] sưu 253. [颼] sưu 254. [癡] si 255. [譔] soạn256. [鏨] tạm 257. [顙] tảng 258. [矉] tần 259. [嚬] tần 260.[瀕] tần 261. [藪] tẩu 262. [霫] tập 263. [贈] tặng 264. [璽] tỉ 265. [鏁] tỏa 266. [蹲] tồn, tỗn 267. [瀡] tủy 268. [辭] từ269. [贊] tán 270. [鬷] tông 271. [鬉] tông 272. [騣] tông273. [襚] tùy 274. [旞] tùy 275. [鯗] tưởng 276. [鯫] tưu, tẩu 277. [鏜] thang 278. [襙] thao 279. [韜] thao 280. [繩] thằng 281. [蹭] thặng 282. [鏃] thốc 283. [覷] thứ 284. [識] thức, chí 285. [鞳] tháp 286. [獺] thát 287. [鬎] thích 288.[獸] thú 289. [儵] thúc 290. [蹴] thúc, xúc 291. [蹵] thúc, xúc 292. [爍] thước 293. [鵲] thước 294. [鏘] thương 295.[蟾] thiềm 296. [蟺] thiện 297. [簽] thiêm 298. [舚] thiêm299. [羶] thiên 300. [鬊] thuấn 301. [鶉] thuần 302. [鏦] thung 303. [醮] tiếu 304. [譙] tiếu, tiều 305. [癣] tiển 306.[殱] tiêm 307. [鬋] tiên 308. [瀟] tiêu 309. [缵] toản 310.[酂] toản, tán 311. [攒] toàn, toản 312. [譛] trấm 313. [譖] trấm, tiếm 314. [櫛] trất 315. [蠋] trục, thục 316. [懲] trừng317. [蹰] trù 318. [櫥] trù 319. [疇] trù 320. [瀦] trư 321.[櫫] trư 322. [繵] triền 323. [轍] triệt 324. [鳕] tuyết 325.[鏇] tuyền 326. [韞] uẩn 327. [藴] uẩn, uấn 328. [鵷] uyên329. [韻] vận 330. [霧] vụ 331. [騖] vụ 332. [鯧] xương333. [穪] xưng 334. [襜] xiêm 335. [歠] xuyết 336. [嬿] yến 337. [嚥] yết

20 NÉT

1. [韽] am 2. [罌] anh 3. [嚶] anh 4. [攖] anh, oanh 5. [饇] ốc 6. [藹] ái 7. [嚲] đả 8. [黨] đảng 9. [鬪] đấu 10. [竇] đậu11. [騰] đằng 12. [鶗] đề 13. [鐓] đối, đồi, đôn 14. [黩] độc15. [躉] độn 16. [鼍] đà 17. [翿] đào 18. [叇] đãi 19. [鼮] đình 20. [鐙] đăng, đặng 21. [齠] điều 22. [鰈] điệp 23. [糰] đoàn 24. [譍] ưng 25. [寶] bảo 26. [髌] bận, tẫn 27. [韛] bị28. [辮] biện 29. [鯿] biên 30. [競] cạnh 31. [鰔] cảm 32.[警] cảnh 33. [饉] cận 34. [醵] cự 35. [轕] cát 36. [騭] chất37. [鬒] chẩn 38. [臜] châm 39. [譫] chiêm, thiềm 40. [鐘] chung 41. [醳] dịch 42. [譯] dịch 43. [旟] dư 44. [癢] dưỡng, dạng 45. [瀰] di 46. [爓] diễm 47. [爗] diệp 48. [耀] diệu 49. [贏] doanh 50. [霱] duật 51. [鐧] giản 52. [覺] giác, giáo 53. [斆] giáo, hiệu 54. [艦] hạm 55. [鶡] hạt 56.[鶘] hồ 57. [鯶] hỗn 58. [闠] hội 59. [譭] hủy 60. [鰕] hà61. [鹹] hàm 62. [蘅] hành 63. [蠔] hào 64. [響] hưởng 65.[曦] hi 66. [犧] hi 67. [嚱] hi 68. [巇] hi 69. [馨] hinh, hấn70. [藿] hoắc 71. [臛] hoắc 72. [轘] hoàn 73. [鰉] hoàng 74.[鐄] hoành 75. [纁] huân 76. [懸] huyền 77. [蘐] huyên 78.[藼] huyên 79. [繼] kế 80. [鬐] kì 81. [蘄] kì 82. [黥] kình83. [轗] khảm 84. [嚳] khốc 85. [闞] khám, hảm 86. [躈] khiếu 87. [繾] khiển 88. [騫] khiên, kiển 89. [鞹] khuếch, khoác 90. [巋] khuy 91. [襤] lam 92. [籃] lam 93. [攔] lan94. [瀾] lan 95. [镴] lạp 96. [藺] lận 97. [醴] lễ 98. [盭] lệ99. [礪] lệ 100. [礫] lịch 101. [櫪] lịch 102. [藶] lịch 103.[礨] lỗi 104. [露] lộ 105. [鳞] lân 106. [繿] lãm 107. [黧] lê108. [蘆] lô 109. [櫨] lô 110. [爐] lô 111. [礧] lôi 112. [曨] lông 113. [朧] lông 114. [臚] lư, lô 115. [鐂] lưu 116. [騮] lưu 117. [瀲] liễm 118. [鐐] liêu 119. [飂] liêu 120. [齡] linh 121. [蘢] long 122. [櫳] long, lung 123. [瓏] lung 124.[蘑] ma 125. [饅] man 126. [顢] man 127. [艨] mông 128.[蠓] mông 129. [獼] mi, di 130. [麵] miến 131. [鐃] nao, nạo 132. [聻] nễ, tích 133. [醲] nùng 134. [孃] nương 135.[鶚] ngạc 136. [鰐] ngạc 137. [鼯] ngô 138. [議] nghị 139.[櫱] nghiệt 140. [孽] nghiệt 141. [嚴] nghiêm 142. [蘂] nhị143. [壤] nhưỡng 144. [嚷] nhượng, nhưỡng 145. [瀼] nhương, nhưỡng 146. [攘] nhương, nhưỡng 147. [饒] nhiêu148. [襦] nhu 149. [繻] nhu 150. [颥] nhu 151. [糯] nhu, nọa 152. [蠕] nhu, nhuyễn 153. [蠖] oách, hoạch 154. [鰒] phục 155. [礬] phàn 156. [騸] phiến, thiến 157. [飄] phiêu158. [飃] phiêu 159. [矍] quắc 160. [礦] quáng, khoáng161. [騩] quy 162. [鳜] quyết 163. [鐍] quyết 164. [攙] sam165. [櫬] sấn 166. [轖] sắc 167. [巉] sàm 168. [懺] sám169. [騶] sô 170. [骦] sương 171. [孀] sương 172. [鰓] tai173. [騷] tao 174. [霰] tản 175. [藻] tảo 176. [鬓] tấn, mấn177. [韠] tất 178. [鞸] tất 179. [蘋] tần, bình 180. [鰂] tặc181. [蠐] tề 182. [籍] tịch, tạ 183. [鐏] tỗn 184. [鳟] tỗn185. [鯽] tức 186. [躁] táo 187. [譟] táo 188. [繽] tân 189.[蠙] tân 190. [躄] tích 191. [躃] tích 192. [蘇] tô 193. [鏽] tú 194. [顣] túc, xúc 195. [骧] tương 196. [鞺] thang 197.[鐋] thảng 198. [覻] thứ 199. [齜] thử, sài 200. [藷] thự201. [蘀] thác 202. [譬] thí 203. [釋] thích, dịch 204. [瀹] thược 205. [贍] thiệm 206. [鳝] thiện 207. [譱] thiện 208.[籖] thiêm 209. [鰍] thu 210. [鰌] thu, tù 211. [癤] tiết 212.[蠘] tiệt 213. [鯾] tiên 214. [鐎] tiêu 215. [镳] tiêu 216. [纂] toản 217. [瓒] toản 218. [齟] trở 219. [躅] trục 220. [躇] trừ, sước 221. [齚] trách 222. [籌] trù 223. [癥] trưng 224.[饈] tu 225. [黦] uất 226. [蘊] uẩn, uấn 227. [鶩] vụ 228.[蠑] vinh 229. [饎] xí 230. [鶒] xích 231. [齣] xích, xuất232. [觸] xúc 233. [闡] xiển 234. [黤] yểm 235. [鰋] yển236. [臙] yên

21 NÉT

1. [瓔] anh 2. [櫻] anh 3. [黯] ảm 4. [饐] ý 5. [鐺] đang, sanh, thang 6. [鐸] đạc 7. [籐] đằng 8. [趯] địch 9. [癫] điên10. [巔] điên 11. [耰] ưu 12. [礴] bạc 13. [欂] bạc 14. [鼙] bề 15. [襮] bộc 16. [霶] bàng 17. [霸] bá, phách 18. [蘗] bách, nghiệt 19. [贔] bí 20. [襬] bi, bãi 21. [飈] biểu 22.[藨] biễu, biều 23. [辯] biện 24. [鼛] cao 25. [鷇] cấu 26.[顧] cố 27. [贑] cống 28. [赣] cống, cám 29. [鶻] cốt, hoạt30. [懼] cụ 31. [蘧] cừ, cù 32. [櫸] cử 33. [鐻] cự, cừ 34.[饑] cơ, ki 35. [屬] chúc, thuộc, chú 36. [囁] chiếp 37. [囀] chuyển 38. [譽] dự 39. [轝] dư 40. [禴] dược 41. [躍] dược42. [爚] dược 43. [鰩] diêu 44. [鷂] diêu 45. [齩] giảo 46.[鶴] hạc 47. [轞] hạm 48. [譹] hạo 49. [灏] hạo 50. [顥] hạo, hiệu 51. [靧] hối 52. [護] hộ 53. [贒] hiền 54. [襭] hiệt55. [囂] hiêu 56. [獾] hoan 57. [懽] hoan, hoạn, quán 58.[矐] hoắc 59. [闤] hoàn 60. [鐶] hoàn 61. [攜] huề 62. [醺] huân 63. [鷄] kê 64. [鰭] kì 65. [譴] khiển 66. [纊] khoáng67. [驅] khu 68. [鹻] kiểm 69. [鶼] kiêm 70. [鰜] kiêm 71.[儸] la 72. [覼] la 73. [斕] lan 74. [欄] lan 75. [蘭] lan 76.[癩] lại 77. [爛] lạn 78. [蠟] lạp, chá 79. [躏] lận 80. [鳢] lễ81. [蠡] lễ, lê, lãi, lỏa 82. [糲] lệ 83. [儷] lệ 84. [蠣] lệ 85.[癧] lịch 86. [臝] lỏa 87. [纇] lỗi 88. [髏] lâu 89. [覽] lãm90. [矑] lô 91. [鐳] lôi 92. [罍] lôi 93. [飅] lưu 94. [鶹] lưu95. [蘞] liêm 96. [鐮] liêm 97. [蘝] liêm, liễm 98. [櫺] linh99. [騾] loa 100. [矓] lung 101. [礱] lung 102. [纍] luy, lụy103. [魔] ma 104. [鬘] man 105. [驀] mạch 106. [纆] mặc107. [劘] mi 108. [蠛] miệt 109. [衊] miệt 110. [襪] miệt, vạt 111. [儺] na 112. [曩] nẵng, nãng 113. [驁] ngao, ngạo114. [齦] ngân, khẩn 115. [鷁] nghịch 116. [甗] nghiễn 117.[蘖] nghiệt 118. [鞾] ngoa 119. [巍] nguy 120. [蘘] nhương121. [灄] nhiếp 122. [懾] nhiếp 123. [攝] nhiếp 124. [齧] niết, khiết 125. [鶯] oanh 126. [轟] oanh, hoanh 127. [蠜] phàn 128. [礮] pháo 129. [灋] pháp 130. [霹] phích, tích131. [驃] phiếu 132. [蘩] phiền 133. [飜] phiên 134. [酆] phong 135. [鰥] quan 136. [饋] quỹ 137. [灌] quán 138.[羼] sạn 139. [鶵] sồ 140. [欃] sàm 141. [魑] si 142. [籑] soạn 143. [饌] soạn 144. [鹺] ta 145. [鬖] tam 146. [贓] tang 147. [饊] tản 148. [颦] tần 149. [贐] tẫn 150. [躋] tễ, tê151. [闢] tịch 152. [續] tục 153. [竈] táo 154. [齎] tê 155.[鶺] tích 156. [鶿] tư 157. [鷀] tư 158. [嚼] tước 159. [瓖] tương 160. [驂] tham 161. [黮] thảm, đạm 162. [鰨] tháp163. [闥] thát 164. [鰣] thì 165. [襫] thích 166. [驄] thông167. [醻] thù 168. [鶬] thương 169. [鐵] thiết 170. [攛] thoán 171. [龝] thu 172. [灊] tiềm 173. [顦] tiều 174. [蘚] tiển 175. [纎] tiêm 176. [殲] tiêm 177. [飆] tiêu 178. [飇] tiêu 179. [鐲] trạc 180. [籕] trứu 181. [籀] trứu 182. [籒] trứu 183. [譸] trù 184. [躊] trù 185. [纏] triền 186. [鳣] triên 187. [鐫] tuyên 188. [廱] ung 189. [灉] ung 190. [亹] vỉ, mên, môn 191. [韡] vĩ, ngoa 192. [麝] xạ 193. [龡] xúy194. [蠢] xuẩn 195. [鷃] yến

22 NÉT

1. [癭] anh 2. [癮] ẩn 3. [鷗] âu 4. [鷖] ê 5. [懿] ý 6. [糴] địch 7. [覿] địch 8. [蠧] đố 9. [贕] độc 10. [讀] độc, đậu 11.[罎] đàm 12. [鰷] điều 13. [疊] điệp 14. [巓] điên 15. [攧] điên 16. [轡] bí 17. [竸] cạnh 18. [臞] cù 19. [氍] cù 20.[韁] cương 21. [黰] chẩn 22. [鷓] chá, giá 23. [鷙] chí 24.[鑄] chú 25. [麞] chương 26. [顫] chiến, đản 27. [饘] chiên28. [龔] cung 29. [鬻] dục, chúc 30. [鱅] dong 31. [鬝] gian32. [鑒] giám 33. [鑑] giám 34. [鬫] hảm 35. [龢] hòa 36.[饗] hưởng 37. [驊] hoa 38. [歡] hoan 39. [鑊] hoạch 40.[魕] kì 41. [龕] kham, khám 42. [羇] ki 43. [驕] kiêu 44.[驍] kiêu 45. [囉] la 46. [襴] lan 47. [藾] lại 48. [籟] lại, lãi49. [鰳] lặc 50. [轢] lịch 51. [躒] lịch 52. [籙] lục 53. [驎] lân 54. [艫] lô 55. [纑] lô 56. [驑] lưu 57. [黐] li 58. [彲] li59. [灕] li 60. [酈] li, lịch 61. [躐] liệp 62. [鰱] liên 63. [巒] loan 64. [孿] loan 65. [彎] loan 66. [圝] loan 67. [聾] lung68. [籠] lung, lộng 69. [孌] luyến 70. [攣] luyên, luyến 71.[霾] mai 72. [鰻] man 73. [鰵] mẫn 74. [囊] nang 75. [鰲] ngao 76. [齬] ngữ 77. [囈] nghệ 78. [儼] nghiễm 79. [糱] nghiệt 80. [贗] nhạn 81. [禳] nhương 82. [瓤] nhương 83.[穰] nhương, nhưỡng 84. [鰾] phiêu 85. [攟] quấn 86. [夔] quỳ 87. [瓘] quán 88. [鹳] quán 89. [權] quyền 90. [襯] sấn91. [镵] sàm 92. [灑] sái 93. [鷞] sương 94. [臟] tạng 95.[鑌] tấn 96. [襲] tập 97. [霽] tễ 98. [驌] túc 99. [鬙] tăng100. [爝] tước 101. [镶] tương 102. [攤] than 103. [灘] than104. [饕] thao 105. [儻] thảng 106. [讅] thẩm 107. [贖] thục108. [籜] thác 109. [韃] thát 110. [聽] thính, thinh 111. [竊] thiết 112. [癬] tiển 113. [譾] tiễn 114. [籛] tiên 115. [蠨] tiêu 116. [酇] toản, tán 117. [攢] toàn, toản 118. [鷟] trạc119. [躑] trịch 120. [躓] trí, tri 121. [讁] trích 122. [躕] trù123. [纒] triền 124. [躔] triền 125. [鬚] tu 126. [鱈] tuyết127. [饔] ung 128. [齪] xúc 129. [囅] xiên 130. [鼴] yển

23 NÉT

1. [纓] anh 2. [蠮] ế 3. [攩] đảng 4. [髑] độc 5. [鑤] bào 6.[變] biến, biện 7. [蠱] cổ 8. [籧] cừ 9. [癯] cù 10. [鑕] chất11. [驛] dịch 12. [鷸] duật, thuật 13. [攪] giảo 14. [鼷] hề15. [玁] hiểm 16. [顯] hiển 17. [鬟] hoàn 18. [鑛] khoáng19. [覉] ki 20. [驚] kinh 21. [欏] la 22. [蘿] la 23. [邏] la24. [鑞] lạp 25. [邐] lệ 26. [欐] lệ 27. [鷺] lộ 28. [鑢] lự 29.[麟] lân 30. [鱗] lân 31. [轤] lô 32. [靁] lôi 33. [蘺] li 34.[鷯] liêu 35. [驘] loa 36. [灓] loan 37. [欒] loan 38. [躘] lung, lũng 39. [戀] luyến 40. [蘼] mi 41. [黴] mi, vi 42. [鱉] miết 43. [戁] nãn 44. [鼇] ngao 45. [齮] nghĩ 46. [巘] nghiễn 47. [驗] nghiệm 48. [糵] nghiệt 49. [巖] nham 50.[鷴] nhàn 51. [鷳] nhàn 52. [顬] nhu 53. [蠭] phong 54.[玃] quặc 55. [攫] quặc 56. [戄] quặc 57. [鱖] quyết 58.[颧] quyền 59. [蠲] quyên 60. [曬] sái 61. [髒] tảng, tang62. [鱘] tầm 63. [鷩] tế 64. [鱒] tỗn 65. [髓] tủy 66. [纔] tài67. [虀] tê 68. [齏] tê 69. [囌] tô 70. [鷫] túc 71. [鷥] tư 72.[皭] tước 73. [纕] tương 74. [黲] thảm 75. [體] thể 76. [鷲] thứu 77. [讎] thù 78. [鑠] thước 79. [籥] thược 80. [驖] thiết 81. [鱔] thiện 82. [鱓] thiện 83. [籤] thiêm 84. [纖] tiêm 85. [躚] tiên 86. [鑣] tiêu 87. [鷦] tiêu 88. [瓚] toản89. [攥] toản 90. [趱] toản 91. [欑] toàn 92. [齰] trách 93.[蘸] trám, tiếu 94. [臢] trâm 95. [讋] triệp 96. [癰] ung 97.[躗] vệ 98. [饜] yếm 99. [醼] yến 100. [讌] yến 101. [靨] yếp 102. [鼹] yển

24 NÉT

1. [齷] ác 2. [靄] ái 3. [齆] úng 4. [鷾] ý 5. [鬬] đấu 6. [蠹] đố7. [襶] đái 8. [靆] đãi 9. [癲] điên 10. [籪] đoán 11. [鷹] ưng12. [髕] bận, tẫn 13. [灞] bá 14. [壩] bá 15. [齲] củ, khủ 16.[贛] cám, cống 17. [衢] cù 18. [囑] chúc 19. [鸇] chiên 20.[艷] diễm 21. [鹽] diêm, diễm 22. [鷽] hạc 23. [灝] hạo 24.[鱟] hấu 25. [衋] hực 26. [鑫] hâm 27. [屭] hí 28. [蠵] huề 29.[齅] khứu 30. [鸂] khê 31. [囓] khiết 32. [羈] ki, cơ 33. [鹼] kiểm, thiêm 34. [讕] lan 35. [鱧] lễ 36. [靂] lịch 37. [攬] lãm38. [鑪] lô 39. [醽] linh 40. [靈] linh 41. [醾] mi 42. [釀] nhưỡng 43. [讓] nhượng 44. [鬡] ninh 45. [鱠] quái, khoái 46.[罐] quán 47. [讖] sấm 48. [驟] sậu 49. [讒] sàm 50. [矗] súc51. [鬢] tấn, mấn 52. [顰] tần 53. [蠺] tàm 54. [蠶] tàm 55.[癱] than 56. [驝] thác 57. [韆] thiên 58. [躠] tiết 59. [躞] tiệp60. [鱣] triên, thiện 61. [韤] vạt 62. [韈] vạt, miệt 63. [魘] yểm

25 NÉT

1. [靉] ái 2. [纛] đạo, độc 3. [鼉] đà 4. [欛] bá 5. [籩] biên 6.[鸒] dư, tư 7. [釁] hấn 8. [讙] hoan 9. [貛] hoan 10. [觿] huề11. [黌] huỳnh 12. [矙] khám 13. [覊] ki 14. [籮] la 15. [欖] lãm 16. [顱] lô 17. [籬] li 18. [鬣] liệp 19. [灣] loan 20. [虆] luy 21. [臠] luyến 22. [饝] ma 23. [蠻] man 24. [鼈] miết 25.[囔] nang 26. [馕] nang, năng 27. [攮] nãng 28. [臡] nê 29.[襼] nghệ 30. [鸑] nhạc 31. [躡] niếp 32. [鸋] ninh 33. [鸎] oanh 34. [襻] phán 35. [觀] quan, quán 36. [纚] sỉ, sái, li 37.[鑱] sàm 38. [贜] tang 39. [鱭] tễ 40. [鱮] tự 41. [鑲] tương, nhương 42. [廳] thính, sảnh 43. [鱨] thường 44. [鑰] thược45. [糶] thiếu 46. [釂] tiếu 47. [纘] toản 48. [齇] tra 49. [豒] trật 50. [斸] trọc 51. [戆] tráng 52. [戅] tráng

26 NÉT

1. [鱵] châm 2. [矚] chúc 3. [籰] dược 4. [籯] doanh 5. [饟] hướng 6. [彠] hoạch 7. [鑴] huề 8. [驢] lư 9. [圞] loan 10. [灤] loan 11. [釄] mi 12. [鑷] nhiếp 13. [蠼] quặc 14. [鑵] quán 15.[躧] sỉ 16. [饞] sàm 17. [釃] si 18. [讚] tán 19. [韉] tiên 20.[趲] toản 21. [欝] uất 22. [黶] yểm

27 NÉT

1. [讜] đảng 2. [黷] độc 3. [灨] cám, công 4. [鬮] cưu 5. [驥] kí 6. [躩] khước 7. [鑼] la 8. [躪] lận 9. [纜] lãm 10. [鸕] lô11. [鱸] lư 12. [灧] liễm 13. [鑾] loan 14. [齈] nông 15. [鱷] ngạc 16. [釅] nghiệm 17. [讞] nghiện 18. [顳] nhiếp 19. [顴] quyền 20. [驦] sương 21. [驤] tương 22. [鑽] toản, toàn

28 NÉT

1. [鸚] anh 2. [钂] đảng 3. [豔] diễm 4. [驩] hoan 5. [欞] linh6. [钁] quắc 7. [鑿] tạc 8. [戇] tráng

29 NÉT

1. [讟] độc 2. [鸜] cù 3. [驪] li 4. [驪] li 5. [鸛] quán 6. [爨] thoán 7. [鬱] uất, úc

30 NÉT

1. [鸝] li 2. [鱺] li, lễ 3. [鸞] loan

31 NÉT

1. [灩] liễm, diễm 2. [饢] nang, năng

32 NÉT

1. [籲] dụ

33 NÉT

1. [麤] thô 2. [鱻] tiên

25 NÉT

1. [靉] ái 2. [纛] đạo, độc 3. [鼉] đà 4. [欛] bá 5. [籩] biên 6. [鸒] dư, tư 7. [釁] hấn 8. [讙] hoan 9. [貛] hoan 10. [觿] huề 11. [黌] huỳnh 12. [矙] khám 13. [覊] ki 14. [籮] la 15. [欖] lãm 16. [顱] lô 17. [籬] li 18. [鬣] liệp 19. [灣] loan 20. [虆] luy 21. [臠] luyến 22. [饝] ma 23. [蠻] man 24. [鼈] miết 25. [囔] nang 26. [馕] nang, năng 27. [攮] nãng 28. [臡] nê 29. [襼] nghệ 30. [鸑] nhạc 31. [躡] niếp 32. [鸋] ninh 33. [鸎] oanh 34. [襻] phán 35. [觀] quan, quán 36. [纚] sỉ, sái, li 37. [鑱] sàm 38. [贜] tang 39. [鱭] tễ 40. [鱮] tự 41. [鑲] tương, nhương 42. [廳] thính, sảnh 43. [鱨] thường 44. [鑰] thược 45. [糶] thiếu 46. [釂] tiếu 47. [纘] toản 48. [齇] tra 49. [豒] trật 50. [斸] trọc 51. [戆] tráng 52. [戅] tráng

Bộ 173 雨 vũ [17, 25] U+9749
靉 ái
叆 ài
(Động) Ái đãi 靉靆 mây kéo đen kịt, mù mịt. ◇Tô Mạn Thù 蘇曼殊: Kim tịch nguyệt hoa như thủy, an tri minh tịch bất hắc vân ái đãi da 今夕月華如水, 安知明夕不黑雲靉靆耶 (Đoạn hồng linh nhạn kí 斷鴻零雁記) Đêm nay trăng hoa như nước, biết đâu đêm mai mây đen lại chẳng kéo về mù mịt?
(Danh) Ái đãi 靉靆 kính đeo mắt.

Bộ 120 糸 mịch [19, 25] U+7E9B
纛 đạo, độc
dào, dú
(Danh) Cờ tiết mao (dùng làm nghi vệ cho thiên tử). ◎Như: Vua đi cắm một cái cờ ở bên tả xe gọi là tả đạo 左纛. ◇Sử Kí 史記: Kỉ Tín thừa hoàng ốc xa, phó tả đạo 紀信乘黃屋車, 傅左纛 (Hạng Vũ bổn kỉ 項羽本紀) Kỉ Tín (giả làm Hán Vương) ngồi xe mui lụa vàng, có lọng tết bằng lông vũ, lông mao cắm bên trái xe.
(Danh) Cờ lớn, trang sức bằng đuôi li ngưu 氂牛 hoặc đuôi chim trĩ 雉, thường dùng trong tang lễ quan trọng ở các nhà hiển quý thời xưa.
(Danh) Lông chim dùng cho người múa.
(Danh) Cờ lớn ở trong quân. ◇Tam quốc diễn nghĩa 三國演義: Du lệnh tróc chí giang biên tạo đạo kì hạ, điện tửu thiêu chỉ, nhất đao trảm liễu Thái Hòa 瑜令捉至江邊皂纛旗下, 奠酒燒紙, 一刀斬了蔡和 (Đệ tứ thập cửu hồi) (Chu) Du ra lệnh bắt đưa đến bờ sông dưới lá cờ đen, rót rượu đốt vàng, một nhát đao chém chết Thái Hòa.
§ Cũng đọc là độc.

Bộ 205 黽 mãnh [12, 25] U+9F09
鼉 đà
鼍 tuó
(Danh) Con đà. § Một loài như cá sấu, dài hơn hai trượng, bốn chân, da nó dùng để bưng trống. ◇Nguyễn Dư 阮嶼: Xướng bãi đà canh thiên dục thự 唱罷鼉更天欲曙 (Từ Thức tiên hôn lục 徐式僊婚綠) Dứt tiếng canh đà trời muốn sáng.
☆Tương tự: đà long 鼉龍, linh đà 靈鼉, trư bà long 豬婆龍, dương tử ngạc 揚子鱷.

Bộ 75 木 mộc [21, 25] U+6B1B
欛 bá

(Danh) Chuôi, cán dao. § Cũng như bả 把.

Bộ 118 竹 trúc [19, 25] U+7C69
籩 biên
笾 biān
(Danh) Cái biên, ngày xưa dùng để bày hoa quả và xôi để cúng tế. ◇Thi Kinh 詩經: Biên đậu hữu tiễn 籩豆有踐 (Tiểu nhã 小雅, Phạt mộc 伐木) Những đĩa thức ăn (được bày ra) có hàng lối.

Bộ 196 鳥 điểu [14, 25] U+9E12
鸒 dư, tư
yú, yù
(Danh) Một giống chim như quạ, thường sống thành đàn. ◇Thi Kinh 詩經: Bàn bỉ dư tư, Quy phi thì thì 弁彼鸒斯, 歸飛提提 (Tiểu nhã 小雅, Tiểu bàn 小弁) Con quạ vui kia, Bay về thành đàn.

Bộ 164 酉 dậu [18, 25] U+91C1
釁 hấn
衅 xìn
(Động) Lấy máu muông sinh bôi vào bát, đĩa, chén mâm … (khí mãnh 器皿) để thờ cúng thần linh (ngày xưa). ◇Mạnh Tử 孟子: Tương dĩ hấn chung 將以釁鐘 (Lương Huệ Vương thượng 梁惠王上) Đem giết lấy máu bôi chuông.
(Động) Bôi, xoa. ◇Hán Thư 漢書: Dự Nhượng hấn diện thôn thán 豫讓釁面吞炭 (Giả Nghị truyện 賈誼傳) Dự Nhượng bôi mặt nuốt than (để cho người ta không nhận ra mình).
(Động) Kích động. ◇Tả truyện 左傳: Phù tiểu nhân chi tính, hấn ư dũng 夫小人之性, 釁於勇 (Tương Công nhị thập lục niên 襄公二十六年) Tính của kẻ tiểu nhân, thường dễ kích động ở sức mạnh.
(Danh) Khe, kẽ hở. ◎Như: vô hấn khả thừa 無釁可乘 không có kẽ hở nào để thừa cơ vào được. ◇Tam quốc diễn nghĩa 三國演義: Tặc thần Đổng Trác, thừa hấn túng hại 二人兵馬嫺熟, 武藝精通 (Đệ ngũ hồi) Tên bề tôi phản tặc Đổng Trác, thừa cơ gây ra tai họa.
(Danh) Dấu hiệu, điềm triệu có tai họa. ◇Quốc ngữ 國語: Nhược Bào thị hữu hấn, ngô bất đồ hĩ 若鮑氏有釁, 吾不圖矣 (Lỗ ngữ thượng 魯語上) Nếu như họ Bào có điềm họa, ta không liệu đoán được.
(Danh) Hiềm khích, tranh chấp. ◎Như: khiêu hấn 挑釁 gây sự, tầm hấn 尋釁 kiếm chuyện.
(Danh) Lầm lỗi, tội. ◇Tả truyện 左傳: Nhân vô hấn yên, yêu bất tự tác 人無釁焉, 妖不自作 (Trang Công thập tứ niên 莊公十四年) Người không có tội lỗi, ma quái không làm hại được.
(Danh) Họ Hấn.
1. [構釁] cấu hấn 2. [挑釁] khiêu hấn

構釁 cấu hấn
Gây hấn, kết oán.

挑釁 khiêu hấn
Khơi mối giận. ☆Tương tự: khiêu chiến 挑戰.

Bộ 149 言 ngôn [18, 25] U+8B99
讙 hoan
huān, xuān
(Động) Làm rầm rĩ. ◇Sử Kí 史記: Thị nhật nãi bái Bình vi đô úy, sử vi tham thừa, điển hộ quân, chư tướng tận hoan 是日乃拜平為都尉, 使為參乘, 典護軍, 諸將盡讙 (Trần Thừa tướng thế gia 陳丞相世家) Hôm đó bèn phong (Trần) Bình làm đô úy, cho giữ chức tham thừa, cai quản các tướng quân, các tướng đều xôn xao.
(Tính) Vui mừng. § Thông hoan 歡.

Bộ 153 豸 trĩ [18, 25] U+8C9B
貛 hoan
huān
(Danh) Một giống dã thú hình xác nhỏ mà béo, mõm nhọn, chân ngắn, đuôi ngắn, ở hang, thường hay đào thủng đê điều. Thứ giống lợn lông vàng suộm gọi là trư hoan 猪貛, thứ giống chó nhuôm nhuôm gọi là cẩu hoan 狗貛, lột da thuộc dùng làm đệm được.

Bộ 148 角 giác [18, 25] U+89FF
觿 huề

(Danh) Cái dùi làm bằng xương thú, dùng để cởi nút thắt hoặc đeo trang sức.

Bộ 201 黃 hoàng [13, 25] U+9ECC
黌 huỳnh
黉 héng, hóng
(Danh) Trường học. § Các trường học ngày xưa thường trang sức sắc vàng cho nên gọi là huỳnh cung 黌宮. Còn gọi là huỳnh môn 黌門 hay huỳnh hiệu 黌校.

Bộ 109 目 mục [20, 25] U+77D9
矙 khám
kàn
(Động) Nhòm, rình xem. ◇Mạnh Tử 孟子: Dương Hóa khám Khổng Tử chi vong dã, nhi quỹ Khổng Tử chưng đồn 陽貨矙孔子之亡也, 而饋孔子蒸豚 (Đằng Văn Công hạ 滕文公下) Dương Hóa rình lúc Khổng Tử đi vắng, đem biếu Khổng Tử con heo nấu chín.

Bộ 146 襾 á [19, 25] U+898A
覊 ki

Tục dùng như chữ ki 羈.

Bộ 118 竹 trúc [19, 25] U+7C6E
籮 la
箩 luó
(Danh) Rá, sọt (thường đan bằng tre dưới vuông trên tròn).
(Danh) Cái rây (để lọc).

Bộ 75 木 mộc [21, 25] U+6B16
欖 lãm
榄 lǎn
(Danh) Xem cảm 橄.

Bộ 181 頁 hiệt [16, 25] U+9871
顱 lô
颅 lú
(Danh) Sọ. ◎Như: đầu lô 頭顱 đầu lâu. ◇Cù Hựu 瞿佑: Dụng thủ trảo trụ tử thi, trích thủ đầu lô thực dụng, tựu tượng thị cật tây qua na dạng 用手抓住死屍, 摘取頭顱食用, 就像是吃西瓜那樣 (Thái Hư Tư Pháp truyện 太虛司法傳) Dùng tay nắm lấy những xác chết, bẻ đầu ăn, giống như là ăn dưa hấu vậy.
(Danh) Phiếm chỉ đầu.
(Danh) Trán.

Bộ 118 竹 trúc [19, 25] U+7C6C
籬 li
篱 lí
(Danh) Bờ rào, bờ giậu. ◇Đào Uyên Minh 陶淵明: Thải cúc đông li hạ, Du nhiên kiến nam sơn 採菊東籬下, 悠然見南山 (Ẩm Tửu 飲酒) Hái cúc dưới bờ rào đông, Nhàn nhã nhìn núi nam.

Bộ 190 髟 tiêu [15, 25] U+9B23
鬣 liệp
liè
(Danh) Râu. ◎Như: trường liệp 長鬣 râu dài.
(Danh) Lông bờm ở cổ con thú. ◇Tào Thực 曹植: Hao khám chi thú, trương nha phấn liệp 哮闞之獸, 張牙奮鬣 (Thất khải 七啟) Thú gầm thét, nhe răng rung bờm.
(Danh) Lông trên đầu chim.
(Danh) Vây bên mang cá.
(Danh) Kim lá cây thông.
(Danh) Chổi quét.

Bộ 85 水 thủy [22, 25] U+7063
灣 loan
湾 wān
(Danh) Chỗ dòng nước hõm vào, chỗ sông uốn khúc. ◎Như: hà loan 河灣 khuỷu sông.
(Danh) Vũng bể, vịnh. ◎Như: Quảng Châu loan 廣州灣 vịnh Quảng Châu.
(Động) Đỗ, đậu, dừng (thuyền bè). ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Na bất thị tiếp tha môn lai đích thuyền lai liễu, loan tại na lí ni 那不是接他們來的船來了, 灣在那裡呢 (Đệ ngũ thập thất hồi) Kia chẳng phải là thuyền đón các cô ấy đã đến không, đậu ở đấy rồi.
(Động) Cong, ngoằn ngoèo, khuất khúc. § Thông loan 彎.
1. [臺灣] đài loan

臺灣 đài loan

Bộ 140 艸 thảo [21, 25] U+8646
虆 luy
蔂 léi
(Danh) Sọt đựng đất đời xưa. ◇Hoài Nam Tử 淮南子: Vũ chi thì, thiên hạ đại thủy, Vũ thân chấp luy thùy, dĩ vi dân tiên 禹之時, 天下大水, 禹身執虆垂, 以為民先 (Yếu lược 要略) Thời vua Hạ Vũ, lụt lội khắp nơi, vua Vũ tự mình cầm sọt đựng đất, cuốc đào đất, làm trước cho dân. § Ghi chú: chữ “thùy” 垂 trong câu trên được hiểu theo thuyết cho rằng: “thùy” 垂 ở đây đúng ra là chữ “sáp” 臿, tức là xẻng, cuốc, thuổng… dùng để đào đất.
(Động) Bò dài, bò lan. ◇Tào Thực 曹植: Chủng cát nam san hạ, Cát luy tự thành âm 種葛南山下, 葛虆自成陰 (Chủng cát thiên 種葛篇) Trồng dây sắn dưới núi nam, Dây sắn bò lan thành bóng râm.
(Động) Vin, vịn. ◇Lưu Hướng 劉向: Cát lũy luy ư quế thụ hề 葛藟虆於桂樹兮 (Ưu khổ 憂苦) Dây sắn vin vào cây quế hề.

Bộ 130 肉 nhục [19, 25] U+81E0
臠 luyến
脔 luán
(Danh) Thịt đã thái thành miếng. ◎Như: cấm luyến 禁臠 thịt cấm. § Do tích đời Tấn Nguyên Đế 晉元帝 khan hiếm thức ăn, thịt heo là món quý, chỉ để vua ăn, cấm không ai khác được ăn. Vì thế nên sự vật gì đáng quý gọi là cấm luyến 禁臠. § Vua Hiếu Vũ kén rể cho Tấn Lăng công chúa, để ý đến Tạ Côn luôn. Chưa bao lâu, Viên Tùng 袁松 cũng muốn gả con gái cho Tạ Côn, nên Vương Tuân 王詢 mới bảo Viên Tùng rằng: “Anh đừng có mò vào miếng thịt cấm ấy”. Vì thể gọi chàng rể là cấm luyến khách 禁臠客.

Bộ 184 食 thực [16, 25] U+995D
饝 ma

(Danh) Bánh bột.

Bộ 142 虫 trùng [19, 25] U+883B
蠻 man
蛮 mán
(Danh) Tiếng xưa chỉ chủng tộc ở phương nam Trung Quốc. ◇Vương Bột 王勃: Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt 襟三江而帶五湖, 控蠻荊而引甌越 (Đằng Vương các tự 滕王閣序) Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ, khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
(Tính) Thô bạo, ngang ngược. ◎Như: man hoành 蠻橫 ngang ngược, hung hãn.
(Tính) Lạc hậu, chưa khai hóa. ◎Như: man bang 蠻邦 nước lạc hậu, man nhân 蠻人 người chưa khai hóa.
(Phó) Rất, lắm. § Thông mãn 滿. ◎Như: man hảo đích 蠻好的 tốt lắm.
1. [野蠻] dã man

野蠻 dã man
Chưa khai hóa. Cũng chỉ người chưa khai hóa. ◎Như: dã man dân tộc 野蠻民族 dân tộc chưa khai hóa.
Thô bạo, ngang ngược.

Bộ 205 黽 mãnh [12, 25] U+9F08
鼈 miết
biē
(Danh) Con ba ba. ◇Mạnh Tử 孟子: Lạc kì hữu mi lộc ngư miết 樂其有麋鹿魚鼈 Vui có nai, hươu, cá, ba ba.

Bộ 30 口 khẩu [22, 25] U+56D4
囔 nang
nāng
(Trạng thanh) Tiếng nói nhỏ, lầm bầm, tiếng không rõ ràng. ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: (Oanh Nhi) bất cảm xuất thanh, chỉ đắc phóng hạ tiền lai, khẩu nội đô nang thuyết: Nhất cá tác da đích, hoàn lại ngã môn giá ki cá tiền (鶯兒)不敢出聲, 只得放下錢來, 口內嘟囔說: 一個作爺的, 還賴我們這幾個錢 (Đệ nhị thập hồi) (Oanh Nhi) không dám nói tiếng nào, đành bỏ tiền xuống, trong miệng nói lầm bầm: Đã là cậu mà lại còn ăn gian mấy đồng tiền của chúng tôi.

Bộ 184 食 thực [22, 25] U+9995
馕 nang, năng
饢 nǎng, náng
Giản thể của chữ 饢.

Bộ 64 手 thủ [22, 25] U+652E
攮 nãng
nǎng
(Động) Xô, đẩy.
(Động) Đâm, chọc. ◎Như: tha bị nãng liễu nhất đao 他被攮了一刀 nó bị đâm một nhát dao.
(Tính) Hồ đồ, ngu đần (tiếng mắng chửi). ◎Như: cẩu nãng đích nô tài 狗攮的奴才 đồ chó má khốn kiếp.

Bộ 130 肉 nhục [19, 25] U+81E1
臡 nê

(Danh) Tương thịt có cả xương. Phiếm chỉ tương thịt.

Bộ 145 衣 y [19, 25] U+897C
襼 nghệ

(Danh) Tay áo. § Cũng như mệ 袂.
Bộ 196 鳥 điểu [14, 25] U+9E11

鸑 nhạc
yuè
(Danh) Nhạc trạc 鸑鷟: (1) Tên gọi khác của chim phượng hoàng. (2) Một giống chim sống ở nước, như con vịt nhưng lớn hơn. (3) Tên núi ở Cam Túc.

Bộ 157 足 túc [18, 25] U+8EA1
躡 niếp
蹑 niè
(Động) Giẫm chân lên. ◇Sử Kí 史記: Trương Lương, Trần Bình niếp Hán Vương túc 張良, 陳平躡漢王足 (Hoài Âm Hầu liệt truyện 淮陰侯列傳) Trương Lương và Trần Bình (cùng) khẽ giậm lên chân Hán Vương (để nhắc nhở một cách kín đáo). ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Sanh ẩn niếp liên câu, nữ cấp liễm túc, diệc vô uấn nộ 生隱躡蓮鉤, 女急斂足, 亦無慍怒 (Thanh Phụng 青鳳) Sinh ngầm giậm chân lê gót sen, nàng vội rụt chân lại, cũng không tỏ vẻ giận dữ.
(Động) Nhẹ bước theo sau, rón bước, rón rén. ◇Tây sương kí 西廂記: Trắc trước nhĩ đóa nhi thính, niếp trước cước bộ nhi hành 側著耳朵兒聽, 躡著腳步兒行 (Đệ nhất bổn 第一本) Nghiêng vành tai nghe ngóng, rón rén bước chân đi.
(Động) Theo chân, đuổi theo. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Hốt nhất thiếu niên kị thanh câu, niếp kì hậu 忽一少年騎青駒, 躡其後 (Hồ Tứ tướng công 胡四相公) Chợt thấy một thiếu niên cưỡi ngựa thanh câu, đi theo đằng sau.
(Động) Xen bước, xen vào, dự vào.
(Động) Mang, mặc. ◇Tư Mã Quang 司馬光: Nông phu niếp ti lũ 農夫躡絲屨 (Huấn kiệm thị khang 訓儉示康) Nông phu mang dép tơ.

Bộ 196 鳥 điểu [14, 25] U+9E0B
鸋 ninh
níng
(Danh) Ninh quyết 鸋鴃 tên chim. § Còn có nhiều tên khác: si hào 鴟鴞, công tước 工雀, xảo phụ 巧婦, nữ tượng 女匠, tang phi 桑飛, v.v.

Bộ 196 鳥 điểu [14, 25] U+9E0E
鸎 oanh
yīng
Một dạng của chữ oanh 鶯.

Bộ 145 衣 y [19, 25] U+897B
襻 phán
pàn
(Danh) Cái khuyết, cái dải (để cài khuy). § Cũng gọi là: nữu phán 鈕襻, khấu phán 扣襻.
(Danh) Đồ vật có công dụng tương tự như khuyết áo, để níu giữ: quai, dải, đai… § Cũng gọi là: phán đái 襻帶, phán nhi 襻兒. ◎Như: hài phán 鞋襻 quai dép.
(Động) Khâu, vá.

Bộ 147 見 kiến [18, 25] U+89C0
觀 quan, quán
观 guān, guàn
(Động) Xem xét, thẩm thị. ◎Như: sát ngôn quan sắc 察言觀色 xem xét lời nói vẻ mặt. ◇Dịch Kinh 易經: Ngưỡng tắc quan tượng ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa 仰則觀象於天, 俯則觀法於地 (Hệ từ hạ 繫辭下) Ngửng lên xem xét các hình tượng trên trời, cúi xuống xem xét các phép tắc dưới đất.
(Động) Ngắm nhìn, thưởng thức. ◎Như: quan thưởng 觀賞 ngắm nhìn thưởng thức, tham quan 參觀 thăm viếng (du lịch). ◇Tả truyện 左傳: Thỉnh quan ư Chu lạc 請觀於周樂 (Tương Công nhị thập cửu niên 襄公二十九年) Xin hân thưởng nhạc Chu.
(Động) Bày ra cho thấy, hiển thị. ◇Tả truyện 左傳: Quan binh ư Đông Di 觀兵於東夷 (Hi Công tứ niên 僖公四年) Diễn binh thị uy ở Đông Di.
(Danh) Cảnh tượng, quang cảnh. ◎Như: kì quan 奇觀 hiện tượng, quang cảnh lạ lùng, hiếm có, ngoại quan 外觀 hiện tượng bên ngoài.
(Danh) Cách nhìn, quan điểm, quan niệm. ◎Như: nhân sanh quan 人生觀 quan điểm về nhân sinh, thế giới quan 世界觀 quan niệm về thế giới.
(Danh) Họ Quan.
Một âm là quán. (Động) Xét thấu, nghĩ thấu. ◇Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經: Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách 觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時, 照見五蘊皆空度一切苦厄 Bồ Tát Quán Tự Tại, khi tiến sâu vào Tuệ Giác Siêu Việt, nhận chân ra năm hợp thể đều là (tự tánh) Không, liền độ thoát mọi khổ ách.
(Danh) Nhà dựng trên cao, bên ngoài cung vua, để vui chơi. ◇Lễ Kí 禮記: Sự tất xuất du vu quán chi thượng 事畢出遊于觀之上 (Lễ vận 禮運) Việc xong, đi ra chơi ở nhà lầu.
(Danh) Lầu, gác cao. ◎Như: Nhật quán 日觀 là tên nhà lầu cao để xem mặt trời trên núi Thái Sơn 泰山. ◇Sử Kí 史記: Nhị Thế thượng quán nhi kiến chi, khủng cụ, Cao tức nhân kiếp lệnh tự sát 二世上觀而見之, 恐懼, 高即因劫令自殺 (Lí Tư truyện 李斯傳) Nhị Thế lên lầu xem thấy thế, hoảng sợ, (Triệu) Cao liền nhân đấy bức bách Nhị Thế phải tự sát.
(Danh) Miếu đền của đạo sĩ. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Nhất nhật, tự song trung kiến nữ lang, tố y yểm ánh hoa gian. Tâm nghi quán trung yên đắc thử 一日, 自窗中見女郎, 素衣掩映花間. 心疑觀中焉得此 (Hương Ngọc 香玉) Một hôm, từ trong cửa sổ thấy một người con gái, áo trắng thấp thoáng trong hoa. Bụng lấy làm lạ sao ở trong đền đạo sĩ lại có người này.
(Danh) Họ Quán.
1. [傍觀] bàng quan 2. [旁觀] bàng quan 3. [悲觀] bi quan 4. [改觀] cải quan 5. [主觀] chủ quan 6. [容觀] dong quan 7. [奇觀] kì quan 8. [可觀] khả quan 9. [客觀] khách quan 10. [人生觀] nhân sinh quan 11. [觀點] quan điểm 12. [觀看] quan khán 13. [觀察] quan sát 14. [參觀] tham quan 15. [偉觀] vĩ quan

傍觀 bàng quan
§ Cũng viết là bàng quan 旁觀

旁觀 bàng quan
Xem xét rộng khắp. ◇Tư Mã Trinh bổ 司馬貞補: Bàng quan điểu thú chi văn 旁觀鳥獸之文 (Tam hoàng bổn kỉ 三皇本紀) Quan sát rộng khắp vằn vết chim muông.
Lướt nhìn, xem qua.
Ở bên cạnh quan sát. ◇Hàn Dũ 韓愈: Xảo tượng bàng quan, súc thủ tụ gian 巧匠旁觀, 縮手袖間 (Tế Liễu Tử Hậu văn 祭柳子厚文) Thợ khéo bên cạnh đứng coi, co tay trong tay áo.
Người ở bên cạnh nhìn coi. ◇Bách Nhất Cư Sĩ 百一居士: Khốc khấp ai thống, bàng quan vô bất động dong 哭泣哀痛, 旁觀無不動容 (Hồ thiên lục 壺天錄, Quyển thượng) Khóc lóc bi thương, người xem ở bên không ai không xúc động.
§ Cũng viết là bàng quan 傍觀.

悲觀 bi quan
Phật giáo thuật ngữ: Lấy lòng từ bi quan sát chúng sinh, cứu người khổ đau. ◇Pháp Hoa Kinh 法華經: Bi quan cập từ quan, thường nguyện thường chiêm ngưỡng 悲觀及慈觀, 常願常瞻仰 (Phổ môn phẩm 普門品).
Thái độ tiêu cực thất vọng. § Đối lại với lạc quan 樂觀.

改觀 cải quan
Đổi mới bộ mặt.
Biến đổi cách nhìn. ◎Như: kinh quá giá ta xung kích, ma luyện, sử tha đối nhân sanh đích khán pháp cải quan liễu bất thiểu 經過這些衝擊, 磨鍊, 使他對人生的看法改觀了不少.

主觀 chủ quan
Phán đoán sự việc căn cứ theo nhận thức của riêng của mình, không cần phù hợp với trạng huống thật tế. ★Tương phản: khách quan 客觀.

容觀 dong quan
Vẻ mặt dáng dấp, dong mạo nghi thái. ◇Tư Mã Quang 司馬光: Ư thị thì, Quân niên thượng vị quán, vi nhân trường đại, hữu dong quan, luận nghị khảng khái, độc thư chúc văn, tài mẫn quá nhân 於是時, 君年尚未冠, 為人長大, 有容觀, 論議慷慨, 讀書屬文, 材敏過人 (Tiến sĩ Ngô Quân mộ chí minh 進士吳君墓志銘).
Mĩ quan.

奇觀 kì quan
Điều trông thấy lạ lùng, cảnh tượng kì lạ. ◇Vương Sung 王充: Nhân chi du dã, tất dục nhập đô, đô đa kì quan dã 人之遊也, 必欲入都, 都多奇觀也 (Luận hành 論衡, Biệt thông 別通) Người đi chơi, tất muốn đến kinh đô, kinh đô có nhiều kì quan.

可觀 khả quan
Coi được vừa mắt.
Tốt đẹp.
Rất, lắm. ◇Văn tuyển 文選: Cao vị trọng tước, thản nhiên khả quan 高位重爵, 坦然可觀 (Nguyễn Vũ 阮瑀) (được) Địa vị cao, tước lớn, (mà vẫn) rất thản nhiên.

客觀 khách quan
Nhìn xét sự vật như tự chúng là thế, bổn lai diện mục 本來面目, mà không để ý kiến cá nhân xen vào.
Cái gì tồn tại độc lập với ý thức hay tinh thần gọi là khách quan 客觀. ★Tương phản: chủ quan 主觀

人生觀 nhân sinh quan
Quan điểm về đời sống con người, thái độ xử thế. ◎Như: tích cực đích nhân sinh quan 積極的人生觀.

觀點 quan điểm
Cách nhìn sự vật hoặc vấn đề theo một lập trường nhất định hoặc từ một góc độ riêng. ◎Như: các nhân quan điểm bất đồng, bất yếu vi thử thương liễu hòa khí 各人觀點不同, 不要為此傷了和氣..

觀看 quan khán
Coi xem, thưởng thức. ◎Như: quan khán bỉ tái 觀看比賽.

觀察 quan sát
Xem xét kĩ càng. ◇Hậu Hán Thư 後漢書: Nãi thân duyệt cung nhân, quan sát nhan sắc 乃親閱宮人, 觀察顏色 (Hòa Hi đặng hoàng hậu kỉ 和熹鄧皇后紀).
Tên chức quan, làm trưởng quan cho một châu trở lên.

參觀 tham quan
Đối chiếu xem xét. ◇Bắc sử 北史: Nhân mệnh thệ cát hung, tham quan thiên văn, khảo định nghi hoặc 因命筮吉凶, 參觀天文, 考定疑惑 (Thôi Hoành truyện 崔宏傳).
Thăm, xem, du lãm. ◎Như: tham quan bác vật quán 參觀博物館 xem viện bảo tàng.

偉觀 vĩ quan
Cảnh tượng lớn lao, tráng vĩ. ◇Ngô Mẫn Thụ 吳敏樹: Kì văn thậm kì túng, hữu vĩ quan 其文甚奇縱, 有偉觀 (Dữ Tiểu Sầm luận văn phái thư 與筱岑論文派書).

Bộ 120 糸 mịch [19, 25] U+7E9A
纚 sỉ, sái, li
xǐ, lí, lǐ, shǎi, shī, shǐ
(Danh) Khăn lụa buộc tóc. ◇Uẩn Kính 惲敬: Cổ giả liễm phát dĩ sỉ, như hậu thế chi cân trách yên 古者斂髮以纚, 如後世之巾幘焉 (Thuyết biện nhị 說弁二) Người thời xưa vén tóc dùng sỉ 纚, như cái khăn buộc tóc của đời sau vậy.
(Phó) Đi thành hàng, thành nhóm. ◇Tư Mã Tương Như 司馬相如: Xa án hành, kị tựu đội. Sỉ hồ dâm dâm, bàn hồ duệ duệ 車按行, 騎就隊. 纚乎淫淫, 般乎裔裔 (Tử Hư phú 子虛賦) Xe tuần hành, kị tụ thành đội. Theo hàng lối lũ lượt tiến lên không dứt.
(Tính) Sỉ sỉ 纚纚: (1) Dài lòng thòng, lượt thượt. ◇Tôn Tiều 孫樵: Sỉ sỉ nhi trường, tòng phong phân nhiên 纚纚而長, 從風紛然 (Hưng Nguyên tân lộ kí 興元新路記) Lượt thượt dài, phất phới bay theo gió. (2) Liên miên không dứt. ◇Liễu Tông Nguyên 柳宗元: Phong sỉ sỉ dĩ kinh nhĩ hề, loại hành chu tấn nhi bất tức 風纚纚以經耳兮, 類行舟迅而不息 (Mộng quy phú 夢歸賦) Gió thổi qua liên miên không dứt hề, tựa như thuyền lướt nhanh không nghỉ. (3) Nhiều nhõi, đầy dẫy.
Một âm là sái. (Danh) Lưới, võng.
Một âm là li. (Danh) Lèo (thuyền, cờ…). § Cũng như nhuy 緌. ◇Thi Kinh 詩經: Phiếm phiếm dương chu, Phất li duy chi 泛泛楊舟, 紼纚維之 (Tiểu nhã 小雅, Thải thục 采菽) Bình bồng thuyền bằng gỗ cây dương, Lấy dây to buộc lèo giữ lại.
(Động) Buộc. ◇Bão Phác Tử 抱朴子: Li chu nhị tiếp ư xung phong chi tiền 纚舟弭楫於衝風之前 (Tri chỉ 知止) Buộc thuyền ngừng chèo trước khi gió bốc lên.

Bộ 167 金 kim [17, 25] U+9471
鑱 sàm
镵 chán
(Danh) Đồ bằng sắt ngày xưa, dùng để đào đất hoặc moi móc cây cỏ thuốc. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Hội hữu nhất đạo sĩ tại môn, thủ ác tiểu sàm, trường tài xích hứa. Sanh tá duyệt nhất quá, vấn: Tương hà dụng? Đáp vân: Thử trọc dược chi cụ 會有一道士在門, 手握小鑱, 長裁尺許. 生借閱一過, 問: 將何用? 答云: 此斸藥之具 (Thanh Nga 青蛾) Gặp một đạo sĩ ngoài cửa, tay cầm cái mai nhỏ, dài khoảng một thước. Sinh mượn xem và hỏi: Dùng để làm gì? Đáp rằng: Đồ dùng để đào vị thuốc.
(Danh) Cái dầm, cái lẹm, lưỡi cày, cái dùi.
(Động) Châm, chích, đục, khoét.

Bộ 154 貝 bối [18, 25] U+8D1C
贜 tang
赃 zāng
§ Cũng viết là 贓.

Bộ 195 魚 ngư [14, 25] U+9C6D
鱭 tễ
鲚 jì
(Danh) Cá đao, mình giẹt màu bạc, giống như con dao, miệng to đuôi nhỏ, phân bố ở Thái Bình Dương. § Còn gọi là phụng vĩ ngư 鳳尾魚.

Bộ 195 魚 ngư [14, 25] U+9C6E
鱮 tự

(Danh) Tên khác của cá liên 鰱.

Bộ 167 金 kim [17, 25] U+9472
鑲 tương, nhương
镶 xiāng, ráng
(Động) Vá, nạm, trám. ◎Như: tương nha 鑲牙 trám răng. ◇Tam quốc diễn nghĩa 三國演義: Bàng khuyết nhất giác, dĩ hoàng kim tương chi 傍缺一角, 以黃金鑲之 (Đệ lục hồi) Bên cạnh (viên ấn ngọc) sứt một góc, lấy vàng trám lại.
(Danh) Một loại binh khí thời xưa, giống như kiếm.
Một âm là nhương. (Danh) Bộ phận làm mô hình ở trong khuôn đúc đồ đồng, đồ sắt.

Bộ 53 广 nghiễm [22, 25] U+5EF3
廳 thính, sảnh
厅 tīng
(Danh) Chỗ quan ngồi xử sự (thời xưa).
(Danh) Phòng. ◎Như: khách thính 客廳 phòng khách, xan thính 餐廳 phòng ăn.
(Danh) Ti, sở công. ◎Như: giáo dục thính 教育廳 ti giáo dục.
(Danh) Cửa tiệm, hiệu. ◎Như: ca thính 歌廳 phòng ca nhạc, lí phát thính 理髮廳 tiệm làm tóc, ca phê thính 咖啡廳 hiệu cà phê.
§ Ta quen đọc là sảnh.

Bộ 195 魚 ngư [14, 25] U+9C68
鱨 thường
鲿 cháng
(Danh) Cá măng, hình trạng tựa cá niêm 鮎, lưng và bụng màu vàng, con lớn dài khoảng bảy tám phân.

Bộ 167 金 kim [17, 25] U+9470
鑰 thược
钥 yào, yuè
(Danh) Cái khóa. ◎Như: thược thi 鑰匙 chìa khóa.
(Danh) Phong kín, che lấp.
(Danh) Ví dụ sự vật, nơi chốn trọng yếu. ◇Thanh sử cảo 清史稿: Lâm Hoài vi nam bắc quản thược (Viên Giáp Tam truyện 袁甲三傳) 臨淮為南北筦鑰 Lâm Hoài là nơi quan yếu từ nam tới bắc.

Bộ 119 米 mễ [19, 25] U+7CF6
糶 thiếu
粜 tiào
(Động) Bán ra thóc, gạo, cốc vật. ◎Như: bình thiếu 平糶 năm mất mùa, giá thóc gạo tăng vọt, quan phủ đem thóc trong kho ra bán để cho giá cả xuống bình thường trở lại. ◇Nhiếp Di Trung 聶夷中: Nhị nguyệt mãi tân ti, Ngũ nguyệt thiếu tân cốc 二月買新絲, 五月糶新穀 (Vịnh điền gia 詠田家) Tháng hai mua tơ mới, Tháng năm bán lúa mới.

Bộ 164 酉 dậu [18, 25] U+91C2
釂 tiếu
jiào
(Động) Uống cạn chén rượu. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Toại các mịch áng vu, cạnh ẩm tiên tiếu, duy khủng tôn tận 遂各覓盎盂, 競飲先釂, 惟恐樽盡 (Lao san đạo sĩ 勞山道士) Rồi ai nấy kiếm hũ chén, tranh nhau uống trước, chỉ sợ bình cạn hết rượu.

Bộ 120 糸 mịch [19, 25] U+7E98
纘 toản
缵 zuǎn
(Động) Nối tiếp, kế thừa. ◇Lễ Kí 禮記: Vũ Vương toản Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương chi tự 武王纘大王, 王季, 文王之緒 (Trung Dung 中庸) Vũ Vương kế thừa sự nghiệp của Thái Vương, Vương Quý và Văn Vương.

Bộ 209 鼻 tị [11, 25] U+9F47
齇 tra
zhā
(Danh) Nốt đỏ nổi trên mũi.

Bộ 151 豆 đậu [18, 25] U+8C52
豒 trật
zhì
Nguyên là chữ trật 秩.

Bộ 69 斤 cân [21, 25] U+65B8
斸 trọc
zhǔ, zhú
(Danh) Một loại nông cụ thời xưa, giống như cái sừ 鋤.
(Động) Bửa, chẻ, chặt. ◎Như: trọc đạo 斸稻 chẻ lúa.

Bộ 61 心 tâm [21, 25] U+6206
戆 tráng
戇 gàng, zhuàng
Giản thể của chữ 戇.

Bộ 61 心 tâm [21, 25] U+6205
戅 tráng
gàng, zhuàng
Cũng như chữ tráng 戇.

26 NÉT
1. [鱵] châm 2. [矚] chúc 3. [籰] dược 4. [籯] doanh 5. [饟] hướng 6. [彠] hoạch 7. [鑴] huề 8. [驢] lư 9. [圞] loan 10. [灤] loan 11. [釄] mi 12. [鑷] nhiếp 13. [蠼] quặc 14. [鑵] quán 15. [躧] sỉ 16. [饞] sàm 17. [釃] si 18. [讚] tán 19. [韉] tiên 20. [趲] toản 21. [欝] uất 22. [黶] yểm

Bộ 195 魚 ngư [15, 26] U+9C75
鱵 châm
zhēn
(Danh) Cá kim, cá thu đao. § Mình nó nhỏ và dài như cái kim nên còn gọi châm ngư 針魚, ở chỗ biển cạn hoặc cửa sông, có giống vào sống ở nước ngọt được.

Bộ 109 目 mục [21, 26] U+77DA
矚 chúc
瞩 zhǔ
(Động) Nhìn kĩ, ngắm. ◎Như: ngang thủ chúc thiên 昂首矚天 ngẩng đầu ngó lên trời. ◇Phù sanh lục kí 浮生六記: Tựu song tế chúc, ba minh như kính, bất kiến nhất vật 就窗細矚, 波明如鏡, 不見一物 (Khuê phòng kí lạc 閨房記樂) Bèn vội vàng nhìn kĩ qua cửa sổ, mặt nước như gương, không thấy gì cả.

Bộ 118 竹 trúc [20, 26] U+7C70
籰 dược
yuè
(Danh) Ngày xưa dùng như dược 篗.

Bộ 118 竹 trúc [20, 26] U+7C6F
籯 doanh
yíng
(Danh) Hòm, rương bện bằng tre. ◇Hán Thư 漢書: Cố Trâu, Lỗ ngạn viết: Hoàng kim mãn doanh, bất như nhất kinh 故鄒, 魯諺曰: 黃金滿籯, 不如一經 險道傾仄, 且馳且射 (Vi Hiền truyện 韋賢傳) Cho nên ngạn ngữ nước Lỗ nước Trâu nói rằng: Vàng đầy rương không bằng một cuốn sách.

Bộ 184 食 thực [17, 26] U+995F
饟 hướng
xiǎng
Cùng nghĩa với chữ hướng 餉.

Bộ 58 彐 kí [23, 26] U+5F60
彠 hoạch
huò
Cũng như chữ hoạch 矱.

Bộ 167 金 kim [18, 26] U+9474
鑴 huề
xī, huī
(Danh) Vừng hơi tỏa ra bên mặt trời.
(Danh) Một thứ đỉnh lớn.
(Danh) Cái chậu, cái bồn lớn.
(Danh) Cái chuông lớn.
(Danh) Ngày xưa dùng như huề 觿.

Bộ 187 馬 mã [16, 26] U+9A62
驢 lư
驴 lǘ
(Danh) Con lừa. ◇Tây du kí 西遊記: Kị trước lư loa tư tuấn mã 騎著驢騾思駿馬 (Đệ nhất hồi) Cưỡi được lừa la, (lại) mong ngựa tốt.
(Danh) Dùng làm lượng từ. ◇Tỉnh thế nhân duyên truyện 醒世姻緣傳: Quản tiên sanh đích phạn, nhất niên nhị thập lưỡng thúc tu, tam thập lư sài hỏa, tứ quý tiết lễ tại ngoại 管先生的飯, 一年二十兩束脩, 三十驢柴火, 四季節禮在外 (Đệ tam thập tam hồi).
(Danh) Họ Lư.
(Tính) Ngu xuẩn, đần độn. § Thường dùng làm tiếng mắng chửi.

Bộ 31 囗 vi [23, 26] U+571E
圞 loan
luán
(Động) Đoàn loan 團圞 đoàn tụ. § Cũng viết là 團欒.

Bộ 85 水 thủy [23, 26] U+7064
灤 loan
滦 luán
(Danh) Sông Loan hà 灤河, chảy vào Bột Hải 渤海.

Bộ 164 酉 dậu [19, 26] U+91C4
釄 mi

(Danh) Đồ mi 酴釄: xem đồ 酴. § Cũng viết là 酴醾.

Bộ 167 金 kim [18, 26] U+9477
鑷 nhiếp
镊 niè
(Danh) Cái kẹp, cái nhíp. § Còn gọi là nhiếp tử 鑷子.
(Danh) Cặp tóc, thủ sức.
(Động) Nhổ, bứt. ◇Vi Trang 韋莊: Bạch phát thái vô tình, Triêu triêu nhiếp hựu sanh 白髮太無情, 朝朝鑷又生 (Nhiếp bạch 鑷白) Tóc trắng thật vô tình, Sáng sáng nhổ rồi lại mọc.

Bộ 142 虫 trùng [20, 26] U+883C
蠼 quặc
jué, qú
(Động) Nhảy.
(Danh) Quặc sưu 蠼螋 một thứ sâu ở nơi ẩm thấp, mình đen chân vàng chạy rất nhanh, sáu chân, đầu đuôi tẽ ra, thấy người đến gần thì phun dãi độc ra để bảo hộ mình.
(Danh) Con khỉ cái. § Thông quặc 玃.

Bộ 167 金 kim [18, 26] U+9475
鑵 quán
guàn
(Danh) Gáo múc nước hay khí cụ để đựng vật. § Cũng như quán 罐.

Bộ 157 足 túc [19, 26] U+8EA7
躧 sỉ

(Danh) Giày rơm, dép đan bằng cỏ.
(Danh) Giày múa.
(Danh) Thứ giày nhỏ không có gót sau.
(Động) Múa chân, kiễng chân. ◎Như: sỉ lí tương nghênh 躧履相迎 múa chân ra đón.
(Động) Giẫm, đạp.
(Động) Bước đi chậm chậm.
(Động) Đuổi theo dấu vết.

Bộ 184 食 thực [17, 26] U+995E
饞 sàm
馋 chán
(Động) Tham ăn, thèm ăn. ◎Như: chủy sàm 嘴饞 thèm ăn.
(Động) Tham lam.

Bộ 164 酉 dậu [19, 26] U+91C3
釃 si
酾 xǐ, lí, shāi, shī
(Động) Lọc rượu.
(Động) Rót rượu. ◇Tô Thức 蘇軾: Si tửu lâm giang, hoành sóc phú thi 釃酒臨江, 橫槊賦詩 (Tiền Xích Bích phú 前赤壁賦 Rót rượu đứng trên sông, cầm ngang ngọn giáo ngâm thơ.
(Động) Khai thông, chia dòng nước. ◇Hán Thư 漢書: Nãi si nhị cừ dĩ dẫn kì hà 乃釃二渠以引其河 (Câu hức chí 溝洫志) Bèn khơi tháo hai ngòi nước đễ dẫn thông con sông.

Bộ 149 言 ngôn [19, 26] U+8B9A
讚 tán
zàn
(Động) Khen ngợi. ◎Như: tán dương 讚揚 khen ngợi.
(Động) Giúp. § Thông tán 贊. ◎Như: tán trợ 讚助 giúp đỡ.
(Danh) Thể văn, để tán dương công đức người và vật. § Thông tán 贊.
1. [祝讚] chúc tán

祝讚 chúc tán
Khấn xin, hướng tới thần minh cầu xin phúc lành. ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Sở dĩ ngã thỉnh liễu giá bạch tiền, ba ba nhi đích hòa Lâm cô nương thuyết phiền liễu tha lai, thế ngã thiêu liễu chúc tán 所以我請了這白錢, 巴巴兒的和林姑娘說煩了他來, 替我燒了祝讚 (Đệ ngũ thập bát hồi) Vì thế tôi đưa giấy tiền, nhờ Lâm cô nương nói với chị ấy thay tôi đem đốt và khấn hộ.

Bộ 177 革 cách [17, 26] U+97C9
韉 tiên
鞯 jiān
(Danh) Đệm lót yên ngựa. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Duy nô bộc ngữ nhân, bất gia tiên trang dĩ hành, lưỡng hõa giáp kích, thống triệt tâm phủ 惟奴僕圉人, 不加韉裝以行, 兩踝夾擊, 痛徹心腑 (Tam sanh 三生) Chỉ có bọn đầy tớ và kẻ giữ ngựa, không chịu thêm yên đệm để cưỡi đi, hai gót chân kẹp thúc (vào hông ngựa), đau thấu ruột gan.

Bộ 156 走 tẩu [19, 26] U+8DB2
趲 toản
趱 zǎn, zàn, zū
(Động) Chạy, đuổi, đi nhanh. ◎Như: toản lộ 趲路 đi đường.
(Động) Làm gấp rút, gia khẩn.
(Động) Thúc giục, thôi thúc.
(Động) Dùng, khiến.
(Động) Tích tụ, gom góp. § Thông toản 攢.
(Động) Khoan, dùi, đục. § Thông toản 鑽.

Bộ 75 木 mộc [22, 26] U+6B1D
欝 uất

Tục dùng như chữ uất 鬱.

Bộ 203 黑 hắc [14, 26] U+9EF6
黶 yểm
黡 yǎn
(Danh) Nốt ruồi. § Tục gọi là yểm tử 黶子. Cũng như chí 痣.

27 NÉT
1. [讜] đảng 2. [黷] độc 3. [灨] cám, công 4. [鬮] cưu 5. [驥] kí 6. [躩] khước 7. [鑼] la 8. [躪] lận 9. [纜] lãm 10. [鸕] lô 11. [鱸] lư 12. [灧] liễm 13. [鑾] loan 14. [齈] nông 15. [鱷] ngạc 16. [釅] nghiệm 17. [讞] nghiện 18. [顳] nhiếp 19. [顴] quyền 20. [驦] sương 21. [驤] tương 22. [鑽] toản, toàn

Bộ 149 言 ngôn [20, 27] U+8B9C
讜 đảng
谠 dǎng, dàng
(Danh) Lời nói thẳng thắn, chính trực.
(Danh) Người dám nói thẳng, không kiêng dè. ◇Lí Bạch 李白: Công khanh như khuyển dương, Trung đảng hải dữ thư 公卿如犬羊, 忠讜醢與葅 (Kinh loạn li hậu 經亂離後) Bá quan như dê chó, Người nói thẳng trung trực đem băm với dưa muối.
(Tính) Thẳng, chính trực. ◎Như: đảng luận 讜論 lời bàn luận chính trực.

Bộ 203 黑 hắc [15, 27] U+9EF7
黷 độc
黩 dú
(Danh) Sự dơ bẩn, điều nhơ nhuốc. ◇Phó Lượng 傅亮: Thượng tăng quốc cấu, hạ chiêu tư độc 上增國垢, 下招私黷 (Phan thượng thư bộc xạ biểu 潘尚書僕射表) Trên tăng thêm nhục nhã cho nước, dưới rước lấy nhơ nhuốc riêng mình.
(Tính) Dơ bẩn, ô uế. ◇Khổng Trĩ Khuê 孔稚珪: Tiên trinh nhi hậu độc 先貞而後黷 (Bắc san di văn 北山移文) Lúc trước chính đính, ngay thẳng mà sau đó dơ bẩn.
(Động) Khinh thường, không cung kính, nhàm chán. ◇Thư Kinh 書經: Độc vu tế tự 黷于祭祀 (Thuyết mệnh 說命) Nhàm chán việc tế lễ.
(Động) Tham lam. ◇Nam sử 南史: Pha độc tài hối 頗黷財賄 (Lưu Hoài Trân truyện 劉懷珍傳) Rất tham cầu tiền của.
(Động) Lạm dụng. ◎Như: cùng binh độc vũ 窮兵黷武 dùng tới võ lực, gây ra chiến tranh một cách bừa bãi. ◇Liễu Tông Nguyên 柳宗元: Độc hình thậm hĩ 黷刑甚矣 (Bác phục thù nghị 捕蛇者說) Lạm dụng hình phạt quá quắt.

Bộ 85 水 thủy [24, 27] U+7068
灨 cám, công
gǎn, gàn, gòng
(Danh) Sông Cám.
§ Ghi chú: Cũng đọc là công.

Bộ 191 鬥 đấu [17, 27] U+9B2E
鬮 cưu
阄 jiū
(Danh) Thẻ, thăm (để rút dùng khi chọn lựa may rủi, bói toán, v.v.). ◎Như: thám cưu 探鬮 rút thẻ, trảo cưu 抓鬮 bắt thăm, niêm cưu 拈鬮: (1) rút thăm, (2) mở sách khấn bói (thời xưa). ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Tiết Bảo Thoa đạo: Đáo để phân cá thứ tự, nhượng ngã tả xuất lai. Thuyết trước, tiện lệnh chúng nhân niêm cưu vi tự 薛寶釵道: 到底分個次序, 讓我寫出來. 說著, 便令眾人拈鬮為序 (Đệ ngũ thập hồi) Tiết Bảo Thoa nói: Cần phải định thứ tự, để tôi viết ra. Nói xong, liền bảo mọi người rút thăm lấy thứ tự.

Bộ 187 馬 mã [17, 27] U+9A65
驥 kí
骥 jì
(Danh) Ngựa kí ngày đi nghìn dặm. ◇Chiến quốc sách 戰國策: Thần văn kì kí thịnh tráng chi thì, nhất nhật nhi trì thiên lí, chí kì suy dã, nô mã tiên chi 臣聞騏驥盛壯之時, 一日而馳千里, 至其衰也, 駑馬先之 (Yên sách tam 燕策三) Tôi nghe nói ngựa kì ngựa kí đương lúc sung sức, một ngày chạy ngàn dặm, đến khi suy nhược thì thua cả ngựa hèn.
(Danh) Người tài giỏi. ◇Tấn Thư 晉書: Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín, thế bất phạp kí, cầu tắc khả trí 十室之邑, 必有忠信, 世不乏驥, 求則可致 (Ngu Dự truyện 虞預傳) Ấp mười nhà, ắt có người trung tín, đời không thiếu người tài giỏi, tìm thì sẽ được.
(Động) Kí vĩ 驥尾 ruồi muỗi ở đuôi ngựa mà đi xa nghìn dặm, ý nói theo người tài giỏi mà thành danh. § Người xưa khen ông Nhan Tử 顏子 phục tòng đức Khổng Tử 孔子 là phụ kí vĩ nhi hành ích hiển 附驥尾而行益顯 theo sau ngựa kí mà công hành càng rõ rệt.

Bộ 157 足 túc [20, 27] U+8EA9
躩 khước
jué
(Tính) Dáng đi nhanh. ◇Luận Ngữ 論語: Quân triệu sử bấn, sắc bột như dã, túc khước như dã 君召使擯, 色勃如也 (Hương đảng 鄉黨) Khi vua triệu ông tiếp khách, thì ông đổi sắc mặt (tỏ vẻ nghiêm nghị, trịnh trọng), bước chân vội vàng nhanh nhẹn.
(Động) Nhảy. ◇Hoài Nam Tử 淮南子: Phù dục, viên khước, si thị, hổ cố 鳧浴, 蝯躩, 鴟視, 虎顧 (Tinh thần huấn 精神訓) Le le tắm, vượn nhảy, cú nhìn, cọp ngoảnh lại.

Bộ 167 金 kim [19, 27] U+947C
鑼 la
锣 luó
(Danh) Cái thanh la. ◇Nguyễn Du 阮攸: Triệt dạ la thanh bất tạm đình 徹夜鑼聲不暫停 (Mạc Phủ tức sự 幕府即事) Suốt đêm tiếng thanh la không tạm ngớt.

Bộ 157 足 túc [20, 27] U+8EAA
躪 lận
躏 lìn
(Động) Giẫm, đạp. ◎Như: nhựu lận 蹂躪 giày xéo, chà đạp.

Bộ 120 糸 mịch [21, 27] U+7E9C
纜 lãm
缆 làn
(Danh) Dây neo thuyền. ◇Đỗ Phủ 杜甫: Cẩm lãm nha tường khởi bạch âu 錦纜牙檣起白鷗 (Thu hứng 秋興) (ở chỗ) Dây neo thuyền bằng gấm và cột buồm bằng ngà, những con chim âu trắng bay lên.
(Danh) Dây xoắn, dây cáp. ◎Như: điện lãm 電纜 dây điện, cương lãm 鋼纜 dây cáp thép.
(Động) Buộc, trói. ◇Thủy hử truyện 水滸傳: Liễu âm nhàn lãm điếu ngư thuyền 柳陰閑纜釣魚船 (Đệ thập ngũ hồi) Dưới bóng liễu nhàn nhã buộc thuyền câu.

Bộ 196 鳥 điểu [16, 27] U+9E15
鸕 lô
鸬 lú
(Danh) Lô tư 鸕鷀 chim cốc, một giống chim ở nước, lông đen mỏ dài, hơi khum khum, tài lặn xuống nước mò cá ăn. § Cũng viết là lô tư 鸕鷥. Một tên là ô quỷ 烏鬼. Tục gọi là thủy lão nha 水老鴉.

Bộ 195 魚 ngư [16, 27] U+9C78
鱸 lư
鲈 lú
(Danh) Loài cá thân giẹp, miệng to vảy nhỏ, lưng hơi xanh, bụng trắng, tính hung dữ, ăn tôm cá để sống, ở gần biển, mùa hè từ biển bơi ngược vào sông, mùa đông bơi ngược từ sông ra biển, thịt ăn được. § Còn gọi là ngân lư 銀鱸 hay ngọc hoa lư 玉花鱸. Giống ở Tùng Giang gọi là tứ tai lư 四鰓鱸 rất ngon.
1. [思鱸] tư lư

思鱸 tư lư
Trương Hàn 張翰, người đời Tấn, đang làm quan ở Lạc Dương, một hôm nhân thấy gió thu bắt đầu thổi, chạnh nhớ tới những món ăn ở quê nhà: rau cô, canh thuần, gỏi cá lư (cá vược), v.v. Lòng bồi hồi cảm xúc, bèn từ quan trở về làng cũ. Sau tư lư 思鱸 dùng để nói ví không ham quan chức, nhớ cố hương về ở ẩn. § Cũng nói là tư thuần 思蓴.

Bộ 85 水 thủy [24, 27] U+7067
灧 liễm
滟 yàn
Cũng như 灩.

Bộ 167 金 kim [19, 27] U+947E
鑾 loan
銮 luán
(Danh) Lục lạc, chuông nhỏ. § Ngày xưa, trước xe vua đi có trổ một con chim loan ngậm cái chuông, gọi là loan linh 鑾鈴.
(Danh) Xa giá của vua hoặc cung vua. Cũng mượn chỉ nhà vua. ◎Như: tùy loan 隨鑾 theo xe vua, nghênh loan 迎鑾 đón vua. ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Chấp sự thái giám khải đạo: Thì dĩ sửu chánh tam khắc, thỉnh giá hồi loan 執事太監啟道: 時已丑正三刻, 請駕回鑾 (Đệ thập bát hồi) Viên thái giám chấp sự tâu: Đã đến giờ sửu ba khắc, mời loan giá về cung.
1. [回鑾] hồi loan

回鑾 hồi loan
Vua ngự giá về cung. ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Chấp sự thái giám khải đạo: Thì dĩ sửu chánh tam khắc, thỉnh giá hồi loan 執事太監啟道: 時已丑正三刻, 請駕回鑾 (Đệ thập bát hồi) Viên thái giám chấp sự tâu: Đã đến giờ sửu ba khắc, mời loan giá về cung.

Bộ 209 鼻 tị [13, 27] U+9F48
齈 nông
nóng
(Danh) Bệnh sổ mũi.

Bộ 195 魚 ngư [16, 27] U+9C77
鱷 ngạc
鳄 è
(Danh) Cá sấu.

Bộ 164 酉 dậu [20, 27] U+91C5
釅 nghiệm
酽 yàn
(Tính) Đặc, đậm (giấm, rượu…). ◎Như: nghiệm trà 釅茶 trà đậm.
(Tính) Thẫm, sậm (màu sắc).

Bộ 149 言 ngôn [20, 27] U+8B9E
讞 nghiện
谳 yàn
(Động) Nghị tội, luận tội. ◎Như: định nghiện 定讞 kết thành án. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Viện tiếp ngự phê, đại hãi, phục đề cung nghiện 院接御批, 大駭, 復提躬讞 (Thành tiên 成仙) (Quan) viện (tư pháp) nhận được lời phê chuẩn của vua, sợ hãi lắm, đích thân xét lại án tội.

Bộ 181 頁 hiệt [18, 27] U+9873
顳 nhiếp
颞 niè
(Danh) Nhiếp nhu 顳顬 màng tang, thái dương (xương đầu bên vành tai).

Bộ 181 頁 hiệt [18, 27] U+9874
顴 quyền
颧 quán
(Danh) Gò má. ◎Như: quyền cốt 顴骨 xương gò má.

Bộ 187 馬 mã [17, 27] U+9A66
驦 sương
骦 shuāng
(Danh) Túc Sương 驌驦: xem túc 驌.

Bộ 187 馬 mã [17, 27] U+9A64
驤 tương
骧 xiāng
(Danh) Ngựa có chân sau bên phải màu trắng.
(Động) Chạy nhanh, nhảy lên. ◎Như: đằng tương 騰驤 nhảy vọt lên. ◇Nguyễn Trãi 阮廌: Kiểu kiểu long tương vạn hộc chu 矯矯龍驤萬斛舟 (Thù hữu nhân kiến kí 酬友人見寄) Con thuyền muôn hộc vút lên cao như rồng lướt bay.
(Động) Ngẩng lên.

Bộ 167 金 kim [19, 27] U+947D
鑽 toản, toàn
钻 zuān, zuàn
(Danh) Cái khoan, cái dùi. ◎Như: điện toản 電鑽 cái khoan điện.
(Danh) Đá kim cương. ◎Như: toản giới 鑽戒 nhẫn kim cương.
(Danh) Họ Toản.
Một âm là toàn. (Động) Đâm, dùi, đục, khoan. ◎Như: toàn động 鑽洞 đục hang, toàn khổng 鑽孔 khoan lỗ.
(Động) Xuyên qua, chui qua, đi lách qua. ◎Như: toàn san động 鑽山洞 xuyên qua hang núi. ◇Thủy hử truyện 水滸傳: Trí Thâm yết khởi liêm tử, toản tương nhập lai 智深揭起簾子, 鑽將入來 (Đệ tứ hồi) (Lỗ) Trí Thâm vén rèm, lách vào.
(Động) Vin vào, dựa vào (để cầu tiến thân). ◎Như: toàn doanh 鑽營 quỵ lụy, luồn cúi. ◇Ban Cố 班固: Thương Ưởng hiệp tam thuật dĩ toàn Hiếu Công 商鞅挾三術以鑽孝公 (Đáp tân hí 答賓戲) Thương Ưởng cậy vào ba thuật để cầu tiến thân với Hiếu Công.
(Động) Thâm nhập, dùi mài, xét cùng nghĩa lí. ◇Luận Ngữ 論語: Ngưỡng chi di cao, toàn chi di kiên, chiêm chi tại tiên, hốt yên tại hậu 仰之彌高, 鑽之彌堅, 瞻之在前, 忽焉在後 (Tử Hãn 子罕) Đạo (của Khổng Tử) càng ngửng lên trông càng thấy cao, càng dùi mài càng thấy vững chắc, mới thấy ở trước mặt, bỗng hiện ở sau lưng.
(Động) Tìm kiếm, thăm dò.
1. [錐鑽] chùy chỉ 2. [鑽營] toàn doanh

錐鑽 chùy chỉ
Lấy dùi khoan đất. ◇Trang Tử 莊子: Thị trực dụng quản khuy thiên, dụng chùy chỉ địa dã, bất diệc tiểu hồ? 是直用管闚天, 用錐指地也, 不亦小乎 (Thu thủy 秋水) Thật là lấy ống mà nhìn trời, lấy dùi mà chọc đất, chẳng cũng nhỏ nhen sao?

鑽營 toàn doanh
Luồn lọt, quỵ lụy người có quyền thế.
Nghiên cứu, tham khảo sâu xa, kĩ lưỡng.

28 NÉT
1. [鸚] anh 2. [钂] đảng 3. [豔] diễm 4. [驩] hoan 5. [欞] linh 6. [钁] quắc 7. [鑿] tạc 8. [戇] tráng
Bộ 196 鳥 điểu [17, 28] U+9E1A
鸚 anh
鹦 yīng
(Danh) Anh vũ 鸚鵡 chim anh vũ, con vẹt, con kéc. § Cũng có tên là năng ngôn điểu 能言鳥 chim biết nói.
(Danh) Anh ca 鸚哥 một loài chim giống như con vẹt.
1. [鸚鵡] anh vũ
鸚鵡 anh vũ
Con vẹt.
Cá anh vũ, thứ cá ngon ở miền Bạch Hạc, Bắc phần.

Bộ 167 金 kim [20, 28] U+9482
钂 đảng
tǎng
(Danh) Đảng ba 钂鈀: tên một vũ khí, có từ đời nhà Minh, dài bảy thước sáu tấc, nặng năm cân, trên đầu có mũi nhọn.

Bộ 151 豆 đậu [21, 28] U+8C54
豔 diễm
yàn
(Tính) Tốt, đẹp. ◎Như: bách hoa tranh diễm 百花爭豔 trăm hoa khoe thắm, kiều diễm 嬌豔 tươi đẹp óng ả, diễm thể 豔體 văn từ hoa mĩ
(Tính) Có quan hệ về tình yêu. ◎Như: diễm thi 豔詩 thơ tình yêu, diễm sự 豔事 chuyện tình ái.
(Tính) Nồng, đậm. ◎Như: diễm tình 豔情 ái tình nồng nàn. ◇Lữ Khôn 呂坤: Dục tâm yếu đạm, đạo tâm yếu diễm 欲心要淡, 道心要豔 (Tục tiểu nhi ngữ 續小兒語, Tạp ngôn 雜言).
(Động) Ham chuộng, hâm mộ. ◎Như: hâm diễm 歆豔 hâm mộ ham thích.
(Động) Chiếu sáng. ◇Tây du kí 西遊記: Hà quang diễm diễm, thụy khí đằng đằng 霞光豔豔, 瑞氣騰騰 (Đệ tam hồi) Ánh mặt trời chiếu rực rỡ, điềm lành bốc lên.
(Động) Huyễn hoặc, làm mê hoặc. ◇Trần Xác 陳確: Chánh như Phật thị chi xưng vô lượng công đức, vụ thần kì thuyết, dĩ diễm ngu tục giả, phi thật thoại dã 正如佛氏之稱無量功德, 務神其說, 以豔愚俗者, 非實話也 (Đáp Trương Khảo Phu thư 答張考夫書).
(Danh) Con gái đẹp. ◇Lí Bạch 李白: Ngô oa dữ Việt diễm, Yểu điệu khoa duyên hồng 吳娃與越豔, 窈窕誇鉛紅 (Kinh loạn li hậu 經亂離後) Gái đẹp nước Ngô và nước Việt, Yểu điệu khoe phấn hồng.
(Danh) Chỉ hoa. ◇Quách Chấn 郭震: Diễm phất y khâm nhị phất bôi, Nhiễu chi nhàn cộng điệp bồi hồi 豔拂衣襟蕊拂杯, 遶枝閑共蝶徘徊 (Tích hoa 惜花).
(Danh) Vẻ sáng.
(Danh) Khúc hát nước Sở.
1. [冶豔] dã diễm 2. [嬌豔] kiều diễm 3. [光豔] quang diễm

冶豔 dã diễm
Xinh đẹp lộng lẫy. ☆Tương tự: nùng diễm 濃豔.

嬌豔 kiều diễm
Xinh đẹp, tươi tắn, óng ả, lộng lẫy. ◇Kim Bình Mai 金瓶梅: Phụ nhân phấn trang ngọc trác, kiều diễm kinh nhân 婦人粉妝玉琢, 嬌豔驚人 (Đệ thập thất hồi) Người đàn bà hương phấn ngọc ngà, xinh đẹp lộng lẫy kinh người. § Cũng viết là 嬌艷. ★Tương phản: lão xú 老醜, xú chuyết 醜拙.

光豔 quang diễm
§ Cũng viết là quang diễm光艷.
Xinh đẹp lộng lẫy. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Kiến nhị bát nữ lang, quang diễm dật mục, đình thê thần trì 見二八女郎, 光艷溢目, 停睇神馳 (Thiệu nữ 邵女) Gặp một cô gái tuổi đôi tám, xinh đẹp lộng lẫy, ngẩn mắt nhìn sững sờ.

Bộ 187 馬 mã [18, 28] U+9A69
驩 hoan
huān
(Danh) Tên một giống ngựa.
(Danh) Sự vui mừng, lòng vui vẻ. ◇Sử Kí 史記: Thả dĩ nhất bích chi cố nghịch cường Tần chi hoan, bất khả 且以一璧之故逆彊秦之驩, 不可 (Liêm Pha Lạn Tương Như truyện 廉頗藺相如傳) Vả chăng vì một viên ngọc mà làm cường Tần mất vui thì không nên.
(Danh) Họ Hoan.

Bộ 75 木 mộc [24, 28] U+6B1E
欞 linh
棂 líng
(Danh) Cây dài, gỗ dài.
(Danh) Chấn song (cửa hay cửa sổ). § Cũng như linh 櫺.

Bộ 167 金 kim [20, 28] U+9481
钁 quắc
镢 jué
(Danh) Cái cuốc lớn (nông cụ).

Bộ 167 金 kim [20, 28] U+947F
鑿 tạc
凿 záo, zuò, zú, zào
(Danh) Cái đục. § Tục gọi là tạc tử 鑿子.
(Danh) Cái lỗ đầu cột, cái mộng gỗ. ◎Như: nhuế tạc 枘鑿 lỗ tròn, xà vuông, không tra vào được. Vì thế nên hai bên ý kiến khác nhau, không thể dung hợp được cũng gọi là nhuế tạc.
(Động) Đào, đục. ◎Như: tạc tỉnh nhi ẩm 鑿井而飲 (Kích nhưỡng ca 擊壤歌) đào giếng mà uống.
(Động) Khiên cưỡng lẽ phải hoặc sự thật. ◇Hồng Lâu Mộng 紅樓夢: Chí nhược li hợp bi hoan, hưng suy tế ngộ, tắc hựu truy tung niếp tích, bất cảm sảo gia xuyên tạc 至若離合悲歡, 興衰際遇, 則又追蹤躡跡, 不敢稍加穿鑿 (Đệ nhất hồi) Cho đến những cảnh hợp tan vui buồn, thịnh suy, thì đều theo sát từng vết tích, không dám thêm chút gì làm xuyên tạc (sự thật).
(Động) Giã gạo cho thật trắng.
(Tính) Rành rọt, xác thật. ◎Như: ngôn chi tạc tạc 言之鑿鑿 nói ra rành rọt, tội chứng xác tạc 罪證確鑿 tội chứng rành rành.
1. [六鑿] lục tạc

六鑿 lục tạc
Sáu giác quan có lỗ trên người (như mắt, mũi, tai, v.v.).
Có thuyết nói đó là lục tình: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố: 喜, 怒, 哀, 樂, 愛, 惡.

Bộ 61 心 tâm [24, 28] U+6207
戇 tráng
戆 gàng, zhuàng
(Tính) Ngu đần, ngớ ngẩn.
(Tính) Vụng về, nóng nảy nhưng thẳng thắn. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Kì phụ danh Liêm, tính tráng chuyết 其父名廉, 性戇拙 (Tịch Phương Bình 席方平) Cha tên là Liêm, tính cương trực nhưng vụng về.
(Động) Cãi cọ, tranh biện.

29 NÉT

1. [讟] độc 2. [鸜] cù 3. [驪] li 4. [驪] li 5. [鸛] quán 6. [爨] thoán 7. [鬱] uất, úc

Bộ 149 言 ngôn [22, 29] U+8B9F
讟 độc

(Động) Oán hận. ◇Minh sử 明史: Hoặc vị Hòa viết: Dân độc hĩ, nại hà? 或謂和曰: 民讟矣, 奈何? (Thang Hòa truyện 湯和傳) Có người nói với Thang Hòa rằng: Dân oán hận đó, làm thế nào?
(Động) Phỉ báng. ◇Tả truyện 左傳: Dân vô báng độc, chư hầu vô oán 民無謗讟, 諸侯無怨 (Chiêu Công nguyên niên 昭公元年) Dân không chê bai bêu riếu, chư hầu không oán trách.
(Danh) Lời oán hận, hủy báng.

Bộ 196 鳥 điểu [18, 29] U+9E1C
鸜 cù

Cũng như chữ cù 鴝.

Bộ 187 馬 mã [19, 29] U+9A6A
驪 li
骊 lí, chí
(Danh) Ngựa ô. ◇Liêu trai chí dị 聊齋志異: Li mã sanh câu hĩ, mẫu dã 驪馬生駒矣, 牡也 (Tam sanh 三生) Con ngựa ô đẻ con rồi, (đó là một) con đực.
(Danh) Li câu 驪駒 một bài thơ tiễn biệt ngày xưa. Vì thế văn từ tặng kẻ đi xa gọi là li ca 驪歌.
(Danh) Li châu 驪珠: (1) Ngọc châu ở dưới cổ con li long 驪龍. § Tục gọi những câu văn lột được hết chỗ yếu ước là tham li đắc châu 探驪得珠. (2) Tên khác của long nhãn 龍眼.
(Phó) Sóng đôi, ngang hàng. ◇Trương Hành 張衡: Li giá tứ lộc 驪駕四鹿 (Tây kinh phú 西京賦) Đóng xe ngang hàng bốn hươu.

Bộ 196 鳥 điểu [18, 29] U+9E1B
鸛 quán
鹳 guàn, huān, quán
(Danh) Chim khoang. § Giống chim hạc mà đầu không đỏ, cổ dài, mỏ dài, suốt mình màu tro, đuôi và cánh đen, làm tổ ở trên cây cao.
(Danh) Nga quán 鵝鸛 tên một trận thế thời xưa.

Bộ 192 鬯 sưởng [19, 29] U+9B31
鬱 uất, úc
郁 yù
(Động) Tích chứa, trì trệ không thông. ◎Như: uất kết 鬱結 uất ức.
(Động) Oán hận. ◇Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋: Cố nhạc dũ xỉ, nhi dân dũ uất, quốc dũ loạn 故樂愈侈, 而民愈鬱, 國愈亂 (Trọng hạ kỉ 仲夏紀, Xỉ nhạc 侈樂) Cho nên nhạc càng phóng dật, mà dân càng oán hận, nước càng loạn.
(Tính) Buồn bã, không vui. ◎Như: uất muộn 鬱悶 buồn bực. ◇Nguyễn Trãi 阮廌: Uất uất thốn hoài vô nại xứ 鬱鬱寸懷無奈處 (Quy Côn Sơn chu trung tác 歸崑山舟中作) Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao.
(Tính) Sum suê, tốt tươi, rậm rạp. ◇Cổ thi 古詩: Thanh thanh hà bạn thảo, Uất uất viên trung liễu 青青河畔草, 鬱鬱園中柳 (Thanh thanh hà bạn thảo 青青河畔草) Xanh xanh cỏ bờ sông, Sum suê liễu trong vườn.
(Danh) Hơi xông lên, mùi nồng. ◎Như: phức uất 馥鬱 mùi thơm phức.
(Danh) Uất kim 鬱金 nghệ.
(Danh) Uất kim hương 鬱金香: (1) Hoa tu-lip (tulipe). (2) Một loại rượu ngon. ◇Lí Bạch 李白: Lan Lăng mỹ tửu uất kim huơng, Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang 蘭陵美酒鬱金香, 玉碗盛來琥珀光 (Khách Trung Tác 客中作) Rượu ngon vị ngọt ngát hương hoa, Hổ phách lung linh chén ngọc ngà.
Cũng có âm là úc.
Còn viết là 郁.
1. [陰鬱] âm uất 2. [盤鬱] bàn uất 3. [鬱陶] uất đào 4. [鬱蒸] uất chưng

陰鬱 âm uất
Hơi độc lên ngùn ngụt.

盤鬱 bàn uất
Quanh co thâm u. ◇Quách Nhược Hư 郭若虛: Thường ư Thanh Nguyên tự bích họa “Võng xuyên đồ”, nham tụ bàn uất, vân thủy phi động 嘗於清源寺壁畫輞川圖, 巖岫盤鬱, 雲水飛動 (Đồ họa kiến văn chí 圖畫見聞志, Vương Duy 王維).
Quanh co tươi đẹp. ◇Đoạn Thành Thức 段成式: Chí thử san, cung điện bàn uất, lâu đài bác xưởng 至此山, 宮殿盤鬱, 樓臺博敞 (Đậu dương tạp trở 酉陽雜俎, Ngọc cách 玉格) Đến núi này, cung điện quanh co tươi đẹp, lâu đài rộng lớn rực rỡ.
Uất kết. ◇Quách Mạt Nhược 郭沫若: (Vương Tụ Tinh) nhân ái dục bàn uất ư hung trung, chánh tác tối hậu chi giao chiến 王聚星因愛欲盤鬱於胸中, 正作最後之交戰 (Nam quan thảo 南冠草, Đệ nhị mạc đệ nhất trường).

鬱陶 uất đào
Ưu tư, dáng lo nghĩ, nhung nhớ. ◇Diêu Sĩ Bệ 姚士陛: Chu bạc văn tiêu thác, Hương tâm chánh uất đào 舟泊聞宵柝, 鄉心正鬱陶 (Nguyệt dạ bạc Từ thủy 月夜泊慈水) Thuyền đậu nghe mõ canh, Lòng quê chạnh bồi hồi.
Ngưng tụ.
Hình dung vui mừng nhưng chưa hả hê. ◇Thang Hiển Tổ 湯顯祖: Xuân tâm uất đào, xuân sắc kiều nhiêu, hoa tiền nhạn hậu đồng hoan tiếu 春心鬱陶, 春色嬌嬈, 花前雁後同驩笑 (Tử tiêu kí 紫簫記, Du tiên 游仙).
Hừng hực, hơi nóng bốc lên.

鬱蒸 uất chưng
Nung nấu.

30 NÉT

1. [鸝] li 2. [鱺] li, lễ 3. [鸞] loan

Bộ 196 鳥 điểu [19, 30] U+9E1D
鸝 li
鹂 lí
(Danh) Hoàng li 黃鸝 chim vàng anh, hoàng oanh. ◇Trần Nhân Tông 陳仁宗: Hoàng li bất ngữ oán đông phong 黄鸝不語怨東風 (Khuê sầu 閨愁) Chim vàng anh không hót, giận gió xuân.

Bộ 195 魚 ngư [19, 30] U+9C7A
鱺 li, lễ
鲡 lí, lǐ
(Danh) Cá chình.
Một âm là lễ. (Danh) § Cũng như lễ 鱧.

Bộ 196 鳥 điểu [19, 30] U+9E1E
鸞 loan
鸾 luán
(Danh) Chim loan (theo truyền thuyết là một loài chim thần tiên, giống như phượng hoàng). ◇Ngô Thì Nhậm 吳時任: Ngọc tiêu hưởng đoạn thương phi phượng, Bích động đài thâm trướng biệt loan 玉簫響斷傷飛鳳, 壁峒苔深悵别鸞 (Vịnh Giáng Hương 詠絳香) Sáo ngọc đứt tiếng, buồn nỗi chim phượng đã bay cao, Động biếc đầy rêu, ngán nhẽ chim loan phải li biệt.
(Danh) Cái chuông buộc trên ngựa. § Thông loan 鑾. ◇Khuất Nguyên 屈原: Dương vân nghê chi yểm ái hề, Minh ngọc loan chi thu thu 揚雲霓之晻藹兮, 鳴玉鸞之啾啾 (Li tao 離騷) Tung mây mống u ám hề, Vang chuông ngọc leng keng.
(Danh) Họ Loan.

31 NÉT

1. [灩] liễm, diễm 2. [饢] nang, năng

Bộ 85 水 thủy [28, 31] U+7069
灩 liễm, diễm
yàn
(Tính) Liễm liễm 灩灩 nước động sóng sánh.
Còn đọc là diễm. (Động) Liễm diễm 瀲灩 sóng nước lóng lánh. ◇Tô Thức 蘇軾: Thủy quang liễm diễm tình phương hảo 水光瀲灩晴方好 (Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ 飲湖上初晴後雨) Mặt nước sáng lóng lánh, mưa vừa tạnh, trông càng đẹp.

Bộ 184 食 thực [22, 31] U+9962
饢 nang, năng
馕 nǎng, náng
(Danh) Một loại bánh mì ở vùng Tân Cương, gốc từ nước Ba Tư.

32 NÉT

1. [籲] dụ

Bộ 118 竹 trúc [26, 32] U+7C72
籲 dụ
yù, xū
(Động) Kêu lớn, thỉnh cầu. ◎Như: hô dụ vô môn 呼籲無門 không chỗ kêu cầu.

33 NÉT

1. [麤] thô 2. [鱻] tiên

Bộ 198 鹿 lộc [22, 33] U+9EA4
麤 thô

(Tính) Xa xôi.
(Tính) To, lớn. ◇Tôn Chi Úy 孫枝蔚: Tự đáo gia viên tiếu ngữ thô 敘到家園笑語麤 (Tống lệnh huynh quy tự quan ngoại 送令兄歸自關外) Về tới vườn nhà tiếng cười nói vang to.
(Tính) Xưa dùng như thô 粗: không mịn, cồng kềnh, thô lỗ, sơ sài, v.v.
(Danh) Giày cỏ, giày gai.
(Danh) Gạo giã không kĩ.

Bộ 195 魚 ngư [22, 33] U+9C7B
鱻 tiên
xiān
Cũng như chữ tiên 鮮.

Kho Tàng Truyện Nôm Khuyết Danh tập1 [PDF]

Khotangtruyennomkhuyetdanh1

Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam [PDF]

KhoTangTruyenCoTichVietNam

Phù Dung Tân Truyện [PDF]

phu dung tan truyen

Trống Quân Tân Truyện [PDF]

TRONG QUAN TAN TRUYEN

Địa Tạng Bản Hạnh [PDF]

dia tang ban hanh

TRƯƠNG CHI MỴ NƯƠNG

Ngày xưa, có một ông quan thừa tướng sinh được người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Nàng ở cấm cung trong ngôi lầu cạnh bờ sông.

Bấy giờ có một chàng trai con nhà thuyền chài tên là Trương Chi, ngày ngày đến thả lưới kiếm ăn trên khúc sông đó. Chàng ta thường buông lưới, vừa hát. Tiếng hát rất hay, khiến cho Mỵ Nương ở trong lầu xao xuyến say mê.

Một dạo, Trương Chi đi đánh cá ở khúc sông khác. Không được nghe tiếng hát, Mỵ Nương sinh ra sầu não. Nàng bồn chồn trông đợị Tiếng hát vẫn vắng lặng và nàng bắt đầu ốm.

Thừa tướng vội cho mời các lương y đến xem mạch, bốc thuốc. Thuốc uống đã nhiều mà bệnh Mỵ Nương vẫn không chuyển. Sau thừa tướng hỏi dò những người hầu hạ Mỵ Nương, mới biết là con mình ốm tương tư. Các lương y khuyên thừa tướng cho gọi anh lái đò đến.

Trương Chi được mời đến thăm Mỵ Nương. Chàng ta đội chiếc nón lá che mất khuôn mặt mình. Mỵ Nương năn nỉ mãi, phải ra lệnh, Trương Chi mới ngả nón ra. Nhưng khi nhìn thấy mặt Trương Chi, Mỵ Nương vỡ mộng, vì Trương Chi xấu xí quá. Nàng cho chàng ra về, và từ đó không còn yêu hình bóng Trương Chi nữa.

Về phần Trương Chi, từ khi trông thấy Mỵ Nương xinh đẹp, chàng ta thầm yêu nàng. Chàng tủi cho thân phận nghèo bèn của mình, buồn chân không thiết gì ăn làm ăn nữa. Chàng hát:

Kiếp này đã dở dang nhau,
Thì xin kiếp khác, duyên sau lại lành.
Trương Chi mang mối tình hận mà chết vì tương tư.

Một dạo sau không ai còn nghe tiếng chàng hát trên sông nữa, Mỵ Nương lại nhớ tiếng hát, hỏi ra mới biết anh dân chài đã chết. Mỵ Nương sai đắp cho chàng một nấm mộ cao.

Nhưng lạ thay, khi đào mộ lên, thịt xương Trương Chi đã tan rửa, duy chỉ có trái tim biến thành một khối ngọc sáng long lanh.

Mỵ Nương sai người mang khối ngọc đẽo một cái ly nước.

Một hôm, Mỵ Nương cầm chén rót nước, thì lạ thay, hình ảnh người đánh cá chèo thuyền hiện lên chậm chậm xoay quanh trong lòng chén. Tức thì tiếng hát năm xưa cũng văng vẳng như than, như trách.

Mỵ Nương chạnh lòng nhớ lại mối tình đã qua. Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén và tự nhiên chén ngọc tan ra thành nước.

Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai tân truyện [đang cập nhật…][PDF]

Duy-Tân Kỷ-Dậu Hạ
Liễu-Văn-Đường tàng bản

Trăm năm trong hội kỳ phùng,
Nguồn ân bể ái tình chung tiên trần
Cơ tác hợp sự tiền nhân
Trong vòng tạo hoá xoay vần ai qua
Kìa tiên muội nọ tiên nga
Nước dương khôn dưới ngoài lò trần tâm
Đỗ-Lan cách mấy cao thâm
Cùng chàng Trương kết tri âm cõi trần
Thời chăng duyên kiếp nợ nần
Sợi tơ hầu dễ buộc chân ai vào
Non tiên một đoá yêu đào
Cỏ hoa hớn hở như chào chúa xuân
Người tử phủ khách hồng quần
Phải duyên nghìn dậm như gần tấc gang
Thấy trong tiền định rõ ràng
Mới hay kim cải đá vàng là duyên
Gẫm xem chuyện cũ ngày tiên
Bút văn sinh hãy ghi truyền sử xanh
Vĩnh-bình niên hiệu Hán minh
Đức vua rõ xét chính thanh tục thuần
Lầu lậu ngọc chúc mười phân
Trăm quan xứng chức muôn dân an bình
Rộng dài lò lợi đường danh
Mà trong di tính thích tình mặc ai
…..Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai Tân Truyện

Từ Thức Tân Truyện [PDF]

TU THUC TAN TRUYEN

Lưu Bình Dương Lễ Tân Truyện [đang cập nhật…][PDF]

Nghìn xưa danh tiết lưu phương,
Gương treo hai chữ cương thường ở trong.
Kìa bạn hữu nọ vợ chồng,
Bề nào cũng ở trong vòng nhân luân.
Xem ra mới biết trời gần,
Làm người nên giữ lấy phần thiện đoan.
Thư song nhân buổi thanh nhàn,
Thấy trong tiểu tiết tân san (1) rành rành.
………….

luu binh duong le tan truyen

Hạnh Thục Ca [đang cập nhật…]

Hạnh Thục ca (năm 1900)
của Nguyễn Nhược Thị Bích, Trần Trọng Kim sưu tầm, phiên âm, chú thích, giới thiệu
Hạnh Thục ca, tên đầy đủ là Loan dư Hạnh Thục quốc âm ca, do Nguyễn Nhược Thị Bích sáng tác bằng chữ Nôm, dài 1036 câu, theo thể thơ lục bát, phần lớn kể lại mọi biến cố xảy ra từ khi quân Pháp sang lấy Việt Nam cho tới lúc Thành Thái lên nối ngôi vua. Theo các nhà nghiên cứu, thì đây là một tác phẩm rất có giá trị về mặt sử liệu.
Lời tựa của Lệ thần Trần-Trọng-Kim
1. Lời mở đầu nói sự kế truyền ở nước Việt-nam
2. Vua Gia-long ra đời
3. Pháp sang lấy Nam-Việt
4. Giặc ở Bắc-Việt
5. Pháp đánh Bắc-Việt lần thứ nhất
6. Pháp đánh Hà-nội lần thứ hai
7. Vua Dực-tông mất
8. Từ-Dụ Thái-hậu thương con
9. Đức-độ của vua Dực-tông
10. Không có con nuôi cháu làm con
11. Tường và Thuyết bỏ Tự-quân
12. Tường, Thuyết xin lập vua Hiệp-Hòa
13. Phan đình Phùng can, bị giam
14. Vua Hiệp-Hòa lên ngôi
15. Quân Pháp vào đánh Thuận-an
16. Thái-độ vua Hiệp-hòa Đối với vua Dực-tông
17. Tường và Thuyết tâu bà Thái-hậu bỏ vua Hiệp-hòa
18. Giết vua Hiệp-Hòa đã thoái vị và ông Trần Tiễn Thành
19. Lập vua Kiến-phúc
20. Làm lễ Ninh lăng cho vua Dực-tông
21. Pháp sách-nhiễu mọi điều ở Huế
22. Quyền thần hoành-hành trong kinh
23. Vua Kiến-phúc mất
24. Tường và Thuyết nói có di-chiếu lập ông Ưng Lịch
25. Vua Hàm-Nghi lên ngôi
26. Giết ông Dục-đức và các hoàng thân
27. Làm lễ Tấn tôn bà Từ-dụ Thái-hậu
28. Pháp lại uy-hiếp, Tôn-thất-Thuyết định chống lại
29. Lập đồn Tân sở
30. Thống-tướng De Courcy vào Huế
31. Tôn-Thất Thuyết đánh quân Pháp
32. Xa-giá xuất ngoại
33. Xa-giá đến Quảng-trị
34. Tôn-Thất-Thuyết để các bà ở lại và đem vua Hàm-Nghi đi
35. Được tin Nguyễn văn Tường
36. Xa-giá tam-cung trở về Khiêm-lăng
37. Nguyễn văn Tường xin Thái-hậu hãy tạm thính-chính
38. Quân Cần-vương nổi lên ở mọi nơi
39. Sai người đi tìm vua Hàm-Nghi
40. Nguyễn hữu Độ ở Bắc vào Huế bất hòa với Nguyễn văn Tường
41. Định lập vua khác
42. Nguyễn văn Tường bị bắt đi đầy
43. Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình vào Huế giữ triều chính
44. Khâm-sứ Pháp vào yết kiến bà Thái-hậu
45. Vua Đồng-Khánh lên ngôi
46. Gia tôn bà Thái-hậu
47. Vua Đồng-khánh ra Quảng-trị
48. Vua Đồng-khánh mất
49. Vua Thành-thái lên ngôi
50. Lễ bát tuần bà Thái-hậu

GIA HUẤN CA

Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.
*
* *

Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm,
Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh
Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
Hoặc khi hội hát linh đình,
Được lời dạy đến thì mình hãy ra,
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa.
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,
Đừng đảo điên có nói làm không.
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai
Cầm cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai ?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,
Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,
Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,
Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi.
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
Sách có chữ “nhập gia vấn húy”,
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
Chữ “tùy” là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm
Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu “tương kính như tân” làm lòng.
Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.
In lấy chữ tao khang chi nghị,
Đừng mang câu đố kỵ chi thường.
Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu “đường cái” xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai ?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,
Ấm no nên xót lấy người bơ vơ
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ “tùy” rắn khúc nghi gia.
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.
Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa, ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch.
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.
Ắy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,
Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng,
Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần.
Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước,
Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,
Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy.
Bọt bèo là phận nô tỳ,
Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví “Chiều người lấy việc”,
Chẳng há nên ráo riết người ta.
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi.
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,
Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,
Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi.
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,
Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,
Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây “cần kiệm” gọi là làm duyên
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng; ngày đói tháng đông,
Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung,
Sống không, thác lại tay không có gì.
Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.
Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!
Thấy người mà phải lo ta,
Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.
Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.
Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,
… (thiếu một câu)
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách,
Câu “hữu trai” nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
Siêng năng thì chăm chú việc ta.
Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy rắng “giữ lửa chẳng chơi”.
Cho hay đại phú bởi trời,
Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì.
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường
Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.
Có chữ rằng: “đạo trọng thân thân”,
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,
Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,
Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung.
Dạy những kẻ đàn bà con gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
Phận là gái ít đường giáo hối,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua chát thay những tính cương cường
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,
Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
Bề họ mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.
Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si,
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân,
Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế gian lắm kẻ điên mê,
Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
Đào tơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!
Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào ?
Chữ rằng “sinh ngã cù lao”,
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh.
Loạn rồi lại có khi bình,
Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,
Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
Ấy là thủa trước nam nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào ?
Chữ rằng: “loạn độc thư cao”,
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
Bõ khi nghèo khổ chua cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.
Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu!
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.
Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.
Bước lên đường vào cửa ung dung,
Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,
Học hành cho biết thỉ chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông minh,
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,
Cương thường giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.
Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô giẹp loạn, kinh luân mở nền
Pho kinh sử làu chuyên nghề học,
Chốn thư đường từng đọc hôm mai,
Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn nho sĩ tử,
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,
Làm nên trọng chức cao quyền,
Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tôn sinh,
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
Lý sinh chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
Làm trai chí khí hiên ngang,
Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông
Lão Tuyền tuổi cả gia công,
Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,
Đỗ Thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình
Đường vân trình dù sau dù trước,
Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
Thư trung Kim ngọc vô vàn,
Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đả hẳn rằng tốt đẹp hơn ai ?
Thư trung có gái tuyệt vời,
Những người mặt ngọc là người vẻ vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy giọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương.
Thư trung tuấn vũ điêu tường.
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
Ai có chí đêm ngày luyện tập,
Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,
Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.

AI TƯ VÃN

AI TƯ VÃN

1. Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.

5. Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao ?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao…
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời !

Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
10. Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ “nghi gia” mừng được phải duyên.
15. Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
20. Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.

Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

25. Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.

Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
30. Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.

Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
35. Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng ?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
40. Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.

Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay ?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu ?

45. Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương ?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
50. Ngỡ hương trời bãng bãng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.

Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
55. Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa !

Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
Có ai chốn ấy về đây,
60. Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành ?

Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

65. Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình !

Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
70. Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ?
75. Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.

Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
80. Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.

vodanhtienboi:
Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

85. Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;

Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
90. Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao !
95. Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi ?

Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai ?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
100. Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.

Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu ?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.

105. Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ !

Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
110. Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
115. Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc thời ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
120. Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.

125. Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu ?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.

Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
130. Nỗi sinh cơ có thấu cho không ?
Cung xanh đang tuổi ấu xung
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương ?

Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
135. U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.

Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cách hương quê,
140. Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.

Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi.
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.

145. Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi ?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng ?

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
150. Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
155. Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu ?
Phút giây bãi bể nương dâu,
160. Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
164. Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

NHỊ THẬP TỨ HIẾU

Nhị thập tứ hiếu

1- Khai-mào

Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha mẹ sinh-thành,
Gương treo đất nghĩa trời kinh ,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên ,
Chẳng xem thuở trước thánh-hiền,
Thảo hai-mươi-bốn, thơm nghìn muôn thu.
2- Vua Đại Thuấn nhà Ngu

Đức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn
Buổi tiềm long gặp vận hàn-vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ-vi
Cha là Cổ Tẩu người thì ương-ương.
Mẹ ghẻ lại tính càng khe-khắt
Em Tượng thêm rất mực kiêu-ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba
Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em.
Trăm cay-đắng, một niềm ngon-ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối, kêu mai,
Xui lòng ghen-ghét hóa vui dần dần.
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,
Vật vô tri cũng mến nọ người,
Mấy phen non Lịch pha-phôi,
Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh Trung-dung trao chánh nhường ngôi,
Cầm-thi, xiêm áo thảnh-thơi
Một nhà đầm-ấm, muôn đời ngợi-khen.

3- Vua Văn- đế nhà Hán.

Kìa Văn-đế vua hiền Hán-đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi Phiên-vương
Quên mình chức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc-hậu lễ thường chẳng sai.
Đến khi nối ngôi trời trị nước,
Vẫn lòng này săng-sắc như xưa,
Mẹ khi ngại gió kinh mưa,
Ba năm hầu-hạ, thường như một ngày.
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ,
Áo luôn mình dám sổ đai lưng,
Thuốc thang mắt xét, tay nâng,
Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn,
Tiếng nhân-hiếu đồn vang thiên-hạ,
Thói thuần-lương hóa cả lê-nguyên.
Hai mươi năm lẻ kiền-khôn,
Đả sau Tam-Đại, hãy còn Thành, Khang.
Ấy hay vị đế-vương đời trước,
Chữ hiếu đành đá tạc vàng in,
Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền,
Đến xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.

4- Tăng-tử đời nhà Chu

Đời Chu-mạt có thầy Tăng-tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,
Bữa thường rượu thịt ngon-lành
Cho ai, vâng cứ đinh-ninh chẳng rời
Nhà bần-bạc thường vui hái củi,
Quãng mù xanh thui-thủi non sâu,
Mẹ ngồi tựa bóng cửa sau,
Nhân khi khách đến, trông mau con về.
Rối trong dạ nhân khi cùng-túng,
Cắn ngón tay cho động lòng con,
Trông non bỗng chốc bồn-chồn,
Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân,
Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi,
Lắng bên tai nghe giãi nguồn cơn,
Cho hay từ, hiếu, tương-quan,
Non Đồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông.

5- Mẫn Tử-khiên nhà Chu

Thầy Mẫn-tử rất đường hiếu-nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh-quẽ đã lâu,
Thờ cha sớm viếng, khuya hầu
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng-nàn,
Trời đương tiết đông-hàn lạnh-lẽo,
Hai em thời kép áo dày bông,
Chẳng thương chút phận long-đong,
Hoa lau nỡ để lạnh-lùng một thân.
Khi cha dạo theo chân xe đẩy,
Rét căm-căm nên xảy rời tay,
Cha nhìn ngẫm-nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt giây xướng tuỳ,
Gạt nước mắt, chân quì miệng gửi :
“Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn,
“Mẹ còn chịu một thân đơn
“Mẹ đi, luống để cơ-hàn cả ba.”
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi,
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa.
Cho hay hiếu cảm nên từ,
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai ?
6- Tử Lộ nước Lỗ

Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ,
Thờ hai thân từng bữa canh lê,
Thường khi đội gạo đi về,
Xa-xôi trăm dặm, nặng-nề hai vai.
Đỉnh Hoa-biễu từ khơi bóng hạc,
Gót nam-du nhẹ bước tang-bồng,
Xe trăm cỗ, thóc muôn chung,
Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao.
Thân phú-quí ngắm vào thêm tủi,
Đức cù-lao chạnh tới càng đau,
Nào khi đội gạo, canh rau,
Muốn còn như cũ, dễ hầu được ru !
Lòng thắc-mắc nghìn thu vẫn để,
Biết bao giờ cam-chỉ đền công<
Cho hay dạ hiếu khôn cùng,
Dẫu Tam-Công chẳng đổi lòng Thần-hôn.

7- Diễm-Tử

Chu, Diễm-tử làm con rất thảo,
Chiều hai thân tuổi lão niên cao,
Mắt trần khuất nguyệt mờ sao,
Sữa hươu người những ước-ao từng ngày.
Vật khó kiếm khôn hay thường dõi,
Phải lo phương tìm-tõi cho ra,
Hươu khô tìm lột lấy da,
Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo.
Chốn non thẳm tìm vào bầy-lứa,
Sẽ dần-dà lấy sữa nuôi thân,
Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
Rắp buông cung bắn khôn phân vật người.
Đem tâm-sự tới nơi bày tỏ,
Chút hiếu tình nghe rõ cũng thôi,
Cho hay chung một tính trời,
Mảnh son cũng động được người vũ-phu.
8- Lão Lai-tử

Lão Lai-tử đời Chu, cao-sĩ,
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi,
Tuổi già đã đúng bảy mươi,
Nói-năng chẳng chút hở môi rằng già.
Khi thong-thả mẹ cha ngồi trước,
Ghé gần vào bắt-chước trẻ thơ,
Thấp cao điệu múa nhởn-nhơ,
Xênh-xoang mão áo, bạc phơ mái đầu.
Chốn đường thượng khi hầu bưng nước
Giả làm điều ngã trước thềm hoa,
Khóc lên mấy tiếng oa oa
Tưởng chừng lên bảy lên ba thưở nào.
Trên tuổi-tác trông vào vui-vẻ,
Áng đình-vi gió thụy mưa xuân
Cho hay nhân tử sự thân,
Trong trăm năm được mấy lần ngày vui.

9- Đồng Vĩnh đời Hậu-Hán

Đời Hậu-Hán có ngươi Đồng Vĩnh,
Nhà rất nghèo mà tính rất thành,
Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh,
Phụ tang để đó, nhân-tình còn chi!
Liều thân để làm thuê công việc,
Miễn cầu cho thể-phách được yên.
Cực người thay ! nhẽ đồng tiền,
Đem thân hiếu-tử, băng miền phú-gia.
Bỗng gặp kẻ đàn-bà đâu đó,
Xin kết làm phu-phụ cùng đi,
Lụa ba trăm tấm dệt thuê,
Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau.
Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến,
Là tiên-cô trời khiến giúp công,
Mới hay trời vốn ở lòng,
Há rằng cao thẳm nghìn trùng mà xa.

10- Quách Cự nhà Hán

Hán, Quách Cự cửa nhà sa-sút,
Thờ mẫu-thân chăm-chút mọi bề,
Con còn ba tuổi biết gì,
Bữa ăn từ-mẫu thường thì bớt cho.
Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói,
Với hiền-thê than nỗi khúc-nôi:
"Mẹ già đã chẳng hay nuôi,
"Để con xẻ ngọt, chia bùi sao đang?
"Vợ chồng ta còn phen sinh đẻ,
"Mẹ già rồi, hồ dễ được hai ".
Nói thôi giọt ngắn giọt dài,
Đào ba thước đất để vùi tình thâm.
May đâu thấy hoàng-câm một hũ,
Chữ "trời cho" đề rõ rành rành,
Cho hay trời khéo ngọc thành,
Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con.
11- Khương Thị đời Hán

Hán Khương Thị nhà còn lão-mẫu,
Vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,
Mẹ thường muốn uống nước sông,
Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô.
Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém
Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi,
Lại mời lân-ẩu sang chơi,
Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già.
Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt,
Với nước sông in một mùi ngon,
Lý-ngư ngày nhảy hai con,
Đủ trong cung-cấp thần-hôn thường lề.
Rày thong-thả bõ khi lận-đận,
Cam thỏa lòng dâu thuận, con hiền,
Cho hay gia-đạo khi nên,
Đã con hiếu, lại được hiền cả dâu.

12- Thái Thuận nhà Hán

Ngươi Thái Thuận ở sau đời Hán,
Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay
Đương cơn khói lửa mây bay,
Liền năm hoang-khiểm ít ngày đủ no.
Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ,
Nhặt quả dâu chia để làm hai.
Tặc-đồ trông thấy nực cười,
Hỏi: sao bày-đặt đôi nơi cho phiền !
Rằng: "Quả ấy sắc đen thì ngọt.
"Dâng mẹ già gọi chút tình con,
"Còn là sắc đỏ chẳng ngon,
"Cái thân cay-đắng dám còn sợ chua!"
Giặc nghe nói khen cho hiếu kỉnh,
Bước lưu-ly mà gánh cương-thường,
Truyền quân của tiễn sẵn-sàng,
Vó trâu một chiếc, gạo lương một bầu.
Mừng trong dạ, bước mau nhẹ gót,
Về tới nhà, miếng sốt dâng qua.
Cho hay người cũng người ta,
Biết đâu đạo-tặc, chẳng là lương-tâm ?
13- Đinh Lan nhà Hán

Hán, Đinh Lan thuở còn thơ-ấu,
Bóng xuân-huyên khuất dấu non xanh.
Đến nay tuổi đã trưởng-thành,
Cám công sơn-hải, thiệt tình trân-cam.
Tưởng dung-mạo khắc làm mộc-tượng
Cứ bữa thường phụng-dưỡng như sinh,
Khi chăn-gối, buổi cơm canh,
Mấy mươi năm, vẫn lòng thành trước sau.
Phải người vợ, kính lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm kẽ ngón tay,
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao !
Khi đến bữa chồng vào đặt lễ,
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa-chan,
Xét xem mới biết nguồn cơn,
Nổi bừng lá giận, dứt tan dây tình.
Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân,
Cho hay thành hẳn nên thần,
Há rằng u, hiển, mà phân vong, tồn,

14- Lục Tích nhà Hán

Hán, Lục Tích thuở còn sáu tuổi,
Quận Cửu-giang đến với họ Viên,
Trẻ thơ ai chẳng yêu khen,
Quít ngon đặt tiệc tiểu-diên đãi cùng.
Cất hai quả vào trong tay áo,
Tiệc tan xong từ-cáo lui chân,
Trước thềm khúm-núm gửi thân <
Vô tình quả quít nẩy lăn ra ngoài.
Viên trông thấy cười cười, hỏi hỏi,
Sao khách hiền mang thói trẻ-thơ?
Thưa rằng: "Mẹ vốn tính ưa,
Vật ngon dành lại để đưa mẹ thì".
Viên nghe nói trọng vì khôn xiết,
Bé con con mà biết hiếu thân,
Cho hay phú dữ thiên chân,
Sinh ra ai cũng sẵn phần thiện đoan.

15- Giang Cách nhà Hán

Hán, Giang Cách cô-đơn từ bé,
Bước truân-chuyên với mẹ đồng cư,
Đương cơn loạn-lạc bơ vơ,
Một mình cõng mẹ vẩn-vơ dọc đường.
Từng mấy độ chiến-trường gặp giặc,
Giặc cố tình hiếp bắt đem đi,
Khóc rằng: "Thân mẹ lư-ly,
Tuổi già bóng chếch biết thì cậy ai !"
Giặc nghe nói thoắt thội chẳng nỡ.
Rồi dần dà qua ở Hạ-bì.
Dấn mình gánh mướn làm thuê,
Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân.
Mọi đồ vật sắm dần đủ hết,
Áng xuân-phong tươi nét từ-nhan
Cho hay những lúc gian-nan,
Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng,

16- Hoàng Hương đời Đông-Hán

Đời Đông-Hán Hoàng Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dòi-dõi nhớ thương,
Hạt châu khôn ráo hai hàng,
Tiếng hiền đồn dậy trong làng đều khen.
Thờ nghiêm-phụ cần chuyên khuya sớm
Đạo làm con chẳng dám chút khuây.
Trời khi nắng hạ chầy chầy
Quạt trong màn gối hơi bay mát rầm.
Trời đông buổi sương dầm tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm chiếu-chăn.
Vì con cha được yên thân,
Bốn mùa không biết có phần hạ đông,
Tiếng hiếu-hạnh cảm lòng quận-thú
Biểu nêu treo chói đỏ vàng son,
Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
Nghìn thu biết đạo làm con mấy người ?

17- Vương Thôi đời Tấn

Ngụy Vương Thôi gặp đời Tây-Tấn
Vì thù cha lánh ẩn cao bay,
Bên mồ khóc đã khô cây,
Trọn đời ngồi chẳng hướng tây lúc nào.
Khi sấm-sét tìm vào mồ mẹ,
Lạy khóc rằng: "Con trẻ ở đây ",
Bởi vì tính mẹ xưa nay,
Vốn tưng sợ sấm những ngày gió mưa.
Nên coi sóc chẳng từ sớm tối,
Thần-phách yên, dạ mới được yên,
Trong khi đọc sách giảng truyền,
Tới câu: "sinh ngã", lệ tràn như tuôn.
Ngập-ngừng kẻ cấp môn cũng cảm,
Thơ "Lục nga" chẳng dám còn ngâm,
Cho hay thử lý thử tâm,
Sư, sinh cũng tấm tình thâm khác gì.

18- Ngô Mãnh nhà Tấn

Tấn, Ngô Mãnh tuổi thì lên tám,
Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn,
Cực về một nỗi bần-hàn,
Có giường trong đặt, không màn ngoài che
Trời đương buổi đêm hè nóng-nảy,
Trời muỗi kêu vang dậy dường mưa
Xót thay ! hai đấng nghiêm, từ,
Để người chịu muỗi, bây giờ biết sao !
Nghĩ da thịt phương nào thay lấy ?
Quyết nằm trần, muỗi mấy chẳng xua.
Rầu lòng cho muỗi được no,
Để người êm-ái giấc hòe cho nên.
Tuổi tuy bé mà gan chẳng bé,
Dạ ái thân đến thế thời thôi,
Cho hay phú tính bởi trời,
Những đau trong ruột, dám nài ngoài da,

19- Vương Tường nhà Tấn

Ngươi Vương Tường cũng là đời Tấn,
Tủi huyên-đường sớm lẩn bóng xa,
Mẹ sau gặp kẻ chua-ngoa,
Tiếng gièm thêu-dệt với cha những điều.
Lòng cha chẳng còn yêu như trước,
Lòng con thường chẳng khác như xưa,
Mẹ thường muốn bữa sinh-ngư,
Giá đông trời lạnh bây giờ tìm đâu ?
Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy,
Cởi áo nằm rét mấy cũng vui,
Bỗng đâu váng nở làm hai,
Lý-ngư may được một đôi mang về.
Bữa cung-cấp một bề kính thuận.
Mẹ cha đều đổi giận làm lành,
Cho hay hiếu cảm tại mình,
Dẫu trăm giận, lúc hả tình cũng thôi.

20–Dương Hương đời Tấn

Tấn, Dương Hương mới mười-bốn tuổi,
Cha bước ra hằng ruổi theo cha,
Phải khi thăm lúa đường xa,
Chút thân tuổi-tác thoắt sa miệng hùm,
Đau con mắt hầm hầm nổi giận,
Nắm tay vơ-vẩn giữa đường,
Hai tay chặn giọc đè ngang,
Ra tay chống với hổ-lang một mình.
Hùm mạnh phải nhăn nanh lánh gót,
Hai cha con lại một đoàn về,
Cho hay hiếu mạnh hơn uy,
Biết cha thôi lai biết chi có mình,

21- Mạnh Tông nước Ngô

Ngô, Mạnh Tông phụ-thân sớm khuất,
Thờ mẫu-thân lòng thực khăng khăng,
Tuổi già trằn-trọc băn-khoăn,
Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
Trời đông tuyết biết đâu tìm được,
Chốn trúc lâm phải bước chân đi.
Một thân ngồi tựa gốc tre,
Ôm cây kêu khóc nằn-nì với cây.
Giữa bình-địa phút giây bỗng nứt,
Mấy dò măng mặt đất nổi lên,
Đem về điều đặt bữa canh,
Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy,
Để về sau nhớ lấy cỏ cây,
Cho hay hiếu động cao dày,
Tình sâu nên khiến cỏ cây cũng tình
22- Sứu Kìm Lâu nước Tề

Sứu Kìm Lâu có danh Tề-quốc,
Huyện Bình-lăng nhận chức thân dân,
Tới nha chưa được một tuần,
Bồ-hôi như dội, tâm-thần thường đau.
Treo ấn ruổi vó câu buồn-bã,
Về thăm cha bệnh đã hai ngày,
Nếm dơ vâng cứ lời thầy,
Ngọt-ngào đầu lưỡi, chua-cay trong lòng,
Thấy chữ dạy "bệnh trung nghi khổ" .
Ước làm sao bệnh đỡ mới cam,
Đêm đêm hướng bắc triều tam,
Xin đem tính-mệnh thay làm thân cha.
Lòng cầu-khẩn thấu tòa tinh-tú,
Chữ bình-an vui-thú đình-vi,
Cho hay máy động huyền-vi,
Thay mình truyện trước còn ghi kim-đằng.

23- Đường-Thị vợ họ Thôi

Dâu họ Thôi ai bằng Đường-thị,
Thương mẹ chồng niên-kỷ đã cao,
Không răng ăn dễ được nào.
Ngày ngày lau-chải ra vào thăm coi.
Lấy sửa ngọt thay mùi cơm cháo,
Mấy năm trời chẳng gạo mà no,
Vì đâu dốc dạ thờ cô,
Da mồi tóc bạc bốn mùa như xuân,
Ơn lòng ấy khôn phần báo lại,
Buổi lâm-chung nhủ với hoàng-thiên
Xin cho nguyền được như nguyền,
Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu.
Ai nghe cũng răn nhau hiếu kính.
Cửa Thôi-gia hưng-thịnh đời đời,
Cho hay gia-khánh lâu dài,
Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan,

24- Chu Thọ Xương nhà Tống

Chu thọ Xương làm quan Tống-đại,
Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng,
Bởi vì đích-mẫu chẳng dung.
Đem thân bồ-liễu, bạn cùng nước non,
Muôn nghìn dặm, mẹ con xa khuất,
Năm mươi năm trời đất bơ-vơ,
Sinh con những tưởng cậy-nhờ,
Cái thân sung-sương bây giờ mà chi ?
Bỏ quan chức, quyết đi tìm-tõi,
Năm lời thề nói với gia-nhân,
"Thân này chẳng gặp từ-thân ,
"Thời liều sống thác với thân cho đành."
Trời đâu phụ lòng thành hiếu-tử,
Chốn Đổng-châu bỡ-ngỡ gặp nhau,
Nét mừng ai vẽ nên đâu,
Mẹ đầu nhuốm tuyết, con đầu hoa râm.
Đã bõ lúc than thầm khóc ngấm,
Lại vầy nên trên ấm dưới êm,
Cho hay máu chảy ruột mềm,
Không trời ai tưởng còn tìm được đây ?

25- Hoàng Đình Kiên (Tăng Trực) nhà Tống

Triều Nguyên-hựu có thầy Tăng Trực.
Là họ Hoàng ngồi chức Sử-thần,
Ơn vua đã nhẹ tấm thân,
Phận con vẫn giữ thờ thân như ngày,
Đồ dơ-bẩn thân tay lau-chuốt,
Việc tầm-thường chẳng chút đơn sai,
Há rằng sai-khiến không ai,
Đem thân quan-trưởng thay người gia-nô
Chức nhân-tử phải cho cần-khổ,
Có mẹ cha mới có thân ta,
Cho hay đạo chẳng ở xa,
Hay làm hiếu-tử mới ra trung-thần,

KẾT-LUÂN
Bấy nhiêu tích cổ-nhân về trước,
Cách nghìn xưa như tạc một lòng.
Kể chi kẻ đạt người cùng.
Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di-luân.
Buổi công hạ cảm thân dày đội,
Xa hương-quan gần cõi thánh-hiền,
Trông vào những thẹn bóng đèn,
Muốn lưu gia-phạm, nên truyền quốc-âm

BẠCH VIÊN TÔN CÁC |LÂM TUYỀN KỲ NGỘ – 林泉奇遇

Lâm tuyền kỳ ngộ – 林泉奇遇
“Lâm tuyền kỳ ngộ” 林泉奇遇 là một truyện dài bằng thơ, gồm 146 bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, một bài thơ tứ tuyệt và một bài “Thạch tuyền ca khúc” theo thể hát nói (hai bài này đều ở cuối tác phẩm). Hoàng Xuân Hãn trong “Thi văn Việt Nam” cho rằng tác phẩm này gồm 150 bài thơ Đường luật.

Tác phẩm này hiện vẫn chưa ai tìm ra được tên tác giả, có một số giả định là tác phẩm được viết vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Còn có nơi cho rằng tác giả là hoàng giáp Nguyễn Ðăng, một nho sĩ tài hoa ở Ðại Toán, Bắc Ninh khoảng thời Trịnh Tạc (1657-1682), từng được cử đi sứ nhà Minh năm 1673.

Nội dung tác phẩm dựa vào “Viên thị truyện” 猿氏傳 của Cố Quýnh đời Đường, Trung Quốc, gắn liền với chùa Phi Lai. Truyện miêu tả cuộc tình duyên giữa một nho sinh và một con vượn trắng đã hoá thành người (con vượn vốn là tiên giáng trần). Tính chất lãng mạn, tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, chống những hạn chế của tôn giáo, mạnh dạn biểu lộ những yêu cầu hạnh phúc của con người, của phụ nữ, đã làm nên giá trị chủ yếu của tác phẩm.

Tác phẩm đã được Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San phiên âm từ bản chữ Nôm và xuất bản vào năm 1964 (Nhà xuất bản Văn Hoá Hà Nội).

Bạch Viên vào chùa nghe kinh
Bạch Viên từ biệt chùa Phi Lai
Viên Thị muốn lấy chồng
Viên Thị hỏi Tôn Sinh
Tôn Sinh trả lời Viên Thị
Viên Thị giãi bày tâm sự
Viên Thị trách thân
Viên Thị lên tiên
Bạch Viên nhớ Tôn Sinh
Bạch Viên tâu Thượng Đế
Tôn Sinh tỏ tình
Bạch Viên tỏ tình

Từ ngày kinh giáo dãi bên tai,
Hé cửa tùng hiên mé ngõ ngoài.
khúm núm khấu đầu trên bệ ngọc,
Lâm la mật niệm trước Thiền trai.
Đêm thanh náu gót ngoài tăng viện
Ngày vắng dâng hương trước Phật đài.
Khấn nguyện lòng này tam bảo chứng,
Một thuyền cứu khổ chở riêng ai.

Bạch Viên: con vượn trắng vốn là tiên bị trích xuống cõi trần. Bạch Viên đến chùa Phi Lai tu hành.

Kiếp hoá sinh xưa uẩy đã qua,
Cửa thiền bèn mới lánh chân ra.
Gió thu đèn nguyệt kia là bạn,
Cửa quế rừng xuân nọ ấy nhà.
Trải áng non thanh muôn dặm cách,
Trông chừng am cũ mấy ngàn xa.
Vì duyên cho phải thăm tìm thú,
Vắng vẻ còn phen cảm đức Già.

Sau một thời gian tu ở chùa Phi Lai, nhưng vẫn chưa dứt hết duyên trần, Bạch Viên bỏ chùa mà đi.

Nghĩ ngợi càng thêm vấn mọi đường,
Chạnh lòng vì bởi khách đông sàng.
Ruột tằm chín khúc vò tơ đỏ,
Giấc bướm năm canh diễn khắc vàng.
Cửa động những mong người mối lái,
Bên nguồn luống đợi khách tìm hương.
Kìa ai xe chỉ trong cung nguyệt,
Chỉ để hồng nhan phận lỡ làng.

Sau khi ở chùa ra Bạch viên đã biến thành một tố nữ mang họ Viên.

Xa khơi ngàn dặm thuở hàn sương,
Quân tử về đâu khéo dở dang.
Khác dạng giang hồ, người ẩn dật,
Giống chiều đài các, đấng văn chương.
Sá tìm tạm nghỉ nơi hành quán,
Hay rắp tìm về chốn cố hương.
Vắng vẻ am này nên dám hỏi,
Chín niềm tâm sự ngỏ cơn tường.

Tôn Sinh: tên là Tôn Các. Tôn Các trọ học ở Trường An về thăm quê nhà, lạc đường ở Thạch Tuyền. Viên Thị sai đón Tôn Các đến nhà mình. Đây là lời Viên Thị hỏi lai lịch Tôn Các.

Vốn ở Trường An trải mấy xuân,
Nay về quê cũ viếng song thân.
Cách ngàn chửa đến nơi quen thuộc,
Lạc dấu cho nên sức nhọc nhằn.
Thơ thẩn mong tìm nơi quán khách,
Lân la nào biết chốn hương thôn.
Ơn lòng đoái đến phiền xin nhủ,
Ngõ được nương nhờ chút nghỉ chân.

Tiện thiếp từ tu ở cõi tiên,
Chưa hề bén luỵ thói trần duyên.
Thày nay âu hẳn tơ bà nguyệt,
Gặp gỡ khôn nài phận ả quyên.
Kim cải đã đành duyên mắc mối,
Gió trăng nào quản tiếng chê khen.
Muôn bền cả dám xin giàm buộc,
Hoa nở chiều xuân dễ mấy phen.

Ý bài này nói nay gặp gỡ ở đây cũng là có nhân duyên với nhau.

Nguồn cơn nghĩ tại sự nhân duyên,
Há trách lòng người khéo bạc đen.
Gieo mận trả đào sao chẳng đoái,
Thề sông chỉ núi nỡ nào quên.
Duyên ưa dầu nhẫn đành đôi chốn,
Phận thiếp thương ôi dễ mấy phen.
Xin chớ nghe ai nhời bội bạc,
Vàng ăn hay hết, nghĩa còn bền.

Sau khi Tôn Các gặp Viên Thị ở Thạch tuyền, thì hai người yêu nhau và kết duyên với nhau, rồi sinh được hai con, một hôm nhà sư Nhàn Vân, người quen của Tôn Các chợt đi qua đó, nhân biết Viên Thị không phải là người trần, liền đưa cho Tôn Các một thanh gươm để thử xem Viên Thị có phải là yêu quái không. Tôn Các mang gươm ra thử, Viên Thị không bị tiêu diệt vì nàng là tiên chứ không phải yêu quái. Do đó mà lòng tự ái của nàng bị thương tổn, nàng trách chồng đã yêu sao còn nghi ngờ thử thách.

Cùng chàng giải hết nỗi niềm tây,
Bèn mới dời chân tới cội cây.
Gió cuốn mịt mù muôn dặm ngất,
Sấm ran lừng lẫy nửa canh chầy.
Hương còn thoang thoảng đưa mùi xạ,
Bóng đã mờ mờ khuất bóng mây.
Cung quế nhẫn dầu vui cảnh cũ,
Lãnh lùng sao nỡ để ai đây.

Hết kì hạn ở trần gian, Viên Thị phải về phụng sự Thượng đế.

Từ ngày gót chốn vân tiên,
Nguyện ước lòng xưa chửa chút quên.
Gối phượng mơ màng thêm tưởng nhớ,
Gương loan chung bóng những đau phiền.
Xuân tàn luống để hoa gầy guộc,
Tuyết nhiễm xui nên lẫn bạc đen.
Một dải sông Ngân nên cách trở,
Hạnh nào lại được hợp nhân duyên.

Thác sinh từ thuở cẩn vâng lời,
Gặp gỡ chàng Tôn mới kết đôi.
Một mối thắm nồng, nguyền chưa phỉ,
Hai phen nâng bế, nghĩa nào nguôi.
Nhớ xuân dễ khiến hoa rơi lệ,
Tủi phận cho nên nguyệt ngậm ngùi.
Những ước lại tròn duyên chếch mếch,
Muôn trông bệ ngọc đức tài bồi.

Bóng nguyệt từ phen khuất đoá mây,
Lòng chung sao nặng một riêng đây.
Thành sầu muôn dặm chồng xây ngất,
Bể thảm ba thu chất chứa đầy.
Nửa gối mơ màng tin điệp rủ,
Năm canh mong mỏi sứ hồng bay.
Xôn xao điện quế khi sum họp,
Có thấu tình kia nỗi đắng cay.

Sau khi Bạch Viên được thượng đế cho xuống trần, hai vợ chồng lại gặp nhau.

Chàng đà độ(?) đến thiếp xin tường,
Há thiếp xưa sau dám phụ chàng.
Trao ngọc, vì đà vâng mệnh cả,
Vò tơ, xin để rối lòng thương.
Năm canh xảy nhớ lòng hoài kiển,
Chín khúc thêm đau nỗi đoạn trường.
Những ngỡ ba thân đau phận bạc,
Hay đâu áo lại đượm mùi hương.

HOA ĐIỂU TRANH NĂNG

Sự tích
Gặp ngày bà Tây Vương mẫu mở tiệc thọ, cầm vương Phượng hoàng và Hoa vương là Mẫu đơn đều đem lễ vật đến mừng. Sứ thần bên chim là Bạch thanh, sứ thần bên hoa là Náo dương. Giữa đường, hai bên gặp nhau bên nào cũng đòi đi trước. Sứ thần hai bên ra đấu khẩu với nhau. Bên chim khoe Cầm vương là bậc đạo đức nhất, rồi lại kể những nết hay của loài chim. Bên hoa khoe Hoa vương là bậc phú quí nhất, rồi lại kể những vẻ đẹp của các loài hoa. Không những thế, chim kể xấu hoa, hoa kẻ xấu chim, không bên nào chịu bên nào. Tây Vương mẫu phải cho người ra phân xử, đành cho bên hoa đi trước, lấy cớ là cõi đời phần nhiều trọng phú quí hơn đạo đức. Sau đức Khổng tử biết chuyện, ngậm ngùi than thở, cho là thói đời đã đến lúc suy kém rồi.

Hoa Điểu tranh năng

I-

1.- Ngụ-ngôn lắm truyện nực cười,
Thiên-tiên mà lại đặm mùi phiền-hoa.
Huống chi lòng thế-gian ta,
Tham vàng, bỏ nghĩa cũng là thói quen.

Nhớ xưa ở chốn Đào-viên,
Bà Vương-mẫu mở thọ-diên vui mừng.
Quân-thiên-nhạc tấu vang-lừng,
Tiệc la-ỷ mở tưng-bừng xôn-xao.

Gần xa tiên-nữ đều vào,
10.- Kinh thành đến trước đền Giao lạy mừng.
Vui cười quạt gió, đèn trăng,
Điểu, Hoa cũng được dự mừng chúa tiên

II-

Hoa vương tên gọi Mẫu-đơn,
Ngọc vàng, sắm đủ mọi bàn kính dâng.
Kén người giảo-hoạt nói năng,
Cho làm chánh-sứ đề dâng lễ thành.
Quen giao-thiệp có một anh,
Náo-dương hoa đó thực rành khôn-ngoan.
Sắc phong chánh-sứ, khâm-ban,
20.- Kíp theo hộ-tống xe loan vào chầu.
Còn đương sắm-sửa cùng nhau,
Trông ra đã thấy cờ đâu rợp đường.
Cờ đề hai chữ: Cầm-vương,
Tiền hô, hậu ủng ra tuồng uy-nghi.
Rợp trời thắng ngọn tinh-kỳ,
Tiếng đà giậy khắp sơn-khê đùng-đùng.
Quân đi lẫm-liệt oai-phong,
Giao-trì cung-khuyết, nhác trông gần gần.
Cầm-vương truyền gọi sứ-thần,

30.- Bách-thanh đâu đã đến gần long-xa.
Cầm-vương chỉ-dụ truyền ra,
Sứ-thần khi ấy chúc-hà khoan-thai.
Lệnh truyền chưa kịp dứt lời,
Ầm-ầm đã thấy muôn loài hoa-binh.
Chiêng hồi, trống giục liên thanh,
Hoa-vương truyền gọi đích danh sứ-thần.
Dặn rằng : “Ta phải mau chân,
Để ta chúc thọ trước dân ngoan-cầm”.
Tớ thầy một mực đồng tâm,
40.- Giao-trì thẳng nẻo xăm-xăm tới gần.
Thấy người thị phú khinh bần,
Cầm-vương vội phái sứ-thần ra ngay :
“Ngăn Hoa-vương đóng lại đây,
Cùng vào bái chúc, lẽ này mới công”.

Bách-thanh thiện-kiếm, thần-phong,
Tài biện-bác cũng một lòng Tô, Trương.
Tìm Mẫu-đơn kể mọi đường,
Rằng : “Vua ta thực rõ-ràng anh-quân,
Đã hay có nghĩa, có nhân,
50.-Lại gồm trí, tín, mười phân vẹn mười.
Vả xưa nay tính khác người,
Trí cao hơn cả muôn loài quần-sinh.
Tung-hoành ở chố vân-trình,
Muôn loài sinh-động, cũng đành dưới ta.
Đến đây không muốn khoe ra,
Còn nhiều tài-tử cùng là văn-nhân.
Hễ ai đức thịnh thời hơn,
Còn như phú-quí phù-vân kể gì !
Cứ trong điều ấy mà suy,
60.- Vua ta hẳn được trước đi vào mừng.”

Dương-hoa lên tiếng nói rằng :
“Khôn ngoan cũng ở núi rừng một phương !
Sao bằng ta ở Lạc-dương,
Lầu Tần, vườn Hán vẻ-vang một nhà.
Vườn Kim-cốc cũng có ta,
Gặp xuân đầm-ấm rườm-rà tử-vi,
Hương xông sực-nức mọi bề,
Nhìn xem thế-giới khác gì cẩm-la.
Bấy lâu nức thiếng danh-gia,
70.- So bề phú-quí, vua ta hơn người.”

Bách-thanh nghe nói, cả cười.
Rằng : “Đừng hợm của, khinh đời làm chi !
Nước ta văn-vật thiếu gì,
Kìa như Khổng-tước văn nghi ai bằng;
So tài mẫn tiệp nói-năng,
Lục-y sứ-giả và chàng Thăng-ca
Bạch-hạc có chí cao-xa,
Hải-âu tình-tính thực là tự do.
Kìa như kẻ khéo toan lo,
80.- Có anh Hoàng-điểu ở gò ung-dung.
Anh Hồng, anh Hộc lạ-lùng,
Cao-cường thủ-đoạn bay tung ngang trời.
Đại-bàng chí cả tuyệt vời,
Đường mây vùng-vẫy bên trời bay cao;
Phượng-sồ danh-giá biết bao,
Hưng-dương, Trần-bảo ai nào dám đang.
Thơ ngâm ríu-rít Oanh vàng,
Véo-von rầm-rĩ lại càng thêm thay.
Bát-âm điệu mới rất hay,
90.- Họa-mi nổi tiếng xưa nay đã nhiều.
Đẹp duyên cầm sắt kính yêu,
Uyên-ương phu-phụ dập-dìu đoan-viên.
Dốc tình bằng-hữu chu-tuyền,
Nghĩa Hồng-nhạn vẫn còn truyền xưa nay.
Nghìn thu nức tiếng khen hay,
Quạ là hiếu-điểu ngày ngày phụng thân.
Biết bao tài-tử, giai nhân,
Thật là xuất-loại, siêu-quần. chẳng ngoa !
Tiếng lành dậy khắp gần xa,
100.- Trăm phần, người há được vài phần chăng ?”

Dương-hoa lên tiếng mắng rằng :
“Gớm thay ăn nói khoe-khoang lạ đời !
Quen thân một tấc đến trời,
Khác nào như thể ếch ngồi giếng sâu. !
Trời cao nào có biết đâu,
Khoe mình nhưng đã dễ hầu hơn ai !
Dại nên ta dạy cho hay,
Đừng khoe giọng lưỡi, lại rầy có phen.
Nước ta có chú Thanh-liên.,
110.- Lòng quân-tử, dáng trung-hiền thảo-ngay ;
Hải-đường, tiên cách ai tày,
Trung-thành, Quì vốn lòng này hướng dương..
Tảo-mai. tốt số rỡ-ràng,
Thiếu-niên đã đứng đầu hàng bách quan.
Được vua yêu, có hương Lan.,
Tư-phong yểu-điệu, có nàng Ngọc-trâm..
Bấy lâu nức tiếng phương-lâm.,
Ngọc-lan đã nổi tiếng-tăm vang-lừng.
Trà-mi tên hiệu Trầm-hương,
120.- Phượng-tiên. tên lại gọi rằng Nữ-nhi.
Dung-nhan yểu-điệu phương-phi,
Tiên-đào mặt ấy có khi khuynh-thành.
Thủy-tiên cốt-cách càng xinh,
Tây-thi-cúc. dáng như hình Tây-thi,
Nhà Diêu, cửa Ngụy. thiếu gì,
Còn Phan-huyện. với Tùy-đê. cũng nhiều,
Giai-nhân, tài-tử dập-dìu,
Trai Tử-vi., gái Tiểu-kiều. tốt tươi !
Phong-lưu sang-trọng đủ mùi,
130.- Gặp xuân thì lại đầy trời hương xông.
Càng xuân hương nức càng nồng,
Dưới trần, ai dám xưng hùng cho qua !
Còn nhiều phú-quí vinh-hoa,
Kiêm toàn ngũ phúc., chúa ta hơn người”.

Bách-thanh nghe nói, cả cười,
Rằng : “Mi chẳng sợ miệng đời chê-bai !
Thôi đừng khoác-lác ngõ ngoài,
Tuy mình bẻo-lẻo, nào ai tin mình.
Toàn là những giống vụ danh.,
140.- Ỷ-phong, hàm-tiếu. ra tình dâm-ô.
Như Giạ-hợp. chẳng ra trò,
Canh khuya hành-lộ. là đồ bất lương.
Cấp-tính., nóng-nảy vội-vàng,
Vinh-hoa Mộc-cận., cũng phường bỏ đi.
Bách-nhật-hồng. có ra gì,
Vô hương, hữu sắc, ai thì buồn trông.
Ngọ thời. kia mới não-nùng,
Cớ sao sớm nở, tối không thấy rồi.
Gớm thay cho gái họ Nhài.,
150.- Dưới trăng đón gió lả-lơi khoe màu.
Đa tình chi hỡi chàng Ngâu.,
Thương xuân vốn những dãi-dầu pha-phôi.
Sói, Hòe, tính cũng hay chơi,
Phù-hoa màu-mỡ có người nào khen.
Mộc kia tính-khí nhỏ-nhen,
Không ưa sơn vẽ, lại quen lúi-xùi..
Có vàng chịu giữ mà ngồi,
Cúc kia hoài-bích. ra nòi thất-phu.
Xưa kia Liễu vẫn buông tơ,
160.- Tuy rằng óng-ả nhưng xơ-xác mành.
Bao giờ Độc-dược. có lành;
Mào-gà, Phượng-vĩ mượn danh dối người.
Thôi đừng cậy tốt, khoe tươi,
Gió thu một trận đi đời phồn-hoa.!
Nói thời ra dáng ta đây,
Song người nghe thấy thực là trái tai.

Bách-thanh nói chửa dứt lời,
Dương hoa mặt đỏ như trời rạng đông.
Dầu sôi lửa dậy trong lòng,
Ra uy thét mắng đùng đùng như lôi.
Rằng : “Mi sao khéo khinh đời !
Suy-cầu. bay nỡ rậm lời làm chi.
Ngẫm xem loài giống nhà mi.
Chắc rằng hay chửa, vội đi nhiếc người.
Ưng kia tàn-nhẫn quen đời,
Nỡ thương đồng loại, đạo trời nghĩ chi.
Ác-cưu. nào có ra gì,
Con ăn thịt mẹ, kẻ chê người cười.
Yến kia vụng nghĩ rông-dài,
180.- Không lo sau trước coi trời bằng vung..
Tu-hú làm biếng lạ-lùng,
Mượn tổ chim thước để hòng nuôi thân..
Bói-cá tàn-nhẫn, bất nhân,
Ra uy cá-mú, xa gần đều kinh.
Xui người kiện-cáo đua-tranh,
Chính là tên Tước cậy mình trạng-sư..
Trông ra bóng bẩy phong-tư.,
Ăn quanh ai có tham như Giẻ-cùi.
Cú kia là giống tanh-hôi,
Quạ-khoang rộng miệng lắm lời ai ưa.
Cuốc kia kêu cũng bằng thừa,
Bởi chưng vụng liệu từ xưa mất rồi.
Chích-chòe học dốt có chuôi,
Bởi vì nhí-nhoẻn nên đuôi phất-phờ.
Công kia tính lại lẳng-lơ,
Cả ngày múa hát rõ dơ dại tuồng.
Sáo ta nóng-nảy điên-cuồng,
Quen chân nhảy-nhót là phường lăng-nhăng.
Diều-hâu vì túng, xử xằng,
200.- Mắt mày chấp-chới như thằng bợm non.
Vẹt kia lắp-bắp học khôn,
Quanh năm vẹt-vẹt, nào còn biết chi.
Đường dài nói mãi làm chi,
Chẳng qua là giống ngu-si lạ đời.
Anh nào nhan-sắc tốt-tươi,
Tham ăn, người bắt đem nuôi ở lồng.
Anh nào phì-nộn tư-phong,
Chỉ làm tôi miệng, phiền lòng mà thôi”.

Người cậy đức, kẻ khoe tài,
210.- Đôi bên to tiếng như trời nổi giông.
Tiếng vang động đến tiên-cung,
Tây-vương-mẫu phái Kim-đồng bước ra.
Tức truyền thánh chỉ dạy qua:

“Thôi đừng cãi lẽ, người ta chê cười.
Kể như đức-tính hơn người,
Phượng-hoàng được nhất, sau thời Mẫu-đơn.
Nhưng mà phú-quí là hơn,
Phượng-hoàng phải kém Mẫu-đơn rành rành.
Thử xem thế-thái nhân-tình,
220.- Nhiều tiền vẫn được hiển-danh với đời.
Ưa nhân, chuộng nghĩa mấy người,
Ít tiền, dẫu đến vua tôi cũng thường,
Cha con trong đạo gia-đường,
Ít tiền cũng chả ra tuồng thân-yêu.
Anh em họ mạc dập-dìu,
Ít tiền thì cũng ra chiều buồn-tênh.
Sắt cầm phu-phụ duyên-lành,
Ít tiền thì cũng ra tình thờ-ơ.
Bạn chơi bất cứ thân sơ,
230.- Ít tiền thì chẳng bao giờ được thân.
Thói quen tiêm-nhiễm dần-dần,
Thành ra ác-tập khó phần băng-tiêu.
Ngẫm xem trong bấy nhiêu điều,
Ai ai cũng chuộng tiền nhiều là hơn.
Thôi đừng suy-tị phàn-nàn,
Phượng-hoàng phải kém Mẫu-đơn hẳn rồi”.

III-

Tố-vương nghe vẳng bên tai,
Canh khuya than-thở rằng thời đức suy.
Thanh-nhàn xem tích truyện kỳ.
Đặt làm quốc-ngữ ngâm khi ngày dài.
Nôm-na xin bạn đừng cười,
Gọi là chấp-chảnh vài lời cho vui.

Hảo Cầu Tân Truyện [PDF]

hao cau tan truyen

Hoàng Trừu Truyện [PDF]

hoang truu truyen

Lý Công Tân Truyện [PDF]

Lý Công Tân Truyện

Phương Hoa Tân Truyện [đang cập nhật…][PDF]

Phương Hoa
phuong hoa tan truyen

Phương Hoa (芳花)là một truyện thơ Nôm Việt Nam, thể lục bát, chưa biết năm ra đời và ai là tác giả.

Văn bản
Phương Hoa là một truyện thơ dựa theo truyền thuyết dân gian. Trong quá trình lưu hành, do có sự tham gia của các nhà văn, nên đã xuất hiện nhiều văn bản Phương Hoa khác nhau. Ngoài cuốn xưa nhất của tác giả khuyết danh (bản in hiện còn dài 1.160 câu lục bát, in năm 1901. Bản do Thanh Lãng giới thiệu dài 1.058 câu), còn có:
Phương Hoa bị lục do Tường Bỉnh Nghĩa An Đường soạn, dài 1.278 câu lục bát.
Phương Hoa tối tân truyện do Dật Sơn Nguyễn Ngạc Trì soạn, dài 1.364 câu, in năm 1915.
Phương Hoa tân truyện do Nguyễn Cảnh[1] soạn trong thế kỷ 19, dài 1.674 câu lục bát.
Tuy có nhiều văn bản, nhưng khá thống nhất ở cốt truyện.
Cốt truyện
Phương Hoa là con gái quan Ngự sử Trần Điện, và Cảnh Yên là con trai quan Thượng thư Trương Đài, đôi bên đã cùng nhau đính ước.
Viên quan họ Tào (Tào trung úy), một gian thần được vua tin dùng, thấy Phương Hoa là người tài sắc bèn đến hỏi làm vợ. Bị Trần Điện từ chối, y bèn giả mạo chiếu chỉ nhà vua khép Trương Đài vào tội “vong thần mại quốc”, giết ông rồi còn chiếm đoạt hết tài sản. Hai anh em Cảnh Tỉnh, Cảnh Yên đưa mẹ chạy về Thạch Thành, giả làm tăng ni để lánh nạn. Được một tháng, vợ Cảnh Tỉnh sinh Tiểu Thanh rồi lâm bệnh mất.
Bảy năm sau, tới kỳ “đại khoa”, vợ Trương Đài dẫn con cháu trở về quê. Dọc đường, họ dừng nghỉ ở Lôi Dương. Lúc này Phương Hoa vẫn một lòng thương nhớ và chờ đợi Cảnh Yên. Tình cờ, nàng gặp Tiểu Thanh rồi đưa về nhà nhận làm con nuôi. Nhờ đó, nàng biết được tình cảnh gia đình họ Trương. Thông qua Tiểu Thanh, Phương Hoa hẹn Cảnh Yên vào đúng canh ba đến đợi ở góc vườn hoa sẽ có người tới trao áo quần và tiền bạc. Không may việc bị lộ, tên gian là Hồ Nghi lẻn tới chỗ hẹn giết chết người tớ gái (Thị Liễu) của Phương Hoa để cướp của. Cảnh Yên tới nơi vô tình giẫm phải người chết, máu lấm khắp người. Ngự sử Trần Điện hay tin người tớ gái bị giết, bèn hạ lệnh truy tìm hung thủ. Lần theo dấu máu, Cảnh Yên bị bắt giam chờ ngày xét xử. Quá đau xót, mẹ Cảnh Yên sinh bệnh rồi mất. Phương Hoa thay Cảnh Yên lo việc chôn cất chu đáo, rồi xin cha mẹ được lên kinh đô bán hàng, nhưng sự thật là để tìm cách cứu Cảnh Yên.
Ở kinh đô, ngày đêm luyện văn chương, tới kỳ “đại khoa”, Phương Hoa lấy tên Cảnh Yên dự thi. Nàng đỗ Tiến sĩ, được vua gọi vào chầu. Giữa triều đình, Phương Hoa tấu trình nỗi oan ức của gia đình họ Trương. Sau khi nhà vua rõ mọi chuyện, Tào trung úy và Hồ Nghi bị xử chém, gia đình họ Trương được minh oan. Ra khỏi nhà lao, Cảnh yên làm bài văn sách do vua ra đề. Xét văn, chàng được đặc cách đỗ Tiến sĩ cùng khoa với Phương Hoa. Gặp lại nhau, Cảnh Yên và Phương Hoa chính thức trở thành vợ chồng. Kết thúc tác phẩm là cảnh vợ chồng cùng về bái tổ vinh quy [2].
Theo văn bản Phương Hoa (dài 1.058 câu) do giáo sĩ. Thanh Lãng giới thiệu, thì truyện gồm 5 hồi, và được giáo sư phân chia như sau:
Hồi 1: Họ Trần và Họ Trương hứa gả con cho nhau (từ câu 1 đến câu 180).
Hồi 2: Họ Trương gặp nạn (từ câu 181 đến câu 344).
Hồi 3: Phương Hoa cứu giúp họ Trương (từ câu 345 đến câu 684).
Hồi 4: Cảnh yên mắc oan bị tù (từ câu 685 đến câu 920).
Hồi 5: Hai bên đoàn tụ (từ câu 921 đến câu 1058).
Nhận xét
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phương Chi:
Mượn câu chuyện trong dân gian Việt Nam (không mô phỏng tiểu thuyết hay sự tích của Trung Quốc), truyện Phương Hoa thể hiện cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và phi nghĩa…Nét đặc sắc của nó so với các truyện Nôm khác là quá trình chiến thắng hoàn toàn dựa vào tài trí thông minh và phẩm hạnh của một người con gái. Thông qua chủ đề Thiện thắng Ác, tác giả tố cáo những thế lực tàn bạo trong xã hội phong kiến đã chà đạp lên hạnh phúc, quyền sống của con người, và khẳng định vị trí xứng đáng của người phụ nữ…
Kết cấu truyện nhìn chung khá chặt chẽ. Tuy nhiên, ở cuốn Phương Hoa (khuyết danh) đầu tiên, mặc dầu có lối kể chuyện giản dị hồn nhiên được nhiều người dân ưa thích và truyền tụng, song nó vẫn còn khá nhiều nhược điểm: một số chi tiết chưa nhất quán, bút pháp miêu tả có chỗ sơ lược, chưa chú ý khai thác đời sống nội tâm nhân vật. Những hạn chế ấy, phần nào đã được khắc phục trong các cuốn Phương Hoa soạn lại sau này, nổi trội là cuốn Phương Hoa tân truyện của Nguyễn Cảnh [3].
Giaó sĩ. Thanh Lãng:
Người ta sống ở đời phải trung hiếu tiết nghĩa. Nàng Phương Hoa là hiện thân của cái luân lý cổ điển ấy, dù cảnh đời có thay đổi điên đảo…
Về mặt văn chương, cái đặc sắc nhất của Phương Hoa là tính cách bình dân. Đọc lên, ta cứ tưởng là đọc ca dao, nghĩa là nghe đến đâu hiểu đến đó, chứ không phải vò đầu vì những điển tích cầu kỳ. Tuy nhiên, nó vẫn tao nhã, nhẹ nhàng.
Tính cách bình dân của nó là ở chỗ tả cảnh Việt Nam, dùng những tiếng nói quen thuộc của người bình dân Việt Nam. Có lẽ tác giả tập truyện này cũng là một người trong số người bình dân ấy…[4]

Tống Trân – Cúc Hoa |Tống Trân Tân Truyện [PDF][đang cập nhật…]

tong tran tan truyen
Tống Trân Cúc Hoa (宋珍菊花 ) là một truyện thơ Nôm Việt Nam, khuyết danh, gồm 1.689 [1] câu lục bát, xuất hiện vào khoảng từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.

Cốt truyện
Tống Trân vốn là con cầu tự, khi chàng lên ba thì cha mất, nhà lâm cảnh nghèo khó. Tám tuổi, chàng phải dắt mẹ đi xin ăn. Một hôm, Tống Trân đưa mẹ tới một ngôi nhà quí phái, Cúc Hoa (con gái nhà này) thương tình đem gạo ra cho và sinh lòng yêu thương Tống Trân. Không cản ngăn được, cha Cúc Hoa đuổi nàng ra khỏi nhà. Cúc Hoa đi theo Tống Trân, lấy chàng làm chồng. Kể từ đó, Cúc Hoa vừa lo phụng dưỡng mẹ chồng, vừa lo cho chồng ăn học.
Đến kỳ, Tống Trân lên kinh thi và đỗ Trạng nguyên. Nhà vua muốn gả con gái cho tân trạng, nhưng bị chàng khước từ. Công chúa sinh lòng thù ghét, xui cha cử Tống Trân đi sứ sang nước Tần (Trung Quốc). Sang bên ấy, Tống Trân bị vua Tần khinh ghét vì là sứ giả của “An Nam tiểu quốc”, đặt ra nhiều điều để hãm hại. Nhưng nhờ tài ba, trí tuệ, chàng đã vượt qua mọi thử thách, và xử thành công nhiều vụ án rắc rối. Vua Tần từ chỗ khinh ghét chuyển sang mến phục, phong Tống Trân làm Lưỡng quốc Trạng nguyên và định gả công chúa cho, nhưng chàng từ chối.
Trong khi đó, Cúc Hoa ở nhà một dạ nuôi mẹ, chờ chồng. Được 7 năm, cha nàng thấy Tống Trân không về nên ép nàng lấy viên Đình trưởng trong làng. Cúc Hoa không nghe, bị cha nhốt lại, đánh đập tàn nhẫn và bắt mẹ Tống Trân phải xuống ở trong chuồng trâu. Quá đau khổ và để thủ tiết với chồng, Cúc Hoa đến núi Sơn Vi định quyên sinh. Thần Sơn Tinh thấu rõ tình cảnh, hóa phép thành mãnh hổ sang nước Tần để đưa thư của Cúc Hoa cho chồng. Tống Trân dâng bức thư ấy lên vua Tần, nhà vua cho chàng về nước trước kỳ hạn.
Bấy giờ, thời gian ba năm ở rể của Đình Trưởng cũng đã hết, cha Cúc Hoa bèn tổ chức đám cưới thật linh đình. Giờ phút cuối, Cúc Hoa định quyên sinh thì Tống Trân xuất hiện, đám cưới tan vỡ. Mẹ con, chồng vợ gặp lại nhau xiết bao mừng tủi, còn cha Cúc Hoa thì bị vạch mặt nhục nhã.
Quá thương yêu Tống Trân, công chúa nước Tần xin với vua cha sang nước Việt để gặp chàng. Ra đến biển, thuyền gặp bão lớn, công chúa bị sóng đánh trôi dạt vào bờ, được hươu nai cứu sống rồi nuôi nấng. Tống Trân đi săn trong rừng gặp công chúa nước Tần rồi đưa nàng về nhà. Cúc Hoa vui lòng để Tống Trân cưới thêm công chúa làm vợ thứ [2].
Nhận xét
Nguyễn Phương Chi:
Tác phẩm Tống Trân Cúc Hoa lên án những thế lực tàn bạo đã ngăn cản, chà đạp lên tình yêu; đồng thời ngợi ca tấm lòng son sắt kiên trinh, ý chí phấn đấu vì hạnh phúc, vì tình yêu của những con người biết chống lại những thế lực vừa nêu và những lễ tục khắc nghiệt. Bên cạnh đó, Tống Trân Cúc Hoa còn là câu chuyện đi sứ, phản ánh mối bang giao phúc tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ngoài ra, tác phẩm cũng đã xây dựng tương đối thành công một số mẫu người Việt Nam truyền thống, đặt biệt là người phụ nữ với tâm hồn phong phú và đặc sắc.
Về mặt nghệ thuật, Tống Trân Cúc Hoa là câu chuyện thuần túy Việt Nam. Khác với nhiều truyện Nôm khác, truyện này hầu như không sử dụng điển cố hoặc từ Hán Việt, nhưng lại sử dụng khá nhiều “môtíp” của truyện dân gian Việt Nam. Ngôn ngữ trong truyện cũng rất giản dị, rất gần lời ăn tiếng nói của con người bình dân. Thế nhưng, mạch đi của truyện còn rườm rà, do kết cấu chưa thật chặt chẽ, ngôn ngữ quá đơn giản, thiếu trau chuốt, chưa phải là thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu, hình ảnh. Mặc dù vậy, truyện vẫn được quần chúng lúc bấy giờ yêu thích và phổ biến rộng rãi[3].
Từ điển bách khoa Việt Nam:
Tống Trân Cúc Hoa đề cập những chủ đề quen thuộc: tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung; tài ba, trí tuệ và lòng dũng cảm của những người chân chính; thói tham lam của danh vọng tiền tài của tầng lớp trưởng giả. Điểm đặc sắc là sự kiện và nhân vật phần nào có tính chân xác lịch sử: theo tục truyền cũng như theo một số sử sách cũ và di tích, thì Tống Trân là nhân vật có thật. Chàng là người làng Vọng Phan (nay lấy tên là làng Tống Trân) bên bờ Sông Luộc, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Làng này và làng Yên Cầu cùng huyện nay vẫn có đền thờ Tống Trân, Cúc Hoa [4].

Phạm Tải – Ngọc Hoa|Ngọc Hoa Cổ Tích Truyện [PDF] [đang cập nhật…]

ngoc hoa co tich truyen
Phạm Tải – Ngọc Hoa là một truyện thơ Nôm khuyết danh của Việt Nam, có ý kiến cho rằng tác phẩm xuất hiện trong khoảng thế kỷ 18[1].

Kết cấu
Phạm Tải – Ngọc Hoa gồm 934 câu thơ[2], chủ yếu là những câu lục bát, thỉnh thoảng có những đoạn trữ tình xen vào, làm theo thể song thất lục bát.
Tóm tắt nội dung
Ngọc Hoa là con một gia đình giàu có họ Trần, cha làm quan, quê ở Thanh Hà. Gặp Phạm Tải, người Sơn Tây, mồ côi cha mẹ, phải đi ăn xin để tiếp tục việc học, Ngọc Hoa đem lòng thương yêu. Ông bà họ Trần chiều ý con gái, cho Phạm Tải và Ngọc Hoa kết duyên. Trong làng có Biện Điền là tên vô lại, trước dạm hỏi Ngọc Hoa không được, thấy nàng lấy chồng thì đem lòng thù oán, bèn tạc tượng Ngọc Hoa đem dâng lên Trang Vương. Trang Vương là tên vua hiếu sắc, cho quan quân đến bắt Ngọc Hoa. Giữa triều đình, Trang Vương ép Ngọc Hoa lấy hắn, nhưng bị nàng cự tuyệt. Hắn lại thương lượng với Phạm Tải nhường vợ cho hắn, nhưng Ngọc Hoa vẫn kiên quyết không chịu. Trang Vương liền đầu độc Phạm Tải, bức bách Ngọc Hoa. Ngọc Hoa cầm dao rạch mặt, cắt tóc, mặc tang phục vào triều. Nàng viện cớ chồng chết, vợ phải để tang ba năm và nói chỉ khi nào đoạn tang mới trở lại. Trang Vương đành phải ưng thuận.
Ngọc Hoa đưa thi hài chồng về quê an táng. Hết ba năm cư tang, nàng tự tử để khỏi bị Trang Vương đòi bắt. Ngọc Hoa chết xuông âm phủ, gặp Phạm Tải, cùng với chồng làm đơn kiện Trang Vương tại điện Diêm La. Diêm Vương tuy là em Trang Vương, nhưng sau khi xét hỏi đã tuyên bố: “Thương anh tôi để trong lòng; Việc quan phải cứ phép công tôi làm” và ra lệnh ném Trang Vương vào vạc dầu. Phạm Tải, Ngọc Hoa được sống lại, trở về đoàn tụ ở cõi trần.
Ý nghĩa
Phạm Tải – Ngọc Hoa tố cáo tội ác “sát phu hiếp phụ” của vua chúa quan lại ngày xưa, đề cao phẩm chất của những con người không bị phú quý làm mê đắm, không đầu hàng trước cường quyền và bạo lực, đặc biệt là người phụ nữ[2].

PHẠM CÔNG – CÚC HOA |Phạm Công tân truyện [PDF]

Phạm Công tân truyện – pdf

Click to access 500.pdf

Phạm Công – Cúc Hoa là một truyện thơ chữ Nôm trong văn học Việt Nam. Truyện thơ này gồm 4.610 câu thơ lục bát, xuất hiện khoảng từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là một trong những truyện thơ Nôm có số lượng câu nhiều nhất. Từ trước đến nay, tác giả của Phạm Công-Cúc Hoa vẫn bị coi là khuyết danh. Đến tận cuối năm 2009, qua một bản in khắc gỗ, người ta mới có cơ sở để xác định tác giả truyện thơ này là Dương Minh Đức Thị[1].Bài thơ nhắc đến các nhân vật trong các truyền thuyết của Trung Quốc như Tề Thiên Đại Thánh, Thái Tử Na tra…, thậm chí tên các nước như Tề, Triệu, Trịnh, Ngụy là những nước thời Chiến Quốc bên Trung Quốc cũng được nhắc đến. Tóm tắt nội dung: Phạm Công là thái tử con Ngọc Hoàng, được Ngọc Hoàng sai xuống đầu thai một gia đình hai vợ chồng già, nghèo khó nhưng ăn ở hiền lành, phúc đức. Sau khi cha mất, chàng dắt mẹ đi ăn xin. Để thử tấm lòng nghĩa hiếu của chàng, Phật biến thành một ông lão vô gia cư được Phạm Công nhường cơm rồi các Tiên Nữ ở trên cung đình cũng xuống để quyến rũ, mua chuộc nhưng không được. Phạm Công tìm đến trốn quan trường, xin trọ học, ngày ngày đút cơm cho mẹ, bản thân mình thì ăn rau. Cúc Hoa, con gái quan phủ thấy vậy cảm động đem lòng yêu rồi xin cha mẹ cho lấy Phạm Công làm chồng. Khi Cúc Hoa có bầu thì Phạm Công đi thi. Sau khi đỗ Trạng nguyên, vua định gả Công chúa và truyền ngôi cho, nhưng chàng từ chối vì đã có vợ. Vua giận bắt đi đầy sang Hung Nô. Ở Hung Nô, vua Hung Nô cũng muốn gả con gái nhưng Phạm Công vẫn một mực từ chối, bị vua Hung Nô chặt tay, chặt chân, khoét mắt. Ngọc Hoàng biết truyện bèn ra tay cứu giúp, dùng thần dược chữa lành lặn cơ thể và đôi mắt. Sau khi được thả, Phạm Công tìm đường về quê cũ nhưng chẳng may đi lạc vào nước Tề. Ở đây, chàng cũng bị ép lấy công chúa, rất may được công chúa là người độ lượng, biết phải trái xin tha nên vua nước Tề đồng ý cho đi. Phạm Công cùng vợ sum họp được ít lâu thì Cúc Hoa mất để lại 2 con nhỏ Tiến Lực và Nghi Xuân. Giặc giã nổi lên, vua nước Trịnh sai Phạm Công đi đánh dẹp. Từ chối không được, chàng buộc phải mang hài cốt vợ và dắt 2 con cùng ra trận. Tướng giặc là Sầm Hưng của nước Ngụy sau khi nghe Phạm Công kể nội tình thì động lòng nên quyết định lui quân. Sau Phạm Công lấy Tào Thị làm vợ kế rồi lên trấn thủ ở Cao Bằng. Ở nhà Tào Thị ngoại tình, đối xử tệ bạc với con chồng khiến Tiến Lực và Nghi Xuân bỏ nhà đi ăn xin. Qua phủ ông bà ngoại nhưng ông bà cũng không nhận ra. Trong một đêm, Cúc Hoa từ cõi âm ti hiện về, xót thương 2 con nàng bèn viết một lá thư trách chồng rồi buộc vào gấu áo của con.Đến một quán nhỏ gần Cao Bằng, chủ quán đồng ý cho hai anh em ngồi lại, hàng ngày xin tiền khách mua cơm ăn. Ở đây, Tiến Lực và Nghi Xuân gặp lại cha. Lúc đầu Phạm Công không nhận ra con nhưng sau khi nghe Tiến Lực kể đầu đuôi câu chuyện và đọc bức thư của Cúc Hoa thì biết là con mình nên vừa mừng vừa tủi. Phạm Công mang con về gửi ông bà ngoại. Chàng về nhà đuổi Tào Thị đi. Tào Thị sau đó bị sét đánh chết. Phạm Công xin cáo quan để xuống âm phủ tìm vợ. Được công chúa Xuân Dung nước Trịnh, Tề Thiên Đại Thánh và Diêm Vương giúp đỡ, Phạm Công xuống được âm ti và tìm được vợ. Cúc Hoa được tái sinh, trở lại dương thế, “vu quy” với Phạm Công. Phạm Công cũng được vua Trịnh gả công chúa Xuân Dung và nhường ngôi vua cho. Bài thơ nằm trong Maurice Durand Collection có một kết thúc khác: Phạm Công gặp lại Cúc Hoa trong bối cảnh rất trớ trêu. Phạm Công như lạc vào cõi tiên, thấy cảnh đẹp, nước trong thì cùng ngựa hồng xuống tắm. Cùng lúc đó 30 thị nữ của Cúc Hoa cũng đến tắm. Thấy Phạm Công là đàn ông thì lấy làm kinh ngạc, chửi bới Phạm Công thậm tệ rồi về tâu bẩm với công chúa Cúc Hoa. Cúc Hoa nổi giận mở phiên tòa xét xử xem ai có lỗi. Bài thơ kết thúc bằng việc Hà Bá lên làm chứng xem việc gì đã xảy ra. Bài thơ bị bỏ lửng lơ và kết thúc này có vẻ không hợp lý, không giống với nguyên bản. Không rõ là ai viết.

Phạm Công – Cúc Hoa

Phạm Công – Cúc Hoa là một truyện thơ chữ Nôm trong văn học Việt Nam. Truyện thơ này gồm 4.610 câu thơ lục bát, xuất hiện khoảng từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là một trong những truyện thơ Nôm có số lượng câu nhiều nhất. Từ trước đến nay, tác giả của Phạm Công-Cúc Hoa vẫn bị coi là khuyết danh. Đến tận cuối năm 2009, qua một bản in khắc gỗ, người ta mới có cơ sở để xác định tác giả truyện thơ này là Dương Minh Đức Thị[1].

Nội dung
Phạm Công là chàng trai con nhà nghèo, phải đi làm công để nuôi bố mẹ. Cha chết, Phạm Công phải đi ăn mày để tiếp tục phụng dưỡng mẹ đến khi mẹ chết. Là người hiếu học, Phạm Công xin thụ giáo Quỷ cốc tiên sinh. Ở đây, Phạm Công được Cúc Hoa là bạn đồng môn, cũng là con gái của tri phủ, yêu thương.
Hai người cưới nhau, khi Cúc Hoa có thai thì Phạm Công lên kinh thành ứng thi. Phạm Công đã gặp nhiều gian truân khổ ải, bị quốc vương các nước khác ép lấy công chúa nhưng Phạm Công đều từ chối. Nhưng nhờ công chúa nước Triệu nhân hậu, Phạm Công được trở về quê hương làm nguyên soái, đoàn tụ cùng Cúc Hoa, họ có hai con là Nghi Xuân (con gái) và Tiến Lực (con trai).
Cúc Hoa lại không may qua đời ở tuổi 30. Phạm Công tái giá với Tào Thị và phải lên Cao Bằng làm trấn thủ. Tào Thị ở nhà ngoại tình, hành hạ, ngược đãi Nghi Xuân và Tấn Lực. Cao điểm, thị cùng người tình bàn mưu giết hại hai con chồng, khiến hai đứa phải trốn khỏi nhà đi ăn xin.
Trong một đêm, Cúc Hoa từ cõi âm ti hiện về gặp hai con và gửi thư tin cho Phạm Công biết. Sau ba năm trấn thủ, Phạm Công trở về đuổi Tào Thị đi. Tào Thị sau đó bị sét đánh chết. Được công chúa Xuân Dung nước Trịnh, Tề Thiên Đại Thánh và Diêm Vương giúp đỡ, Phạm Công xuống được âm ti và tìm được vợ. Cúc Hoa được tái sinh, trở lại dương thế, “vu quy” với Phạm Công. Phạm Công cũng được vua Trịnh gả công chúa Xuân Dung và nhường ngôi vua cho [2]

01. Tâm Thành Thấu Đến Tận Trời
Trời cao thăm thẳm chín tầng
Tuy cao muôn trượng mà gần tấc gang
Xét soi thiện ác đôi đàng
Trắng đen chẳng lẫn rõ ràng gương trong
Ngẫm xem thiên địa chí công ( 5 )
Dở hay cũng bởi tự lòng mà ra
Xưa nay những kẻ thảo hòa
Trước thì lam lũ sau đà thành nhân:

Có người ở phủ Quỳnh Vân
Tuổi cao sống cảnh cơ hàn không con ( 10 )
Vợ chồng hái củi trên non
Đem về đi bán héo hon tháng ngày
Lão bà lòng thảo dạ ngay
Mình đà cơ cực mà hay giúp người
Thành tâm cúng lễ khắp nơi ( 15 )
Đêm ngày cầu khấn phật trời đoái thương
Một hôm đang hội đúc chuông
Có bao nhiêu cúng chẳng lường đói no
Về nhà chân mới bước vô
Chồng liền hỏi vợ nhỏ to mấy lời: ( 20 )
“Tiền còn nhiều ít mình ơi
Xin mình nói lại cho tôi hay cùng”
Bấy giờ vợ mới bảo chồng:
“Củi bán được bốn mươi đồng chưa tiêu
Chùa quê sãi rách vách xiêu ( 25 )
Thiếp trông thấy cảnh tiêu điều mà thương
Vậy nên cúng cả đúc chuông
Ấy điều làm phúc mọi đường chớ lo”
Chồng nghe thấu hiểu nguyên do
Thấy lòng vui vẻ bằng cho bạc vàng ( 30 )
Buổi chiều chuông đánh kêu vang
Muốn dưa đơm cúng khói nhang ngọt ngào
Chuông ngân thấu đến thiên tào
Động tai thượng đế xôn xao buổi chầu
Ngọc hoàng khe khẽ gật đầu ( 35 )
Phán truyền: “Chư tướng hãy mau tâu bày
Ai cúng dưới đó hôm nay
Tiếng chuông lên mãi tận đây vẫn rền
Bách thần tinh tú quần tiên
Đâu người cầu khấn chùa chiền nói ra” ( 40 )
Kim tinh Thái Bạch tâu qua:
“Dưới trần gian có một nhà họ Dương
Vợ chồng cơ khổ trăm đường
Hái rau kiếm củi lễ thường chẳng quên
Xét trong cung số dân hèn ( 45 )
Đã lo đói rách lại phiền không con
Phép trời chuyển động càn khôn
Xin người đổi số cho tròn mới hay”
Ngọc hoàng phán: “Sự đã vầy
Khanh nào giải được tâu bày xem sao” ( 50 )
Hai bên Bắc đẩu Nam tào
Tâu: “Xin việc ấy cứ giao mụ bà
Chúng thần thay số người ta
Con nhờ bà mụ thuận hòa đôi tay”
“Các khanh hãy nói ta hay ( 55 )
Trong cung con trẻ hôm nay có còn”
Chín mươi bà mụ tâu luôn:
“Lúc này trai gái chẳng còn một ai”
Ngọc hoàng chép miệng thở dài:
“Gái trai chẳng có liệu bày gì đây( 60 )
Âu là sẵn thái tử nay
Cho làm con của nhà này tiếc chi”
Lệnh truyền thái tử tức thì
Rời nơi cung cấm ra đi phen này
Vào nhà Dương thị đầu thai ( 65 )
Làm người nối dõi đêm ngày thần hôn
Thái tử sụp lạy nỉ non:
“Cha ơi có xót cho con chăng là
Thiếu gì vọng tộc thế gia
Mà cho con trẻ vào nhà hàn môn ( 70 )
Hái rau kiếm củi sườn non
Xin cha nghĩ lại cho con ở cùng”
Ngọc hoàng phán bảo ung dung:
“Nó đói khổ thật nhưng lòng có nhân
Vậy nay con giáng xuống trần ( 75 )
Làm con nhà ấy có phần còn hay”
Thái tử trong dạ đắng cay
Nước mắt chan chứa tâu ngay đan trì:
“Cha cho xuống cõi trần kia
Mấy năm cha lại gọi về chính ngôi?”( 80 )
Ngọc hoàng phán định một lời:
“Cha cho con xuống hai mươi năm về”
Thái tử quỳ xuống chỉnh tề:
“Hai mươi năm về thì cũng như không
Tuổi nào trả nghĩa đền công( 85 )
Báo ơn cúc dục yên xong mọi bề”
Ngọc hoàng nước mắt dầm dề:
“Đúng sáu mươi tuổi lại về với ta”
Thái tử lạy mẹ lạy cha
Rời nơi thượng giới dặm xa cõi trần.( 90 )

—————————————————–

Canh ba giờ tý rõ ràng
Dương thị mộng thấy rồng vàng bám lưng
Trong mình sáng tỏ như gương
Đến khi thức giấc tỏ tường trước sau
Vợ chồng ghi tạc ơn sâu( 95 )
Càng chăm làm lụng càng giàu từ bi.

—————————————————–

Khai hoa nay đã đến kỳ
Một trai thanh tú dung nghi khác vời
Vợ chồng chăm chút không ngơi
Đến ngày đầy tháng lễ trời tạ công( 100 )
Lều tranh nến sáng nhang xông
Bàn thờ chỉ có tôm đồng tép rang
Vợ chồng nước mắt hai hàng
Vái dâng lễ mọn Ngọc hoàng chứng tri
Lòng thành thấu đến đan trì( 105 )
Mười hai bà mụ tức thì đến nơi
Nhác trông thấy cỗ nực cười:
“Thế mà hương khói cứ trời bay lên”
Chứng xong quay gót thượng thiên
Ngọc hoàng phán hỏi: “Băng miền bao xa( 110 )
Vợ chồng họ Phạm tuổi già
Cỗ bàn nó cúng mụ bà những chi?”
Mười hai bà mụ tâu quỳ:
“Nhà nó tân khổ trọn bề thủy chung
Đem ra tinh những tôm đồng( 115 )
Với lại rau muống bày cùng tép rang
Thành tâm sống cảnh cơ hàn
Ước gì lại được thiên nhan đoái hoài”
Ngọc hoàng nước mắt chảy dài:
“Dương gian cực khổ đọa đày thân con.( 120 )
Nghĩa càng day dứt hao mòn
Xót tình phuj tử héo hon lòng già”.

02. Phạm Công Hết Lòng Với Cha Mẹ
Tuổi chàng nay đã lên ba
Mẹ cha mới đặt tên là phạm Công
Vợ thường than thở với chồng:( 125 )
“Gian nan gặp bước cực lòng bấy nay
Sinh con cơ khổ làm vầy
Để cho đói khát đêm ngay xót xa”
Phạm Công tuổi mới mười ba
Cha mẹ thì già yếu đuối ai nuôi( 130 )
Tưởng xem cơ sự ngậm ngùi
Phải đi ở mướn mà nuôi cả nhà.

———————————————–

Phạm Công vừa chẵn mười ba
Tuổi thơ sớm chịu phôi pha ưu phiền
Một năm ở có năm tiền( 135 )
Lấy cơm nhà chủ giấu liền vào trong
Đem về cha mẹ đỡ lòng
Còn mình chỉ có tôm đồng nước ao
Mẹ cha trong dạ bào hao
Số phải đói khổ biết bao giờ rồi( 140 )
Càng đi khấn phật cầu trời
Tu nhân tích đức trọn đời cùng nhau.

————————————————

Người ta chịu khổ mãi đâu
Ba rồng xuống rước ông chầu thiên cung
Lão ông than thở cực lòng:( 145 )
“Bà ơi ráng để con không thua người”
Nói thôi thân thể rụng rời
Ba hồn bảy vía xa chơi non bồng
Dương thị đau đớn khôn cùng
Kêu trời vạch đất giọt hồng nhỏ sa( 150 )
Phạm Công tuổi mới mười ba
Lấy gì tang chế cho cha phen này
Lão ông chết đã ba ngày
Mời thầy địa lý nhưng thầy không nghe:
“Cha mày hái củi xưa kia( 155 )
Ai hòng trông cậy mà đi theo mày”
Lại đến mời sãi đàng này
Sãi cũng chê khó chẳng ai đến cùng
Phạm Công nước mắt ròng ròng
Khấn trời phù hộ rủ lòng thương cha( 160 )
Vừa làm phù thủy trừ tà
Làm thầy tìm đất cùng là ma chay
Đem cha táng ở gốc cây
Vái lạy trời đất tỏ bày thiết tha.

——————————————-

Phạm Công thưa với mẹ già:( 165 )
“Con đi kiếm củi phương xa phen này
Cố làm lấy một tuần chay
Cho cha siêu độ lên mây chầu trời
Dù phải kiếm củi suốt đời
Con đây cũng chẳng sợ ai chê cười”( 170 )
Mẹ rằng: “Đừng thế con ơi
Kiếm củi thì lại suốt đời cháo rau”
Phạm Công nước mắt tuôn sầu:
“Làm trai là phải dãi dầu xông pha
Chứ ai sinh đẻ con ra( 175 )
Bây giờ lụy đến mẹ già hổ ngươi
Nuôi con ngần ấy năm trời
Mẹ cha phải chịu một đời long đong
Công cha nghĩa mẹ ghi lòng
Làm sao trả đặng ơn cùng tổ tiên”( 180 )
Cơm nắm chỉ có mấy viên
Lưng đeo bầu nước tìm miền làm ăn
Đói lòng áo rách che thân
Đưa tay dắt mẹ dời chân lên đường.
03. Phật Di Đà Và TIên Nữ Thử Lòng Phạm Công
1-

Bốn ngày rong ruổi dặm trường( 185 )
Giữa trưa nắng gắt định dừng gốc đa
Mẹ con gặp một cụ già
Phơ phơ đầu bạc nước da đồi mồi
Phạm Công trông thấy ngùi ngùi:
“Xin ông thư thả ta ngồi nghỉ ngơi”( 190 )
Nghe thôi ông cụ mừng vui:
“Ba ngày chịu đói không người đoái thương
May thay có bậu qua đường
Hãy xin bớt miệng sẻ nhường cho ta”
Phạm Công nghe nói xót xa( 195 )
Sẵn lưng cơm nắm mở ra tức thì
Miệng cười: “Ông hãy ăn đi
Giữa trưa ông có việc gì ra đây”
Cụ già thong thả giãi bày:
“Hiếm hoi sinh được mụn trai đầu lòng( 200 )
Thỏa niềm rày ước mai mong
Tìm thầy cho học, theo vòng nghĩa nhân
Theo thầy vừa được ba xuân
Về nhà cưới vợ thành thân vuông tròn
Gia tài phá sạch chẳng còn( 205 )
Hôm mai khốn đốn vì con vung tiền
Những tin con thảo dâu hiền
Ai ngờ hết của chúng liền đuổi đi
Dâu con sỉ nhục ê chề
Cực lòng lão phải tính bề tha phương”( 210 )
Phạm Công nước mắt rưng rưng:
“Công cha nghĩa mẹ như rừng như non
Thấy người con tưởng thân con
Chuỵên người thảm thiết héo hon lòng này
Thôi còn ba nắm cơm đây( 215 )
Xin ông cầm lấy đường dài dùng qua
Ví dù con có lỡ ra
Con xin nơi khác mẹ già cũng no”
Cụ già nghe nói nhỏ to:
“Ơn chàng tốt bụng mà cho như vầy( 220 )
Lòng chàng nhân hậu khôn tày
Cho nên lão lấy cơm này một viên”
Dứt lời cơm vẫn còn nguyên
Lão ông thôi đã biến liền vời xa
Chẳng ngờ là Phật Di Đà( 225 )
Thoắt về tâu với vua cha Ngọc hoàng
Cùng quan văn võ hai hàng:
“Chẳng ai ân nghĩa bằng chàng Phạm Công”
Tiếng đồn đã đến cửu trùng
Lại còn vang tới thủy cung động đình.( 230 )

2-

Ngọc hoàng muốn thấu sự tình
Truyền đòi tiên nữ đăng trình viễn phương
Tiên nữ vâng lệnh lên đường
Xuống xem lòng dạ cõi dương thế nào
Phất phơ lơi lả yếm đào( 235 )
Mắt trần ai biết người nào tiên cung
Bấy giờ vừa gặp Phạm Công
Đương tay dắt mẹ đi rong đường làng
Tiên nữ bèn đón lấy chàng:
“Xin ai chớ có vội vàng đi ngay( 240 )
Em là người ở phương tây
Mẹ cha ép uổng em nay lấy chồng
Chỉ vì tạo hóa bất công
Bắt em phải chịu cực lòng nơi đây
Nghe chàng hiếu nghĩa xưa nay( 245 )
Dặm trường ròng rã bốn ngày không ngơi
Nhân duyên đành bởi sự trời
Nên nay lại gặp có nơi tương phùng”
Phạm Công nghe nói hãi hùng
Tay liền dắt mẹ băng chừng nẻo xa:( 250 )
“Vợ chồng việc ấy xin tha
Tôi đâu quên chuyện cụ già hôm xưa”
Tiên nữ lời đã lọc lừa
Ve chàng chẳng được về thua tức thì
Ngọc hoàng phán hỏi vân vi:( 255 )
“Phạm Công nó nói điều gì với ngươi?”
Tiên nữ quỳ xuống đáp lời:
“Cõi trần khó kiếm được người thứ hai
Hạ tiên theo nói cả ngày
Đem lời ngon ngọt xoắn dây tơ hồng( 260 )
Nhưng chàng hiếu thảo lạ lùng
Chẳng tưởng trai gái vợ chồng chút chi
Cứ khăng khăng dắt mẹ đi
Dương gian dễ có ai bì Phạm Công”
Ngọc hoàng nghe cũng mừng lòng( 265 )
Phán rằng: “Bậy ấy anh hùng không sai
Thế gian những kẻ anh tài
Xưa nay chưa thấy ai người chê tiên
Khá khen hiếu nghĩa vẹn tuyền
Rành rành phò mã trạng nguyên sau này”.( 270 )

04. Phạm Công Tìm Học Thầy Quỷ Cốc
Cúc Hoa Cảm Mến Phạm Công
Trường thầy Quỷ Cốc gần đây
Môn sinh thụ giáo xưa rày rất đông
Mẹ con nghe nói nức lòng
Lần theo độc đạo núi sông cách vời
Tới nơi trong dạ bồi hồi( 275 )
Đói nghèo thầy có nhận lời cho chăng
Muốn hỏi chẳng dám hé răng
Thoắt thôi thầy đã ra sân gọi vào
Mẹ con khép nép thưa chào
Lạy trình sư phụ thấp cao mấy lời:( 280 )
“Nghe đồn thầy dạy hơn người
Xin đem cháu đến nương nơi mưa nhuần
Mẹ con gặp bước gian truân
Xin thầy thương đến cho phần bảo ban”
Giọng thầy lạnh nhạt nhặt khoan:( 285 )
“Ta thờ đạo thánh đem thân làm thầy
Dặm nghìn bay đã đến đây
Nếu ta không dạy xót mày về không
Âu là ta cũng rộng lòng
Cho vào ngồi đó cố công học hành( 290 )
Trưởng tràng! Cho nó chiếu manh
Chớ cho chiếu lành mà phí chiếu ta”
Phạm Công nghe nói xót xa
Trưởng tràng lại lấy mực ra bắt mài
Chàng mài không được như ai( 295 )
Trưởng tràng quát ngắn quát dài một phen
Phạm Công cay đắng phận hèn
Cúi đầu nhịn nhục lệ liền tuôn rơi
Rằng: “Anh không biết sự đời
Chớ nên phỉ báng thân tôi làm gì( 300 )
Lộc trời uống rượu trong ly
Mỗi người một chén mất đi đằng nào
Giàu nghèo như thể chiêm bao
Sự nay đã vậy việc sau khó lường
Thấy người khốn khó cùng đường( 305 )
Chẳng thương thì cũng xin đừng nặng tay”
Trưởng tràng mặt đỏ tía tai:
“Đừng ai cho nó học bài làm chi
Lấy màn che kín đèn đi
Thế là nó phải chịu bề ngồi không( 310 )
Đêm thầy dạo bước tràng trung
Thoạt trông mắt đã rưng rưng bùi ngùi
Phạm Công cầm sách dựa ngồi
Chờ cho chớp giật mấy hồi sáng ra
Coi theo mà học thiết tha.( 315 )
Nhận ra cậu bé mẹ già mồ côi
Ân cần thầy bảo mấy lời:
“Con cứ vào đó mà ngồi học đi
Thầy cho cơm áo no nê
Con chăm học tập lấy nghề ấm thân”( 320 )
Vừa cười vừa nói lần lần:
“Tài này phò mã tất gần chẳng xa”
Trưởng tràng cười khẩy ba hoa:
“Làm nên phò mã chúng ta vào chầu
Nó mà có số sang giàu( 325 )
Chúng ta làm đứa lính hầu cũng xong”
Phạm Công bước vào nhà trong
Đốt đèn lên học nặng lòng tri ân
Ngày ngày cơm nước thầy ban
Thịt thà nhường mẹ mình toàn rau dưa.( 330 )

———————————————————

Hai mươi bốn hiếu đời xưa
Chuyện ngàn năm trước bây giờ còn đây
Với người hiếu nghĩa thảo ngay
Trời kia cũng muốn cho hài nhân duyên
Cúc Hoa tính nết dịu hiền( 335 )
Con quan tri phủ giá nên ngọc ngà
Ngời ngời độ tuổi mười ba
Mi cong mắt sáng làn da mịn hồng
Kinh sử thuộc hết làm lòng
Thầy cho thay mặt dạy trong học đường( 340 )
Thấy chàng hiếu nghĩa thì thương
Cúc Hoa cảm kích lòng thường chạnh đau
Châu trần tính chuyện dài lâu
Nỗi lòng dám tỏ gót đầu hôm mai
Ba đông đèn sách dùi mài( 345 )
Ai nào biết được lòng ai chăng là
Lâu ngày nhớ mẹ nhớ cha
Nàng xin thầy được thăm nhà một phen
BAo nhiêu sách vở bút nghiên
Nàng đà gói ghém dành riêng cho chàng( 350 )
Ra về trong dạ ngổn ngang
Xót xa duyên số nhỡ nhàng một khi

——————————————————–

Nhớ chàng luống những sầu bi
Trong mình mang mối tình si nặng nề
Dật dờ tỉnh tỉnh mê mê( 355 )
Nhác đường học tập trễ nghề cửi canh
Tướng công những rõ sự tình
Ngắm nhìn thì thấy ra hình ủ ê:
“Sao con đi học mới về
Vì đâu nên nỗi mình ve gầy mòn( 360 )
Trước đây má phấn môi son
Bảnh bao nét ngọc vuông tròn mặt hoa
Sau ngày đi học phương xa
Nghìn vàng thân ấy bỗng ra thế này”
Ông bà ngẫm nghĩ thương thay:( 365 )
“Ai đày đọa trẻ cho cay đắng già
Con ta như thể bông hoa
Phải khi tròn bóng phơi ra mặt trời
Chuyện này chẳng phải chuyện chơi”
Cho người đi khắp mọi nơi mời về( 370 )
Mời thầy chiếu kính tứ bề
Bảy già ba trẻ vị chi mười người
Lễ dâng khấn phật cầu trời
Đỡ đâu chẳng thấy gầy thời hơn xưa
Ông bà hôm sớm thẫn thờ( 375 )
Chữa hoài không đặng bỏ lơ sao đành:
“Chiếu kính việc đã không thành
Âu là đi bói cho rành biết sao”.

———————————————————–

Vợ chồng bàn định thấpcao
Phu nhân sang chợ tìm vào bói xem( 380 )
Năm quan tiền lễ đặt lên
Nhờ thầy xem quẻ bình yên thế nào
Trước là gọi hạn gọi sao
Sau xem phúc đức xem vào thê nhi”
Thầy gieo quẻ xuống một khi( 385 )
Chắp tay cung kính thầm thì khấn ngay
Thoắt thôi thầy đã giải bày:
“Cứ trong bản mệnh quẻ này bình yên”
Phu nhân đủng đỉnh nói thêm:
“Nữ nhi trẻ nó ngày đêm trong phòng( 390 )
Từ ngày đến học tràng trung
Bỗng dưng mang bệnh hình dung âu sầu”
Lầm rầm thầy khấn trước sau
Cầm tiền gieo xuống gật đầu nói ngay:
“Cứ xem trong tuổi tuất này( 395 )
Bệnh sao cơn tỉnh cơn say lạ kỳ
Chẳng phải nội ngoại cô dì
Vong chú vong bác vong gì cũng không
Chẳng tà ma cũng chẳng vong
Quẻ này là quẻ phải lòng ai đây( 400 )
Cho nên ngọa bệnh làm vầy
Không tin bà hỏi tuổi này mà coi”
Phu nhân vội vã đáp lời:
“Con tôi nào phải là người nết hư”
Nói rồi từ tạ bốc sư( 405 )
Nhanh chân thẳng trở dặm dư về nhà.

————————————————————

Phu nhân hỏi nhỏ Cúc Hoa:
“Nay con có phải trăng hoa ai cùng?”
Nàng rằng: “Đâu có lạ lùng
Con măng sữa đã phải lòng người ta( 410 )
Năm nay con mới mười ba
Nào con có dám trăng hoa vật vờ.”
“Nghe lời bói toán bâng quơ
Mẹ còn mang tấm lòng ngờ bấy nay
Có gì con cứ tỏ bày( 415 )
Đừng để cha mẹ đêm ngày xót xa
Mấy nơi vọng tộc thế gia
Lâu nay săn đón mẹ cha chuyện này.”
Nàng rằng: “Có một chàng trai
Đồng môn gần gụi suốt hai năm liền( 420 )
Phận hèn nhưng chí không hèn
Học theo ánh chớp thay đèn, nết na
Bữa ăn dâng kính mẹ già
Mình thì cơm muối cơm cà vài lưng
Người hiếu nghĩa nghĩ mà thương( 425 )
Lâu dần lại thấy vấn vương trong lòng
Xa rồi nhớ nhớ mong mong
Chập chờn mơ tưởng tơ hồng cùng ai.”
Ông bà nghe kể một hai
Rưng rưng nước mắt thở dài giây lâu:( 430 )
“Sao con chẳng nói từ đầu
Để phải cúng bái lao đao bấy chầy
Đã ra duyên sự làm vầy
Cũng bằng chim phượng đỗ cây ngô đồng
Lòng con nhất quyết tơ hồng( 435 )
Mẹ cha cũng phải chiều lòng chứ sao
Chẳng tham gác tía lầu cao
Thì ta gọi đến mà trao xích thằng.”

05. Phạm Công Được Gọi Đến Nhà Cúc Hoa
Nàng Giúp Tiền Bạc Cho Chàng Để Làm Lễ Cưới
Cúc Hoa nghe nói vui mừng
Cúi đầu lạy tạ cảm lòng mẹ cha ( 440 )
Thoắt thôi trở gót phòng hoa
Gọi con hoàn lại dặn qua mấy lời:
“Bay lên trường học tức thời
Thấy người áo rách hãy mời về ngay
Những người áo đỏ hây hây( 445 )
Chớ nên rước họ tới đây làm gì”
Liễu hoàn vâng lệnh ra đi
Quá trưa đã tới gần kề tràng môn
Toàn người áo đỏ đông ngòm
Áo rách chẳng có đứng chồn cả chân( 450 )
Trở đi trở lại tần ngần
Thấy người dắt mẹ bước lần bờ sông
Liễu hoàn nhẹ nhõm trong lòng:
“Chàng kia có phải Phạm Công chăng là?”
Phạm Công liền bảo mẹ già:( 455 )
“Cớ sao lại có đàn bà gọi chi”
Chàng bèn nói lại một khi:
“Nhà cô nào đó hỏi gì đến tôi”
Liễu hoàn lễ phép đáp lời:
“Nữ tỳ đâu dám bắt Người gọi cô( 460 )
Chuyện gì không biết nhỏ to
Mà quan tri phủ dạy vô đòi chàng”
Phạm Công trong dạ bàng hoàng:
“Người đòi hay dở cô tường hay không”
Hoàn rằng: “Phép nước chí công( 465 )
Can chi quan phải bàn cùng với tôi”
Phạm Công nét mặt kém tươi:
“Nếu quan tri phủ sai thời có nha
Cớ sao lại bảo đàn bà
Tôi nay tiến thoái thật là khó thay”( 470 )
Liễu hoàn ngon ngọt giãi bày:
“Nếu sao tôi sẽ chịu thay cho chàng”
Phạm Công chưa hết ngỡ ngàng:
“Quan mà gọi tới ắt thường khảo tra”
Cuối cùng đành dắt mẹ già( 475 )
Bước vào lạy tạ gần xa tứ bề
Đồng môn hạng nhất hạng nhì:
“Anh em ở lại tôi đi phen này”
Lên thềm quỳ lạy trình thầy:
“Ngẫm tình sư đệ con nay tủi thầm”( 480 )
Đồng môn họp lại bàn ngầm:
“Ví dù quan phủ giam cầm Phạm Công
Chúng ta phải thật đồng lòng
Góp tiền sang chạy mở gông cho chàng”
Cười vui thầy nói rõ ràng:( 485 )
“Nó đi hẳn được vẻ vang phen này”
Chàng theo cô gái đi ngay
Tay gầy dắt mẹ một giây không rời
Trập trùng đồi núi dặm khơi
Chiều tối tới đặng gần nơi công đường( 490 )
Chòi canh rải rác khắp vùng
Bốn bề vời vợi bịt bùng tường cao
Liều mình chàng mới bước vào
Cửa quan tri phủ người nào chẳng ghê
Tướng công quay mặt ra hè( 495 )
Hỏi: “Chàng nho sĩ mới về tới đây
Chiếu hoa sắp sẵn lầu tây
Mẹ con nho sĩ vào đây thư ngồi
Cơm canh đã chín cả rồi
Ăn xong rồi sẽ có lời gửi trao”( 500 )
Nàng nhìn qua bức trướng đào
Lòng càng ưa nét thanh cao bội phần
Thấy chàng có dáng băn khoăn
Tướng công cười mỉm lại gần ung dung:
“Cúc Hoa một dạ thủy chung( 505 )
Còn chi nghi ngại nói ông nghe chừng”
Phạm Công quỳ xuống rưng rưng:
“Cả nhà cơ cực cùng đường bấy nay
Thân con như thể ăn mày
Có đâu chữ nghĩa sánh tày người ta”( 510 )
Tướng công nói rõ gần xa:
“Quý lòng ham học thôi mà sá chi
Con ta ham nết nhân nghì
Cho nên mới gọi chàng về tới đây
Từ khi thụ giáo trường thầy( 515 )
Bốn trăm đồng học đông tây anh tài
Nó chẳng nhòm ngó đến ai
Thấy chàng nnho sĩ lòng hoài nhớ thương
Về nhà phiền muộn trăm đường
Thuốc thang chẳng bớt võ vàng dung nhan( 520 )
Nay chàng muốn kết phượng loan
Xuyến vàng ba cặp mới hoàn nhân duyên”
Phạm Công nghe nói lòng phiền
Đất bằng phút chốc nổi liền phong ba
Cáo đâu dám sánh liên hoa( 525 )
Cú nào dám đọ tiên nga mỹ miều
Nghĩ mình chút phận hẩm hiu
Bạc vàng chẳng có tính chiều nào xong
Cúc Hoa ngồi ở nhà trong
Nghe cha nói vậy mà lòng ngổn ngang( 530 )
Thấy Người thách bạc thách vàng
Dặn hoàn ra bảo kẻo chàng sợ e:
“Đừng bó tay chớ bỏ về
Khó khăn em liệu mọi bề êm xuôi
Canh ba thanh vắng không người( 535 )
Bấy giờ em sẽ có lời thưa qua.”

————————————————-

Căn cơ vốn tính đàn bà
Tay hòm chìa khó cửa nhà điền trang
Bao nhiêu hòm bạc hòm vàng
Mẹ cha giao cả cho nàng lâu nay( 540 )
Trống lầu vừa điểm canh hai
Cúc Hoa bèn lẻn ra ngoài đứng trông
Thấy người ngủ hết tây đông
Bảo chàng vào đấy liệu chừng một phen:
“Xin chàng chớ ngại chớ phiền( 545 )
Nửa ngày thu vén đã yên cả rồi
Nhờ chàng chuyển đỡ mà thôi”
Phạm Công nghe nói bồi hồi không yên
Cúc Hoa thấy thế bèn khuyên:
“Chấp kinh thì phải tòng quyền mới qua( 550 )
Xưa nay lắm bậc tài hoa
Mà đành chịu để đàn bà chê quê”
Phạm Công lòng vẫn rụt rè
Nghe nàng cũng quyết một bề cho xong
Cúc Hoa liền mở cửa phòng( 555 )
Cho xem vàng bạc bên trong sẵn sàng
Trấn an nàng rỉ tai chàng:
“Của riêng em đó vô vàn thiếu chi
Mai kia có xảy chuyện gì
Mặc em lo liệu chàng thì yên tâm”( 560 )
Canh tư rồi lại canh năm
Hai người chuyên được bốn trăm quan tiền
Đến khi gà gáy liền liền
Bạc vàng lấy đủ đã yên một niềm
Nàng lo đóng cửa thật êm( 565 )
Chàng thì nhón gót bậc thềm bước sang
Ngoài kia tiền xếp ngổn ngang
Xuyến vòng đủ hết bạc vàng thiếu đâu
Canh năm trống điểm trên lầu
Chân trời ửng đỏ một màu phía xa( 570 )
Phạm Công quỳ lạy ông bà
Đái đồng long cổn xô sa xuyến vàng
Xiêm y ba bộ rỡ ràng
Phạm Công khi ấy vẻ vang ai bì
Tướng công phán hỏi tức thì:( 575 )
“Của đâu nói rõ mọi bề ông hay”
Phạm Công lúng túng thưa bày:
“Con vừa đi mượn trường thầy nơi xa”
Tướng Công bấm độn xem qua:
“Quẻ này là quẻ của ta thực rồi( 580 )
Tý sửu dần mão ngọ mùi
Trong nhà có trộm chẳng nguời đâu xa
Trường thầy sao những của ta”
Bèn gọi đầy tớ: “Bay ra bắt vào”
Phạm Công luống cuống sợ sao( 585 )
Nghe lời nàng phải tù lao phen này
Cúc Hoa nhìn thấy thương thay
Lạy cha lạy mẹ giãi bày vân vi:
“Ví dù có xảy chuyện gì
Tội con con chịu can chi đến chàng( 590 )
Nhà ta lỉnh kỉnh bạc vàng
Chàng thì đói rách bỏ làng ra đi
Tơ hồng nguyệt lão đã xe
Duyên trời đã định phu thê trọn đời
Thỏa lòng ước nguyện lứa đôi( 595 )
Con đâu trộm cắp để rồi cho ai
Kim ngân quý vật một hai
Là cha mẹ để cho ngày cưới con”
Lạy cha lạy mẹ nỉ non:
“Chuyện này âu cũng tại con nhiều bề( 600 )
Nếu cha chẳng có thương vì
Tội con con chịu chàng thì xin tha”
Ông bà ôm lấy Cúc Hoa:
“Tơ duyên trời định con ta chắc rồi
Buổi đầu ướm hỏi thử chơi( 605 )
Xem chàng nho sĩ ra người thế nao”.

——————————————————-

Ba ngày rộn rã vui sao
Lễ mừng ăn hỏi kẻ vào người ra
Cầu xin tiên tổ gần xa
Độ trì hai kẻ thuận hòa trước sau( 610 )
Cầu xin Bắc đẩu Nam tào
Chứng cho đôi lứa bên nhau trọn đời
Bà tri phủ lại ngỏ lời
Muốn ông xem tuổi cho đôi vợ chồng
Tướng công mới bảo Phạm Công:( 615 )
“Tuôi gì có nhớ nói cùng cha hay”
Phạm Công tính đốt ngón tay:
“Tuổi con mười tám thực nay tuổi dần”
Tướng công nét mặt trầm ngâm:
“Con ta tuổi tuất có phần hợp đây( 620 )
Tuất dần sum họp hôm mai
Trăm năm chữ thọ sánh vai chữ tình”
Nói vầy nhưng bụng đinh ninh:
“Cứ xem hai tuổi thực tình khắc nhau
Sống chung chẳng mấy dài lâu( 625 )
Mẹ già cũng sắp về chầu tổ tiên
Cơ trời nghĩ thật linh thiêng
Ta đành giữ miệng cho yên cửa nhà”.

06. Phạm Công An Táng Mẹ Và Di Táng Cha
Quả nhiên chỉ mấy ngày qua
Xem ra sức khỏe Dương bà sút mau( 630 )
Phạm Công trí quẫn lòng đau
Cưới xin tính chuyện hoãn vào dịp sau
Lão bà nghe nói thều thào:
“Vì con mẹ chẳng khi nào tiếc chi
Các con hãy lấy nhau đi( 635 )
Mẹ tám mươi tuổi lo gì thác oan
May nay gặp chốn quyền môn
Được dâu phú quý cho con nương nhờ
Tình duyên chớ để hững hờ
Hay chi cái cảnh đợi chờ phượng loan”( 640 )
Cúc Hoa cũng thấy bàng hoàng:
“Tâm thành thì được trời ban phúc mà
Xin chàng gác chuyện nguyệt hoa
Trăm năm kết tóc duyên ta vội gì”
Phạm Công một dạ kiên trì( 645 )
Mười hôm ròng rã không hề gió trăng
Đêm ngày cầu khấn quỷ thần
Nhưng không ngăn đuợc người thân lìa đời
Phạm Công vật vã kêu trời:
“Mẹ con chưa đựoc thảnh thơi ngày nào( 650 )
Trời ơi trời ở trên cao
Liệu trời có thấu nỗi đau bời bời
Mẹ con đói khổ một đời
Con nay mát mặt thì Người xa con”
Cúc Hoa hiếu nghĩa sắt son( 655 )
Tóc mây chấm đất cắt còn ngang vai.

—————————————————–

Sực nghe tin dữ đến nơi
Ông bà tri phủ kịp thời tới ngay
Xuất tiền sắm sửa lễ bày
Minh tinh nỉ tía gỗ dày áo quan( 660 )
Linh xa sơn đỏ thếp vàng
Nhiễu điều phủ lấy hai hàng gấm bao
Câu đối thêu lụa hồng đào
Tám mươi cờ xí giương cao rõ ràng
Xung quanh đèn đuốc sáng choang( 665 )
Giữa thì sãi vãi hai hàng tụng kinh
Phạm Công ra trước minh tinh
Tướng công mới nói sự tình vân vi:
“Đó đây cách trở nhiều bề
Hãy rước linh cữu đưa về cố hương( 670 )
Vui gì cái cảnh tha phương
Xa nơi chòm xóm thân thương sum vầy”
Đoàn người rong ruổi dặm dài
Rước đưa linh cữu mười ngày tới nơi.

——————————————————-

Chàng cho xem đất hẳn hoi( 675 )
Mồ xây khoáng đạt gần nơi chùa làng
Cúc Hoa mới hỏi chồng rằng:
“Thi hài thân phụ xưa chàng chôn đâu
Muốn cho con cháu dồi dào
Hài cốt cha mẹ táng vào một nơi”( 680 )
Phạm Công mừng rỡ đáp lời:
“Thi hài dạo ấy anh vùi gốc cây
Nàng đã bảo vậy thì nay
Ta đem di táng về đây gần kề
Có lục liễu có thanh hòe( 685 )
Thêm phần cao ráo thêm bề phong quang
Trong quan ngoài quách vững vàng
Hoa văn đắp nổi trông càng thanh tao”.

———————————————————

Phạm Công ruột xót như bào
Không ngơi cầu khấn trời cao đất dày( 690 )
Suốt trong ba tháng mười ngày
Đèn nhang cúng lễ tỏ bày thành tâm
Mong hồn cha mẹ cõi âm
Đặng bề siêu thoát đặng phần thảnh thơi
Chàng bèn chọn tháng chọn nơi( 695 )
Dựng đàn tươm tất kịp thời làm chay
Thỉnh kinh niệm phật đêm ngày
Hoa thơm đàn tế nhang bay mộ phần
Nỗi đau rồi cũng vợi dần
Ba mươi sáu tháng tới tuần mãn tang.( 700 )

———————————————————-

Nhà còn mỗi chiếc xuyến vàng
Mẹ cho ngày cưới giữ giàng phòng xa
Cúc Hoa đã phải mang ra
Bán đi báo hiếu cho cha mẹ chồng
Nàng bèn nói với Phạm Công:( 705 )
“Thiếp xin giải tỏ thủy chung như vầy
Việc nhà mặc thiếp ra tay
Xin chàng cứ học cho hay muôn phần
Khen chàng hiếu trọng tình thâm
Ba năm tang chế toàn nằm giường không( 710 )
Chịu chàng lòng dạ kiên trung
Chỉ lo vô hậu ngại ngùng mai sau
Vợ chồng tình nghĩa dài lâu
Trăm năm gắn bó trước sau thuận hòa”.

07. Phạm Công Từ Biệt Vợ Đi Thi
Tình chồng nghĩa vợ mặn mà
Chưa đầy ba tháng nàng đà mang thai
Phạm Công tính chuyện đường dài
Bèn cầm tay vợ một hai tỏ bày:
“Lo cho phụ mẫu vơi đầy
Bạc tiền hết sạch bấy chầy còn chi
Khai hoa nở nhụy tới kỳ
Lấy gì cho mẹ lấy gì cho con”
Cúc Hoa nghe nói nỉ non:
“Cầu trời cho đặng vuông tròn sẽ hay”
Chợt nghe chiếu chỉ định ngày
Khoa thi vua mở ở ngay kinh kỳ
Sinh đồ nô nức ra đi
Công danh vẫy gọi quản gì đường xa
Phạm Công lo lúc khai hoa
Vắng chàng mình vợ ở nhà ai nuôi
Cúc Hoa thủ thỉ: “Chàng ơi
Có đi mới có tin vui báo về
Thai sinh trời đất định kỳ
Ở nhà mặc thiếp cứ đi theo người”.

—————————————————-

Thấy nàng đã nói hết lời
Phạm Công quyết chí sắp dời chân đi
Nàng rằng: “Còn tấm lụa kia
Âu là thiếp cắt xiêm y cho chàng”
Phạm Công nghe nói càng thương
Rằng: “Anh đã có áo trường mặc đây
Lụa con em giữ mà may
Anh thêm yên dạ những ngày quan san”
Cúc Hoa nước mắt chứa chan:
“Xin chàng ăn mặc cho sang bằng người
Người ta gấm vóc cả đời
Lượt là năm tháng đủ mùi ăn chơi
Chàng thì áo xống tả tơi
Không bằng chúng bạn hổ ngươi lắm mà
Có chiếc áo cưới lụa sa
Lâu nay thiếp giữ mượt mà trong rương
Âu là ta khấn âm dương
Về ai nấy mặc chứ đừng duỗi ra”.
Tiền gieo ba lượt cả ba
Đất trời không nói áo là về ai
Cúc Hoa bèn cắt làm hai
Phạm Công lấy nửa cho hài đôi bên:
“Anh còn có sáu đồng tiền
Ra đi để lại cho em ba đồng”
Bùi ngùi nước mắt ròng ròng
Giờ lâu mới bước thẳng giong lên đường.

————————————————————

Sinh đồ nom thấy khinh thường
Đem lòng rẻ rúng xem phường trẻ trâu:
“Thằng này mày định đi đâu
Liệu mày có muốn gánh hầu đây thuê”.
Chàng rằng: “Chớ có nói mê
Mỗ đây thư thái tội gì hầu bay”
Sinh đồ vào quán đông tây
Ăn ngon ngủ ấm dặm dài lai kinh
Phạm Công tối đến nằm đình
Sinh đồ ca cẩm: “Chúng mình nhục lây”
Phạm Công bèn đáp lại ngay:
“Bọn bay đâu được ở tày mỗ đây
Rồng vờn lân múa hạc bay
Có hồ xanh nước có cây chọc trời
Trần ai ai biết anh tài
Thì đem cảnh sắc mà mời tướng khanh”.

————————————————————

Phạm Công đang giữa lộ trình
Bấm tay nhớ đến ngày lành giỗ cha
Khi đi dặn vợ ở nhà:
“Lưng cơm dĩa muối em hòa kính dâng”
Một mình đất khách bâng khuâng
Công ơn dưỡng dục lòng hằng khôn quên
Tương rau cơm thính mọn hèn
Giữa đường lặng lẽ cơm đèn cúng cha
Tâm thành động đến cõi xa
Việc chi cứ phải khấn ra thành lời.

08. Phạm Công Hai Lần Đỗ Trạng Nguyên,
Cả Hai Lần Đều Bị Kết Tội Vì Không Chịu Lấy Công Chúa
Phạm Công Được Trời Phật Cứu
1 –

Phạm Công đi tiếp một hơi
Hai mươi ngày lẻ tới nơi kinh kỳ
Bảy nghìn sĩ tử vào thi
Rớt dần gần hết liệu bề hồi hương( 790 )
Phạm Công văn tứ khác thường
Đứng đầu đỗ trạng phố phường nức tên
Ngụy vương truyền gọi vào liền
Sắc ban áo mũ trạng nguyên sáng ngời
Cuối cùng vua mới ngỏ lời:( 795 )
“Trẫm thiếu thái tử nối ngôi trị vì
Trời cho được một nữ nhi
Mày ngài mắt phượng dung nghi ai tày
Mới mười ba tuổi năm nay
Trẫm gả cho trạng sum vầy thất gia”( 800 )
Nói rồi dẫn trạng đi ra
Sang vườn thượng uyển trăm hoa ngạt ngào
Muôn hồng ngàn tía lao xao
Cành xanh gió động vẫy chào trạng nguyên
Công chúa vâng lệnh vua truyền( 805 )
Phấn son trang điểm bước lên thềm ngà
Cung thiềm hé bóng Hằng Nga
Bá quan nhìn thấy mặt hoa rỡ ràng
Công chúa đứng trước đền vàng
Tay bưng chén ngọc mời chàng trạng nguyên( 810 )
Nàng rằng: “Trời định nhân duyên
Đôi ta kết hợp phỉ nguyền thừa long”
Tay vua đỡ lấy chén hồng
Trao cho quan trọng tỏ lòng ái nhi
Phạm Công cầm lấy tức thì( 815 )
Tưởng đâu chàng sẽ cạn ly vui mừng
Ai dè chàng hắt sau lưng
Công chúa nom thấy mặt bừng tía tai
Sắc kia há thẹn với tài
Hai hàng văn võ ai ai lắc đầu( 820 )
Công chúa ren rén vào chầu
Sự tình tâu hết trước sau không hòa
Lệnh truyền tân trạng vào tòa
Hỏi: “Sao khinh rẻ con ta dường này
Cớ gì rượu đã vào tay( 825 )
Đỡ lấy rồi lại tính bài hắt đi
Hay là không xứng hiền thê
Con ta chẳng đáng trạng thì nói qua”
Phạm Công quỳ tấu thực thà:
“Vợ thần thai nghén ở nhà sắp sinh( 830 )
Chưa tường no đói dữ lành
Vui gì mà lại thị thành ăn chơi”
Công chúa nằng nặc một lời
Tâu xin giam trạng tức thời không tha
Triều đình thương hại tâu qua( 835 )
Xin vua tha giết bắt ra đi đày
Phạm Công thảng thốt đắng cay
Ước gì bay được về ngay quê nhà:
“Thấu chăng em hỡi Cúc Hoa
Thân anh tù tội nơi xa lạc loài( 840 )
Tưởng đi múa bút khoe tài
Vợ chồng qua được những ngày cháo rau
Nghĩ đời tốt đẹp ngờ đâu
Phải cơn ác mộng khi nào thoát đây
Em còn trẻ dại thơ ngây( 845 )
Lại đang thai nghén đợi ngày khai hoa
Đau lòng chưa hỡi Cúc Hoa
Phạm Công xưa đó nay là phạm nhân
Lòng anh thương xót muôn phần
Mà chỉ biết khấn trời gần trời xa( 850 )
Cầu xin hồn phách mẹ cha
Độ trì em bước được qua nhịp cầu”
Thoắt thôi vua phán bãi chầu
Phạm Công từ giã công hầu dời chân
Đi kèm có đám quân quan( 855 )
Giải người tù tội bước lần nẻo xa.

2 –

Dặm nghìn tới xứ Ô qua
Phạm Công giờ đã rời xa kinh kỳ
Hung Nô đang mở khoa thi
Kén tài phò mã tính bề truyền ngôi( 860 )
Bảng treo khắp hết mọi n o ưi
Bốn phương sĩ tử ngươi người về thi:
“Ai mà đỗ trạng đan trì
Ngôi vàng trẫm sẽ nhường vì ngay cho”
Bốn nghìn năm chục sinh đồ( 865 )
Ngổn ngang lều chỏng thành đô đông ngòm.
Ngứa tay không chịu đứng dòm
Vì cơ hàn vẫn còn ôm mộng vàng
Đang tù tội muốn vẻ vang
Hay vì gì nữa hỡi chàng Phạm Công( 870 )
Chỉ thấy chàng lại ung dung
Phun châu nhả ngọc tranh hùng một phen
Và chàng lại đỗ trạng nguyên
Đỗ xong mới kịp nghĩ nên giấu tài
Biết mình vồ ngắn buông dài( 875 )
Bíêt mình đã chuốc lấy tai họa rồi
Hung Nô hoan hỉ truyền mời
Rước quan trạng tới tươi cười ban khen
Bá quan ca ngợi trạng nguyên
Rồng bay bút pháp, vô biên văn tài( 880 )
Phạm Công rạng rỡ cân đai
Thoắt quên tai họa tháng ngày trải qua
Đang vui vua phán lời ra:
“Trẫm có công chúa tài hoa khác vời
Dung nhan cá lặn nhạn rơi( 885 )
Trẫm gả cho trạng trọn đời bên nhau”
Phạm Công sụp lạy: “Muôn tâu
Chuyện nhà thần đã trước sau vẹn tròn
Một vợ cùng với hai con”
Công chúa bước hỏi dồn thấp cao:( 890 )
“Vợ chàng bé lớn con đâu
Chàng bao nhiêu tuổi buổi đầu tam khôi
Hỏi chàng có muốn sánh đôi
Hay là chẳng muốn ngỏ lời cho minh”
“Cúi xin lượng cả thấu tình( 895 )
Tao khang đã có thần đành xin thôi”
Hung Nô cơn giận bời bời
Truyền giam quan trạng vì lời nói ngoa
Gông cùm treo kẹp chẳng tha
Xem còn chờ được vợ nhà nữa không( 900 )
Hung Nô tức tối gạn gùng:
“Nào ngươi có chịu làm chồng con ta?”
Trạng rằng: “Tâu lạy quốc gia
Công chúa xếp hạng tiên nga đền rồng
Ngôi cao tột bậc triều trung( 905 )
Dân hèn không xứng được cùng sánh đôi
Hỡi ôi công chúa hỡi ôi
Ai làm nên nỗi hại tôi thế này”
Hung Nô tím cả mặt mày
Mắng rằng: “Ta chịu thằng này khó xong”( 910 )
Lôi đình một trận cuồng phong
Truyền quân trị tội Phạm Công chớ chầy
Quân vâng hiệu lệnh chặt tay
Khoét hai con mắt rứt mày xẻo tai
Đục cả hai hàm răng nhai( 915 )
Phạm Công đau đớn rên hoài không nguôi.

3 –

Chàng bèn nhẩm sớ thành lời
Tay cụt chắp lại vái trời gần xa
Du thần hôm ấy đi qua
Thấy tình cảnh ấy biết là có oan( 920 )
Liền về tâu đấng Ngọc hoàng
Kíp truyền chư vị sửa sang vào tòa
Trước đòi đức Phật Di Đà
Sau đòi đến cả Phật bà Đức ông
Các vị đều tới hội đồng( 925 )
Đòi cả La hán lo công chuyện này
Người cưỡi hạc kẻ rẽ mây
Thảy đều có mặt ở ngay bệ rồng
Pháp quan đọc sớ Phạm Công
Đặng cho chư vị hội đồng xác minh( 930 )
Ngọc hoàng nghe sớ giật mình
Gớm thay tội ác sinh linh cõi trần
Liền sai hỏa tốc chư quân
Lệnh cho tra xét xử phân việc này
Phật bà nghìn mắt nghìn tay( 935 )
Phật tổ cũng phải tính bài ra đi
Quan Âm bay đến tức thì
Ngọc hoàng chủ tọa đan trì hỏi tra
Ba onhiêu sự ác khui ra
Tội hình chồng chất chẳng tha được nào( 940 )
Lệnh truyền binh mã thiên tào
Ầm ầm kéo xuống tiến vào thành đô
Thế quân như nước vỡ bờ
Vua Hung Nô sợ cơ đồ tan hoàng
Chỉnh tề áo mũ vội vàng( 945 )
Cúi đầu nghe lệnh pháp quan thiên đình:
“Trị dân lý phải trên tình
Phép đâu có phép khổ hình chặt tay”
Bá quan khi ấy giãi bày:
“Lệnh vua ban xuống đó đây thi hành( 950 )
Vua xuống trạng lấy con mình
Trạng lại chẳng chịu thực tình khó khoan”
Pháp quan mới hỏi rõ ràng:
“Hàm răng có đục hay chàng cáo oan”
Hung Nô sợ quá nói tràn:( 955 )
“Vì hiềm việc khác cáo gian việc này”
Pháp quan mới bảo rằng: “Nay
Đòi Thổ công đến bắt khai cho cùng
Pháp quan cứ phép chẳng dung
Thổ công cầm bút viết cung đàng hoàng( 960 )
Ngày giờ ghi chép rõ ràng
Nhục hình tàn hại thân chàng Phạm Công
Ép lấy công chúa không xong
Chỉ vì bẽ mặt mà mong hại người
Lúc này chứng cớ đủ rồi( 965 )
Pháp quan dõng dạc mấy lời sau đây:
“Việc vua làm thật quá tay
Kiếm vàng ấn ngọc nộp ngay đem về”
Hung Nô nghe nói mẩn mê
Mặt rồng thất sắc nằn nì thấp cao( 970 )
Pháp quan về lại thiên tào
Khấu đầu dâng ấn nộp trao sân rồng
Ngọc hoàng dạy: “Đem vào trong!
Tay răng tai mắt Phạm Công thế nào”
Hỏi rồi bèn phán trước lầu:( 975 )
“Lấy bình tiên được mau mau băng miền
Chữa cho thân thể trạng nguyên
Để chàng trọn vẹn bình yên lại nhà
Chân tay mình mẩy thịt da
Mặt mày tai mắt lại là như xưa”( 980 )
Phạm Công thoát nạn sững sờ
Ơn nhờ trời phật ơn nhờ mẹ cha
Dặm xa rảo bước về nhà
Bồn chồn không biết Cúc Hoa thế nào
Nghìn trùng cách trở xiết bao( 985 )
Thương nhau sông rộng núi cao quản gì
Miễn là gặp đặng thê nhi
Thở than ôm ấp vỗ về hàn huyên.

09. Phạm Công Đỗ Trạng Nguyên Lần Thứ Ba
Gia Đình Đoàn Tụ
Cúc Hoa Mất
Phạm Công suy nghĩ triền miền
Bước dồn hai tháng tới miền Đăng Châu( 990 )
Lòng chàng xiết nỗi thảm sầu
Thủy chung mắc tội tài cao cơ hàn
Nghĩ trời cũng thật đa đoan
Vẽ toàn danh lợi cho toàn éo le
Niềm riêng chẳng dám giãi giề( 995 )
Gặp khoa thì lại tính bề tiến thân
Sinh đồ cười nói râm ran
Kinh kỳ cờ quạt hân hoan mời chào
Phạm Công nghĩ: “Mất gì đâu
Qua đây nhân tiện ta vào thi chơi( 1000 )
Làm trai sinh ở trên đời
Áo xiêm cũng phải quyện lời núi sông”
Sinh đồ kéo đến rất đông
Tràng môn ghé mắt, Phạm Công ngó vào
Quân quan mới hỏi: “Người nào”( 1005 )
Rằng: “Người ngoại quốc cũng vào thi đây”
Bút thần rồng múa phượng bay
Nhanh tay dệt gấm miệt mài thêu hoa
Sĩ lâm ai dám sánh qua
Bá quan khanh tướng cho là tài cao( 1010 )
Phạm Công được xếp đỗ đầu
Trạng nguyện ngôi ấy công hầu cầm tay
Vua truyền rước trạng vào ngay
Phán đem mũ mãng cân đai cho chàng
Bệ rồng bèn phán rõ ràng:( 1015 )
“Trẫm có công chúa vẻ vang mọi điều
Da ngà mắt phượng mỹ miều
Nhân duyên chưa định sớm chiều nơi nao
Nay trẫm thấy trạng anh hào
Nên lòng trẫm muốn kết giao đời đời( 1020 )
Ví dù y được như lời
Trẫm sẽ cho trạng nối ngôi cửu trùng”
Phạm Công nước mắt ròng ròng:
“Phu thê thần vẫn thủy chung một lời”
Trịnh vương cơn giận sục sôi( 1025 )
Chỉ truyền khanh tứong các nơi về châu:
“Chiểu theo phép nước trước sau
Bắt trạng nguyên bỏ vạc dầu không tha”
Được tin công chúa bước ra
Khấu đầu tâu với vua cha cửu trùng:( 1030 )
“Con nay hổ phận má hồng
Trạng nguyên đã có đèo bòng trước kia
Mong cho thi đỗ mà về
Võng điều đón rước vinh quy lại nhà
Con là công chúa kiêu sa( 1035 )
Thiếu gì đăng đối mà ta ép người
Xin cha lượng cả khoan thai
Tha cho quan trạng về nơi gia đình”
Trịnh vương lời lẽ phân minh
Phán rằng: “Công chúa tiễn hành chàng xa( 1040 )
Trẫm phong chức trọng khôi khoa
Ngay sau ta mất thay ta trị vì
Phong làm phò mã đan trì
Cho quyền tiết chế tước thì quận công
Muốn bao thủy bộ mặc lòng( 1045 )
Bóng cờ rợp đất tiếng cồng vang non”
Trạng nguyên bái biệt triều môn
Thong dong người ngựa bước dồn nẻo quê.

—————————————————————

Thấy chồng sao mãi chẳng về
Cúc Hoa trong dạ có bề hồ nghi:( 1050 )
“Kinh thành người đẹp thiếu chi
Hay là chàng đã quên đi những ngày
Con thì non nớt trong thai
Chồng thì xa vắng cậy ai bây giờ
Chờ khi sinh nở sớm trưa( 1055 )
Tránh sao cho khỏi gió mưa thất thường”
Còn đang than thở nhớ thương
Phạm Công đâu đã viễn phương trở về
Cúc Hoa chuyển dạ canh khuya
Bụng đau quằn quại tức thì khai hoa( 1060 )
Phạm Công chân bước vào nhà
Hai tay ôm lấy Cúc Hoa khóc ròng:
“Em ôi có thấu tình không
Xa nhau ngần ấy mà lòng đắng cay
Bây giờ anh đã về đây( 1065 )
Mong sao bù lại những ngày khổ đau”
Lân bàng kẻ trước người sau
Đem cho thịt cá dọn lau cửa nhà
Tình làng nghĩa xóm chan hòa
Lại mừng quan trạng phương xa mới về( 1070 )
Gia đình nay đặng đề huề
Sinh con xinh đẹp tràn trề lộc quan
Cúc Hoa mê mẩn tâm thần
Thuốc thang ba bữa tỉnh dần nói ra:
“Chàng ôi có thấu chăng là( 1075 )
Bấy lâu vò võ quê nhà nhớ thương
Lo chàng lại bén tơ vương
Có the quên lụa, có vàng quên thau”
Phạm Công lòng những quặn đau
Nguồn cơn kể lể rầu rầu vân vi:( 1080 )
“Sân rồng anh đến tâu quỳ
Vua thấy đỗ trạng tức thì gả con
Biết anh một dạ sắt son
Vậy mà họ còn ra sức ép duyên
Hung Nô thì nổi cơn điên( 1085 )
Xẻo tai khoét mắt chặt liền hai tay
Thấu tình lời sớ tâu bày
Trời ban cho một bình đầy thuốc tiên
Thân anh lại được hoàn nguyên
Nhờ trời lại được băng miền về đây( 1090 )
Thủy chung lòng vẫn một hai
Lại thương em phải mang thai nặng nề
Lòng nào tưởng sự nguyệt huê
Mà em lo lắng nọ kia thêm phiền”
Cúc Hoa quỳ xuống thưa liền:( 1095 )
“Một đời gặp đấng chồng hiền yên thân
Chàng mà ăn ở có nhân
Trên đầu nhật nguyệt quỷ thần chứng tri”
Nói thôi ngồi tựa màn the
Thấy con tướng mạo có bề thanh cao( 1100 )
Vợ chồng nhìn ngắm vui sao
Đặt tên Tiến Lực mai sau dõi dòng
Mớm nuôi lòng những mừng lòng
Coi hơn ngọc quý vàng ròng trời trao.

——————————————————

Lầu son gác tía ra vào( 1105 )
Lọng tàn rực rỡ quân hầu râm ran
Vinh hoa bõ lúc gian truân
Chữ tình thêm đậm thêm xuân từng ngày
Ba năm mai trúc vui vầy
Cúc Hoa đã lại đến ngày có thai( 1110 )
Trời cho đủ tháng đủ ngày
Sinh được nữ tử gọi rày Nghi Xuân
Nét hoa tươi tắn vô ngần
Nửa phần giống ngoại nửa phần giống cha
Nghi Xuân vừa mới lên ba( 1115 )
Còn như Tiến Lực tuổi đà lên năm
Cúc Hoa trong dạ mừng thầm
Vợ chồng đã được bảy năm sum vầy
Cục đời vinh hiển là đây
Dù che ngựa cưỡi tớ thầy phởn phơ( 1120 )
Một đêm trời đẹp tháng tư
Hiên lầu chồng vợ nằm chờ trăng lên
Hai con yên ngủ kề bên
Thiu thiu nàng thấy ứng liền chiêm bao
Tự nhiên có tấm lụa đào( 1125 )
Bay ngang qua mặt giạt vào tận tay
Sáng choang như thể ban ngày
Nửa đêm giờ tý đúng ngay đêm rằm
Cúc Hoa trở dậy toan cầm
Hai tay với lấy bay ầm lên mây( 1130 )
Cúc Hoa mất vía buông tay
Tỉnh ra than khóc giải bày khúc nhôi:
“Hỡi chàng phò mã thư ngồi
Xin chàng giải hộ thiếp tôi mộng này”
Phạm Công thảng thốt nói ngay:( 1135 )
“Lụa là tinh lạc nguy thay điềm rồi
Số em sắp phải về trời
Vợ chồng sẽ phải cách vời âm dương”
Nghĩ cơn gia biến khôn lường
Nhìn con nàng thấy xót thương muôn vàn( 1140 )
Phạm Công trong dạ bàng hoàng
Truyền quân mười đứa sắp hàng hai bên
Chung quanh gươm mác cắm liền
Đêm ngày nghiêm ngặt giữ gìn Cúc Hoa
Than rằng: “Tình nghĩa đôi ta( 1145 )
Trời xanh tác hợp trăng già xe duyên
Anh hùng sánh với thuyền quyên
Vinh hoa phú quý bách niên duyên hài
Ai ngờ lưới bỗng xa chài
Ai ngờ trúc héo cho mai hao mòn( 1150 )
Bỡn đùa ông tạo trẻ con
Biển khơi bỗng hóa ra cồn dâu xanh
Loan xa phận ấy đã đành
Tuyền đài ai rửa khối tình cho tan”
Cúc Hoa châu lệ chứa chan( 1155 )
Mở rương lấy lụa ra bàn toan khâu
Hai bóng đen bỗng bước vào
Giục nàng phải kíp đi mau không chầy
Phép quan chẳng có riêng tây
Dẫu cho gia sự làm vầy cũng khoan( 1160 )
Đầy nhà chớp giật sấm ran
Cúc Hoa kinh sợ phân trần vân vi:
“Chẳng may gặp phải cơn nguy
Xin người thư thả cho thì đội ơn
Đang khi gang tấc sống còn( 1165 )
Thương chồng vạn bội xót con muôn phần
Ai hay thiên địa xoay vần
Đang bình yên bỗng ầm ầm phong ba
Khéo trêu ngươi hỡi trăng già
Tơ duyên đức đoạn ai mà nối cho( 1170 )
Thương con mất mẹ bơ vơ
Thương chồng đơn chiếc ai lo đỡ đần”
Nói thôi lệ thấm đầy khăn
Phạm Công rên rỉ khôn ngăn giọt hồng
Hai người đứng đợi sốt lòng( 1175 )
Giục rằng: “Việc định phép không được chầy”
Cúc Hoa phách lạc hồn bay
Van rằng: “Xin hãy chờ giây phúc nào”
Hai người tức giận càu nhàu
Thúc nàng kíp liệu cho mau về chầu( 1180 )
Câu liêm gươm mộc kề đầu
Nàng còn ngồi gắng tay hầu bồng con
Phạm Công khóc lặng từng cơn
Xót con côi cút, cô đơn phận mình.

10. Phạm Công Mang Thi Hài Vợ, Cõng Con Ra Trận
Cả Nước Để Tang Cúc Hoa
Bởi đâu ra sự bất bình( 1185 )
Bất ngờ có giặc bắc kinh lăng loàn
Đem quân vào đến Ngọc Quan
Trịnh vương lo sợ đã toan lánh mình
Họp bàn văn võ triều đình
Cử binh dẹp tới Ngụy thành mới xong( 1190 )
Bá quan tâu với cửu trùng:
“Chúng thần ai dám địch cùng Sầm Hưng
Quan trạng là bậc tôi trung
Song toàn văn võ lẫy lừng xưa nay
Sẽ vì xã tắc ra tay”( 1195 )
Vua sai sứ giả về ngay phủ Quỳnh
Đòi trạng nguyên đến đế kinh
Sắc phong nguyên soái liễu chinh giặc ngoài
Sứ giả vâng lệnh kíp đòi
Sự tình nói hết đầu đuôi tỏ tường( 1200 )
Phạm Công lòng nặng đau thương
Vợ đi con dại chiến trường làm sao:
“Ngươi về tâu với trong trào
Xin sai các tướng lược thao gồm tài”
Sứ giả bèn trở về ngay( 1205 )
Khấu đầu tâu lại sự này vân vi:
“Vợ trạng vừa mới mất đi
Vậy nên trạng bảo sứ về tâu vua
Chiến chinh chẳng sợ được thua
Chỉ vì vợ mất con thơ buồn rầu”( 1210 )
Vua rằng: “Những kẻ công hầu
Chữ trung phải giữ làm đầu mới nên
Thế giặc như nước triều lên
Thế nào cũng phải trạng nguyên mới rồi”
Các quan tâu rộng một lời:( 1215 )
“Trạng nguyên là bậc tài trời dị nhân
Giặc nay đã kéo đến gần
Họa trong gang tấc, ba quân trông vào”
Sứ giả truyền tiếp lệnh sau
Phạm Công nghe nói ruột đau như chà( 1220 )
Hai tay ôm xác Cúc Hoa
Hai con khóc lóc theo cha không rời
Sẻ đàn tan nghé thương ôi
Anh lên năm tuổi, em thời lên ba
Phạm Công thương xót Cúc Hoa( 1225 )
Đem thi hài đến chương tòa đế kinh
Trịnh vương đang ngự long đình
Nhác thấy rùng mình ớn lạnh thấu xương
Than rằng: “Quái gở lạ thường
Thây ai đem đến triều đường thế sao( 1230 )
Đang khi giặc mới tiến vào
Trạng đem ma đến xui nào xui hơn”
Phạm Công tâu rõ nguồn cơn:
“Người có đoái đến lòng thần hay chăng
Bởi vì thần sợ vô bằng( 1235 )
Không cho vợ đến ngờ rằng nói sai
Rồi Người lại bảo vô loài
Ngại đi đánh giặc dối bài vợ đau”
Trịnh vương phán giọng rầu rầu:
“Người như quốc trạng kể đầu trung lương( 1240 )
Bây giờ trạng cứ lên đường
Ở nhà trẫm dựng đàn tràng làm chay”
Phạm Công ruột héo bầy chầy
Vội vàng quỳ xuống lòng đầy hàm ân:
“Bệ rồng đã cậy đến thần( 1245 )
Thì dù có phải liều thân quản gì”
Trịnh vương nhẹ giọng vỗ về:
“Trẫm khuyên trạng gắng mà đi phen này
Vợ trạng lánh gót cung mây
Nay cho phép giữ thi hài kề bên( 1250 )
Chồng đâu vợ đó cho liền
Trước sau trọn vẹn lời nguyền cùng nhau
Nắm xương giữ để về sau
Kẻo e lưu lạc dãi dầu cỏ hoa”.

——————————————–

Phạm Công vâng lệnh bước ra( 1255 )
Vai mang thi thể Cúc Hoa lên đường
Đem quân năm vạn rõ ràng
Cờ mao trống trận ầm vang cõi ngoài
Hai con thì cõng hai vai
Ngựa hồng giáp trụ ra ngay trận tiền( 1260 )
Quân Ngụy đóng chặt như nêm
Có hai danh tướng càng thêm nức lòng
Sầm Hưng Quách Quốc đột xông
Lớn tiếng quát hỏi Phạm Công tên gì:
“Xưng danh cho biết ngay đi( 1265 )
Hễ còn giấu ẩn thân mi tan tành”
Trạng rằng: “Mỗ ở Trịnh thành
Cũng chưa bày hết tinh danh cửa nhà
Chẳng may vợ mỗ mới qua
Triều đình cử mỗ phải ra trận này( 1270 )
Vai mang thi thể vợ đây
Hai con bé dại thơ ngây biết gì
Vâng theo hoàng chiếu ra đi
Quốc gia lâm nạn quản chi gia đình
Can qua mỗ quyết liều mình( 1275 )
Mong sao trọn vẹn nghĩa tình hiếu trung”
Mắt trông ai chẳng đau lòng
Vai mang xác vợ tay bồng con thơ
Tướng Ngụy nước mắt như mưa
Nghĩa chàng tiết nghĩa có thừa không sai( 1280 )
Cả hai quăng giáo thở dài
Ai ganh chi kẻ ôm hài cõng con
Sầm Hưng thấu hiểu nguồn cơn
Lại gần tính chuyện vuông tròn thủy chung:
“Tôi xin giúp trạng nên công( 1285 )
Chém cho thủ cấp đưa ông giảng huề
Giống tôi đầu khác đem về
Lỗi thì tôi chịu danh thì phần ông
Người đâu tiết nghĩa lạ lùng
Trận tiền tử địa con bồng xót xa”( 1290 )
Sầm Hưng Quách Quốc lệnh ra
Truyền quân nước Ngụy mã xa quay về.

———————————————————-

Ngụy vương mới hỏi sự kỳ:
“Làm sao trận mạc trở về quá mau
Hay là thua bọn Trịnh châu( 1295 )
Để cho đến nỗi quân đầu tướng tan”
Chư tướng quỳ tấu rõ ràng:
“Chúng thần mạn phép thiên nhan nghị hòa
Quân kia đánh chác thật thà
Đại binh đóng chặt hằng hà hai bên( 1300 )
Có một danh tướng trung hiền
Ngôi cao chức trọng ở miền Trịnh châu
Vốn là nguyên soái tại trào
Văn chương tuyệt bút lược thao gồm tài
Chẳng may vợ tướng lìa đời( 1305 )
Vai mang xác vợ tay thời bồng con
Thương người ăn ở có nhân
Nên hòa tướng ấy đem quân trở về”
Ngụy vương cũng thấy nể vì:
“Trung trinh dạ ấy khó bề chuyển lay( 1310 )
Được như tướng ấy nơi đây
Có bao nhiêu vị các ngài kể ra”.

———————————————————-

Phạm Công người ngựa dặm xa
Ngày đêm mải miết băng qua về trào
Bá quan văn võ vào chầu( 1315 )
Thấy trạng về tới nộp đầu Sầm Hưng
Vừa nhìn thấy mắt thấy răng
Lắm người khiếp hãi ngã lăn ra nhà
Trịnh vương hả dạ cười khà
Nói lời phán định trước tòa thong dong:( 1320 )
“Khen thay phò mã Phạm Công
Sức thần bảo vệ núi sông thành trì”
Bá quan ai cũng nể vì
Trận tiền chém được tức thì Sầm Hưng
Thở phào nhẹ nhõm lòng mừng( 1325 )
Ngụy vương mất tướng hết đường xấu chơi
Phạm Công tâu thực một lời:
“Tài thần thô thiển nhờ trời giúp công
Vậy nên chưa kịp giao phong
Nó chém đầu khác lộn sòng sang cho”( 1330 )
Bá quan nghe nói trầm trồ
Trịnh vương xúc động gật gù ngợi khen
Vua xem thế giặc đã yên
Cho thi hài vợ trạng nguyên an phần
Sắc truyền thủy bộ chư quân( 1335 )
Thuyền ba mươi chiếc lần lần lướt qua
Cả triều văn võ cùng ra
Chỉnh tề tang phục đưa ma vợ chàng
Uy nghi súng lớn hai hàng
Lệnh nghiêm cả nước để tang tức thì( 1340 )
Từ kẻ chợ đến thôn quê
Thảy đều khăn áo ai bi tỏ bày
Trạng nguyên công đức ai tày
Quân quan đưa đón cờ bay rợp trời
Phạm Công trong dạ bồi hồi( 1345 )
Xót hai con chịu một đời mồ côi
Vợ hiền mai táng xong xuôi
Chàng bèn dời gót quay lui về nhà.

11. Cúc Hoa Hiện Về Khuyên Phạm Công Lấy Tào Thị
Bây giờ kể đoạn Cúc Hoa ( 1350 )
Cùng hai người xuống đến tòa âm cung
Vua cha nước mắt rưng rưng
Ba mươi năm ấy ngàn trùng cách xa
Mừng công chúa trở lại nhà
Truyền cho cung nữ đàn ca tưng bừng ( 1355 )
Khắp nơi thảm tía trướng hồng
Hoa tươi hương đậm đèn lồng lung linh
Cúc Hoa đầu cúi lặng thinh
Lòng còn mang nặng nghĩa tình trần gian
Thương con côi cút ngỡ ngàng
Thương chồng sớm phải gian nan ưu phiền ( 1360 )
Nửa đường đứt mối tơ duyên
Nghĩa mai nợ trúc báo đền chưa xong
Hồn tuy đã xuống âm cung
hãy còn day dứt nhớ nhung cõi đời
Nỗi nàng sầu thảm khôn vơi ( 1365 )
Nỗi chàng lửa dập sóng vùi khôn an.

—————————————————-

Những mong siêu thoát phần nàng
Phạm Công cho dựng đàn tràng làm chay
Liền trong ba tháng mười ngày
Tụng kinh niệm phật nhang bay ngút trời ( 1370 )
Một đêm trăng sáng tỏ ngời
Cúc Hoa hiện đến vào nơi cô phòng
Đang khi đèn đuốc sáng choang
Cha con ông trạng nằm trong trướng đào
Lời nàng năn nỉ thấp cao: ( 1375 )
“Chàng ơi con hỡi làm sao bây giờ
Sao chàng vẫn cứ đợi chờ
Tề gia nội trợ chàng nhờ vào ai
Sao không kiếm bạn trúc mai
Trước nuôi con nhỏ sau hài nhân duyên ( 1380 )
Thiếp về kiếp ấy đã yên
Âm dương đôi ngả hàn huyên khôn vầy
Khuyên chàng cưới vợ liền tay
Đừng ham phú quý chưa cay trăm đường
Rồi ra nó chẳng kính nhường ( 1385 )
Con chồng dì ghẻ thói thường lạ chi”
Cúc hoa căn dặn chi li
Gót sen thoắt đã quay về âm cung
Phạm Công chợt tỉnh giấc nồng
Ngủ mê mà vẫn mơ mòng hôm mai ( 1390 )
Chập chờn cơn tỉnh cơn say
Thân này đâu nhẽ có ngày gặp tiên
Ngỡ là chưa hết trần duyên
Nên nàng sống lại cho tuyền nghĩa xưa
Đêm ngày thương nhớ nhẩn ngơ ( 1395 )
Chàng bèn tính chuyện thẩn thơ tìm tòi
Quẩn quanh khắp bốn phương trời
Trần hoàn đâu lại có người cửu nguyên
Vợ chồng tình nghĩa khó quên
Đêm khuya nàng mới hiện lên khuyên chàng: ( 1400 )
“Tơ duyên đã trót nhỡ nhàng
Trăm năm ai dám phụ phàng với ai
Chẳng qua số phận an bài
Xin đừng nghĩ đến những ngày phân ly
Sớm tìm nơi khác bù trì ( 1405 )
Cửa nhà êm ấm em đi yên lòng
Trước là con có người trông
Sau duyên loan phượng lại hồng như xưa
Lòng em mong mỏi sớm trưa
Mấy lời thành thật xin thưa cùng chàng”. ( 1410 )
Phạm Công mộng thấy rõ ràng
Càng nghe nàng nói lòng càng thêm đau
Sáng ra Tiến Lực rầu rầu
Trình cha soi xét trước sau mấy lời:
“Mẹ con về lại đêm rồi ( 1415 )
Giục tìm mẹ khác chăm nuôi đỡ đần
Mẹ con tuy đã lìa trần
Lòng còn xót trẻ chịu phần đơn côi
Xin cha nghĩ lại đôi hồi
Tìm người thay mẹ trông coi cửa nhà” ( 1420 )
Phạm Công bèn nói dàn hòa:
“Các con thong thả cho cha đợi ngày”
Hương hoa ngũ quả đem bày
Khấn rằng: “Chẳng dám đơn sai nghĩa tình
Cúc Hoa em hỡi có linh ( 1425 )
Lời em dặn thể lòng anh não nùng
Anh thề có ánh trăng trong
Dốc lòng ở vậy cho xong một đời
Nếu anh chẳng có nghe lời
Hóa ra phụ bạc với người cửu nguyên ( 1430 )
Muốn cho chung thủy vẹn tuyền
Âm dương xin quẻ xem nên thế nào”
Phạm Công gieo xuống ba hào
Ba lần đều được dồi dào cả ba
Đêm khuya nàng lại hiện ra ( 1435 )
Bảo cho chàng biết kẻo mà còn nghi:
“Có người dòng dõi lễ thi
Tên là Tào Thị dung nghi dịu dàng
Khen thay giá đáng ngàn vàng
Gặp cơn gia biến nhỡ nhàng bao phen ( 1440 )
Hái rau ngoài nội nghèo hèn
Xin chàng ra đón kết duyên châu trần”
Phạm Công suy tính xa gần
Lời nàng đã vậy mộng thần dám sai
Bấy giờ mới quyết một bài ( 1445 )
Rước nàng Tào Thị cho ai vui lòng
Tưởng đâu trạng có đèo bòng
Ấm êm chăn gối thong dong mọi bề
Đâu ngờ chểnh mảng sớm khuya
Thu qua đông lại không hề trăng hoa. ( 1450 )

12. Phạm Công Đi Trấn Cao Bằng, Để Hai Con Ở Lại Với Tào Thị
Mẹ Ghẻ Đuổi Con Chồng Đi Ăn Mày
Một hôm chín bệ truyền ra
Cho đòi quan trạng về qua kinh thành
Này đây sắc dụ rành rành:
“Cao Bằng nhậm chức trấn thành biên khu
Sao cho có cương có nhu ( 1455 )
Bốn phương yên ổn ấm no thì về”
Phạm Công tâu trước đan trì:
“Thần đi đánh giặc mới về chưa bao
Bây giờ lại phải xông vào
Cao Bằng hiểm trở vùng cao xa vời” ( 1460 )
Trịnh vương mới phán một lời:
“Quốc gia lâm sự cậy người trung lương
Nay sai ra trấn biên cương
Dân yên rồi hãy hồi hương lo gì
Mai sau trẫm có nhường vì ( 1465 )
Bấy giờ trạng phải hết nghì trị dân”
Phạm Công trong dạ tần ngần
Khấu đầu từ tạ dời chân ra về
Đôi hàng châu lụy não nề
Gọi hai con đến vỗ về bảo ban: ( 1470 )
“Vua sai cha trấn ải quan
Mồ mẹ con khó chu toàn khi xa
Nên hai con phải theo cha
Ta đem hài cốt Cúc Hoa theo cùng
Chồng đâu vợ đó mới xong ( 1475 )
Vẹn tuyền chung thủy, thỏa lòng nhau xưa”
Bấy giờ Tiến Lực ngây thơ
Đứng ngay dưới án trình thưa mọi đàng:
“Xin cha đừng nghĩ ngổn ngang
Chôn đâu để đó vững vàng mới yên ( 1480 )
E khi cất xuống đào lên
Một phen bộc lộ một phen thảm sầu”
Phạm Công nghe nói gật đầu
Chứa chan giọt ngọc dàu dàu lòng son
Tào Thị ngồi khóc nỉ non: ( 1485 )
“Thiếp xin nuôi đỡ hai con cho chàng
Dù khi thiếp có phụ phàng
Trên đầu nhật nguyệt hai vầng xét soi”
Chàng bèn nói lại một lời:
“Con ta không thể để người khác trông ( 1490 )
Dì ghẻ mà nuôi con chồng
Ắt là có bữa kiến ong đọa đày”
Tào Thị mới đáp như vầy:
“Tôi xin hết nghĩa giãi bày cùng ông
Con vợ cũng như con chồng ( 1495 )
Tôi đâu lại ở ra lòng nước mây
Mai kia trấn thủ về đây
Con đà ăn học giỏi hay đủ mười”
Phạm Công nghe nói mỉm cười:
“Nếu không lập thệ ai người ta tin” ( 1500 )
“Vái cùng Hậu thổ Hoàng thiên
Từ nay ai kẻ ác hiền chứng tri
Thiếp tôi nếu có điều gì
Dưới thì Thập điện trên kia Ngọc hoàng”
Nói thôi vái lạy tam quang ( 1505 )
Cùng là tam giáo thành hoàng yêu ma
Ôm con chàng chực khóc òa:
“Hai con hãy ở lại nhà cha đi”
Phạm Công dời gót ủ ê
Lực Xuân khóc lóc nằn nì theo cha ( 1510 )
Chàng bèn ra mộ Cúc Hoa
Hai hàng lệ nhỏ thiết tha khấn rằng:
“Vua sai anh nhậm Cao Bằng
Núi non trùng điệp rừng giăng khắp miền
Hồn em nếu có linh thiêng ( 1515 )
Thì về coi sóc điền viên cửa nhà
Tào Thị hoặc có sai ngoa
Em vả vào miệng điêu toa cho chừa”
Nói thôi ra lệnh phất cờ
Ba quân phấn chấn reo hò ra đi ( 1520 )
Đường dài lắm dốc nhiều khe
Tay vin mỏm đá đầu kê lưng trời
Đội mưa nắng đổ mồ hôi
Sau hơn một tháng tới nơi thị thành
Chuông voi nhạc ngựa tập tành ( 1525 )
Nhịp nhàng trống trận rập rình quân canh
Phạm Công buồn nhớ gia đình
Gượng vui cũng phải ra hình uy nghiêm
Dàn binh đóng trại đã yên
Tứ dân cảm kích trạng nguyên hiền tài ( 1530 )
Man di lần lượt hôm mai
Thần phục quan trạng ân dày đức cao.

——————————————————–

Xa nhà trạng có hay nào
Hai con phó thác họ Tào trông coi
Gặp bà dì ghẻ lạ đời ( 1535 )
Ăn ở chẳng phải ra người thủy chung
Chồng đi chưa được hai đông
Tào Thị cư xử ra lòng ghét ghen
Đọa đày con trẻ triền miên
Trăm bề cay đắng ưu phiền thảm thương ( 1540 )
Bắt đi kiếm củi trên rừng
Bắt cả hai đứa bỏ trường chăn trâu
Ngày ngày mưa nắng dãi dầu
Nghi Xuân tức tối lầu bầu bao đêm:
“Nếu dì còn ức hiếp thêm ( 1545 )
Anh em mình cũng chẳng thèm ở đây”
Lực rằng: “Nói vậy không hay
Đừng tính chuyện bỏ nơi này mà đi
Khuyên em em hãy nhớ ghi
Phận con mình phải thờ dì thờ cha ( 1550 )
Nếu không là lỗi ở ta
Những điều anh nói thực thà phải nghe
Bỏ nhà cực khổ trăm bề
Nay đây mai đó ê chề xót xa”.

———————————————————

Này đoạn Tào Thị ở nhà ( 1555 )
Tưởng đâu con nít dễ mà biết chi
Kể từ trạng bước chân đi
Phòng không Tào Thị lắm khi la đà
Trạng nguyên trấn thủ phương xa
Ông không ăn chả nhưng bà ăn nem ( 1560 )
Gặp chàng trai trẻ bắt quen
Hai người đắm đuối ở liền bên nhau
Phải khi Tiến Lực đi đâu
Nghi Xuân ngó thấy trước sau hỏi dì:
“Cha tôi chinh chiến chưa về ( 1565 )
Thế ai nói chuyện rầm rì đêm qua”
Tào Thị nhân đấy được đà:
“Ai xui mày đặt chuyện ra lạ lùng
Ba đây là gái có chồng
Sao mày lại dám nói không cho bà ( 1570 )
Đêm hôm khóa chặt cửa nhà
Bà biết mặt dọc hay là mặt ngang
Hổ mang lại giống hổ mang
Đúng là con ruột của nàng Cúc Hoa”
Nghi Xuân tức quá khóc òa: ( 1575 )
“Dì đâu biết mặt Cúc Hoa thế nào
Mẹ tôi vụng dại hay sao
Mà dì nhiếc móc ra vào không ngơi
Duyên may vả lại gặp thời
Cho nên dì mới được ngồi cùng cha ( 1580 )
Mẹ tôi thác đã ra ma
Sao dì nỡ nhiếc Cúc Hoa hỡi dì
Cho dù dì lớn hơn đi
Lớn mình lớn mẩy hơn chi ai mà
Tôi bé cũng thể con nhà ( 1585 )
Dì thì lớn thật nhưng là thứ dân”
Tiến Lực về đến đầu sân
Góp lời: “Gì chớ ác tâm ác hành”
Tào Thị hét: “Lũ trẻ ranh
Chúng bay gán ghép tội tình cho tao ( 1590 )
Nuôi ong tay áo mãi sao
Khôn hồn liệu kiếm đường nào xéo đi”
Nghi Xuân nổi giận tức thì:
“Lấy gươm ta chém chết dì đi thôi”
Tào Thị rên xiết: “Hỡi ôi ( 1595 )
Trời có chứng giám cho tôi chăng là”
Tiến Lực liền kéo em ra:
“Những lời anh dặn em đà quên sao
Ở ăn ngày tháng ra vào
Phải lo gìn giữ cọp nào thương dê ( 1600 )
Nên chi phải đợi cha về
Bấy giờ hãy dở chuyện gì có cha
Không nghe nên lỗi phép nhà
Để họ có cớ đuổi ta ra đường”.
Áo quần tơi tả thảm thương ( 1605 )
Anh em len lỏi phố phường xin ăn
Đêm về tìm chỗ trú chân
Bình minh sực giấc ruột gan cồn cào
Đang nắng gắt chợt mưa rào
Ướt như chuột lụt đẫm vào lại khô ( 1610 )
Quanh vùng ai cũng gọi cho
Anh em nhờ vậy được no đôi phần
Tào Thị tìm cách cấm ngăn:
“Ai cho Tiến Lực Nghi Xuân ăn mày
Dân thì ta chém đầu ngay ( 1615 )
Quân không tuân lệnh từ rày cắt lương”
Bà con bụng vẫn xót thương
Nhưng ai cũng khiếp giáo gươm lệnh bà
Không dám cho trẻ vào nhà
Đàn ông răng nghiến, đàn bà rưng rưng ( 1620 )
Nghi Xuân Tiến Lực cùng đường
Xin đình xin chợ quanh vùng long đong.

——————————————————–

Tào Thị hãm hại cho chồng
Phép vua luật nước đều không sá gì
Vênh vênh váo váo ai bì ( 1625 )
Khi ra giáo dựng khi về gươm đeo
Quân quan đồng báo vào triều
Dân tình quanh đấy cũng đều chê bai:
“Vợ ông phò mã ghê thay
Cứ như vương tướng suốt ngày ngựa voi ( 1630 )
Kiệu tàn võng lọng rong chơi
Hai bên quân kéo rợp trời nghênh ngang”
Lời tâu thấu đến ngai vàng
Trịnh vương bèn phán rõ ràng như sau:
“Vợ trạng đã mất từ lâu ( 1635 )
Lấy đâu võng lọng lấy đâu lệnh bà”
Quân quan rằng chuyện thực thà
Trạng mới cưới vợ về nhà lần sau
Phải người nham hiểm cơ cầu
Hai con quan trạng dắt nhau ăn mày ( 1640 )
Vua nghe bèn thét mắng ngay:
“Can chi việc ấy chúng bay rầy rà
Chuyện này đợi trạng về nhà
Tùy nghi xử phán dàn hòa sẽ hay
Bây chừ ta chẳng nghe bay ( 1645 )
Mất lòng phò mã bấy này phù trì”
Quan tâu chẳng đặng mà đi:
“Thôi ta đành chịu một bề cho xong
Việc đà tâu đến ngai rồng
Đâu ẫn hoàn đó trong lòng ức ghê”. ( 1650 )

13. Cúc Hoa Hiển Linh Gặp Con,
Cháu Đến Xin Nhà Ông Bà Ngoại
Anh em Tiến Lực ra đi
Chẳng còn ở lại làm chi chốn này
Dẫn em vượt chặng đường dài
Mười ngày sau đã về ngay quê nhà
Nhận ra mộ mẹ từ xa ( 1655 )
Tiến Lực chạy tới khóc òa: “Mẹ ơi
Sao mẹ sớm bỏ về trời
Để chúng con phải thành người xin ăn”
Đêm về lạnh lẽo tối tăm
Anh em co quắp ổ nằm cỏ lau ( 1660 )
Em chìm trong giấc ngủ sâu
Anh thức một mạch sang đầu canh hai
Cúc Hoa nước mắt chảy dài
Âm dương đôi ngả tháng ngày vời xa
Bấy giờ mới mở mộ ra ( 1665 )
Nhìn hai con dại xót xa ngậm ngùi
Lại gần nàng lặng yên ngồi
Nửa đêm tới sáng không rời hai con:
“Mẹ xa gần bốn năm tròn
Nhà mình vẫn đó sao còn đi dâu” ( 1670 )
Nghe tiếng mẹ ruột như bào
Nghi Xuân Tiến Lực ôm nhau khóc òa:
“Từ ngày mẹ bỏ đi xa
Cha em dì ghẻ về nhà đến nay
Tưởng là thay mẹ ai hay ( 1675 )
Dì dắt bỏ học dì đày chăn trâu
Cho nên chẳng được ở lâu”
Cúc Hoa nghe nói lòng đau như dần
Ôm con sờ nắn tay chân
Thấy toàn xương xẩu than thân trách trời: ( 1680 )
“Mẹ đi suốt mấy năm rồi
Những mong con được mấy hồi cả khôn”
Còn đang than thở nỉ non
Xóm xa gà đã ồn ồn gáy lên
“Hai con ở lại cho yên ( 1685 )
Mẹ về âm phủ cõi tiên đấy mà”
Nghi Xuân ôm mẹ xót xa:
“Sao mẹ lại bỏ con mà đi đâu”
Cúc Hoa nhìn trước ngó sau:
“Hai người theo mẹ đã vào đến đây” ( 1690 )
Hai người vội vã khoát tay:
“Con thơ nói vậy đi ngay sao đành
Vua cha chắc cũng thể tình
Nàng cứ nán lại một mình thong dong”
Cúc Hoa nước mắt ròng ròng ( 1695 )
Nghe gà gáy giục mà lòng tái tê
Lấy khăn phủ mặt xưa kia
Viết thư để lại vân vi trách chồng
Xem qua nàng thấy đau lòng
Cột vào dải áo con phòng khi rơi: ( 1700 )
“Thư đây mẹ đã buộc rồi
Hai con ở lại mẹ thời phải đi”
Bộ hành qua lại rầm rì
Ôm con nàng vẫn chưa về âm cung
Mọi người thấy sự lạ lùng: ( 1705 )
“Đàn bà nào ở nơi cùng hoang đây”
Cúc Hoa đáp lại như vầy:
“Thương con thơ dại lòng này héo hon
Ra đi chúng khóc nỉ non
Ngồi lại bắt chấy cho con cả ngày” ( 1710 )
Ghé tai nàng nói con hay:
“Ở đây thổ lộ người đầy trước sau
Hai con quay mặt trở vào
Bên đầu còn chấy khuất nào thấy chi”
Con nghe quay mặt tức thì ( 1715 )
Cúc Hoa nàng đã biến đi đàng nào
Thấy tay vắng ngắt trên đầu
Ngó ra chẳng thấy mẹ đâu nữa mà
Lực rằng: “Mẹ thực hồn ma
Có đâu ở đặng cùng ta chốn này” ( 1720 )
Anh em nước mắt tuôn đầy
Chơ vơ bên mộ đắng cay muôn vàn.

—————————————————-

Đường xa hiểm trở bội phần
Anh em đói lả lê chân ngày ngày
“Kìa dinh quan lớn cao vầy ( 1725 )
Âu là ta nghỉ chốn này xem qua”
Quân canh thét mắng dầm dà:
“Dinh quan tri phủ vốn là nơi đây
Bởi đâu hành khất qua ngày
Đi đâu thảm thiết lòng này ấu nhi” ( 1730 )
Bước vào đến cửa liền quỳ:
“Xin Người thí bỏ kể chi ít nhiều”
Tướng công nét mặt đăm chiêu
Đặt sách xuống án trông theo tức thì:
“Con ai thơ dại thế kia ( 1735 )
Mà cha mẹ bỏ cho đi ăn mày
Các con vào cả trong đây
Hai đứa quỳ mỏi thế này mãi thôi
Mình trần ướt đẫm mồ hôi”
Cảm thương tuổi nhỏ không người trông nom ( 1740 )
Nhìn hai đứa trẻ gầy còm
Tự nhiên thấy chúng như con cháu nhà
Tướng công nghĩ ngợi gần xa
Con ai mà giống Cúc Hoa làm vầy
Nó giống bàn chân bàn tay ( 1745 )
Giống cả mũi miệng lông mày hằm răng
Điệu đi dáng đứng đàng hoàng
Sao mà nó giống y chàng Phạm Công
Lại gần rộn rực trong lòng:
“Con ai cốt cách khi không ăn mày” ( 1750 )
Phu nhân nén tiếng thở dài
Lắc đầu xẳng giọng nói ngay một hồi:
“Rể ta đô đốc cao ngôi
Có đâu con nó cuộc đời lang thang
Tướng công suy ngẫm lằng nhằng ( 1755 )
Trông gà hóa cuốc, nhìn thằng thành ong
Cho trẻ bát gạo là xong
Gọi là có chút tỏ lòng xót xa”
Con hầu lấy gạo đem ra:
“Này đây đấu gạo quan bà cho bay” ( 1760 )
Tiến Lực lễ phép giãi bày:
“Chúng con bé dại thơ ngây vụng về
Chẳng phải là chúng con chê
Nhưng không biết nấu cách gì mà ăn
Nếu nhà còn có dư phần ( 1765 )
Cho cơm nhiều ít dịu cơn đói này”
Bát cơm nóng hổi trong tay
Anh bèn quay mặt đưa ngay em cầm
Em cầm thôi lại tần ngần:
“Em còn chịu được anh ăn cho rồi” ( 1770 )
Tiến Lực mới bảo: “Em ơi
Cứ ăn đi đã anh thời kiếm sau”
Thấy hai đứa trẻ nhường nhau
Phu nhân bèn bảo con hầu cho thêm
Ăn xong sụp lạy trước thềm ( 1775 )
Tiến Lực đi trước dẫn em ra đường
Tướng công từ bấy cảm thương
Xót xa hai trẻ dặm trường xin ăn
Anh em cứ thế lê chân
Leo đồi lội suối muôn phần thảm thê ( 1780 )
Chim kêu vượn hót tứ bề
Bốn ngày ròng rã cùng về Phú Xuân
Anh em vào chợ nghỉ chân
Phố phường trông thấy ân cần hỏi han
Thương thay hai trẻ bần hàn ( 1785 )
Không cha không mẹ lang thang tháng ngày
Anh em bàn định từ nay
Cùng nhau ở lại chốn này đợi cha
Ai trông thấy cũng xót xa
Kẻ cho người cấp dần dà thành quen ( 1790 )
Mỗi ngày xin đặng vài tiền
Đủ ngày hai bữa ngóng tin cha về.

14. Phạm Công Gặp Con Trên Đường Về Triều
Tào Thị Gỡ Tội Trước Phạm Công Rồi Bị Trời Xử
Biên thùy trấn nhậm một bề
Phạm Công nay đã vỗ về trung quân
Một hôm ngồi ở trung quân ( 1795 )
Tự nhiên cảm thấy băn khoăn trong lòng
Bấm tay đã được ba đông
Hoa đào xòe nụ vọng phong khoe màu
Trạng cho mang sớ về trào
Vua cho trở lại Đăng Châu tức thì ( 1800 )
Vội vàng thu xếp ra đi
Xa gần các xứ kéo về rất đông
Khắp miền trên bộ dưới sông
Đón đưa bái vọng tỏ lòng tri ân
Truyền cho nhổ trại rút quân ( 1805 )
Người người hớn hở hoa xuân cắm đầy
Bấy lâu cách biệt buồn thay
Nay mai sắp được sum vầy vợ con
Bõ khi xa vắng héo hon
Buồn thiu giữa cảnh núi non xa nhà ( 1810 )
Phố phường kéo đến hằng hà
Đua nhau cá thịt rượu trà tiễn đưa
Quân quan lẫm liệt không vừa
Mà nay vui nhộn cười đùa không ngơi
Phú Xuân vừa mới tới nơi ( 1815 )
Lệnh ra nghỉ lại rong chơi một ngày
Cho quân ăn uống vui vầy
Chơi bời hát xướng bỏ ngày quan san
Phố phường nô nức chen chân
Đi xem quan trạng Cao Bằng hồi hương. ( 1820 )

———————————————————-

Nghi Xuân Tiến Lực chưa tường
Mấy nhà tốt bụng chỉ đường bảo ban:
“Hiện đang có đám quân quan
Hãy đến xin họ mà ăn tháng ngày”
Nghe người bảo vội đi ngay ( 1825 )
Dắt Nghi Xuân tới ăn mày tướng công
Theo chân nhà bếp vào cùng
Nhiều mâm thịt cá nhiều chung rượu đầy
Tiến Lực cung kính thưa ngay:
“Dám xin câu bếp thương hai trẻ nghèo ( 1830 )
Còn cơm dư dật ít nhiều
Xin cho một bát hẩm hiu đỡ lòng”
Hai người nghe nói liền trông
Tự nhiên ứa lệ trong lòng xót xa:
“Thấy chúng mà nhớ người nhà ( 1835 )
Con bà phò mã Cúc Hoa thêm rầu”
Bảo rằng: “Nào lẹ lên nào
Tướng công nhân đức cứ vào đừng lo
Xin xong bay lại trở vô
Lấy cơm ta sẽ thêm cho đừng phiền” ( 1840 )
Tiến Lực nhắm hướng nhà trên
Tay dắm em dại bước lên thềm quỳ
Bàn quan mâm cỗ đầy phè
Cao lương mỹ vị tứ bề thơm ngon
Trạng nguyên chưa biết thiệt hơn ( 1845 )
Thoạt trông lệ đã ứa luôn lưng tròng
Tự nhiên rạo rực trong lòng
Sẻ cơm rồi bảo hầu phòng cho ngay
Tiến Lực đỡ lấy trên tay
Bưng ra chỗ vắng khoan thai lệ nhòa: ( 1850 )
“Mẹ ơi mẹ hỡi Cúc Hoa
Có thiêng về hưởng cơm hòa hai con”
Anh em khấn khứa nỉ non
Hai hàng nước mắt trào tuôn bồi hồi
Trạng nguyên cho lính tới nơi ( 1855 )
Kêu hai đứa trẻ vào chơi đỡ buồn
Anh em nghe nói theo luôn:
“Trình quan lớn gọi chúng con việc gì?”
Trạng nguyên bèn hỏi tỉ tê:
“Có còn cha mẹ quán quê nơi nào” ( 1860 )
Tiến Lực nhìn xuống nghẹn ngào:
“Mẹ cha con ở làng Hào, Quỳnh Vân
Nói ra xấu hổ muôn phần”
Trạng nguyên nghe nói tần ngần hồ nghi:
“Sự đâu có sự lạ kỳ ( 1865 )
Trẻ cùng ta ở một quê một làng”
Lựa lời trạng nói khẽ khàng:
“Vì đâu mà phải nhỡ nhàng tới đây
Nói ông tiền gạo cho ngay
Chẳng cần giấu giếm chuyện này làm chi” ( 1870 )
Tiến Lực nhìn trạng não nề:
“Cha con cũng chẳng kém gì ông đâu
Vốn là sang cả công hầu
Oai danh lừng lẫy đâu đâu biết tài
Mẹ con bất hạnh chầu trời ( 1875 )
Cha đi viễn trấn ở nơi Cao Bằng”
Trạng nguyên lại hỏi nữa rằng:
“Cha quyền tước ấy tên hằng gọi sao?”
Lực thưa: “Chẳng giấu ông nào
Trạng nguyên ba nước đỗ đầu Phạm Công ( 1880 )
Một mình năm chức vua phong
Trong tay năm vạn binh hùng phương xa
Mẹ con tên gọi Cúc Hoa
Con quan tri phủ cửa nhà giàu sang
Hẩm hiu thân phận nhỡ nhàng ( 1885 )
Phôi pha sớm đã suối vàng thảm thay
Cha đi bước nữa không may
Gặp phải Tào Thị người nay chẳng lành
Vắng chồng làm chuyện gian manh
Con chồng đày đọa ác hành đuổi đi ( 1890 )
Chúng con có bức thư ni
Xin trình quan lớn người thì xem qua”
Nhìn khăn phủ mặt Cúc Hoa
Đọc dòng chữ viết lệ nhòa từng nơi
Chàng ôm con khóc nghẹn lời ( 1895 )
Mừng mừng tủi tủi đầy vơi bấy chầy
Truyền đem quần áo cho thay
Theo đoàn người ngựa về ngay phủ đường.

—————————————————————

Quân quan rong ruổi dặm trường
Mười ngày tới đặng quê hương ông bà ( 1900 )
Phạm Công xuống ngựa từ xa
Hai con theo sát gót cha bước vào
Tướng công thấy lạ lùng sao
Nhác trông hai đứa hôm nao ăn mày:
“Bữa kia chúng đã đến đây ( 1905 )
Thoạt nhìn ta nhận ra ngay cháu nhà
Đâu rồi mẹ chúng Cúc Hoa
Làm sao mà để con ra thế này?”
Phạm Công sụp lạy cầm tay:
“Cha đừng hỏi nữa con đây đau lòng ( 1910 )
Vợ con sớm xuống âm cung
Để hai con dại đèo bòng bấy nay
Bởi con viễn trấn lâu ngày
Cho nên mới có sự này dở dang”
Ông bà tri phủ bàng hoàng ( 1915 )
Ôm choàng lấy cháu thở than một hồi:
“Cúc Hoa phận bạc con ơi
Đi đâu chẳng nói một lời cùng ta
Chẳng thương cha mẹ tuổi già
Lấy ai nương tựa gần xa sau này ( 1920 )
Giận khi trẻ mới tới đây
Ta đã n hìn thấy giống tày Cúc Hoa
Ngán thay cho cái mụ già
Cháu đến chẳng được của bà nửa câu”
Phạm Công nghe nói tuôn châu ( 1925 )
Nghẹn lời giải tỏ gót đầu gần xa:
“Hai cháu ở với ông bà
Coi như có bóng Cúc Hoa sớm chiều
Để con phụng mệnh về triều
Sau ghé thăm cảnh đìu hiu cửa nhà ( 1930 )
Từ đường làm lễ trình qua
Rồi ra xem mộ Cúc Hoa thế nào
Còn chuyện Tào Thị bấy lâu
Cũng cần gạn hỏi trước sau tỏ tường”.

——————————————————–

Phạm Công kíp phải lên đường ( 1935 )
Lạy cha lạy mẹ yên cương sẵn sàng
Ngựa quen đường cũ chạy hăng
Mấy ngày quân đã tới gần kinh đô
Chờ ngày nộp sớ tâu vua.
Chồng về Tào Thị sợ lo trăm bề ( 1940 )
Ngày sinh nở đã gần kề
Mặt thì trát phấn bụng thì nịt khăn
Tóc tai sợi dọc sợi ngang
Vội vàng ra rước gặp đoàn ngựa xe
Phạm Công trở gót ra về ( 1945 )
Quân quan đưa đón bạn bè đến đông
Chàng mời tất cả vào trong
Yết diên thết đãi thỏa lòng khải ca
Xong xuôi mới hỏi việc nhà
Tào Thị kể lể gần xa mấy lời: ( 1950 )
“Chàng đi thiếp chịu lẻ loi
Ngày thời tơ tưởng đêm thời khát khao
Khác nào hạn đời mưa rào
Cho nên vóc liễu xanh xao võ vàng”
Phạm Công dò hỏi khẽ khàng: ( 1955 )
“Bao nhiêu phấn sáp sao nàng không thoa
Cớ sao đầu tóc lòa xòa
Phải chăng quên mất mình là vợ quan?”
Nàng rằng: “Bồ liễu tân toan
Chồng đi trấn nhậm quan san chưa về ( 1960 )
Vui gì tô điểm mặt huê
Khi chồng mưa nắng dãi dề sao đang
Bấy lâu bỏ phấn xa nhang
Ăn chay cầu khấn cho chàng về nay”.
Phạm Công bèn hỏi lại ngay: ( 1965 )
“Nghi Xuân Tiến Lực ngày rày ở đâu?”
Nàng rằng: “Nghe nói thêm rầu
Ba mẹ con vẫn chung nhau một giường
Ai ngờ chúng nó ương ương
Tung chăn đạp gối cãi thừong quá đa ( 1970 )
Thiếp cho đi học phương xa
Nhưng chúng lại bỏ về nhà chăn trâu
Đàn bà dạy được con đâu
Nói thời mang tiếng cơ cầu chẳng hay
Áo cũ thiếp lại cho may ( 1975 )
Thôi thì là lượt liền tay ấy mà
Mình thiếp lo liệu việc nhà
Nghi Xuân tắm rửa ngày ba bốn lần
Nâng niu quý báu muôn phần
Bữa thường dỗ mãi mới ăn cho rồi ( 1980 )
Thiếp giận lỡ nói một lời
Không ngờ hai đứa băng vời ra đi
Cho tìm khắp hết chợ quê
Thuê người yết bảng gọi về bây nay”
Phamj Công cau mặt thở dài: ( 1985 )
“Chúng đi đã được bao ngày nhớ không?”
Tào Thị xỉ mũi khóc ròng:
“Mới đi sáu bữa trong lòng chẳng yêu
Thương con thiếp nặng ưu phiền
Lo dò chưa thấy lo tìm chưa ra”. ( 1990 )
Phạm Công nghe nói cười khà:
“Ơn nàng ăn thực ở thà chẳng chơi”.
Lả lơi vừa nói vừa cười
Hỏi: “Sao nàng lại một người hóa hai?”
Nàng rằng: “Chớ có mỉa mai ( 1995 )
Hay chàng nghi thiếp có ai ở nhà?”
Đáp liền: “Chồng ở nơi xa
Canh khuya hồn lẻn về nhà nằm bên.”
Quân hầu phục dịch ngày đêm
Vào trình quan trạng nỗi niềm bấy lâu ( 2000 )
Kẻ người người gửi xôn xao
Thiết tha sau trước thấp cao đầy nhà:
“Từ ông trọng nhậm phương xa
Chẳng ai đáo để như bà thương ôi
Thấy ông quyền cả cao ngôi ( 2005 )
Bà cũng sắm sửa ngựa voi đi về
Đày cô với cậu ê chề
Cô phải chăng ngỗng cậu thì chăn trâu”
Trạng rằng: “Ta rõ trước sau
Thôi đừng nói nửa thêm đau lòng vàng ( 2010 )
Đó là ta ướm thử nàng
Con ta hai đứa lang thang ăn mày”
Tào Thị quỳ xuống chắp tay:
“Rộng dung làm phúc tội này xin tha
Khi ông trấn thủ phương xa ( 2015 )
Nghi Xuân mắng mỏ tôi đà quá thôi”.
Trạng đi thăm mộ vợ coi
Mồ hoang cây dại từng nơi lòa xòa
Tay dang ôm mộ Cúc Hoa
Khóc rằng: “Em hỡi anh đã về đây ( 2020 )
Bởi anh xa vắng lâu ngày
Nơi đây lạnh lẽo chẳng ai ngó ngàng
Mộ phần không một nén nhang
Hai con nhỏ phải lang thang không nhà
Nhưng thôi những đứa sai ngoa ( 2025 )
Đã có thiên địa mấy tòa xét soi”
Trở về không nói một lời
Xót xa thương vợ bồi hồi nhớ con
Chong đèn vò võ tấc son
Miệt mài làm sớ thức tròn năm canh ( 2030 )
Gặp Tào Thị lúc bình minh
Bảo rằng: “Thu xếp về nhanh quê nàng
Chia đôi của cải bạc vàng
Mặc lòng chọn lấy mà mang đi cùng”
Tào Thị nghe nói thẹn thùng: ( 2035 )
“Ơn Người tha giết lại dung cho về
Tài vật chẳng dám một ly
Gái hư chồng bỏ ai vì nữa đâu
Tưởng điều ân ái thêm sầu
Dại khờ thai nghén dãi dầu cỏ hoa ( 2040 )
Chẳng cần hầu hạ vào ra
Lạy chàng xin trở về nhà từ nay”.

————————————————

Dường như trời ở đâu đây
Nàng đi vừa tới gần cây đa làng
Chớp lòe sét đánh tan hoang ( 2045 )
Thân trơ chết cứng giữa đàng ai hay
Thiên lôi trở lại tầng mây
Hổ lang bèn đến chốn này tha đi

15. Phạm Công Từ Quan Đi Tìm Cúc Hoa
Phạm Công trong dạ não nề
Đem quân về tới kinh kỳ Đăng Châu ( 2050 )
Chàng bèn dâng sớ quì tâu:
“Chúng thần viễn trấn bấy lâu đã về
Biên cương yên ổn mọi bề
THị thành phát đạt thôn quê được mùa”
Bá quan văn võ bấy giờ ( 2055 )
Đều khen quan trạng giúp cho vuông tròn
Thấy trạng nét mặt héo hon
Trịnh vương phán hỏi nguồn cơn một lời:
“Ngỡ là về lại thì vui
Sao trạng ngồi lặng ngùi ngùi vậy thay ( 2060 )
Quyền cao chức trọng dường này
Sao không mừng cảnh vui vầy cùng ta”
Phạm Công quỳ xuống thiết tha:
“Thần muốn nộp chức về nhà mà thôi
Vì chưng gia sự rối bời ( 2065 )
Vợ đà mất sớm con thời thơ ngây”
Vua rằng: “Hãy nói ta hay
Vì đâu bối rối mặt mày kém tươi
Ba năm viễn trấn tái hồi
Về chưa ấm chỗ đã đòi thôi quan ( 2070 )
Tưởng là chầu chực ngai vàng
Vua tôi gần gụi ta càng thong dong”
Phạm Công tâu trước bệ rồng:
“Đội ơn thánh thượng đoái lòng cỏ cây
Con thơ vợ thác bấy chầy ( 2075 )
Âm cung thần muốn xuống ngay tìm nàng”
Triều đình văn võ đáp rằng:
“Người trần ai dám mơ màng âm ty”
Trịnh vương khuyên nhủ một khi:
“Dương gian xuống đấy làm chi lạ lùng” ( 2080 )
Cầm tay giải tỏ ung dung:
“Chẳng hay trạng có muốn cùng với ta
Đảm đương gánh nặng sơn hà
Mọi nhà an ổn mọi nhà ấm no
Vua tôi mọi việc chung lo ( 2085 )
Trạng là người của trời cho nước mình
Trạng người chính đại quang minh
Trạng người trung hậu nghĩa tình trước sau
Dương gian chẳng có vợ sao
Hiện nay công chúa giá cao trong đền ( 2090 )
Bước vào độ tuổi thành niên
Âu là ta gả cho nên vợ chồng”
Phạm Công quỳ trứoc bệ rồng:
“Dẫu tiên hạ giới mặc lòng tưởng chi
Lòng thần muốn xuống âm ty ( 2095 )
May ra gặp vợ cùng về lo toan”
Biết không đổi được ý chàng
Vua trách sao đã vội vàng ra đi:
“Lân bang gây chuyện nọ kia
Hoặc khi xảy đến điều gì cậy ai ( 2100 )
Trẫm thì chưa có con trai
THiếu người kế cị hôm mai trị vì
Nỡ nào trạng bỏ mà đi
Vua tôi biết thuở nào về vui chung
Cầm tay ứa lệ đôi dòng: ( 2105 )
“Bỗng dưng cách trở nghìn trùng xót xa”
Phạm Công từ tạ trở ra
Về Quỳnh Vân để ông bà hay tin
Đầu đuôi kể hết sự mình
Nỗi niềm thương vợ quyết tình tìm đi: ( 2110 )
“Ở nhà hai cháu ấu nhi
Vui cùng cha mẹ bù trì sớm hôm
Ông bà nghe nói hoảng hồn
Xót thương chàng quá đau buồn liều thân:
“Vợ con sớm phải lìa trần ( 2115 )
Giờ con lại định băng ngàn tìm đi”
Trạng rằng: “Sống thác quản chi
Có tìm thấy vợ mọi bề ới an”
Lại quay nhìn hỏi hai con:
“Theo cha có muốn gặp hồn Mẹ Hoa” ( 2120 )
Ông bà tri phủ phân qua:
“Con đi cháu phải ở nhà mới xong”
Chia tay trở lại triều trung
Lập đàn chiếu kính âm cung đi tìm
Trịnh vương cám cảnh thương tình ( 2125 )
Quyết bề theo trạng Diêm thành xem sao
Triều đình nghe tỏ âm hao
Hai bên văn võ cùng vào gián can:
“Người là hoàng đế dương gian
Uy linh bốn bể giàu sang chín trùng ( 2130 )
Sơn hà nhân vật cậy trông
Nỡ nào bỏ chốn bệ rồng đi nay”
Vua rằng: “Ta ở lại đây
Ai người canh thiếp đêm ngày cho ta”
Chiếu ban tới tấp gần xa ( 2135 )
Tìm ngừoi chiếu kính tới tòa âm ty
Canh chừng quan trạng thiếp đi
Việc xong quan tước tức thì vua ban
Dân tình sôi nổi tính toan
Người bàn kế nọ kẻ bàn kế kia: ( 2140 )
“Ngồi canh người xuống âm ty
Họa nhiều phúc ít, nhỡ thì nguy lây”
Chiếu ban đã được ba ngày
Chẳng ai dám nhận việc này mà mong
Bấy giờ công chúa trong cung ( 2145 )
Thương tình quan trạng nên lòng xót xa
Khẽ khàng nàng mới bước ra
Khấu đầu làm lễ vua cha tức thì:
“Con xin cầm kính trạng đi
Gọi là ân nghĩa để ghi sau này” ( 2150 )
Vua rằng: “Quái gở lắm thay
Ba ngày ban chiếu chẳng ai vào chầu
Sao con mua lấy lo âu
Đào tơ liễu yếu vả sau còn chồng”
Nàng rằng: “Thương kẻ anh hùng ( 2155 )
Trung trinh nghĩa ấy thực lòng bề tôi”
Vua rằng: “Chẳng phải chuyện chơi
Sau này khi trạng về rồi tính sao
Phari nên nghĩ trước nghĩ sau
Kẻo khi phí uổng công lao đợi chờ” ( 2160 )
Nàng rằng: “Bệ hạ đừng lo
Bao giờ đến đó trời cho kinh quyền”
Thấy con khảng khái một niềm
Hẳn rằng duyên nợ xui nên thế này
Thương con xót trạng cả hai ( 2165 )
Thôi đành chấp nhận rủi may cơ trời
Vua bèn bảo trạng mấy lời:
“Âm dương cách biệt con người khó phân
Thương trạng nặng nghĩa châu trần
Nên cho công chúa ngồi cầm kính theo ( 2170 )
Thăm xong kíp phải về triều
Kẻo ta trông đợi nhìêu điều ưu tư”
Phạm Công lạy tạ ơn vua
Cậy nhờ pháp thuật pháp sư nhiệm mầu
Công chúa nét ngọc rầu rầu: ( 2175 )
“Chàng ơi hãy ráng đi mau mà về”
Trống chuông rầm rĩ tứ bề
Trận đồ sắp đặt chỉnh tề phân minh
Thầy sai thiên tướng thiên binh
Đánh trạng nguyên hết sức mình không xong ( 2180 )
Hai ngày cúng khắp tây đông
Đồng không thiếp được, phách không lìa hồn
Uy danh trạng thực như đồn
Lung lay chẳng chuyển vái van chẳng rời
Ai ai cũng nói một lời: ( 2185 )
“Cúng thêm vàng lễ kịp thời mới xong”
Công chúa nghe bảo rằng: “Không
Xưa nay lễ bái tự lòng mà ra
Phạm Công quốc trạng tài ba
Phải sai các tướng thật là uy linh” ( 2190 )
Pháp sư nghe rõ sự tình
Cầu đến chư vị nổi danh oai hùng
Kíp xin thái tử thủy cung
Áp vào mà đánh Phamj Công cho rồi
Hồi lâu vẫn thấy trạng ngồi ( 2195 )
Thì ra các vị nhà trời sợ ông
Cho nên chẳng chuyển được đồng
Pháp sư là kẻ rối lòng trước tiên
Trời sai Đại Thánh Tề Thiên
Xuống ngay để đánh ngã liền Phạm Công ( 2200 )
Tề Thiên hăng hái thẳng xông
Đánh ngã ngựa hồng cùng trạng một khi.

16. Hồn Phạm Công Du Địa Phủ
1 –

Phạm Công chưa kịp nghĩ suy
Ngựa hồng đã tới biên thùy Long vương
Nghe tù kêu khóc bốn phương ( 2205 )
Rầm rập quỷ sứ đầy đường ghê sao
Chàng bèn tế ngựa xông vào
Quân canh mấy đứa thét gào răng nhe:
“Nơi đây là ngục An Tỳ
Có tội mà chết dẫn về giam ngay ( 2210 )
Việc chi ông đến chốn này?”
Lựa lời trạng mới giải bày trước sau:
“Ta là tể tướng Trịnh châu
Xuống đây tìm vợ bấy lâu cách vời
Xin cho mở ngục ra coi ( 2215 )
Cúc Hoa mệnh phụ có nơi cửa người”.
Giám ngục lễ phép rước mời
Dẫn đường quan trạng tới nơi xem liền
Thấy người trong ngục thảm phiền
Gầy gò nhơ nhuốc gông xiềng kêu la ( 2220 )
Mấy nơi kinh khiếp vào ra
Tưởng rằng đây có Cúc Hoa thêm sầu
Chung quanh lửa nấu vạc dầu
Tìm nàng chẳng thấy biết đâu chốn nào
Phạm Công mới hỏi trước sau: ( 2225 )
“Điện này tùy thuộc vị nào Long vương
Muốn ra mắt hỏi tỏ tường
Làm ơn xin hãy vẽ đường cho ta”
Quỷ bèn chỉ trỏ gần xa
Phạm Công bước tới tòa nhà bên kia ( 2230 )
Chàng Cả ra đón tức thì:
“Phò Mã chắc có việc gì xuống đây”
Phạm Công từ tốn giãi bày:
“Vợ tôi sớm xuống cõi này Diêm la
Tên nàng là ả Cúc Hoa ( 2235 )
Có đang giam cấm trong tòa hay không
Xin Người thứ lỗi đột xông
Bảo cho tôi rõ vâng mòng trước sau”
Chàng Cả tra sổ lắc đầu:
“Cúc Hoa hồn ấy không vào nơi đây” ( 2240 )
Phạm Công nghe nói thở dài:
“Thảo nào tìm mãi tìm hoài không ra”
Lại đi xem xét gần xa
Thấy người bị tội rên la kêu gào
Bốn bề lửa cuốn rào rào ( 2245 )
Tứ chi trói chặt ném vào ghê thay
Cháy chân thôi lại cháy tay
Xương da máu thịt từ rày thành tro
Thấy người bị tội thêm lo
Mịt mùng tìm vợ hỏi dò không ra ( 2250 )
Phạm Công bước tới lân la:
“Tù này khi sống tội đà phạm chưa”
Quỷ sứ cứ thực trình thưa:
“Tù này nói thiếu nói thừa bấy lâu
Đặt điều vu khống hiểm sâu ( 2255 )
Đến lúc chết xuống dẫn vào giam đây”
Phạm Công nhìn sang phía tây
Hỏi có bao cửa nơi đây cần tìm
Chàng Cả hắng giọng đáp liền:
“Cửa này là cửa đầu tiên thôi mà ( 2260 )
Còn cửa Chàng Hai Chàng Ba
Chàng Tư gần đó xa là Chàng Năm”
Mịt mùng hun hút cõi âm
Phạm Công ớn lạnh khấn thầm Cúc Hoa
Chàng bèn bái tạ trở ra ( 2265 )
Ngựa hồng nước kiệu tà tà chạy đi.

—————————————————-

Trịnh vương hỏi kính tức thì:
“Lộ trình của trạng hướng về phương nao”
Công chúa vội vã quỳ tâu:
“Chàng Cả tiếp trạng trên lầu Long vương ( 2270 )
Đây không thấy Cúc Hoa nương
Trạng lại lên đường tìm kiếm các nơi”.

2 –

Phạm Công đến cửa thứ hai
Ngục tối từng dãy rụng rời mắt trông
Đội chậu máu ngồi bàn chông ( 2275 )
Vạc dầu sùng sục lửa hồng liếm quanh
Phạm Công ngỡ có vợ mình
Vội vàng bước tới trần tình trước sau
Quỷ sứ quát mắng phủ đầu:
“Chàng nào táo tợn cửa lầu đột xông ( 2280 )
Cửa này là cửa Long cung
Bọn tù nặng tội giam cùng nơi đây”
Phạm Công nghe nói vào ngay
Thử tìm nàng ở chốn này may ra
Hay đâu thấy những mụ già ( 2285 )
Lưng buộc vào cột kêu la nhộn nhàng
Phạm Công bèn hỏi khẽ khàng:
“Cõi dương chúng phạm rõ ràng tội chi”
Giám ngục phải trái phân bì:
“Bọn này trần thế chắc gì đã hay ( 2290 )
Mua nhiều bán ít xưa nay
Lúc mua đong đầy lúc bán đong vơi
Bởi tham nên đã hại người
Tội mình mình chịu kêu thời kêu ai
Thóc lép đong vơi cho vay ( 2295 )
Khi đòi thóc chắc đong đầy mới thôi
Tính ra vốn một lãi mười
Làm cho dương thế lắm người lao đao”
Chăm chăm nhìn trước ngó sau
Tìm hoài mà có thấy nào Cúc Hoa ( 2300 )
Phạm Công châu lệ chan hòa
Chàng Hai đủng đỉnh bước ra khỏi lầu
Lại gần hỏi nhỏ một câu:
“Hẳn quan phò mã người đâu cõi trần”
Trạng rằng: “Vợ phải thác oan ( 2305 )
Bỏ hai con dại dương gian bấy chầy
Cho nên thương nhớ lâu ngày
Từ miền xa đến nơi đây tìm tòi”
Chàng Hai sốt sắng tươi cười:
“Vợ quan phò mã sinh thời tên chi” ( 2310 )
Hỏi rồi chú ý lắng nghe
Lát sau dẫn trạng cùng đi vào tòa
Lần lần lật sổ ra tra:
“Buồn thay vợ trạng không qua chốn này
Nếu như giam cấm nơi đây ( 2315 )
Thì trẫm cho phép về ngay với chồng”
Phamj Công bái biệt não lòng
Thẫn thờ lên ngựa sang vùng Chàng Ba.

———————————————————-

Trịnh vương sốt ruột lân la:
“Xuân Dung con hỡi trạng đà đến đâu” ( 2320 )
Tức thì công chúa quỳ tâu:
“Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Hai
Tìm nàng chẳng thấy tăm hơi
Lệ châu chan chứa mấy hồi sầu bi
Tạ từ trạng sắp ra đi ( 2325 )
Chàng Ba chưa rõ hướng về nơi nao”

———————————————————-

Chàng Hai chỉ dẫn thấp cao:
“Đường đi khủng khiếp dẫn vào Chàng Ba
Bao nhiêu cạm bẫy giăng ra
Dám xin tính hết gần xa mọi đường ( 2330 )
Hiểm nguy hẳn trạng khó lường
Cầu mỏng như giấy bắc sang Ngân hà
Dưới sông toàn những mãng xà
Thấy người cất cổ bằng ba con sào
Đùng đùng sấm thét mưa gào ( 2335 )
Quan trạng khó nỗi đi sao vẹn tuyền”
Phạm Công nghe đáp lại liền:
“Dù cho rắn rết hàng nghìn quản chi
Đến đây mà lại quay về
Làm sao giữ được trọn bề thủy chung” ( 2340 )
Chàng Hai mới nói: “Mặc lòng
Ở đây quán xá thì không có rồi
Lòng thương quan trạng lắm thôi
Muốn ban cho yến ăn rồi sẽ đi
Nhưng ăn là khó nỗi về ( 2345 )
Chẳng biết cho trạng vật gì đặng yên
Biếu trạng một quả đào tiên
Của bà Vương mẫu ban truyền xuống cho
Ăn vào mấy tháng vẫn no
Người đuợc cứng cáp không lo trở trời” ( 2350 )
Phạm Công ăn một nửa quả thôi
Một nửa cho ngựa xong rồi ra đi
Ăn xong khỏe mạnh tức thì
Ngựa hồng nó mới từ bi trong lòng
Phạm Công bèn hỏi ngựa hồng: ( 2355 )
“Đường xa ngàn trùng đi tiếp hay lui?”
Ngựa hồng lẩm bẩm ngùi ngùi:
“Đến đây mà lại chịu lùi sao đang”
Người nghe cũng thấy vững vàng
Nhảy lên mình ngựa tìm đường đi qua ( 2360 )
Mênh mang một dải Ngân hà
Mắt vừa nom thấy lòng đà ghê ghê
Mặt cầu khấp khểnh lè tè
Chân cầu rắn rết đầy phè bâu đen
Ngựa hồng chỉ biết đứng yên ( 2365 )
Run run gõ móng liền liền hí vang
Cầu dài ván ghép mỏng tang
Bước lên sao đặng mà sang sông này
Phạm Công xuống ngựa tháo hài
Chắp tay quỳ xuống vái dài gần xa ( 2370 )
Khấn trời lại khấn Cúc Hoa
Cho chàng mọc cánh bay qua cầu vồng
Bởi chàng hiếu hạnh thủy chung
Mãng xà lặn xuống mà không làm gì
Bấy giờ trạng mới ra đi ( 2375 )
Ngựa hồng cẩn trọng liệu bề bước qua
Than rằng: “Em hỡi Cúc Hoa
Em đi đâu mất cho ta cực tình”
Khấn cầu thiên địa quang minh
Vái trình Hà bá vái trình Thổ công ( 2380 )
Khỏi cầu trạng mới mừng lòng
Tưởng mãng xà nuốt giữa sông Ngân hà.

3 –

Bấy giờ đến cửa Chàng Ba
Tường vàng mái bạc mấy tòa chan chan
Phạm Công trong dạ bàng hoàng ( 2385 )
Thấy bao thảm cảnh kêu van tứ bề
Ngựa hồng sợ chẳng dám đi
Nhà thì lửa cháy đất thì chuyển rung
Tiếng rên tiếng hú không ngừng
Phạm Công nghe thấy cảm thương lệ nhòa ( 2390 )
Tù đông nghĩ có Cúc Hoa
Liều mình đi tới may mà gặp chăng
Quỷ sứ sát khí đằng đằng:
“Người nào dám đến nói năng gạn gùng”
Phạm Công vội cởi tấc lòng: ( 2395 )
“Vì thương nhớ vợ nên chồng phải đi
Gian nan vất vả quản chi
Theo chân nàng xuống âm ty tìm về”
Ngắt lời, giám ngục tỉ tê:
“Vợ chàng trần giới tên gì bảo ta” ( 2400 )
Phạm Công lễ phép trình qua:
“Người đời vẫn gọi Cúc Hoa tên nàng”
Giám ngục bước một khẽ khàng
Dẫn chàng tới trước ngai vàng quỳ tâu:
“Trạng nguyên phò mã Đăng Châu ( 2405 )
Từ xa lặn lội đến chầu thiên nhan
Vợ trạng đã phải thác oan
Nay trạng rời chốn trần gian đi tìm
Qua hai cửa vẫn im lìm
Cúi xin bệ hạ kiếm thêm khu mình” ( 2410 )
Tìm hoài chẳng thấy bóng hình
Vua khuyên ngưng tạm lộ trình nghỉ ngơi
Phạm Công buồn bã buông lời:
“Vợ tìm chẳng thấy ngồi chơi làm gì”
Bụng chàng nhớ lại một khi ( 2415 )
Hôm qua tìm vợ đường đi xa gần
Nhìn thấy những kẻ thanh tân
Gông cùm kìm kẹp kêu van ầm nhà
Chàng bèn lựa lúc hỏi qua:
“Tội kia dương thế xưa đà sao đây” ( 2420 )
Giám ngục rầu rĩ thưa bày:
“Tại nơi trần giới theo trai bỏ chồng”
Phạm Công nghe nói mủi lòng:
“Đam mê cho lắm đèo bòng khổ thân”
Thấy cảnh hành tội ngoài sân ( 2425 )
Chẻ đầu cưa đoạn róc dần thịt xương
Hóa ra là bọn cướp đường
Chết xuống phải tội ngục trường Diêm la
Đàng kia có một đàn gà
Mỏ dài cựa sắc lấy đà xông vô ( 2430 )
Mổ lia lịa một bọn tù
Tứ chi gông chặt đầu u mặt bầm
Cõi trần tham lại còn thâm
Thấy trứng gà ấp liền cầm hết đi
Cho nên thác xuống âm ty ( 2435 )
Bắt cho gà mổ thân thi đêm ngày
Chàng nhìn thấy ở phía tây
Có một bọn nữa ngồi nhai bên hồ
Tay vừa vốc nước lên tu
Miệng vừa nhổ xuống hu hu kêu trời ( 2440 )
Hỏi ra mới biết là người
Cõi trời ăn uống tứ thời đổ tung
Làm ra hạt thóc nhọc lòng
Chúng lại tống táng xuống hồ xuống sông
Chết rồi vẫn phải tù đồ ( 2445 )
Bắt nhai những thứ cơ hồ vứt đi
Mới hay rằng chốn âm ty
Công bằng khôn tả chẳng gì bỏ qua
Tìm hoài chẳng thấy Cúc Hoa
Phạm Công châu lệ chan hòa thương thay ( 2450 )
Chàng Ba mới bảo như vầy:
“Ba ngày trạng hãy ở đây dần dà
Cửa này không có Cúc Hoa
Thì trạng phải xuống tới tòa đàng kia”.

——————————————————–

Trịnh vương phán hỏi vân vi: ( 2455 )
“Xuân Dung con hỡi trạng đi phương nào
Ngồi đồng ba tháng gian lao
Có còn thấy trạng ra vào bảo cha”
Xuân Dung chậm rãi tâu qua:
“Trạng nguyên hiện được Chàng Ba rước mời ( 2460 )
Trên tòa cơm nước chưa thôi
Ăn xong trạng xuống lâu đài Chàng Tư
Lúc này cửa ấy lờ mờ
Nhìn mà chưa thấy chàng vô xứ nào”.

4 –

Phạm Công trong dạ nôn nao ( 2465 )
Cầm cương thúc ngựa phóng ào tên đưa
Thoắt vào đến cửa Chàng Tư
Ngựa dừng lại thở đợi chờ bên trong
Ngạt ngào những vị hương xông
Trong thành chẳng có một gông tù nào ( 2470 )
Nơi nơi xanh liễu thắm đào
Bốn bề dân sự làm sao mặc lòng
Phạm Công mới hỏi ngựa hồng:
“Hãy xem tù ngục có không, bạn hiền”
“Cửa này như thể cõi tiên” ( 2475 )
Ngựa cất tiếng hí vang miền thành đô
Nóng lòng gặp được Chàng Tư
Phạm Công xuống ngựa bước vô tâu trình
Giãi bày sau trước phân minh
Xin tìm vợ thác trọn tình keo sơn ( 2480 )
Chàng Tư lời lẽ ân cần:
“Sao mà quan trạng thâm ân dường này
Làm quan chức tước tước cao vầy
Thiếu gì nữ sắc trần ai mời chào”
Chàng Tư lại nói thấp cao: ( 2485 )
“Hễ trạng nhìn thấy ngục nào kiếm ngay
Lòng ta chẳng tiếc mảy may
Xin trạng chớ có nơi đây nghi ngờ”
Ngựa hồng cạnh chủ bấy giờ
Cũng giương đôi mắt thăm dò đăm đăm ( 2490 )
Đàn bà kể tới mấy trăm
Lăn đùng ra chết hằng năm vô vàn
Bởi vì sống ở dương gian
Canh khuya tắm lạnh cảm hàn như chơi
Nắng trưa không nón đầu phơi ( 2495 )
Chết uổng rồi lại kêu trời rằng oan
Chàng Tư mới nói nhặt khoan:
“Cho gọi mỹ nữ a hoàn ra đây
Đặng cho quan trạng xem ngay
Cúc Hoa vợ trạng chốn này có chăng ( 2500 )
Kẻo ta chẳng thực cùng chàng
Tùy chàng nhận lấy mặt nàng Cúc Hoa
Nào nào công chúa bước ra
Để chàng nhận diện cho ta yên lòng”
Tìm hết đằng tây đằng đông ( 2505 )
Chẳng nơi nào thấy bóng hônfg Cúc Hoa
Cuối cùng vua mới nói ra:
“Có khi phải xuống dưới tòa Chàng Năm”
Phạm Công trong dạ chăm chăm
Dù phải tìm khắp cõi âm cũng tìm. ( 2510 )

———————————————————-

Trịnh vương lòng chẳng được yên
Phán hỏi công chúa trạng nguyên nơi nào
Nàng liền mạch lạc quỳ tâu:
“Trạng nguyên còn ở duới lầu Chàng Tư
Chốn này không có bóng tù ( 2515 )
Thấy đàn bà tắm nô đùa ven sông
Chàng Tư giúp trạng hết lòng
Vẫn chưa có đặng vân mòng Cúc Hoa
Đường về Chàng Năm khá xa
Lúc này chưa rõ trạng ra hướng nào”. ( 2520 )

———————————————————–

Phạm Công bước khỏi lầu cao
Buồn lòng chẳng biết lối nào tìm đi
Chàng Tư nhỏ nhẹ vân vi:
“Từ đây đến đấy đường nguy hiểm mà
Bao nhiêu rồng lửa mãng xà ( 2525 )
Quấn quanh lúc nhúc nghĩ đà ghê sao
Tứ bề chớp giật gió gào
Liệu chàng còn biết lối nào mà đi”
Phạm Công đáp lại tức thì:
“Đến đây mà lại quay về sao nên ( 2530 )
Tử sinh số mệnh tại thiên
Gian nan đến mấy cũng xin cam lòng”
Bấy giờ mới bảo ngựa hồng:
“Nếu không đi đặng liều chừng về thôi”
Ngựa hồng chững chạc đáp lời: ( 2535 )
“Tìm bà tôi chẳng đôi hồi vấn vương”
Nhanh chân người ngựa lên đường
Đi đựơc một lúc thì vương mãng xà
Vừa nhìn thấy trạng đi qua
Nó liền băng tới đầu đà cất cao ( 2540 )
Rồng lửa hìen thảo làm sao
Né mình nhường lối khác nào người thân
Mãng xà thấy thế phân vân
Cúi đầu chép miệng âm thầm bò đi
Ngựa hồng qua được một khi ( 2545 )
Vội tung bốn vó liệu bề rời xa.

———————————————————–

Thêm một tháng nữa trôi qua
Bấy giờ mới tới được tòa Chàng Năm
Bốn bề lửa cháy ầm ầm
Hai bên cấm cửa binh âm áp vào ( 2550 )
Gió to ngọn lửa càng cao
Phạm Công cưỡi ngựa thẳng vào bản doanh
Quân canh sau cửa hoành hành
Gươm trần chúng tuốt chung quanh sáng lòa:
“Chém đầu đi quách không tha ( 2555 )
Tên nào chẳng biết vào tòa Chàng Năm”
Phạm Công quát lại rầm rầm:
“Hãy nói với hắn ta cần gặp ngay
TA là người ở trên mây
Ngọc hoàng dạy xuống nơi đây khám tù ( 2560 )
Lệnh trời đâu phải chuyện đùa
Chúng mày lếu láo chẳng vừa ý ta”
Quân canh thôi quát thôi la
Vội vàng quay gót vào tòa Chàng Năm
Chàng Năm nổi nóng lầm bầm: ( 2565 )
“Thói người trần giới cõi âm xem thường
Oai nghiêm nhất chốn công đường
Dù là sứ giả Ngọc hoàng đến đây
Dù là người ở trên mây
Trói mà đánh tuốt nơi này không tha ( 2570 )
Một mình một ngựa xông pha
Thằng nào dám đến mà tra chốn này”
Phạm Công bước xuống chắp tay
Trông chàng lễ độ mà đầy quyền uy
Chàng Năm thấy vậy tức thì ( 2575 )
Trải hai hàng chiếu lễ nghi chào mời
Ngỡ là thiên sứ trên trời
Bá quan văn võ đồng thời bước ra
Phạm Công quỳ xuống khoan hòa:
“Tôi người trần giới rất xa chốn này ( 2580 )
Cúc Hoa là vợ xưa nay
Mới ba mươi tuổi chẳng may lìa đời
Để hai con dại mồ côi
Nhớ thương tôi xuống tìm tòi âm cung
Nghĩ rằng có ở ngục trong ( 2585 )
Nên đà mạn phép đột xông kiếm nàng”
Triều đình ai cũng ngỡ ngàng
Chàng Năm nước mắt hai hàng thương thay:
“Thế mà trạng chẳng bảo ngay
Lại nói thiên sứ xuống đây khám tù” ( 2590 )
PHạm Công thú thật cùng vua:
“Không dùng chước ấy khó vô nơi này”
Vua cười truyền ở cửa ngay
Cho chàng xem hết đặng hay chân tình
Tù đông phải đến hàng nghìn ( 2595 )
Chẳng ai giống mặt giống hình mà mong
Phạm Công cùng với ngựa hồng
Tìm nàng chẳng thấy rầu lòng bước ra
Oang oang tiếng quát gần xa
Giám ngục từng đám khảo tra trong ngoài ( 2600 )
Thấy đoàn con gái hoang t hai
Mặc đồ nhơ uế rạc rài héo hon
Nhác trông thân thể gầy mòn
Nước nôi không có nuôi con cực lòng
Cả đoàn bị cấm xuống sông ( 2605 )
Mẹ con ghẻ lở tắm trong vũng bùn
Phạm Công nhìn thấy hãi hùng
Bước vào tâu với bệ rồng phân minh:
“Hoang thai là chuyện tội tình
chứ đâu có phải tội hình xưa nay ( 2610 )
Đời mẹ lầm lỗi đã vầy
Hay gì cái vịec đọa đày đời con
Trời sinh có nước có n on
Phải năng tắm rửa mới luôn an hòa”
Chàng Năm gật gật nghe ra ( 2615 )
Truyền tha tất cả đàn bà hoang thai
Phạm Công tìm mãi tìm hoài
Cúc Hoa chẳng thấy lệ dài chứa chan
Thấy đoàn phù thủy kêu van
Binh âm khảo đả nhộn nhàng như ong ( 2620 )
Chuông treo trống buộc đầu gông
Phạm Công bèn hỏi cõi dương tội gì
Chàng Năm mặt vẫn lầm lì:
“Bọn thầy phù thủy chuyên bề gian ngoan
Khua chuông gõ trống rộn ràng ( 2625 )
Lại còn thét mắng Long vương đêm ngày
Ai người biết được bọn này
Đảo điên mà định làm thầy thế gian”
Phạm Công bộc bạch nguồn cơn:
“Làm thầy chẳng lẽ lại nhờn với ma ( 2630 )
Không cho thét mắng kêu la
Làm sao đuổi quỷ xua tà cho an
Nói xằng vâng lệnh Ngọc hoàng
Sai tà làm bệnh tìm đường kiếm ăn
Chúng đà dại dột muôn phần ( 2635 )
Cúi xin lượng cả gia ân khoan hồng”
Chàng Năm cũng thấy mủi lòng
Cả đoàn phù thủy cuối cùng được tha
Phạm Công nhìn kỹ nhận ra
Sư mô một bọn trong tòa lô nhô ( 2640 )
Cạo đầu dối thế mơ hồ
Cũng đang giam chấp tù đồ kêu rên
Tiếng rằng tụ tập đạo thiền
Mắt lo nhìn gái mồm quen thịt thà
Chúng đi quyên góp người ta ( 2645 )
Nói rằng tô tượng cùng là đúc chuông
Tiền nong của khách thập phương
Đem về nuôi béo một phường gian ngoan
Cõi dương tội đã rõ ràng
Cho nên thác xuống vẫn đang lao tù ( 2650 )
Phạm Công rằng: “Thật hư vô
Lòng tà niệm phật sớm trưa ích gì”
Ngó quanh trong dạ sầu bi:
“Cúc Hoa không biết giạt về nơi đâu?”
Một mình ra tới phía sau ( 2655 )
Thấy lũ thầy bói lao nhao khóc ròng
Chậu thau lật úp bên gông
Một tay cầm quẻ người trông la đà
Một tay rờ túi xuýt xoa
Trước là kiếm lễ sau là độ thân ( 2660 )
Cả đời đi kiếm miếng ăn
Ngờ đâu thác xuống mang thân tội đày
Phạm Công bước lẹ vào đây
Lựa lời chàng mới tâu ngay thực thà:
“Bởi chưng trời đất dựng ra ( 2665 )
Quyền đâu đến quẻ bói khoa ở đời
Thế gian vạn kẻ có tài
Lỗi thầy bói chỉ ở lời thốt ra
Dở hay tiền định thôi mà
Ví dù không nói cũng ra làm vầy” ( 2670 )
Chàng Năm mới bảo từ nay
Thầy bói khỏi phải tội đày lao lung.

——————————————————-

Đã hơn bốn tháng vua dương
Đêm ngày cầu khấn trời thương trạng cùng
Miệng hỏi nước mắt rưng rưng: ( 2675 )
“Lộ trình của trạng theo phương hướng nào?”
Xuân Dung công chúa liền tâu:
“Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Năm
Người đâu đại lượng từ tâm
Phù thủy thầy bói trong tầm Diêm la ( 2680 )
Chàng xin cho họ được tha
Kính tối chưa thấy trạng ra phương nào.”
Trịnh vương nước mắt tuôn trào
Ngồi kính bốn tháng trạng sao chưa về
THương nàng công chúa nhiều bề ( 2685 )
Thức ròng bốn tháng người thì xanh xao.

———————————————————

Phạm Công nhìn trước ngó sau
Lạ lùng bèn hỏi một câu như vầy:
“Lương y sao chẳng thấy đây
Cùng là thầy dịch chốn này cũng không” ( 2690 )
Chàng Năm mới nói thực lòng:
“Lương y thầy dịch về cùng người ngay
Họ có làm hại chi ai
Mà bắt bớ họ về đày Diêm la”
Một mình quan trạng trở ra ( 2695 )
Gặp đoàn bán mắm kêu la bên hồ
Âm ty chịu cảnh tù đồ
Hai tay chặt cục nhuốc nhơ một đời
Buôn mắm muốn đựơc nhiều lời
Bao nhiêu nước cốt ngon thời chắt ra ( 2700 )
Chỉ bán có thứ nước pha
Lãi ăn cho lắm oan gia nỗi gì
Tiền là tiền thật lấy về
Mắm thì mắm giả dung chi kẻ tà
Phạm Công qua đó trở ra ( 2705 )
Thấy đoàn thầy mã ở tòa cửa đông
Tội hình giáng xuống chẳng dung
Thân kia phải đánh búa đồng tan xương
Phạm Công mới hỏi tỏ tường:
“Người ở trần giới đã vương tội gì” ( 2710 )
Giám ngụcd dáp lại tức thì:
“Làm nghề thợ mã cũng nghề gian ngoan
Đồ mã chẳng có ruột gan
Lấy tiền nói dối dương gian đã dày”
Vợ chàng không có nơi đây ( 2715 )
Phạm Công bèn hỏi liệu bài quay ra
“Khu trẫm không có Cúc Hoa
Mời trạng xuống cửa vua cha bên này
Đất người thoáng đãng phía tây
Đất người không có một ngày cùm gông”. ( 2720 )

6 –

Phạm Công lên ngựa ruổi rong
Vòng vèo mấy khúc tới vùng vua cha
Tứ bề đào mận nở hoa
Suối trong nước lặng chan hòa ánh dương
Bấy lâu ảm đạm một phương ( 2725 )
Đến đây động phủ Long vương chói lòa
Dập dìu đàn hát xướng ca
Bá quan văn võ bước ra mời chào
Long vương phán hỏi một câu:
“Chẳng hay quan trạng dãi dầu việc chi?” ( 2730 )
Phạm Công quỳ xuống đan trì
Khấu đầu làm lễ tức thì trình qua:
“Vợ tôi tên gọi Cúc Hoa
Mới ba mươi tuổi xưa đà xuống đây
Đi tìm hơn bốn tháng nay ( 2735 )
Vẫn chưa gặp được lòng này xót xa”
Long vương nghe nói cười xòa:
“Hãy ăn yến đã Cúc Hoa thấy liền”
Bá quan văn võ cùng khuyên:
“Rồi trạng sẽ gặp vợ hiền ngay thôi” ( 2740 )
Phạm Công bèn ngỏ một lời:
“Vợ tìm không thấy ngồi chơi làm gì”.

——————————————————-

Trịnh vương hết đứng lại đi
Phán hỏi công chúa: “Trạng về phương nao”
Xuân Dung sức lực tiêu hao ( 2745 )
Bốn tháng thức trắng ngồi chầu ăn chay
Nàng vẫn tỉnh táo tâu ngay:
“Trạng nguyên mới đến cửa này Long vương
Còn nghe tiếng nói tỏ tường
Cả triều náo nức chào mừng trạng nguyên” ( 2750 )
Công chúa lại nói tiếp liền:
“Tòa vàng lặng lẽ sao nhìn vắng tanh”
Vua hỏi: “Trạng có về nhanh”
Nàng bèn quỳ tấu phân minh nhẹ nhàng:
“Long vương yến tiệc mời chàng ( 2755 )
Ắt là biết đặng đâu nàng Cúc Hoa”.

——————————————————–

Trạng rằng: “Dạ thật an hòa
Nếu gặp lại vợ tại nhà quân vương”
Long vương đáp giọng vui mừng:
“Ra ngươi vẫn nhớ quá chừng Cúc Hoa ( 2760 )
Trẫm có công chúa trong tòa
Mới mười tám tuổi tiên sa non bồng
Ngồi thì đua nở hoa hồng
Đứng thì ngào ngạt hương xông hoa nhài
Đi thì én liệng bướm bay ( 2765 )
Hình dung nhan sắc cũng tày Cúc Hoa
Gả cho trạng để giao hòa
Nhường vì ngôi báu vua cha dưới này”
Phạm Công lễ phép giãi bày:
“Dù là tiên nữ mặt mày như hoa ( 2770 )
Dù là bắc đẩu sao sa
Tôi cũng chẳng thiết huống là con vua
Thủy chung giữ đạo ngàn xưa”
Long vương nhìn trạng, từ từ vuốt râu:
“Vợ trạng tuyệt sắc hay sao ( 2775 )
Trạng nói mặc trạng ai nào tin qua
Con ta mắt phượng da ngà
Chảy dài suối tóc mượt mà lưng ong”
Phạm Công quỳ trước bệ rồng:
“Tìm chưa thấy vợ trong lòng xót xa ( 2780 )
Nếu như tính chuyện nguyệt hoa
Thiếu gì người đẹp ngọc ngà dương gian”
Long vương mới phán rõ ràng:
“Gả nàng công chúa thêm nàng Cúc Hoa”
Phạm Công đáp lại khoan hòa: ( 2785 )
“Xin Người đừng nói nguyệt hoa thêm rầu”
Long vương bèn phán ậm ào:
“Số chàng còn phải dãi dầu quan san
Ba năm rong ruổi gian nan
Mới mong gặp đựoc vợ chàng Cúc Hoa” ( 2790 )
Phán rồi vua trở vào tòa
Phạm Công nước mắt chan hòa ra đi.

——————————————————–

Thủy cung công chúa sầu bi
Nói cùng quan trạng tỉ tê mấy lời:
“Cha thiếp nói dối chàng thôi ( 2795 )
Cúc Hoa đã ở gần rồi chàng ơi
Mười ngày chàng sẽ tới nơi
Bõ công lặn lội không ngơi bấy chầy
Thiếp đưa chàng quá một ngày
Tới Diêm quan phủ thấy ngay thôi mà ( 2800 )
Việc thời phải có mẹ cha
Đưa chàng chẳng tiện đường xa thương chàng
Phạm Công nhỏ nhẹ bảo nàng:
“Có chăng trở lại đền vàng hẵng hay”
Công chúa bèn đáp lời ngay: ( 2805 )
“Dù không trở lại nơi đây mặc lòng
Rồi ra chàng nhớ hay không
Riêng thiếp thì vẫn vô cùng xót thương
Chàng ơi đến đó nhiều đường
Một khi lạc bước không phương đôi hồi ( 2810 )
Nhiều tinh quỷ lắm chàng ơi
E khi nó đón chàng thôi giữa đường
Làm sao tránh chuỵên bất thường
Âu là viết sắc cho chàng đi qua
Nửa chừng có gặp yêu ma ( 2815 )
Cùng là tinh thủy thảy đà phải thôi”
Những đang ngần ngại bồi hồi
Nàng đà phát sắc xong xuôi mọi bề
Phạm Công lĩnh sắc tức thì
Nhìn nàng mà lệ phân kỳ rưng rưng. ( 2820 )
Đưa trạng thêm mấy độ đường
Xốn xang ước được dặm trường cùng ai
Công chúa lặng lẽ thở dài:
“Gối rêu nằm đất từ nay thương chàng
Chiếu đà trải dọc trải ngang ( 2825 )
Xót thay quan trạng tàn vàng bỏ không”
Phạm Công vuốt má ngựa hồng
Cả hai hớn hở trong lòng ra đi
Đường xa trở ngại sá gì
Chẳng may lạc bước khó bề trở tay. ( 2830 )

16. Hồn Phạm Công Du Địa Phủ
1 –

Phạm Công chưa kịp nghĩ suy
Ngựa hồng đã tới biên thùy Long vương
Nghe tù kêu khóc bốn phương ( 2205 )
Rầm rập quỷ sứ đầy đường ghê sao
Chàng bèn tế ngựa xông vào
Quân canh mấy đứa thét gào răng nhe:
“Nơi đây là ngục An Tỳ
Có tội mà chết dẫn về giam ngay ( 2210 )
Việc chi ông đến chốn này?”
Lựa lời trạng mới giải bày trước sau:
“Ta là tể tướng Trịnh châu
Xuống đây tìm vợ bấy lâu cách vời
Xin cho mở ngục ra coi ( 2215 )
Cúc Hoa mệnh phụ có nơi cửa người”.
Giám ngục lễ phép rước mời
Dẫn đường quan trạng tới nơi xem liền
Thấy người trong ngục thảm phiền
Gầy gò nhơ nhuốc gông xiềng kêu la ( 2220 )
Mấy nơi kinh khiếp vào ra
Tưởng rằng đây có Cúc Hoa thêm sầu
Chung quanh lửa nấu vạc dầu
Tìm nàng chẳng thấy biết đâu chốn nào
Phạm Công mới hỏi trước sau: ( 2225 )
“Điện này tùy thuộc vị nào Long vương
Muốn ra mắt hỏi tỏ tường
Làm ơn xin hãy vẽ đường cho ta”
Quỷ bèn chỉ trỏ gần xa
Phạm Công bước tới tòa nhà bên kia ( 2230 )
Chàng Cả ra đón tức thì:
“Phò Mã chắc có việc gì xuống đây”
Phạm Công từ tốn giãi bày:
“Vợ tôi sớm xuống cõi này Diêm la
Tên nàng là ả Cúc Hoa ( 2235 )
Có đang giam cấm trong tòa hay không
Xin Người thứ lỗi đột xông
Bảo cho tôi rõ vâng mòng trước sau”
Chàng Cả tra sổ lắc đầu:
“Cúc Hoa hồn ấy không vào nơi đây” ( 2240 )
Phạm Công nghe nói thở dài:
“Thảo nào tìm mãi tìm hoài không ra”
Lại đi xem xét gần xa
Thấy người bị tội rên la kêu gào
Bốn bề lửa cuốn rào rào ( 2245 )
Tứ chi trói chặt ném vào ghê thay
Cháy chân thôi lại cháy tay
Xương da máu thịt từ rày thành tro
Thấy người bị tội thêm lo
Mịt mùng tìm vợ hỏi dò không ra ( 2250 )
Phạm Công bước tới lân la:
“Tù này khi sống tội đà phạm chưa”
Quỷ sứ cứ thực trình thưa:
“Tù này nói thiếu nói thừa bấy lâu
Đặt điều vu khống hiểm sâu ( 2255 )
Đến lúc chết xuống dẫn vào giam đây”
Phạm Công nhìn sang phía tây
Hỏi có bao cửa nơi đây cần tìm
Chàng Cả hắng giọng đáp liền:
“Cửa này là cửa đầu tiên thôi mà ( 2260 )
Còn cửa Chàng Hai Chàng Ba
Chàng Tư gần đó xa là Chàng Năm”
Mịt mùng hun hút cõi âm
Phạm Công ớn lạnh khấn thầm Cúc Hoa
Chàng bèn bái tạ trở ra ( 2265 )
Ngựa hồng nước kiệu tà tà chạy đi.

—————————————————-

Trịnh vương hỏi kính tức thì:
“Lộ trình của trạng hướng về phương nao”
Công chúa vội vã quỳ tâu:
“Chàng Cả tiếp trạng trên lầu Long vương ( 2270 )
Đây không thấy Cúc Hoa nương
Trạng lại lên đường tìm kiếm các nơi”.

2 –

Phạm Công đến cửa thứ hai
Ngục tối từng dãy rụng rời mắt trông
Đội chậu máu ngồi bàn chông ( 2275 )
Vạc dầu sùng sục lửa hồng liếm quanh
Phạm Công ngỡ có vợ mình
Vội vàng bước tới trần tình trước sau
Quỷ sứ quát mắng phủ đầu:
“Chàng nào táo tợn cửa lầu đột xông ( 2280 )
Cửa này là cửa Long cung
Bọn tù nặng tội giam cùng nơi đây”
Phạm Công nghe nói vào ngay
Thử tìm nàng ở chốn này may ra
Hay đâu thấy những mụ già ( 2285 )
Lưng buộc vào cột kêu la nhộn nhàng
Phạm Công bèn hỏi khẽ khàng:
“Cõi dương chúng phạm rõ ràng tội chi”
Giám ngục phải trái phân bì:
“Bọn này trần thế chắc gì đã hay ( 2290 )
Mua nhiều bán ít xưa nay
Lúc mua đong đầy lúc bán đong vơi
Bởi tham nên đã hại người
Tội mình mình chịu kêu thời kêu ai
Thóc lép đong vơi cho vay ( 2295 )
Khi đòi thóc chắc đong đầy mới thôi
Tính ra vốn một lãi mười
Làm cho dương thế lắm người lao đao”
Chăm chăm nhìn trước ngó sau
Tìm hoài mà có thấy nào Cúc Hoa ( 2300 )
Phạm Công châu lệ chan hòa
Chàng Hai đủng đỉnh bước ra khỏi lầu
Lại gần hỏi nhỏ một câu:
“Hẳn quan phò mã người đâu cõi trần”
Trạng rằng: “Vợ phải thác oan ( 2305 )
Bỏ hai con dại dương gian bấy chầy
Cho nên thương nhớ lâu ngày
Từ miền xa đến nơi đây tìm tòi”
Chàng Hai sốt sắng tươi cười:
“Vợ quan phò mã sinh thời tên chi” ( 2310 )
Hỏi rồi chú ý lắng nghe
Lát sau dẫn trạng cùng đi vào tòa
Lần lần lật sổ ra tra:
“Buồn thay vợ trạng không qua chốn này
Nếu như giam cấm nơi đây ( 2315 )
Thì trẫm cho phép về ngay với chồng”
Phamj Công bái biệt não lòng
Thẫn thờ lên ngựa sang vùng Chàng Ba.

———————————————————-

Trịnh vương sốt ruột lân la:
“Xuân Dung con hỡi trạng đà đến đâu” ( 2320 )
Tức thì công chúa quỳ tâu:
“Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Hai
Tìm nàng chẳng thấy tăm hơi
Lệ châu chan chứa mấy hồi sầu bi
Tạ từ trạng sắp ra đi ( 2325 )
Chàng Ba chưa rõ hướng về nơi nao”

———————————————————-

Chàng Hai chỉ dẫn thấp cao:
“Đường đi khủng khiếp dẫn vào Chàng Ba
Bao nhiêu cạm bẫy giăng ra
Dám xin tính hết gần xa mọi đường ( 2330 )
Hiểm nguy hẳn trạng khó lường
Cầu mỏng như giấy bắc sang Ngân hà
Dưới sông toàn những mãng xà
Thấy người cất cổ bằng ba con sào
Đùng đùng sấm thét mưa gào ( 2335 )
Quan trạng khó nỗi đi sao vẹn tuyền”
Phạm Công nghe đáp lại liền:
“Dù cho rắn rết hàng nghìn quản chi
Đến đây mà lại quay về
Làm sao giữ được trọn bề thủy chung” ( 2340 )
Chàng Hai mới nói: “Mặc lòng
Ở đây quán xá thì không có rồi
Lòng thương quan trạng lắm thôi
Muốn ban cho yến ăn rồi sẽ đi
Nhưng ăn là khó nỗi về ( 2345 )
Chẳng biết cho trạng vật gì đặng yên
Biếu trạng một quả đào tiên
Của bà Vương mẫu ban truyền xuống cho
Ăn vào mấy tháng vẫn no
Người đuợc cứng cáp không lo trở trời” ( 2350 )
Phạm Công ăn một nửa quả thôi
Một nửa cho ngựa xong rồi ra đi
Ăn xong khỏe mạnh tức thì
Ngựa hồng nó mới từ bi trong lòng
Phạm Công bèn hỏi ngựa hồng: ( 2355 )
“Đường xa ngàn trùng đi tiếp hay lui?”
Ngựa hồng lẩm bẩm ngùi ngùi:
“Đến đây mà lại chịu lùi sao đang”
Người nghe cũng thấy vững vàng
Nhảy lên mình ngựa tìm đường đi qua ( 2360 )
Mênh mang một dải Ngân hà
Mắt vừa nom thấy lòng đà ghê ghê
Mặt cầu khấp khểnh lè tè
Chân cầu rắn rết đầy phè bâu đen
Ngựa hồng chỉ biết đứng yên ( 2365 )
Run run gõ móng liền liền hí vang
Cầu dài ván ghép mỏng tang
Bước lên sao đặng mà sang sông này
Phạm Công xuống ngựa tháo hài
Chắp tay quỳ xuống vái dài gần xa ( 2370 )
Khấn trời lại khấn Cúc Hoa
Cho chàng mọc cánh bay qua cầu vồng
Bởi chàng hiếu hạnh thủy chung
Mãng xà lặn xuống mà không làm gì
Bấy giờ trạng mới ra đi ( 2375 )
Ngựa hồng cẩn trọng liệu bề bước qua
Than rằng: “Em hỡi Cúc Hoa
Em đi đâu mất cho ta cực tình”
Khấn cầu thiên địa quang minh
Vái trình Hà bá vái trình Thổ công ( 2380 )
Khỏi cầu trạng mới mừng lòng
Tưởng mãng xà nuốt giữa sông Ngân hà.

3 –

Bấy giờ đến cửa Chàng Ba
Tường vàng mái bạc mấy tòa chan chan
Phạm Công trong dạ bàng hoàng ( 2385 )
Thấy bao thảm cảnh kêu van tứ bề
Ngựa hồng sợ chẳng dám đi
Nhà thì lửa cháy đất thì chuyển rung
Tiếng rên tiếng hú không ngừng
Phạm Công nghe thấy cảm thương lệ nhòa ( 2390 )
Tù đông nghĩ có Cúc Hoa
Liều mình đi tới may mà gặp chăng
Quỷ sứ sát khí đằng đằng:
“Người nào dám đến nói năng gạn gùng”
Phạm Công vội cởi tấc lòng: ( 2395 )
“Vì thương nhớ vợ nên chồng phải đi
Gian nan vất vả quản chi
Theo chân nàng xuống âm ty tìm về”
Ngắt lời, giám ngục tỉ tê:
“Vợ chàng trần giới tên gì bảo ta” ( 2400 )
Phạm Công lễ phép trình qua:
“Người đời vẫn gọi Cúc Hoa tên nàng”
Giám ngục bước một khẽ khàng
Dẫn chàng tới trước ngai vàng quỳ tâu:
“Trạng nguyên phò mã Đăng Châu ( 2405 )
Từ xa lặn lội đến chầu thiên nhan
Vợ trạng đã phải thác oan
Nay trạng rời chốn trần gian đi tìm
Qua hai cửa vẫn im lìm
Cúi xin bệ hạ kiếm thêm khu mình” ( 2410 )
Tìm hoài chẳng thấy bóng hình
Vua khuyên ngưng tạm lộ trình nghỉ ngơi
Phạm Công buồn bã buông lời:
“Vợ tìm chẳng thấy ngồi chơi làm gì”
Bụng chàng nhớ lại một khi ( 2415 )
Hôm qua tìm vợ đường đi xa gần
Nhìn thấy những kẻ thanh tân
Gông cùm kìm kẹp kêu van ầm nhà
Chàng bèn lựa lúc hỏi qua:
“Tội kia dương thế xưa đà sao đây” ( 2420 )
Giám ngục rầu rĩ thưa bày:
“Tại nơi trần giới theo trai bỏ chồng”
Phạm Công nghe nói mủi lòng:
“Đam mê cho lắm đèo bòng khổ thân”
Thấy cảnh hành tội ngoài sân ( 2425 )
Chẻ đầu cưa đoạn róc dần thịt xương
Hóa ra là bọn cướp đường
Chết xuống phải tội ngục trường Diêm la
Đàng kia có một đàn gà
Mỏ dài cựa sắc lấy đà xông vô ( 2430 )
Mổ lia lịa một bọn tù
Tứ chi gông chặt đầu u mặt bầm
Cõi trần tham lại còn thâm
Thấy trứng gà ấp liền cầm hết đi
Cho nên thác xuống âm ty ( 2435 )
Bắt cho gà mổ thân thi đêm ngày
Chàng nhìn thấy ở phía tây
Có một bọn nữa ngồi nhai bên hồ
Tay vừa vốc nước lên tu
Miệng vừa nhổ xuống hu hu kêu trời ( 2440 )
Hỏi ra mới biết là người
Cõi trời ăn uống tứ thời đổ tung
Làm ra hạt thóc nhọc lòng
Chúng lại tống táng xuống hồ xuống sông
Chết rồi vẫn phải tù đồ ( 2445 )
Bắt nhai những thứ cơ hồ vứt đi
Mới hay rằng chốn âm ty
Công bằng khôn tả chẳng gì bỏ qua
Tìm hoài chẳng thấy Cúc Hoa
Phạm Công châu lệ chan hòa thương thay ( 2450 )
Chàng Ba mới bảo như vầy:
“Ba ngày trạng hãy ở đây dần dà
Cửa này không có Cúc Hoa
Thì trạng phải xuống tới tòa đàng kia”.

——————————————————–

Trịnh vương phán hỏi vân vi: ( 2455 )
“Xuân Dung con hỡi trạng đi phương nào
Ngồi đồng ba tháng gian lao
Có còn thấy trạng ra vào bảo cha”
Xuân Dung chậm rãi tâu qua:
“Trạng nguyên hiện được Chàng Ba rước mời ( 2460 )
Trên tòa cơm nước chưa thôi
Ăn xong trạng xuống lâu đài Chàng Tư
Lúc này cửa ấy lờ mờ
Nhìn mà chưa thấy chàng vô xứ nào”.

4 –

Phạm Công trong dạ nôn nao ( 2465 )
Cầm cương thúc ngựa phóng ào tên đưa
Thoắt vào đến cửa Chàng Tư
Ngựa dừng lại thở đợi chờ bên trong
Ngạt ngào những vị hương xông
Trong thành chẳng có một gông tù nào ( 2470 )
Nơi nơi xanh liễu thắm đào
Bốn bề dân sự làm sao mặc lòng
Phạm Công mới hỏi ngựa hồng:
“Hãy xem tù ngục có không, bạn hiền”
“Cửa này như thể cõi tiên” ( 2475 )
Ngựa cất tiếng hí vang miền thành đô
Nóng lòng gặp được Chàng Tư
Phạm Công xuống ngựa bước vô tâu trình
Giãi bày sau trước phân minh
Xin tìm vợ thác trọn tình keo sơn ( 2480 )
Chàng Tư lời lẽ ân cần:
“Sao mà quan trạng thâm ân dường này
Làm quan chức tước tước cao vầy
Thiếu gì nữ sắc trần ai mời chào”
Chàng Tư lại nói thấp cao: ( 2485 )
“Hễ trạng nhìn thấy ngục nào kiếm ngay
Lòng ta chẳng tiếc mảy may
Xin trạng chớ có nơi đây nghi ngờ”
Ngựa hồng cạnh chủ bấy giờ
Cũng giương đôi mắt thăm dò đăm đăm ( 2490 )
Đàn bà kể tới mấy trăm
Lăn đùng ra chết hằng năm vô vàn
Bởi vì sống ở dương gian
Canh khuya tắm lạnh cảm hàn như chơi
Nắng trưa không nón đầu phơi ( 2495 )
Chết uổng rồi lại kêu trời rằng oan
Chàng Tư mới nói nhặt khoan:
“Cho gọi mỹ nữ a hoàn ra đây
Đặng cho quan trạng xem ngay
Cúc Hoa vợ trạng chốn này có chăng ( 2500 )
Kẻo ta chẳng thực cùng chàng
Tùy chàng nhận lấy mặt nàng Cúc Hoa
Nào nào công chúa bước ra
Để chàng nhận diện cho ta yên lòng”
Tìm hết đằng tây đằng đông ( 2505 )
Chẳng nơi nào thấy bóng hônfg Cúc Hoa
Cuối cùng vua mới nói ra:
“Có khi phải xuống dưới tòa Chàng Năm”
Phạm Công trong dạ chăm chăm
Dù phải tìm khắp cõi âm cũng tìm. ( 2510 )

———————————————————-

Trịnh vương lòng chẳng được yên
Phán hỏi công chúa trạng nguyên nơi nào
Nàng liền mạch lạc quỳ tâu:
“Trạng nguyên còn ở duới lầu Chàng Tư
Chốn này không có bóng tù ( 2515 )
Thấy đàn bà tắm nô đùa ven sông
Chàng Tư giúp trạng hết lòng
Vẫn chưa có đặng vân mòng Cúc Hoa
Đường về Chàng Năm khá xa
Lúc này chưa rõ trạng ra hướng nào”. ( 2520 )

———————————————————–

Phạm Công bước khỏi lầu cao
Buồn lòng chẳng biết lối nào tìm đi
Chàng Tư nhỏ nhẹ vân vi:
“Từ đây đến đấy đường nguy hiểm mà
Bao nhiêu rồng lửa mãng xà ( 2525 )
Quấn quanh lúc nhúc nghĩ đà ghê sao
Tứ bề chớp giật gió gào
Liệu chàng còn biết lối nào mà đi”
Phạm Công đáp lại tức thì:
“Đến đây mà lại quay về sao nên ( 2530 )
Tử sinh số mệnh tại thiên
Gian nan đến mấy cũng xin cam lòng”
Bấy giờ mới bảo ngựa hồng:
“Nếu không đi đặng liều chừng về thôi”
Ngựa hồng chững chạc đáp lời: ( 2535 )
“Tìm bà tôi chẳng đôi hồi vấn vương”
Nhanh chân người ngựa lên đường
Đi đựơc một lúc thì vương mãng xà
Vừa nhìn thấy trạng đi qua
Nó liền băng tới đầu đà cất cao ( 2540 )
Rồng lửa hìen thảo làm sao
Né mình nhường lối khác nào người thân
Mãng xà thấy thế phân vân
Cúi đầu chép miệng âm thầm bò đi
Ngựa hồng qua được một khi ( 2545 )
Vội tung bốn vó liệu bề rời xa.

———————————————————–

Thêm một tháng nữa trôi qua
Bấy giờ mới tới được tòa Chàng Năm
Bốn bề lửa cháy ầm ầm
Hai bên cấm cửa binh âm áp vào ( 2550 )
Gió to ngọn lửa càng cao
Phạm Công cưỡi ngựa thẳng vào bản doanh
Quân canh sau cửa hoành hành
Gươm trần chúng tuốt chung quanh sáng lòa:
“Chém đầu đi quách không tha ( 2555 )
Tên nào chẳng biết vào tòa Chàng Năm”
Phạm Công quát lại rầm rầm:
“Hãy nói với hắn ta cần gặp ngay
TA là người ở trên mây
Ngọc hoàng dạy xuống nơi đây khám tù ( 2560 )
Lệnh trời đâu phải chuyện đùa
Chúng mày lếu láo chẳng vừa ý ta”
Quân canh thôi quát thôi la
Vội vàng quay gót vào tòa Chàng Năm
Chàng Năm nổi nóng lầm bầm: ( 2565 )
“Thói người trần giới cõi âm xem thường
Oai nghiêm nhất chốn công đường
Dù là sứ giả Ngọc hoàng đến đây
Dù là người ở trên mây
Trói mà đánh tuốt nơi này không tha ( 2570 )
Một mình một ngựa xông pha
Thằng nào dám đến mà tra chốn này”
Phạm Công bước xuống chắp tay
Trông chàng lễ độ mà đầy quyền uy
Chàng Năm thấy vậy tức thì ( 2575 )
Trải hai hàng chiếu lễ nghi chào mời
Ngỡ là thiên sứ trên trời
Bá quan văn võ đồng thời bước ra
Phạm Công quỳ xuống khoan hòa:
“Tôi người trần giới rất xa chốn này ( 2580 )
Cúc Hoa là vợ xưa nay
Mới ba mươi tuổi chẳng may lìa đời
Để hai con dại mồ côi
Nhớ thương tôi xuống tìm tòi âm cung
Nghĩ rằng có ở ngục trong ( 2585 )
Nên đà mạn phép đột xông kiếm nàng”
Triều đình ai cũng ngỡ ngàng
Chàng Năm nước mắt hai hàng thương thay:
“Thế mà trạng chẳng bảo ngay
Lại nói thiên sứ xuống đây khám tù” ( 2590 )
PHạm Công thú thật cùng vua:
“Không dùng chước ấy khó vô nơi này”
Vua cười truyền ở cửa ngay
Cho chàng xem hết đặng hay chân tình
Tù đông phải đến hàng nghìn ( 2595 )
Chẳng ai giống mặt giống hình mà mong
Phạm Công cùng với ngựa hồng
Tìm nàng chẳng thấy rầu lòng bước ra
Oang oang tiếng quát gần xa
Giám ngục từng đám khảo tra trong ngoài ( 2600 )
Thấy đoàn con gái hoang t hai
Mặc đồ nhơ uế rạc rài héo hon
Nhác trông thân thể gầy mòn
Nước nôi không có nuôi con cực lòng
Cả đoàn bị cấm xuống sông ( 2605 )
Mẹ con ghẻ lở tắm trong vũng bùn
Phạm Công nhìn thấy hãi hùng
Bước vào tâu với bệ rồng phân minh:
“Hoang thai là chuyện tội tình
chứ đâu có phải tội hình xưa nay ( 2610 )
Đời mẹ lầm lỗi đã vầy
Hay gì cái vịec đọa đày đời con
Trời sinh có nước có n on
Phải năng tắm rửa mới luôn an hòa”
Chàng Năm gật gật nghe ra ( 2615 )
Truyền tha tất cả đàn bà hoang thai
Phạm Công tìm mãi tìm hoài
Cúc Hoa chẳng thấy lệ dài chứa chan
Thấy đoàn phù thủy kêu van
Binh âm khảo đả nhộn nhàng như ong ( 2620 )
Chuông treo trống buộc đầu gông
Phạm Công bèn hỏi cõi dương tội gì
Chàng Năm mặt vẫn lầm lì:
“Bọn thầy phù thủy chuyên bề gian ngoan
Khua chuông gõ trống rộn ràng ( 2625 )
Lại còn thét mắng Long vương đêm ngày
Ai người biết được bọn này
Đảo điên mà định làm thầy thế gian”
Phạm Công bộc bạch nguồn cơn:
“Làm thầy chẳng lẽ lại nhờn với ma ( 2630 )
Không cho thét mắng kêu la
Làm sao đuổi quỷ xua tà cho an
Nói xằng vâng lệnh Ngọc hoàng
Sai tà làm bệnh tìm đường kiếm ăn
Chúng đà dại dột muôn phần ( 2635 )
Cúi xin lượng cả gia ân khoan hồng”
Chàng Năm cũng thấy mủi lòng
Cả đoàn phù thủy cuối cùng được tha
Phạm Công nhìn kỹ nhận ra
Sư mô một bọn trong tòa lô nhô ( 2640 )
Cạo đầu dối thế mơ hồ
Cũng đang giam chấp tù đồ kêu rên
Tiếng rằng tụ tập đạo thiền
Mắt lo nhìn gái mồm quen thịt thà
Chúng đi quyên góp người ta ( 2645 )
Nói rằng tô tượng cùng là đúc chuông
Tiền nong của khách thập phương
Đem về nuôi béo một phường gian ngoan
Cõi dương tội đã rõ ràng
Cho nên thác xuống vẫn đang lao tù ( 2650 )
Phạm Công rằng: “Thật hư vô
Lòng tà niệm phật sớm trưa ích gì”
Ngó quanh trong dạ sầu bi:
“Cúc Hoa không biết giạt về nơi đâu?”
Một mình ra tới phía sau ( 2655 )
Thấy lũ thầy bói lao nhao khóc ròng
Chậu thau lật úp bên gông
Một tay cầm quẻ người trông la đà
Một tay rờ túi xuýt xoa
Trước là kiếm lễ sau là độ thân ( 2660 )
Cả đời đi kiếm miếng ăn
Ngờ đâu thác xuống mang thân tội đày
Phạm Công bước lẹ vào đây
Lựa lời chàng mới tâu ngay thực thà:
“Bởi chưng trời đất dựng ra ( 2665 )
Quyền đâu đến quẻ bói khoa ở đời
Thế gian vạn kẻ có tài
Lỗi thầy bói chỉ ở lời thốt ra
Dở hay tiền định thôi mà
Ví dù không nói cũng ra làm vầy” ( 2670 )
Chàng Năm mới bảo từ nay
Thầy bói khỏi phải tội đày lao lung.

——————————————————-

Đã hơn bốn tháng vua dương
Đêm ngày cầu khấn trời thương trạng cùng
Miệng hỏi nước mắt rưng rưng: ( 2675 )
“Lộ trình của trạng theo phương hướng nào?”
Xuân Dung công chúa liền tâu:
“Trạng nguyên còn ở dưới lầu Chàng Năm
Người đâu đại lượng từ tâm
Phù thủy thầy bói trong tầm Diêm la ( 2680 )
Chàng xin cho họ được tha
Kính tối chưa thấy trạng ra phương nào.”
Trịnh vương nước mắt tuôn trào
Ngồi kính bốn tháng trạng sao chưa về
THương nàng công chúa nhiều bề ( 2685 )
Thức ròng bốn tháng người thì xanh xao.

———————————————————

Phạm Công nhìn trước ngó sau
Lạ lùng bèn hỏi một câu như vầy:
“Lương y sao chẳng thấy đây
Cùng là thầy dịch chốn này cũng không” ( 2690 )
Chàng Năm mới nói thực lòng:
“Lương y thầy dịch về cùng người ngay
Họ có làm hại chi ai
Mà bắt bớ họ về đày Diêm la”
Một mình quan trạng trở ra ( 2695 )
Gặp đoàn bán mắm kêu la bên hồ
Âm ty chịu cảnh tù đồ
Hai tay chặt cục nhuốc nhơ một đời
Buôn mắm muốn đựơc nhiều lời
Bao nhiêu nước cốt ngon thời chắt ra ( 2700 )
Chỉ bán có thứ nước pha
Lãi ăn cho lắm oan gia nỗi gì
Tiền là tiền thật lấy về
Mắm thì mắm giả dung chi kẻ tà
Phạm Công qua đó trở ra ( 2705 )
Thấy đoàn thầy mã ở tòa cửa đông
Tội hình giáng xuống chẳng dung
Thân kia phải đánh búa đồng tan xương
Phạm Công mới hỏi tỏ tường:
“Người ở trần giới đã vương tội gì” ( 2710 )
Giám ngụcd dáp lại tức thì:
“Làm nghề thợ mã cũng nghề gian ngoan
Đồ mã chẳng có ruột gan
Lấy tiền nói dối dương gian đã dày”
Vợ chàng không có nơi đây ( 2715 )
Phạm Công bèn hỏi liệu bài quay ra
“Khu trẫm không có Cúc Hoa
Mời trạng xuống cửa vua cha bên này
Đất người thoáng đãng phía tây
Đất người không có một ngày cùm gông”. ( 2720 )

6 –

Phạm Công lên ngựa ruổi rong
Vòng vèo mấy khúc tới vùng vua cha
Tứ bề đào mận nở hoa
Suối trong nước lặng chan hòa ánh dương
Bấy lâu ảm đạm một phương ( 2725 )
Đến đây động phủ Long vương chói lòa
Dập dìu đàn hát xướng ca
Bá quan văn võ bước ra mời chào
Long vương phán hỏi một câu:
“Chẳng hay quan trạng dãi dầu việc chi?” ( 2730 )
Phạm Công quỳ xuống đan trì
Khấu đầu làm lễ tức thì trình qua:
“Vợ tôi tên gọi Cúc Hoa
Mới ba mươi tuổi xưa đà xuống đây
Đi tìm hơn bốn tháng nay ( 2735 )
Vẫn chưa gặp được lòng này xót xa”
Long vương nghe nói cười xòa:
“Hãy ăn yến đã Cúc Hoa thấy liền”
Bá quan văn võ cùng khuyên:
“Rồi trạng sẽ gặp vợ hiền ngay thôi” ( 2740 )
Phạm Công bèn ngỏ một lời:
“Vợ tìm không thấy ngồi chơi làm gì”.

——————————————————-

Trịnh vương hết đứng lại đi
Phán hỏi công chúa: “Trạng về phương nao”
Xuân Dung sức lực tiêu hao ( 2745 )
Bốn tháng thức trắng ngồi chầu ăn chay
Nàng vẫn tỉnh táo tâu ngay:
“Trạng nguyên mới đến cửa này Long vương
Còn nghe tiếng nói tỏ tường
Cả triều náo nức chào mừng trạng nguyên” ( 2750 )
Công chúa lại nói tiếp liền:
“Tòa vàng lặng lẽ sao nhìn vắng tanh”
Vua hỏi: “Trạng có về nhanh”
Nàng bèn quỳ tấu phân minh nhẹ nhàng:
“Long vương yến tiệc mời chàng ( 2755 )
Ắt là biết đặng đâu nàng Cúc Hoa”.

——————————————————–

Trạng rằng: “Dạ thật an hòa
Nếu gặp lại vợ tại nhà quân vương”
Long vương đáp giọng vui mừng:
“Ra ngươi vẫn nhớ quá chừng Cúc Hoa ( 2760 )
Trẫm có công chúa trong tòa
Mới mười tám tuổi tiên sa non bồng
Ngồi thì đua nở hoa hồng
Đứng thì ngào ngạt hương xông hoa nhài
Đi thì én liệng bướm bay ( 2765 )
Hình dung nhan sắc cũng tày Cúc Hoa
Gả cho trạng để giao hòa
Nhường vì ngôi báu vua cha dưới này”
Phạm Công lễ phép giãi bày:
“Dù là tiên nữ mặt mày như hoa ( 2770 )
Dù là bắc đẩu sao sa
Tôi cũng chẳng thiết huống là con vua
Thủy chung giữ đạo ngàn xưa”
Long vương nhìn trạng, từ từ vuốt râu:
“Vợ trạng tuyệt sắc hay sao ( 2775 )
Trạng nói mặc trạng ai nào tin qua
Con ta mắt phượng da ngà
Chảy dài suối tóc mượt mà lưng ong”
Phạm Công quỳ trước bệ rồng:
“Tìm chưa thấy vợ trong lòng xót xa ( 2780 )
Nếu như tính chuyện nguyệt hoa
Thiếu gì người đẹp ngọc ngà dương gian”
Long vương mới phán rõ ràng:
“Gả nàng công chúa thêm nàng Cúc Hoa”
Phạm Công đáp lại khoan hòa: ( 2785 )
“Xin Người đừng nói nguyệt hoa thêm rầu”
Long vương bèn phán ậm ào:
“Số chàng còn phải dãi dầu quan san
Ba năm rong ruổi gian nan
Mới mong gặp đựoc vợ chàng Cúc Hoa” ( 2790 )
Phán rồi vua trở vào tòa
Phạm Công nước mắt chan hòa ra đi.

——————————————————–

Thủy cung công chúa sầu bi
Nói cùng quan trạng tỉ tê mấy lời:
“Cha thiếp nói dối chàng thôi ( 2795 )
Cúc Hoa đã ở gần rồi chàng ơi
Mười ngày chàng sẽ tới nơi
Bõ công lặn lội không ngơi bấy chầy
Thiếp đưa chàng quá một ngày
Tới Diêm quan phủ thấy ngay thôi mà ( 2800 )
Việc thời phải có mẹ cha
Đưa chàng chẳng tiện đường xa thương chàng
Phạm Công nhỏ nhẹ bảo nàng:
“Có chăng trở lại đền vàng hẵng hay”
Công chúa bèn đáp lời ngay: ( 2805 )
“Dù không trở lại nơi đây mặc lòng
Rồi ra chàng nhớ hay không
Riêng thiếp thì vẫn vô cùng xót thương
Chàng ơi đến đó nhiều đường
Một khi lạc bước không phương đôi hồi ( 2810 )
Nhiều tinh quỷ lắm chàng ơi
E khi nó đón chàng thôi giữa đường
Làm sao tránh chuỵên bất thường
Âu là viết sắc cho chàng đi qua
Nửa chừng có gặp yêu ma ( 2815 )
Cùng là tinh thủy thảy đà phải thôi”
Những đang ngần ngại bồi hồi
Nàng đà phát sắc xong xuôi mọi bề
Phạm Công lĩnh sắc tức thì
Nhìn nàng mà lệ phân kỳ rưng rưng. ( 2820 )
Đưa trạng thêm mấy độ đường
Xốn xang ước được dặm trường cùng ai
Công chúa lặng lẽ thở dài:
“Gối rêu nằm đất từ nay thương chàng
Chiếu đà trải dọc trải ngang ( 2825 )
Xót thay quan trạng tàn vàng bỏ không”
Phạm Công vuốt má ngựa hồng
Cả hai hớn hở trong lòng ra đi
Đường xa trở ngại sá gì
Chẳng may lạc bước khó bề trở tay. ( 2830 )

18. Phạm Công Tìm Thấy Cúc Hoa
Phạm Công ruổi ngựa đi lên
Hai bên thạch nhũ dấu tiên rườm rà
Lối này không thấy ai qua
Ven đường rực rỡ trăm hoa khoe màu
Trên cao hạc múa rồng chầu ( 2995 )
Bên dưới uốn khúc sông sâu thanh bình
Xem ra sơn thủy hữu tình
Rập rờn uốn lượn tường thành toàn hoa
Thảnh thơi người ngựa đi qua
Không gặp tù ngục cùng là quân canh ( 3000 )
Mênh mang trời nước trong lành
Bên bờ hoa rộ trên cành chim ca
Sông này tên gọi Giang hà
Hợp lưu hai ngọn giao hòa xanh xanh
Ngựa hồng mừng rỡ chạy quanh ( 3005 )
Bõ khi qua chốn hôi tanh ngục tù
Đến đây thấy hết âm u
Tắm sông chơi với ngày thu thỏa lòng
Tha hồ kì móng kì lông
Thơm tho rồi mới rời dòng chạy lên ( 3010 )
Ngựa hồng gặm cỏ kề bên
Phạm Công xuống tắm giang biên chói lòa
Một đoàn đầy tớ Cúc Hoa
Ba mươi cô gái bước hòa thong dong
Lụa xanh đua với nhiễu hồng ( 3015 )
Cởi ngay áo yếm nhắm sông Giang hà
Ngựa hồng ngó thấy người ta
Rung người vươn cổ hí la liền liền
Đám người xinh đẹp nhuư tiên
Thoắt thôi mắc cỡ thảy bèn kêu la ( 3020 )
Phạm Công nghe tiếng đàn bà
Liệu bài chàng mới bước ra dần dần
Đám người bỏ chạy rần rần
Tay vung miệng hét khổ thân làm vầy
Đàn ông cấm đến nơi đây ( 3025 )
Nữ nhi quen lối lâu nay xuề xòa
Tưởng như mọi bữa xông pha
Tha hồ ưỡn ẹo đẫy đà tấm thân
Phăng phăng cởi áo tụt quần
Buông tay xõa tóc nhảy ầm xuống sông ( 3030 )
Tưởng rằng chẳng có đàn ông
Ngờ đâu lại thấy Phạm Công chốn này
Ngời ngời một đấng râu mày
Cả ba mươi đứa chân tay rụng rời
lấy gì mà đậy hỡi trời ( 3035 )
Tay che chân chạy một hơi lên bờ
Áo quần rối rít mặc vô
Rào rào tiếng chửi tựa hồ đàn ong:
“Khúc sông quen thuộc lặng dòng
Bỗng dưng lồ lộ một ông như vầy ( 3040 )
Thằng nào quái gở đến đây
Đáng cho Thập điện lệnh ngay chém đầu”
Phạm Công đứng lặng hồi lâu
Tai như không thấu những câu tục tằn
Ngó quanh xem có ai chăng ( 3045 )
Để nhờ phân giải hộ chàng mới xong
Hết nhìn núi lại nhìn sông
Cúi đầu nhẫn nhục Phạm Công thở dài:
“Trên bờ có Thổ công đây
Dưới nước Hà bá các ngài thủy quan ( 3050 )
Dòng sông ta tắm đàng hoàng
Khi không nó lại một đoàn chửi la
Hôm nay tháng sáu mười ba
Các ngươi làm chứng cho ta chuyện này”
Bọn kia kéo một hàng dài ( 3055 )
Quay về quỳ trước lâu đài tuôn ra:
“Trình bà công chúa Cúc Hoa
Xin soi xét kẻo oan gia có ngày
Giang hà tắm gội bấy nay
Một ông lạ mặt đến đây tranh phần ( 3060 )
Chúng con chưa kịp tỏ phân
Trước sau nó đã mồm năm miệng mười
Chúng con lặng tiếng im hơi
Vậy mà nó chửi liền thôi thưa bà”
Diêm vương giận dữ quát la: ( 3065 )
“Thằng nào xấc láo gần xa phương nào
Chửi vua là chửi làm sao
Khinh vua Thập điện ngôi cao cửu trùng
Tội này phải trị mới xong
Phải đem nói với hội đồng quốc gia ( 3070 )
Ta là chúa tể mọi nhà
Vậy mà hắn chẳng coi ta ra gì
Hắn còn ở đấy hay đi”
Ba mươi đầy tớ tâu quỳ vua cha:
“Tay nó dắt ngựa hồng hoa ( 3075 )
Minh fmặc áo giáp nguy nga lạ lùng”
Vua sai mười tám thị đồng
Rùng rùng chiêng trống thẳng sông Giang hà
Đầy đường chỉ thấy can qua
Cung tên giáo mác bày ra ngút trời ( 3080 )
Lệnh nghiêm thuyền giữ khắp nơi
Để chàng khó nỗi băng vời trốn đi
Nhìn qua tán lá rậm rì
Ngựa hồng thương trạng phải kỳ gian nan
Quân quan la hết oang oang ( 3085 )
Bủa vây kín mít trên ngàn dưới sông
Thuyền ra vừa tới giữa dòng
Phạm Công bèn hỏi gạn cùng mấy câu:
“Hãy nói cho rõ vì đâu
Mà bắt ta phải chầu chầu tra tra ( 3090 )
Tay không ta đến từ xa
Không làm điều ác lại ra thế này
Mình ta là lính bu đầy
Hỏi rằng ai mạnh bọn mày hay ta?”
Quân quan lời lẽ khoan hòa: ( 3095 )
“Chúng tôi vâng lệnh quốc gia thi hành
Dám đâu làm sự tung hoành
Xin đừng nghĩ quẩn nghĩ quanh làm gì”
Cập bờ chúng dẫn chàng đi
Bước nhanh về chốn kinh kỳ đông dân ( 3100 )
Đủ mặt văn võ bá quan
Vua giao công chuyện cho nàng Cúc Hoa
Hai bên chư tướng giãn ra
Ngồi sau trướng gấm nàng tra hỏi dần:
“Bay khai có kẻ lần khân ( 3105 )
Chắc là quen thói người trần quát la
Bờ sông chửi mắng quân ta
Từng đứa một hãy kể ra việc này
Hỏi rằng khi nó chửi mày
Cos ai gần đó nghe vầy hay không ( 3110 )
Bên nguyên biên bản lập xong
Sẽ cho bên bị thong dong trả lời
Phòng bay vu cáo cho người
Truyền đòi Hà bá kịp thời tới đây”
Quan hầu vâng dạ đi ngay ( 3115 )
Ra nơi sông rộng tính bài gọi ông.

——————————————————–

Trịnh vương hỏi kính nóng lòng: ( 3120 )
“Xuân Dung con hỡi trạng vòng phương nao”
Kính ngồi canh trạng lao đao
Vua lo cho trạng biết bao nhiêu ngày
Một niềm cầu khấn ăn chay
Thầm mong cho trạng bấy chầy bình yên ( 3125 )
Nhẹ nhàng công chúa tâu lên:
“Trạng nguyên đã xuống đến đền Cúc hoa
Còn đang kiện tụng hỏi tra
Vì bọn đầy tớ mà ra chuyện này”
Trịnh vương nghe nói hỏi ngay: ( 3130 )
“Đầu đuôi là tại ta sai hay người?”
Công chúa cố nén bồi hồi:
“Tại lũ con gái dựng lời nói ngoa”.

———————————————————-

Quan hầu vừa mới đi ra
Đã dẫn Hà bá về tòa làm cung: ( 3135 )
“Nào khi chửi mắng ven sông
Có phân bua đến cùng ông chăng là”
Hà bá cứ nói thật thà:
“Thần vốn làm chứng đã ba bốn đời
Lỗi này là tại quân Người ( 3140 )
Hùa nhau chửi mắng tơi bời đức ông
Nói ngay thì sợ mất lòng
Nói gian e tội chẳng xong phen này”
Cúc Hoa bèn bảo rằng: “Hay!
Hãy cung cho rõ cho ngay rồi về” ( 3145 )
Lời cung tâu đến đan trì
Diêm vương nghe rõ mọi bề mới hay
Phán rằng: “Quả sự dường này
Lỗi lầm là tại chúng bay ả hoàn
Đem đi chém quách cả đoàn ( 3150 )
Những đứa cứ muốn cáo oan cho người”
Hà bá từ tạ lui rồi
Vua truyền lệnh xuống bời bời quyền uy
Đem ba mươi đứa nữ nhi
Khai đao một lúc tức thì làm gương ( 3155 )
Phạm Công quỳ lạy Diêm vương:
“Xin Người lượng thứ rộng đường hiếu sinh
Vì tôi họ phải tội hình
Ắt là có kẻ oan tình chẳng không”
Diêm vương nghe nói động lòng ( 3160 )
Cả bọn được hưởng khoan hồng một khi
Người bèn phán hỏi vân vi:
“Chẳng hay chàng có việc gì xuống đây”
Phạm Công cứ thực tâu bày:
“Tôi là quốc trạng ở rày Trịnh bang ( 3165 )
Vợ tôi là Cúc Hoa nương
Mới ba mươi tuổi suối vàng than ôi
Bỏ con thơ dại mồ côi
Cho nên tôi phải băng vời tới đây
Tìm tòi đã mấy tháng nay ( 3170 )
Khắp mọi cửa ngục chốn này bặt tin
Băn khoăn chưa biết căn nguyên
Xin Người đoái tới lòng yên bội phần
Cho nàng trở lại cõi trần
Mẹ con chồng vợ được gần bên nhau” ( 3175 )
Diêm vương thấu đặng nỗi đau
Khen chàng phò mã nặng sâu nghĩa tình:
“Âm dương cách biệt muôn nghìn
Vậy mà chàng chịu tần phiền xuống đây”.

19. Hạnh Phúc Vẹn Toàn
Cúc Hoa nghe nói khóc ngay
Vật mình xuống bệ tâu bày khúc nhôi:
“Xưa con vâng mệnh đầu thai
Cùng chàng sớm kết duyên hài sắt son ( 3180 )
Ba mươi tuổi đặng hai con
Phải về âm phủ héo hon bấy chầy
Con thơ côi cút đắng cay
Chồng thì đơn chiếc tháng ngày tủi thân”
Vua lau nước mắt ân cần: ( 3185 )
“Cha cho con lại cõi trần tái sinh
Cùng chàng trọn nghĩa trọn tình
Đúng sáu mươi tuổi về trình cha thôi
Bấy giờ con sẽ tái hồi
Có dâu có rể nối ngôi cửu trùng” ( 3190 )
Vợ chồng bái tạ đền rồng
Tức thì xe ngựa thẳng giong Trịnh thành.

———————————————————–

Trịnh vương hỏi kính sự tình:
“Chẳng hay quan trạng lộ trình đến đâu”
Xuân Dung hớn hở quỳ tâu: ( 3195 )
“Trạng nguyên chồng vợ gặp nhau vừa rồi
Diêm vương cho họ tái hồi
Độ cuối giờ ngọ về nơi cõi trần”
Trịnh vương nghe nói mừng thầm
Cho mời văn võ triều thần gần xa ( 3200 )
Hồn trạng nhập xác sáng lòa
Ngựa hồng với lại Cúc Hoa cùng về
Vua truyền mở tiệc tức thì
Mừng vợ chồng trạng đề huề từ đây:
“Công nương cầm kính đêm ngày ( 3205 )
Hẳn lòng khắc khoải bấy nay mong chờ”
Trạng rằng: “Xin để toan lo
Duyên sau nghĩa trước phải cho vẹn toàn”
Cúc Hoa quỳ xuống hân hoan
Xin cho một phượng hai loan sánh kề ( 3210 )
Lòng già nhẹ nhõm hả hê
Mừng vui con trẻ yên bề trăm năm
Này tình cũ nọ duyên thầm
Càng sâu duyên thắm càng đằm tình yêu
Trạng liền bái tạ bản triều ( 3215 )
Lọng tàn xe ngựa quân reo hằng hà
Công chúa ở lại hầu cha
Phạm Công cùng với Cúc Hoa lên đường
Đến nhà tri phủ vội vàng
Ông bà trông thấy lòng càng hồ nghi: ( 3220 )
“Cúc Hoa nó đã thác đi
Cớ sao tìm đặng mà về đến đây”
Phạm Công kể hết niềm tây
Lực Xuân thấy mẹ sà ngay vào lòng
Nhìn cha nhìn mẹ nhìn chồng ( 3225 )
Ôm con nàng cứ khóc ròng như mưa.

———————————————————

Lòng vui ngày tháng thoi đưa
Tạ từ cha mẹ bấy giờ vinh quy
Quỳnh Vân ngựa kíp ruổi phi
Từ đường lễ tạ nhà thì yến diên ( 3230 )
Họ hàng chúng bạn láng giềng
Đến mừng quan trạng như nêm một nhà
Còn đang yến ẩm xướng ca
Tin kinh có sứ triệu ra triều đình
Đòi quan phò mã về liền ( 3235 )
Làm người kế vị trị yên dân trời
Cả nhà xiết nỗi mừng vui
Lai kinh mừng đón sắc mời đăng quang
Vua cha mến cảnh già lam
Nên nhường cho trạng ngôi vàng từ nay. ( 3240 )

——————– H Ế T———————

SÃI VÃI

Sãi vãi (năm 1750)
của Nguyễn Cư Trinh
Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác. Tác phẩm được đánh giá là “một ví dụ tiêu biểu về ảnh hưởng của ca khúc dân gian vào sáng tác của các tác gia văn học viết ở Đàng Trong thuộc Đại Việt vào thế kỷ 17 và 18”.

Sãi rằng:

Phật ôi là Phật! Tu hỡi là tu!
Chúa sánh chúa Đường Ngu; tôi ví tôi Tắc Khiết.
Giang san cũ thâu về đất Việt; điền tịch xưa đem lại trời Nam.
Chốn chốn đều tư tái tư tam; nhà nhà cũng tỉ xương tỉ xí.
Già phò gậy đến xem thạnh trị; trẻ ngậm cơm mừng gặp thái bình.
Nước sông vàng lẻo lẻo dòng xanh; dân con đỏ hây hây nhà rạng.
Chợ chưa ra giá bán; đường chẳng lượm của rơi.
Đời đã nên đời; thú vừa vui thú.
Linh San am quê ngụ, Sãi sắc tứ tu trì.
Lòng mộ đạo tăng ni, miệng niệm Nam mô Phật.
Bì chi kẻ đua tranh xảo quyệt; quản bao (người) bạn tác ngư hà.
Lòng từ bi mộ đạo Thích Ca; nguyện Phật pháp vui bề trai gái.
Tiêu diêu cảnh ngoại, nong nả trần trung.
Tương dưa đòi bữa no lòng, bô vải miễn cho ấm cật.
Màn trời chiếu đất, gẫm tợ am thanh.
Đạo Như lai càng niệm càng lành; câu giáo hữu thoạt ngâm thoạt lạ.
Dựa màu thuyền bát nhã; lần chuỗi hột bồ đề.
Rỗi mộc ngư diễn kệ sớm khuya; nương thạch khánh phần hương trưa tối
Ước siêu tam muôi, ngõ thoát cửu huyền
Lăm đền mộc bổ thủy nguyên; dốc báo càn khôn phù tái.

Vãi rằng:

Chẳng hay ông sãi, quê quán phương nao?
Lời diễn kệ rất cao, đạo tu hành thêm chói.

Sãi rằng:

Lựa là phải hỏi quê vức làm chi;
Nếu phải đạo tăng ni, tu cùng nhờ phần phước.
Sãi người sanh trong nước, Sãi cũng khỏi xâu bơi.
Sãi sanh ở trong đời, Sãi cũng không thuế khóa
Khăng thìn đạo cả; vẹn giữ giềng ba.
Ngay với chúa, thảo với cha; nghĩa cùng thầy, tin cùng bạn.
Xưa Sãi biết chăn dân muôn quận; xưa Sãi hay giữ việc nhà vàng.
Già cám ơn mãi mã huyền dương; hùm nghe chánh cong đuôi về núi.
Xưa Sãi cũng biết giữ mình làm côi; xưa Sãi cũng hay lấy đức chăn dân.
Giữ thước mực cầm cân; đánh roi bồ răn chúng.
Lỡ bề lương đống, tạm dụng rui mè.
Sãi học lại vãi nghe, họa là có lòng chuộng.
Mới tụng kinh vừa xuống, nghe tiếng khánh gióng lệ
Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền; ngỡ là đạc đức trọng Ni thiết giáo
Sãi yêu vì đạo, Sãi dấu vì duơn.
Thấy mụ vãi nhan sắc có hơn; Sãi theo với tu hành kẻo thiệt.
Khoan khoan! chưa biết vãi ở chùa nào?
Thanh tân mày liễu má đào; đẹp đẽ mắt sao da tuyết.
Lòng người dầu thiết, thời đạo cũng gần.
Qua tây phương còn cách trở non thần; sau phương trượng đã sẵn sằng bàn Phật
Ngoài che sáo nhặt, trong xủ màn thưa.
Lạnh thời có mền bát tơ; nực thời có quạt lục phủ.
Chiếu du trơn như mỡ; thuốc lá ướp hoa ngâu.
Rượu hồng cúc ngàu ngàu; trà mỹ xuân phức phức.
Sẵn đồ, sẵn đạc; sẵn vãi, sẵn thầy;
Thoát liêu sau cho gần đó gần đây; vào cùng Sãi đặng tu hoài tu hủy.

Vãi rằng:

Lời sao nói ngụy, chẳng phải tánh chơn.
Tu làm sao mà lo thiệt lo hơn?
Tu làm sao mà tham tài tham sắc?
Ấy chẳng là bội đức. Chớ tu những điều chi?

Sãi rằng:

Sãi cũng muốn tu trì, khốn thiếu đồ khí dụng.
Thiếu chuông thiếu trống; thiếu kệ thiếu kinh.
Thiếu sứa thiếu sinh; thiếu tiêu thiếu bạt;
Thiếu bình thiếu bát; thiếu đậu thiếu tương;
Thiếu bình bông lư hương; thiếu tiền bàn lá phủ;
Thiếu hài thiếu mũ; thiếu hậu thiếu y;
Thiếu tiền đường sơ ly; thiếu thượng phương liễn đối;
Thiếu bê son bình sái; thiếu tích trượng ca sa;
Thiếu hương thiếu hoa; thiếu xôi thiếu Phật.
Ấy là đồ vặt, Sãi hãy sắm sau.
Thứ nào kíp làm đầu, Sãi phải toan sắm trước.
Nhiễu Thượng Hải, Sãi sắm một cái quần cho tốt; bố cát căn, Sãi sắm một cái áo cho xuê
Nón kiểng hàng, sãi sắm một cái cho xinh ghê; quạt ban trúc, sãi sắm một cây cho báu riết.
Giày hồng hài, Sãi sắm một đôi để đạp gót;
Khăn bích cân, Sãi sắm một cái để bịt đầu.
Sãi lại sắm một đứa tiểu đồng con con để cắp ống điếu cho mầu;
Sãi lại sắm một thước hồ la đo đỏ, Để buộc đãy sô cho ngỏa.
Chợ nào nhiều bạn hàng các ả, xóm nào đông bổn đạo các dì,
Sãi một tu lại tu đi, Sãi một tu lên tu xuống.
Sãi lại sắm một cái phương trượng, để sau liêu vắng vẻ một mình,
Trên mặt thì rộng thinh; dưới chân cho kín mít.
Đương khi thời cơm thịt, có bổn đạo vừa lên;
Nghe tiểu đồng tằng hắng tiếng lên, mấy đĩa thịt Sãi thâu vào đó.
Sãi lại sắm một cái vườn nho nhỏ, ở cho cách xóm xa xa.
Đề phòng khi bổn đạo chửa nghén ra, dễ khiến Sãi khoanh tay mà ngồi vậy.
Sãi lại sắm tiền nghề bỏ đãy, sáp tốt để đánh môi;
Ngộ phải khi cờ bạc thua hoài, dễ khiến Sãi khoanh tay ngó lảng.
Sãi lại sắm một hai bình thuốc tráng, với năm bảy đạo bùa mê;
Sắm một tiểu tăng cho hay tin lại tin về; sắm một tín nữ cho hay nói ngon nói ngọt;
Phải nơi gái tốt, vả lại nhiều tiền;
Giữ nết na nó chẳng đến chùa chiền, há khiến Sãi làm thinh mà giả điếc.
Việc Sãi thì Sãi biết, việc Vãi thì Vãi hay;
Ghé cho khỏi cánh tay, kẻo mà tuông nhằm vế.

Vãi rằng:

Lời sao nói quấy, tai chẳng muốn nghe.
Trí tuệ thông như “hoa nở bồ đề”; nhơn duyên bạc tợ “nhị thù Ưu Bát”.
Tuy ngồi mật thất, nào khác thông cù;
Trời xa xa rộng thẳm mà chẳng mù; lưới lộng lộng bủa thưa mà không lọt.
Nói một lời lỗi luật, tu muôn kiếp khôn đền.
Sãi rằng: Nơi Thiên đường, ông hỡi chưa lên; chốn Địa ngục, ông toan kíp xuống.

Sãi rằng:

Vãi này hẹp lượng, chẳng biết hí ngôn.
Có Thiên đường thì quân tử tu lên;
Có Địa ngục thì tiểu nhơn tu xuống.
Hễ là quân tử lượng, thì tu đức thắng tài,
Thờ vua, hết ngay; thờ cha hết thảo.
Một lời nói phải nhơn phải đạo, ấy là tu ngôn;
Một việc làm chẳng hại chẳng tham, ấy là tu hạnh.
Lấy nhân mà tu tánh, lấy đức mà tu thân.
Tu minh đức để mà tân dân; tu tề gia để mà trị quốc.
Ấy là trang hiền đức, tu cho phải đạo tu.
Ngoài thì tu khoan dũ ôn nhu; trong thì tu hòa bình trung chính.
Tu cung, tu kính; tu kín, tu thành.
Đã phải đạo tu hành, lại thêm nền phước chỉ
Tự nhiên: đắc lộc, đắc vị ; đắc thọ, đắc danh.
Đắc phú quý hiển vinh. Ấy Thiên đàng là đó.
Hễ là trang hiền ngõ, thì tu đến Thiên đàng.
Còn kẻ tiểu nhơn gian, thì tu vào Địa ngục.
Tiểu nhơn thói tục, tu những tánh phàm.
Tu những lòng bạc ác gian tham; tu những dạ hung hoang tàn bạo.
Nuôi cho lớn mà tu lòng bất hiếu; ăn cho no mà tu dạ bất trung.
Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng; tu lời khéo để mà sức phi văn quá.
Người hiền ngõ, tu ghét ghen ngăn trở ; kẻ lỗi lầm, tu tìm kiếm don ren.
Tu lưỡi mềm lấy của cho đầy then; tu mưu độc hại người cho đã giận.
Đứa tiểu nhơn như rận, tu rút máu người ta.
Tu càng dày càng nhục ông nhục cha; tu càng dày càng hại con hại cháu.
Tu vơ tu váo; tu chạ tu càn.
Hễ là đứa đại gian, thì tu điều bất ngãi.
Âm vi quỷ thần sở hại, dương vi vương pháp sở tru.
Ấy là tiểu nhơn chi tu, thì ắt tu vào Địa ngục.
Muốn nghe đấng tu mà thoát tục, hãy còn trang thượng trí chi tu.
Nhớ thủa Đường Ngu, thánh xưng Nhị Đế;
Nhị Đế người tu kỷ, mà trăm họ đều an.
Tam Vương người tu nhân, mà muôn dân đều trị.
Dầu những Hớn, Đường kế chí, Tống, Minh tương truyền.
Có tu đức, thì thiên hạ mới trị yên; có tu nhân, thì cơ đồ mới củng cố
Dầu những tu văn tu võ, người cũng tùy thời mà tu.
Thuở thái bình, yển võ tu văn; cơn bát loạn, yển văn tu võ.
Trên một người tu đủ, dưới trăm họ hòa hài
Hây hây thọ vức xuân đài; tu vậy thiệt trang thượng trí.
Bằng muốn xét cho cùng nhơn sự, hãy còn nhiều trung trí chi tu.
Kìa như Mặc Địch Dương Chu, tu một việc vị nhơn, vị ngã.
Nhổ mảy lông, mà lợi cả thiên hạ, thì Dương Chu tu một sự chẳng vui.
Mài hết trán, mà lợi có một người, thì Mặc Địch tu một lòng chẳng nại.
Dầu những Thích Ca tu lại, cùng với Đạt ma tu qua.
Tu cho tính chuyên là La Thập Cưu Ma; tu cho khổ não là Văn Thù Bồ Tát.
Ấy là người ngoại quốc, chọn theo thói Trung Hoa.
Chê sự đời phú quý vinh hoa; muốn vui thú thanh nhàn dật lạc.
Nghiệm chữ kia cho xác, chữ Tiên là “nhứt cá sơn nhơn”.
Suy chữ nọ cho chơn, chữ Phật là “phất tri nhơn sự”.
Ai dữ thì mặc dữ, ai lành cũng mặc lành.
Nhà hưng vong, phụ tử chẳng binh; nước trị loạn, quân thần chẳng đoái.
Song chẳng can danh phạm ngãi; cũng không dịch tánh biến tình.
Tham Thiên đường phải giữ lòng lành; sợ Địa ngục nên chừa thói dữ.
Tuy vô ích cũng không sanh sự; ấy là trang trung trí chi tu.
Còn như tu mà hóa ngu, hãy còn nhiều trang hạ chí.
Kìa như Hán Võ Đế; đã nên đứng minh vương;
Nọ như Tần Thỉ Hoàng; rất nên trang hung bạo.
Tham lam cầu Đạo, lặn lội tầm Tiên.
Mỏi sức người, trăm họ chịu lao phiền; hao của nước, muôn dân than đồ khổ.
Trăm chước sưu cầu thì có, mảy lông ứng nghiệm vốn không.
Đất Luân Đài phải Hớn chẳng hối ngộ trách cung; ải Hàm Cốc thì Tần cũng rắp ranh làm phản.
Hỡi nhiều như Hán, chẳng chi một Tần.
Đời nào tu cho hơn Tống Đạo Quân; đời nào tu cho kịp Lương Võ Đế.
Nhục Mạc Bắc, sao Tiên chẳng đến cứu về?
Đói Đài thành, sao Phật không ra trợ nạn?
Tiếc cơ đồ gầy dựng gian nan : hoài sự nghiệp tổ tông sáng tạo.
Châu Sư đã vang dầy tên pháo, Tề ngươn còn giảng đạo hoài hoài.
Khiết Đơn đà vậy phủ trong ngoài, Khâm Nhược vẫn tu trai mãi mãi.
Hư thời đã phải, thác chẳng ai thương.
Hễ đạo làm đế làm vương, thì phải tu nhân tu chính;
Tu quyền, tu bính; tu kỷ tu cang.
Trên, thì tu Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang; dưới, thì tu kinh luân thao lược.
Có đâu đi bắt chước thầy sãi mà tu trì.
Đương ban ngày dầu có phép lên trời, luận đạo trị chẳng ích chi cho nước.
Thấy đâu đặng phước, đều những manh tai.
Nếu cứ theo mê đạo hoài hoài, như vậy chẳng là trang hạ trí?

Vãi rằng:

Ngỡ là ông sãi, chẳng biết sự tu.
Ai dè gỉa đứa ngu, mới hay là bợm lịch
Khôn ngoan trong sạch, chữ nghĩa từ hòa.
Hẳn vàng nọ chưa pha; thiệt ngọc kia còn ẩn
Chẳng kiêu, chẳng lận; biết kính, biết nhường.
Biết tiểu nhơn cỏ rác mà rẻ rang, biết quân tử ngọc vàng mà yêu chuộng;
Biết khinh, biết trọng; biết của, biết người.
Ông có biết chuyện đời, nói nghe chơi cũng khá

Sãi rằng:

Vãi này cũng lạ, chớ hỏi mà sầu.
Uổng năm dây đờn khảy tai trâu; hoài muôn hộc nước xao đầu vịt.
Sãi không có biết, Sãi chẳng có hay.
Ghé cho khỏi cánh tay, kẻo mà quang xuống vế.

Vãi rằng:

Sãi nầy thất lễ, vả lại bạc tình.
Chớ có thấy Vãi tu hành, tưởng Vãi không thông thế sự.
Đã hay rằng nam tử, thì có chí kinh luân;
Song le đấng phụ nhân, cũng ghen tài tế thế.
Kìa như Châu Thái Tỷ, kinh còn khen đức rạng khuê môn.
Nọ như Tống Tuyên Nhơn, sử còn ngợi nữ trung Nghiêu, Thuấn.
Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ;
Gái như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc.
Chương gián chúa khỏi vòng dật dục, ấy là Đường Từ Huệ thứ phi.
Thơ cứu cha khỏi chốn tai nguy, nọ như Hớn Đề Oanh thiếu nữ.
Nam tử nhiều trang nam tử; phụ nhân ghe đấng phụ nhân.
Thuyền bách trôi, ngàn dặm hỡi băng băng; sách sử để, muôn năm còn vặc vặc.
Gái có tài có sắc; gái có đức có công.
Thuyền quyên đâu dễ kém anh hùng; ông Sãi nỡ phụ chi mụ Vãi.

Sãi rằng:

Thậm phải! Thậm phải! Mừng thay, mừng thay, mừng thay!
Khát hạn luống trông mây; ôm cầm mà gặp khách,
Chẳng cây cứng sao hay búa sắc; không đường dài nào biết ngựa hay.
Vậy thời Sãi vén mây ngút, phát chông gai, đặng cho Vãi thấy trời xanh, tìm đường cả.
Hiếm chi điều lạ; biết mấy chuyện kỳ.
Kề tai lại mà nghe, ghé vú ra kẻo đụng.
Sãi muốn nói một chuyện xa xa cho Vãi thủng, gẫm trong kinh chép đã thành xe;
Sãi muốn nói một chuyện gần gần cho Vãi nghe, gẫm trong Sử ghi đà nên Đống.
Truyện Hớn, truyện Đường, truyện Tống: truyện Thương, truyện Hạ, truyện Châu
Chuyện phu tử làm đầu; chuyện quân thần rất hệ.
Sãi muốn nói một chuyện: ” Quân sử thần dĩ trung”, Sãi lại sợ Mãng, Tào sanh oán.
Sãi muốn nói một chuyện: ” Vi phụ chỉ ư từ” cho Vãi hay, Sãi lại e ông Cổ Tẩu dức rằng ngày
Sãi muốn nói một chuyện: ” Vi tử chỉ ư hiếu” cho Vãi hay,
Sãi những sợ vua Tùy Dương chê rằng ngộ.
Sãi muốn nói một chuyện: ” Vi nhân bất phú”,
Sãi lại e thầy Nhan Tử mắng rằng: khéo mở miệng mà tấn ơn.
Sãi muốn nói một chuyện: ” Vi phú bất nhơn”,
Sãi lại sợ anh Thạch Sùng trách rằng: khéo thổi lông mà tìm vít.
Sãi muốn nói một chuyện: ” Tài tụ tắc dân tán” cho Vãi biết, thì Thương làm sao nên mất mà phải bày;
Sãi muốn nói một chuyện: ” Tài tán tắc tụ” cho Vãi hay, thì Châu làm sao nên hưng mà phải thuyết.
Việc Vãi thì Vãi biết, việc Sãi thì Sãi hay;
Gắng công phu mà tu luyện cho lâu ngày, đêm thanh vắng Sãi hãy nói cùng một chuyện.

Vãi rằng:

Ông nầy tu luyện, có chí anh hùng:
Thuộc sử kinh chứa để đầy lòng; mang y bát chơn truyền phải mặt.
Dầu chẳng “Vạn gia sanh Phật”, cũng là “nhất lộ phước tinh”.
Thời chưa nên, còn chờ đợi công danh; vận dầu gặp, chắc hiển dương thinh giá

Sãi rằng:

Chữ phụ nhơn nan hóa, mụ vãi biết là đâu?
Câu bên sông, Lữ còn chờ đợi công hầu; cây ngoài nội,
Doãn những mơ màng Nghiêu Thuấn;
Bất tri bất uẩn, hữu đức tất hữu lân.
Sớm mười hai, dầu chẳng đội đồng cân; muộn bảy mươi mốt, cũng đeo ấn tướng.
Công danh chẳng tưởng, vì bịnh thất tình.
Tồn ư trung bất chánh, ắt chẳng lành; phát ư ngoại bất hòa, thời thất tiết.
Tu dầu lòng chi thiết, Sãi vui trên trời rộng.
Vui nước biếc non xanh lộng lộng; vui trăng thanh gió mát làu làu.
Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;
Ngoài sáu đạo, Sãi vui với Bát Tiên;
Núi Thương Lãnh tìm lên, Sãi vui cùng Từ Hạo.
Vui nhơn vui đạo, vui thánh vui hiền.
Vui tiếng chuông giục khách lui thuyền; vui chiếc dép trương buồm nương gió.
Lánh cõi tục, Sãi vui thuyền Bát Nhã; rửa bụi trần, Sãi vui nước Ma ha.
Đạo thương người, Sãi vui giáo Thích Ca; Nhân cứu chúng, Sãi vui lòng Bồ Tát.
Vui một bình, một bát; vui một đạo, một hề.
Luận sự vui cho ngỏa cho nguê, chi bằng Sãi vui cùng mụ Vãi?
Thêm bịnh nầy không cãi, sãi có bịnh hay thương.
Sãi thương Đấng Tam Hoàng; Sãi thương ngôi Ngũ Đế.
Thương vì hiếu vì đễ; thương vì đức vì tài.
Thương vua Nghiêu áo vải quần gai; thương vua Thuấn cày mây cuốc nguyệt.
Ân hẩm hút, thương vua Võ, thương càng chí thiết; ở lao tù, thương vua Văn, thương rất xót xa.
Thương ông Châu Công, trung đã nên trung, còn mắc tiếng gièm pha;
Thương đức Khổng Tử, thánh đà nên thánh, hãy ghe phen hoạn nạn.
Thương mấy kẻ mưu thần nhà Hán, không tội mà chết oan;
Thương những người văn học đời Tần, vô can mà chôn sống.
Thương Gia Cát có tài lương đống, gặp chúa chẳng phải thì;
Thương Nhạc Phi nên tướng ân uy, không hòa mà bị hại.
Thương đi thương lại, thương chẳng có ngần
Ngồi đêm đông, thương người nằm giá khóc măng; lên ải Bắc, thương kẻ chăn dê uống tuyết.
Thương càng chí thiết, thương rất đỗi thương.
Thương cho khắp bốn phương, chi bằng thương mụ Vãi.
Song lòng nầy còn ngại, vì có bịnh giận dai.
Sãi giận phải, chẳng phải giận sai; Sãi giận thật, Sãi không giận dối.
Sãi giận Sãi nhiều lầm nhiều lỗi; khi lỗi lầm, Sãi một giận hoài.
Sãi giận Sãi ít đức it tài; tưởng tài đức, Sãi càng giận riết.
Sãi giận Sãi kinh luân chẳng biết; Sãi giận Sãi thao lược không hay.
Sãi giận Sãi: thờ quân vương chẳng hết lòng ngay;
Sãi giận Sãi: ơn phụ mẫu chưa đền nghĩa thảo.
Tưởng trong nhơn đạo; Sãi một giận căm;
Suy nghiệp cổ câm, Sãi thêm giận lắm.
Khi Đổng Trác lung lăng nhà Hán, Sãi giận chàng Hà Tấn vô mưu.
Lúc Khuyển Nhung phá phách nhà Chu, Sãi giận gã Thân Hầu thất kế.
Máu sục sục sôi dòng Vị Thủy, giận Thương quân hành chánh chẳng lành.
Thây chan chan lấp nội Trường Bình, giận Bạch Khởi ra oai rất dữ.
Hớn dầu yếu, giận Lữ làm quái gở; Đường chưa suy, giận Võ dám lăng loàn.
Tôi Võ đà xấp xỉ Lộc san; tội Lữ cũng rắp ranh Vương Mãng.
Giận quanh giận quẩn, giận chẳng hay cùng.
Giận Vãi sao chẳng chút mến lòng, khiến sãi luống giận hoài mệt mỏi.
Lại còn thêm một nỗi, sãi có bịnh hay yêu.
Chẳng yêu kẻ dâm kiêu, chỉ yêu người trung chánh.
Luận trong chơn tánh, đầu phải yêu thân; suy lý hành nhân, cuối thì yêu vật.
Yêu chí thiết, yêu người nhân đức; yêu mặn nồng, yêu kẻ tín thành.
Yêu trượng phu lượng rộng thinh thinh; yêu quân tử lòng ngay trác trác
Yêu gan sắt, mài mà chẳng nát; yêu lòng son, nhuộm cũng chẳng đen.
Yêu lỗ tai, lời trung chánh nghe quen; yêu con mắt, việc cổ kim dèm tỏ.
Tiết lạnh lẽo, Sãi yêu kỳ kỳ ruổi giong.
Con thảo cha, Sãi yêu bằng ngọc bằng vàng; tôi ngay chúa, Sãi yêu bằng châu bằng báu.
Luận như yêu đạo, thì Sãi yêu đạo trung dung; suy như yêu lòng, thì Sãi yêu lòng nhân ngỡi.

Vãi rằng:

Yêu mà nhà lợi, nước lợi, thiên hạ lợi, chi bằng yêu hiền?
Yêu mà tài nên, đức nên, phú quý nên, chi bằng yêu sĩ?

Sãi rằng:

Yêu trang tuệ trí, yêu kẻ tài năng,
Như yêu sự lăng nhăng, chi bằng yêu mụ Vãi?
Tưởng chuyện nầy còn dại, bịnh hay ghét ở mình.
Ghét chẳng phải vô tình, ghét thiệt là hữu thú.
Ghét Kiệt, ghét Trụ; ghét Lệ, ghét U
Ghét nhân chánh chẳng tu, ghét cang thường nỡ bỏ.
Luận như ghét cho đủ, Sãi ghét đứa bất hiếu, bất trung;
Luận như ghét cho cùng, Sãi ghét đứa đại gian đại ác.
Ghét kỳ ghét quặc; ghét lạ ghét lùng.
Đọc Ngu Thơ ghét đảng Tứ hung; coi Tống Sử, ghét bầy Ngũ quỷ.
Ghét hoài, ghét hủy; ghét ngọt, ghét ngon.
Ghét đứa cầu mị mà giết con, ghét đứa tham sang mà hại vợ.
Uốn lưỡi vạy, ghét người nước Sở; dạ tham lam, ghét kẻ nước Tề.
Ghét đứa gian hay cậy thế cậy thì, ghét đứa dữ hay hại nhà hại nước.
Ghét thấy lợi mà chạy xuôi chạy ngược; ghét thấy nghĩa mà lo thiệt lo hơn.
Sãi ghét người ích kỷ hại nhơn; Sãi ghét đứa gian phu dâm phụ.
Ghét đứa hay co hay cú; ghét người chẳng thiệt chẳng thà.
Ấy là ghét xưa nay mấy việc người ta, chưa bằng ghét Vãi sao vô tình cùng Sãi.
Lại bịnh nầy khôn giải, về một nỗi muốn nhiều
Muốn trên cho sánh đức Thuấn Nghiêu; muốn dưới thảy nên tài Y Lữ.
Nghĩa từ hiếu, muốn chưng giường phụ tử; câu xướng tùy, muốn xử đạo vợ chồng.
Anh với em, muốn đễ muốn cung; bậu với bạn, muốn tin muốn thật.
Người hiền ngõ, Sãi muốn gần cho thiệt rất; đứa gian tà,
Sãi muốn tránh cho xa xôi.
Mở quyển vàng, tay chẳng muốn thôi; thấy đức bạc, mắt không muốn ghé.
Trong làng xóm, Sãi muốn không đảng tham ô.
Lưới thỏ giăng, sãi muốn cho củ củ võ phu;
Gót lân xéo, Sãi muốn cho chơn chơn công tử.
Muốn sao muốn dữ, muốn chẳng hay cùng;
Muốn kinh bang, chưa gặp vận hanh thông; muốn tế thế, hãy còn thời truân kiển.
Đá Tinh Vệ, muốn lấp sao cho cạn biển; đất nghĩ phù, muốn đắp để nên non.
Muốn sao cho đều đặng vuông tròn, chi bằng muốn tu cùng mụ Vãi.
Những suy đi nghĩ lại, còn một bịnh sợ nhiều.
Sợ Quách Khai hay đặt nên điều; sợ Lâm Phủ ngọt lời báng hủy.
Sợ sắc tốt, hại người Sùng phải lụy; sợ báu kỳ, vu gã Viện mắc nàn.
Chị dâu sợ em vì sáu cái ấn vàng; tôi hiền sợ giặc vì một đôi ngọc trắng.
Sợ dài sợ vắn, sợ vẩn sợ vơ.
Thuyền họ Trương ở khô,
còn sợ sóng tràn bờ; đất nhà Kỷ vốn hẹp, hãy sợ trời sập mái.
Sợ giá mỏng, nước nhà cơ bại; sợ móc nhiều, thân gái mình gầy.
Dương Quan Tây còn sợ có bốn hay; Khổng Phu tử những dạy ba điều sợ.
Sợ vọt vắn, chưa mau chơn ngựa; sợ vách thưa, còn lậu hơi sương;
Sợ là sợ mật tuy lành mà ruồi những vấn vương; sợ là sợ hoa chẳng độc mà bướm đà mê mẩn.
Sợ càng ngơ càng ngẩn, sợ như dại như ngây.
Sợ tu chẳng trọn kiếp ông thầy, nữa rồi lại đụng nhằm mụ vãi.
Bờ giác ngạn dễ đà đặng lại; bởi thất tình còn hỡ năm mang.
Việc cổ kim chi xiết luận bàn; lời phẫn uất chút ra tiêu khiển.

Vãi rằng:

Nghe qua các chuyện, ngẫm lại hữu tình.
Khen ông sãi thuộc sử thuộc kinh; khen ông sãi có tài có trí.
Lời ăn nói thánh hiền đạo vị; khoa ngôn từ nghĩa lý văn chương.
Chẳng phải kẻ tầm thường, hẳn là trang cách vật.
Lôi Âm tự có tu mới thành Phật;
Thiên Thai sơn có phước cũng nên tiên.
Biết đường nào qua thấu Tây Thiên; cậy chỉ nẻo tu cùng khuya sớm.

Sãi rằng:

Vừa vừa vãi bợm, bớt bớt yêu tinh.
Chốn Thiên Đường còn cách trở minh minh; miền phạn sát, hỡi xa chưng vòi vọi.
Tây Phương không đường tới; Bắc lộ khó nẻo qua.
Đường Nam phương thấy đó chẳng xa, thì những sợ nhiều quân Đá Vách.
Tưởng thôi lạc phách, nhớ đến kinh hồn.
Nọ giết người như dế như trùn; nọ hại người như rít như rắn.
Đến đâu là tảo tận; bắt đặng ắt giết tươi.
Đã vào làng cướp của hại người; lại xuống nội đuổi trâu bắt ngựa.
Hãy tu đây nương dựa; chớ qua đó làm chi.
Đừng đi quàng gặp vãi nó bắt đi, rồi lại bỏ Sãi bồ côi bồ cút.

Vãi rằng:

Kinh trung hữu thuyết: “Nhung Địch thị Ưng:.
Ai chịu quyền trọng trấn nhứt phương; nếu không đáng để sau sanh tệ.
Đạo tu lòng chẳng trễ, công mài sắt ắt nên.
Mặc ai xao lãng lòng thiền;
Đạo ta ta giữ cho bền thì thôi.
Thôi thời ông sãi hãy ngồi,
Tây Phương Vãi tới tìm nơi Thiên Đường.
Muôn năm chúc tuổi Nguyễn Vương,
“Nam mô” hai chữ phi thường mặc ai.

THẠCH SANH TÂN TRUYỆN

Thạch Sanh tân truyện

(Truyện dã sử đời vua Hùng thứ chín)

Nay mừng vận mở thái hòa
Bốn phương lạc nghiệp, âu ca thái bình.

Nhớ xưa ở quận Cao bình

Có ông Thạch nghĩa hiền lành đức nhân.

Làm nghề đốn củi độ thân

Vợ là Dương thị bội phận đức duyên.

Lỗi sinh gặp vận suy hèn

Chẳng lo hiếm của, không phiền muộn con.

Đêm ngày giữ tầm lòng son

Cỏ cây là bạn, núi non là nhà.

Quang âm thấm thoắt bay qua

Thạch ông lẩn thẩn tuổi đà sáu mươi

Xét mình thân thuộc không ai

Cho nên mong có chút trai nối giòng

Để sau hương hỏa tổ tông

Còn như thành bại mặc lòng trời toan.

Trải bao nhiêu sự nguy nan

Vợ chồng họ Thạch lòng vàng chẳng lay:

Vợ thì gánh nước liền tay

Để đem bố thí người nay lỡ đường.

Chồng thì khơi cống, khơi mương

Luôn tay cuốc thuổng sửa đường người qua.

Tiếng đồn khắp cả gần xa

Trong thôn ngoài ấp đều là cảm khen.

Lời phàm thấu cửu trùng thiên

Hỏi qua Vương mẫu sự duyên thế nào?

Cùng là Bắc đẩu, Nam tào

Cớ sao họ Thạch công lao mà hèn?

Thần tiên đặt gối tâu lên

Trước sau số mệnh, phúc duyên mọi bề.

Ngọc hoàng chỉ phán tức thì:

Truyền đòi thái tử cho đi xuống trần;

Làm con họ Thạch đền ân

Thọ trường trăm tuổi danh thơm sẽ về.

Ba mươi tuổi trước hàn vi

Đoạn xong vận kiển tới kỳ hanh thông.

Bấy giờ tỏ rạng mây rồng

Giàu sang bốn bể, vẫy vùng tám phương.

Thái tử nghe phán tỏ tường

Cúi vâng ngọc chỉ trổ đường đầu thai.

Thiều ca chỗi chập lưng trời

Quần tiên đưa đón đoạn thôi trở về.

Đoạn này họ Thạch mỏi mê

Chiêm bao thấy có rồng kề một bên.

Tiêu thiều, nhã nhạc vang rền

Tỉnh ra chồng vợ muôn nghìn vui tươi.

Thạch bà từ đấy thụ thai

Tu nhân bồi nghĩa chẳng rời phút giây.

Ai ngờ sự lạ lùng thay

Ba năm hoài nghén mà rày chưa sinh! (50)

Vợ chồng họ Thạch hãi kinh

Cùng nhau than thở một mình mà thôi.

Than rằng: Nhân nghĩa trọn đời

Cớ sao mặc phải tội trời thế ni?

Chắc rằng yêu quái giống chi

Hiện vào báo hại nền thì nghén lâu!

Thạch bà tầm tã tuồn châu

Ngày đêm lo nghĩ buồn rầu lắm thay!

Vui kia chưa kịp tới ngày

Sự đâu sóng gió buồn nay tời liền:

Thạch ông thoát nợ trần duyên

Hồn hoa sớm đã chơi tiên kia rồi!

Thạch bà than khóc vô hồi

Than rằng: Trời khéo buộc người tang thương.

Con trong lành dữ chưa tường

Chồng ngoài sớm đã suối vàng, than ôi!

Tuổi già, bóng xế cả đôi

Ông về, tôi ở, trách trời chẳng công!

Đương cơn nguy hiểm đau lòng

Lấy gì tống táng việc chồng cho an!

Kêu cùng dân xã trong làng

Kẻ nhiều, người ít vội vàng giúp cho.

Thạch ông thác đã yên mồ

Thạch bà sớm đã đủ no ngày giờ.

Tự nhiên không nắng không mưa

Có con sấm sét một giờ phát ngay.

Thạch bà trông thấy lo thay

Phút trong bụng nảy ra ngay một người:

Mày tằm, mắt phượng tốt tươi

Sinh ra sớm đã biết ngồi đứng ngay!

Thạch bà ôm lấy vui thay

Thấy con mà lại khó khuây nỗi chồng:

Suối vàng ông có thiêng không

Độ cho con nó qua vòng hiểm nguy?

Trông con rồi lại nằn nì:

Con ôi, có biết việc gì hay không?

Vì con mẹ phải nhọc lòng

Ba năm chín tháng chịu vòng đắng cay!

Cha con bóng hạc, xe mây

Một mình hẩm hút mẹ nay buồn rầu.

Thai sinh nay mẹ qua cầu

Thấy con, mẹ cũng bớt sầu nỗi cha.

Thương con đương độ ấu thơ

Con côi, mẹ góa bây giờ cậy ai!

Đến khi đầy tháng vừa rồi

Bà liền mới đặt tên thời Thạch Sanh.

Tháng ngày rau cháo xin quanh

Nuôi con mong đợi lớn cành đỡ tay.

Bóng câu cửa sổ ngựa bay

Bảy năm thoát đã đến ngay bao giờ! (100)

Thạch Sanh đã có thiên tư

Không cha, có mẹ, bấy giờ hỏi ngay:

Cúi xin mẹ tỏ con hay

Cha con sao vắng bấy nay ở nhà?

Mẹ nghe lời hỏi con thơ

Tức thì lụy đổ như mưa ướt đầm.

Rằng: Cha con sớm lìa trần

Thuở con trong bụng mẹ phân thực thà.

Con dù tưởng mẹ, nhớ cha

Cố noi nhân nghĩa để mà báo ân.

Thạch Sanh nghe mẹ giải phân

Hai hàng châu lệ chứa chan thảm sầu.

Mới hay phụ tử tình sâu

Tuy chưa thấy mặt, cũng đau đớn lòng.

Tủi thân sớm vắng nhà thông

Ấy ai dạy dỗ, cậy trông sau này?

Mẹ thì bóng xế non tây

Phỏng khi mưa nắng mai ngày nữa sao?

Cảm tình ruột xót như bào

Cúi đầu lạy mẹ thấp cao giãi bảy:

Cha con xấu số về nay

Chẳng qua máy tạo đổi thay không chừng.

Nhưng con còn mẹ vui mừng

Cúi xin mẹ hãy hết lòng nuôi con.

Còn trời, còn nước, còn non

Công phu đành báo tấc son có ngày.

Mẹ nghe con nói mừng thay

Chắc rằng con cũng có ngày làm nên.

Hay đâu vạn sự do thiên

Sự vui kia với sự phiền ghen nhau!

Thạch bà chẳng bệnh không đau

Tự nhiên trời gọi về chầu cảnh tiên.

Đòi con đứng lại một bên

Nhủ rằng: Con chớ có phiền làm chi!

Ngày nay mẫu tử biệt ly

Khuyên con giữ lấy nhân nghì, hiếu trung.

Ấy là trả nghĩa đền công

Suối vàng cha mẹ yên lòng ngậm vui.

Nói thôi hồn lạc phách rời

Thạch Sanh ôm mẹ một hồi khóc vang.

Than rằng: Mẹ khéo vội vàng

Bỏ con thơ dại dương gian một mình!

Gần xa không kẻ thân tình

Việc này tống táng một mình biết sao?

Xóm làng nghe tiếng ồn ào

Tới nơi trông thấy ai nào chẳng thương!

Nghĩ công thí nước, sửa đường

Bảo nhau làm phúc vội vàng chôn cho.

Chôn cùng Thạch Nghĩa một mồ

Thạch Sanh chống gậy vội đưa ra đồng, (150)

Khóc than, kể lể sự lòng

Người nghe thấy cũng lụy ròng thảm thay!

Mồ cha, mả mẹ yên rày

Thạch Sanh bái tạ làng nay có lòng:

Cửa nhà còn có mấy đồng

Bát cơm, cái trứng tạm dùng lễ đơn.

Đoạn này lắm bước gian truân

Khó khăn tất tưởi, cơ hàn quạnh hiu.

Cửa nhà nghĩ thảm trăm chiều

Gia tài có một búa rìu đốn cây.

Sẵn nghề cha để lại đây

Đốt than, kiếm củi tháng ngày lân la.

Rừng xanh núi đỏ vào ra

Chim kêu vượn hót ấy là thú riêng.

Cuộc đời nghĩ đến đảo điên

Non sông nỡ để thiệt riêng người lành!

Mình trần, khố có một manh

Giang sơn một gánh củi cành trên vai.

May ra gặp buổi tốt trời

Cơm lam cũng được đủ vai bữa liền.

Chẳng may gặp buổi trời phiền

Gió mưa lại được nghỉ liền, nhịn suông!

Rau: rêu mọc, nước: suối tuôn

Đỡ lòng ngồi ngắm càn khôn chuyển vần.

Thu qua, đông tới, lại xuân…

Thạch Sanh tuổi đã đến tuần mười ba.

Ngọc hoàng nghĩ đến gần xa

Kíp sai Lý Tĩnh xuống qua phàm trần.

Bao nhiêu các phép tiên ban

Dạy cho họ Thạch chu toàn tinh thông.

Tiên ông vâng lệnh ghi lòng

Đằng vận, giá vũ, ruổi giong một giờ.

Đi vừa đến chốn cội đa

Thạch Sanh kiếm củi đường xa vừa về;

Thấy ông già cả ngồi kề

Hỏi rằng: Ông đến làm chi chốn này?

Tiên ông nghe nói tỏ bày:

Ta đây Lý Tĩnh, chức rày Thiên vương.

Tới đây vâng lệnh Ngọc hoàng

Dạy con phép tắc sửa sang việc đời.

Thạch Sanh nghe nói mừng vui

Cúi đầu làm lễ vâng lời bảo ban.

Tiên ông đem phép vi tàng

Này cho họ Thạch tỏ tường thần thông.

Sau khi khảo hạch như lòng

Dạy rằng: Còn khá ra công ôn nhuần.

Chớ nên thổ lộ máy thần

Mai ngày sẽ được chăn dân, trị đời.

Nói thôi biến hóa về trời

Thạch Sanh vọng bái, kíp thời tiễn đưa. (200)

Nghề riêng vẫn giữ dấu nhà

Côn quyền một búa vào ra làm lòng.

Tiêu dao ngày tháng thong dong

Bạn cùng trăng gió, vui cùng nước mây.

Hiếu thân lòng chẳng có khuây

Khói hương cúng vái đêm ngày mẹ cha.

Một hôm ngồi tựa cây đa

Có một nam tử đi qua ghé vào.

Tạm dừng hóng mát giải lao

Nhác trông họ Thạch anh hào uy phong.

Chắc rằng là kẻ ích dùng

Cho nên muốn kết bạn cùng anh em.

Nghĩ thôi mới hỏi sự duyên:

Quán quê người ở về miền đâu đây?

Cửa nhà sao vắng nhường này?

Xem trong tang hải vận nay bỡn bờ!

Thạch Sanh nghe tỏ liền thưa

Nỗi mình hoạn nạn, nỗi nhà truân chiên:

Cội đa đây vốn nhà em

Tên Sanh, họ Thạch, thú quen rừng tòng.

Còn anh xin tỏ thực lòng

Họ tên chi đó ở vùng đâu ta?

Chàng kia liền tỏ thực thà:

Tên Thông, họ Lý, vốn nhà bán buôn.

Làm nghề cất rượu sớm hôm

Nghi Dương (?) từ mẫu hãy còn bình yên.

Thơ đào chưa định lương duyên

Muốn cùng người sẽ kết nguyền đệ huynh.

Thạch Sanh e lệ thế tình:

Cám ơn anh có lòng thành cùng em.

Song em muốn ngỏ lời đen

Xin anh chớ giận, chớ phiền làm chi.

Em nay gặp bước hàn vi

Sợ sau anh lại bấc chì mỉa mai.

E khi có việc thì vời

Đến khi bình tĩnh lại rời nhau ra;

Hiểm nguy sum họp một nhà
Giàu sang rồi lại phải ra đứng đường!

Còn lòng từ mẫu chưa tường

Sợ người ghét bỏ, rẫy ruồng chẳng dung.

Bấy giờ đi ở khó lòng

Cội đa lại chẳng thoát vòng cội đa!

Thấy gần nên phải lo xa

Nữa khi oán hối sự đà lỡ thay!

Lý Thông nghe nói đáp ngay:

Anh đâu nỡ ở bạc rày thế ru?

Xin em chớ ngại đừng lo

Ai mà đơn bạc, phó cho vừng hồng;

Búa trăng, rìu sét đừng dung

Anh em xin ở hết lòng cùng nhau. (250)

Thạch Sanh nghe tỏ gót đầu.

Theo chân họ Lý cùng nhau trở về.

Tới nơi đầu ngõ trước hè

Thạch Sanh đứng lại, còn e lão bà;

Bảo rằng: Anh hãy về nhà

Thưa cùng từ mẫu gần xa mấy lời

Rộng lòng mẹ có thương tôi

Thời anh ra dắt em noi theo vào.

Lý Thông nghe nói khen sao

Một mình gánh rượu liền vào trước thưa.

Mẹ già đứng cửa đương chờ

Thấy con liền hỏi: Về trưa thế à?

Lý Thông tỏ hết gần xa:

Có chàng họ Thạch còn chờ ngoài kia

Cùng con kết nghĩa trọn bề

Anh em sinh tử chẳng hề phụ nhau.

Dám xin từ mẫu rộng thâu

Có người, có việc mẹ hầu lo chi.

Lý bà liền thuận tức thì:

Vậy con ra gọi nó về cho an.

Thạch Sanh hết dạ nghi nan

Theo chân họ Lý vội vàng vào ngay.

Tới nơi làm lễ trình bày

Lão bà kíp nhận ngày rày làm con.

Thạch Sanh kể lể thiệt hơn:

Mẹ mà thương đến thì con hết lòng.

Con xin làm hết việc công

Dẫu lầy gan óc cũng không dám nài.

Đoạn này nói chuyện phố ngoài

Vốn trong quận ấy có loài yêu tinh.

Nỏ là rắn lớn hiện hình

Nhờ hơi nhật nguyệt thành tinh hại người;

Hay đi nhũng nhiễu các nơi

Hiện hình nam tử, bắt người về ăn.

Tiếng đồn đã đến vua quan

Càng trừ, càng hại, hao tàn người thêm!

Khắp miền đạo sĩ chịu êm

Vua truyền lập miếu ngày dân phụng thở ;

Đệ niên phải nộp lễ đưa

Một người nam tử bấy giờ mới xong.

Địa phương đã có sớ dâng

Cứ theo lần lượt đàn ông từng người

Tới kỳ phải đến tận nơi

Xà tinh súc miệng dân thời đinh ninh.

Vả từ Lý, Thạch giao tình

Đến nay đã được rành rành bảy năm.

Thạch Sanh công việc đều chăm

Được lòng Lý mẫu muôn phần đều tin;

Bán buôn hưng thịnh liền liền

Cho nên nay có bạc tiền hơn xưa. (300)
Một hôm, gánh rượu bước ra

Chưa ra đến chợ phút đà hãi kinh;

Tai nghe đôn dậy khắp thành:

Năm nay tới lượt nộp mình: Lý Thông!

Nghe thôi, bỏ gánh bô gồng

Vội về tỏ hết đục trong con tường.

Lý Thông bán rượu dầu làng

Vừa về đến cửa, bàng hoàng sợ thay!

Mẹ sao về sớm hôm nay

Lại đứng than khóc, ta nay việc gì?

Vào nhà, mẹ tỏ vân vi:

Con ôi! hết số, còn gì là con!

Chẳng nghe ngoài phố tiếng đồn

Đến vài ngày nữa phiên con nộp mình?

Mẹ sinh cây cỏ một cành

Lấy ai khuya sớm gia đình mai sau!

Là Thông nghe nói, tuôn châu

Mẹ con lăn khóc cùng nhau rầm nhà.

Ai ngờ họ Lý gian tà

Nghĩ ngay một kế phân qua mẹ tường

Mẹ ơi! Xin chớ lo lường

Con đã có kế, có phương thoát nàn.

Mẹ đừng khóc lóc, than van

Nữa mà tiết lộ khó toàn mưu con.

Thạch Sanh còn ở trong non

Nó về, mẹ để mặc con điều đình.

Nó nay chỉ có một mình

Dù mà sống, thác cũng đành phận thôi.

Mẹ sinh con có một chồi

Nếu nay còn thác, mẹ thời cậy ai?

Lý bà nghe nói, tạm vui

Song e ở thế, sợ trời không dung:

Thạch Sanh nó cũng có công

Bấy lâu chăm việc hết lòng cùng ta:

Tháng ngày hái củi đàng xa

Đem về khó nhọc cho ta tiêu dùng.

Thông rằng: Thương nó không xong

Xưa nay lưỡng lợi khó trông được nào.

Mẹ đừng suy nghĩ thấp cao

Nó không thế mạng, con nào được yên?

Nó dù hồn có khôn thiêng

Thì con cúng giỗ cũng yên một bề.

Nói thôi, sắp đặt phân chia

Cỗ bàn nấu nướng ê hề dọn ra.

Thạch Sanh gánh củi về nhà

Thấy có cơm rượu bày ra sẵn sàng.

Mẹ con họ Lý vội vàng

Gọi Thạch Sanh kíp lên giường ngồi ăn.

Mẹ con mời mọc ân cần

Xem ra quý trọng muôn phần hơn xưa. (350)

Thạch Sanh chưa rõ tóc tơ

Hỏi nhà có việc chi má cúng đây?

Lý Thông khi ấy tỏ bây:

Hôm nay chính thực là ngày giỗ cha.

Anh quên bảo em ở nhà

Cho nên em đến bây giờ mới hay.

Vả em khó nhọc bấy nay

Mẹ, anh dành để mâm này đãi em.

Thạch Sanh tưởng thật, đều khen:

Mẹ cùng anh ở chu tuyền quá sao!

Có chi là chút công lao

Mà anh dạy thế, em nào dám vâng!

Lý Thông cười nói tưng bừng

Chyện trò bả lả ra chừng vui tươi.

Đoạn xong mới ngỏ một lời

Rằng: Anh có việc, em thời giúp anh

Nhân nay có lệnh triều đinh.

Đến phiên anh phải đi canh miếu thờ

Để mà kiểm điểm xem qua

Địa vàng chén ngọc bây giờ đủ không.

Để mà tâu với cửu trùng

Cho người yên dạ, khỏi lòng hồ nghi

Lệnh vua ai dám diên trì

Lẽ ra anh phải thân đi mới đành;

Trót cất mẻ rượu công trình

Anh đi sợ hỏng việc anh ở nhà.

Miếu thần em khá thẳng qua
Tuần xong em trở về nhà mà thôi

Nói năng chưa kíp dứt lời

Trát quan đã đến thúc đòi đi ngay

Nói rằng: Họ Lý nào đây

Đến phiên mình phải đi ngay tức thì!

Thạch Sanh nghe chẳng biết chi

Tưởng phiên canh thật, liền đi vội vàng

Trải qua mấy dặm rừng hoang

Tới nơi phút thấy rõ ràng miếu thiêng.

Bộn bề vắng vẻ, yêm!? điềm

Trời vừa sầm tối, chàng liền nghỉ chân.

Giở ra cơm nắm toan ăn

Hay đâu gió thổi ầm ầm rung cây.

Lại thêm gầm hú, ghê thay

Trông ra thấy một vật nay dị kỳ.

Thạch Sanh chẳng biết vật chi

Trắng, đen, xanh, đỏ, hoe hoe cả mình

Hung hăng giơ vuốt, nhăn nanh

Phòng toan làm dữ như hình mọi khi

Thạch Sanh hóa phép tức thì

Búa rìu liền phóng một khi yêu xà

Mắng rằng: Mày giống tà ma

Hại người tao chẳng dung tha mày nào! (400)

Xà tinh liền nhảy xốc vào

Thạch Sanh liền lấy thần đao chém liền.

Ai ngờ Rắn có phép thiêng

Hóa ra lửa cháy bốn bên đỏ ngòm.

Thạch Sanh hóa nước mưa tuôn

Tự nhiên lửa tắt kinh hồn Xà tinh.

Lại e yêu nghiệt tàng hình

Trốn đi nơi khác ắt mình uổng công.

Bổ vây lưới sắt bịt bùng

Nguyên hình Rắn phải đùng đùng hóa ngay.

Chàng dùng dao báu chém rày

Rõ ràng con rắn vừa tày một gian.

Lấy đầu, đốt xác vừa an

Báu tên với một cung vàng hiện ngay.

Thạch Sanh thấy lạ, cầm tay

Cảm ơn trời đất cho nay vật kỳ.

Mai ngày phát tích có khi.

Suối vàng cha mẹ ắt thì ngậm vui.

Chém xong rồi, mới canh hai

Xách đầu chạy thẳng một nơi đến nhà.

Bây giờ mới có canh ba

Mẹ con Lý thị giấc hoa đang nồng.

Thạch Sanh đấm cửa đùng đùng:

Mẹ ơi, anh hỡi, dậy trông rắn này!

Mẹ con Lý thị hồn bay

Chắc rằng nó chết về đây trách mình:

Khôn thiêng em hỡi, Thạch Sanh!

Việc này xin chớ oán anh vô nghì.

Oan hồn xin hãy tạm đi

Ngày may xôi thịt ta thì cúng cho.

Vàng hương tống tiễn đủ đồ

Sống sao thác vậy, chớ lo chi mà

Thạch Sanh nghe tỏ bấy giờ

Mới hay họ Lý lòng tà bất nhân.

Chứng minh phó mặc quỷ thần

Lòng ta cứ giữ ân cần trước sau:

Anh ơi! mở cửa cho mau!

Em đây không phải ma đâu mà phòng

Xà tinh em đã trừ xong

Mẹ và anh hãy ra trông đây này!

Mẹ con nghe đã tỏ bày

Đá dao đánh lửa đèn nay thắp liền

Mở ra trông thấy quả nhiên

Thạch Sanh đứng đó chẳng phiền ngại chi.

Lại trông thấy một vật kỳ

Lù lù một đống, phút thì ngã lăn

Lý mẫu hoảng hốt tâm thần

Thạch Sanh đỡ dậy liền phân gót đầu.

Lý Thông là đứa hiểm sâu

Dọa rằng: Tội ấy chém đầu chẳng chơi. (450)

Xà tinh ấy của vua nuôi

Để làm báu nước, sao ngươi giết xằng?

Thạch Sanh nghe nói kinh hoàng

Lạy anh cùng mẹ mở đường cứu sinh

Lý Thông rằng: Muốn tốt lành,

Ngươi mau trốn tránh, điều đình mặc ta.

Nếu không, vạ đến cả nhà

Bấy giờ thán hối lại là muộn thay!

Thạch Sanh từ tạ đi ngay

Than thân trách phận chẳng may nhiều bề!

Lại tìm chốn cũ hàn khê

Trước thăm mồ mả, sau về cội đa.

Cũng liều tuế nguyệt phôi pha

Chắc chi bĩ thái mà hòa trông mong.

Đoạn này nói chuyện Lý Thông.

Đuổi người mà chiếm lấy công, hay gì!

Thạch Sanh từ bước ra đi

Lý Thông liền đến kinh kỳ tâu vua.

Tâu rằng: Buổi tối hôm qua.

Là phiên tôi phải đi ra miếu ngoài.

Thấy Xà tinh muốn ra oai

Tôi liền giở hết phép tài của tôi.

Nên nay đã chém nó rồi

Hiện đầu còn ở tại nơi cửa nhà

Vua nghe, liền mới phán ra:

Nếu ngươi chém được, ắt ta thưởng tài

Ví mà chẳng được như lời

Xét ra man tấu, tội thời tru di

Xà tinh nó làm phép kỳ

Bấy lâu ai dám làm gì nó đâu.

Vậy thì, quân lính ruổi mau!

Tới nơi nhà gã khiêng đầu về đây.

Nếu bằng sự quả dường này

Phong quan, thưởng tước, cho mày phu công

Quân nhân vâng lệnh đền rồng

Kíp theo Lý thị thẳng xông về nhà.

Đến nơi, quân lính kêu la:

Đầu chi quái lạ anh ta rụng rời!

Bảo nhau khiêng vác lên vai

Nặng đà quá sức khó thời khiêng đi.

Lý Thông mắng nhiếc một khi:

Chúng bay ăn hại làm chi nên đời ?

Ấy là Rắn đã chết rồi

Mà còn chẳng nổi khiêng nơi cái đầu

Huống chi nó sống phép mầu

Thần thông biến hóa ai nào dám đương

Tao đà chém được rõ ràng

Một tay xách nó ra đàng như không!

Quân nhân nghe nói hãi hùng

Bảo nhau cố gắng hết lòng khiêng đi, (500)

Kẻo người tâu dộng đơn trì

Vua quan bắt phạt ta thì khổ thay.

Lý Thông nở mặt nở mày.

Đến kinh đô vội vào ngay sân rồng

Đức vua trông thấy, mừng lòng:

Khen thay nhà gã anh hùng không hai.

Xà tinh nó có phép tài

Mà ngươi giết được thực thời thần thông

Kíp truyền đô đốc gia phong

Cho ăn lộc ấy muôn chung tức thì!

Mẹ con bái tạ vinh qui

Ngựa xe đường sá tức thì như nêm.

Một tay chấp chưởng binh quyền

Khắp hòa thiên hạ đều khen phép mầu

Rõ ràng một vị công hầu

Tranh công mà được sang giàu, lạ thay

Hầu non gái tốt đêm ngày

Trân hảo, mỹ vị hưởng nay thanh nhàn

Chẳng còn tưởng đến bạn vàng

Một hai muốn kiếm tìm đường giết đi.

Thạch Sanh oan khổ lưu ly

Tháng ngày kiếm củi, ngồi thì gốc đa.

Cũng đành tuế nguyệt phôi pha

Ngồi trông ngắm cảnh thế ra dường nào.

Đoạn này nói việc trong trào

Con vua lập một lầu cao kén chồng.

Quỳnh Nga công chúa sắc phong

Hoa nhường, nguyệt thẹn, mặn nồng thiên hương.

Viện vương sinh có một nàng

Nâng niu quý hóa, ngọc vàng kém xa.

Mặc lòng nghĩ ngợi khoan hòa

Kén ngôi phò mã đợi hòa mai sau.

Điệp đi các nước chư hầu

Cho các thế tử về chầu kén duyên.

Các nơi nghe thấy báo tin

Sắm sanh xe ngựa, binh quyền thẳng giong:

Cân đai đủ vẻ anh hùng

Trái duyên nên chẳng đẹp lòng công nương.

Cho nên các nước thẹn thuồng

Tới lui hai lẽ khôn đương hồ đồ.

Ngự tiền biết ý căn do

Phán truyền các nước hồi đô ra ngoài.

Bao nhiêu lễ cống hứa lai

Bạc vàng tặng thưởng đền bồi công nay

Chư hầu lĩnh lấy, cảm thay.

Cùng nhau ai nấy phân tay ra về.

Viện vương lòng cũng sầu bi

Thương con vả lại mình thì cao niên

Lệnh sai quải bảng tống truyền

Xá dao cho khắp dưới trên trong ngoài. (550)

Tuyển lâu lại lập một nơi

Liễn câu rủ dọc, biển bài treo ngang

Tứ bề trướng phủ, màn giăng.

Rõ ràng hai chữ thiếp vàng: Tuyển phu

Nhân dân nghe thấu sự cơ

Sắm sanh ăn mặc đủ đồ ra đi.

Bảo nhau khắp chợ cùng quê

Đua nhau sắm sửa đi về ríu ran

Thế tình chuộng lạ tham sang

Muốn làm rể chúa con hoàng một phen

Cho nên chẳng quản dặm nghìn

Băng chừng lối cũ đường quen đi về.

Sơn lâm cùng cốc, giang khê

Nghe tin hớn hở, đều về đế kinh

Người giàu má đỏ, mày xanh.

Quần là áo lượt đua tranh lên đường.

Người nào gia sản thường thường

Cũng lo quần áo phải nhường ra đi.

Người nào nghèo chẳng có chi

Bạc tiền vay mượn mang về sắm sanh.

May quần, thay áo cho xinh.

Trời cho ta có phúc lành thời nên.

Rủ nhau kéo đến Tràng-yên

Ngựa xe võng giá như nêm đầy đường.

Viện vương ra ngự tuyển tràng

Dạy đòi công chúa xe loan theo hầu.

Nàng bèn vâng lệnh ra chầu

Xa trông liếc mắt âu sầu ủ ê.

Chúa rằng: Thiên hạ dân quê

Hết lòng cũng muốn dựa kề chí tôn

Tuyển tràng dóng dả vuông tròn

Gió đưa mùi xạ, hương tuôn khói trầm.

Lên xe tựa án, nương cằm

Khắp trong thiên hạ càng nhằm càng dơ

Ngự tiền chỉ phán bấy giờ:

Sĩ dân ngần ấy, con vừa lòng ai?

Chúa rằng: Tủi phận trang đài

Bấy nhiêu người ấy chẳng ai Châu Trần

Vua nghe tỏ hết sự nhân

Truyền thôi cuộc tuyển, xã dân đều về.

Lên xe phụ tử đề huề

Tiền hô, hậu ủng, thiên uy lạ nhường!

Quân dân ra khỏi tuyển trường

Nhìn nhau buồn bã hổ han mọi bề

Người giàu phí tổn chẳng chi

Cũng như xem hội trở về khi nay.

Thương cho kẻ phải đi vay

Người đòi, kẻ thúc, thẹn thay tấm lòng!

Trở về bán ruộng trả xong

Một thân cay đắng cực lòng mỉa mai (600)

Viện vương dạ cũng bi ai

Tấm lòng chua xót bực hai ba phần.

Nỗi nàng công chúa hồng quần

Lòng thương cha mẹ muôn phần kém tươi.

Hiên tây cửa khép, then cài

Lược gương biếng chải, hán hài biếng trau

Giọt sương gieo nặng cành đào

Càng lo bể ái, càng dào mạch tương

Than rằng: Tệ mấy Đằng vương

Nỡ ngăn tấm gió, chẳng thương chút tình!

Ngày nào đông đúc yến oanh

Kẻo còn như cuốc cầm canh mùa hè;

Ngày nào lan huệ sánh kề

Kẻo còn như dế rì rề kêu sương!

Đêm xuân khuya khoắt canh trường.

Ngày xuân lắm mối tơ vương bận lòng!

Vui xem tô lục chuốt hồng

Buồn trông thấy nỗi tình chung mà sầu!

Thôi ra gác, lại vào lầu

Lược ngà biếng chải, gương tầu biếng soi

Thôi bút vẽ, lại đề bài

Thơ hòa mấy vận, châu rơi mấy hàng!

Canh chầy mơ giấc hoàng lương

Tỉnh ra lại thấy muôn nhường như không

Một hôm dạo mát vườn hồng

Nhởn nhơ thị nữ não nùng theo sau.

Đại bằng bay ở trên cao

Vội sà xuống cắp má đào liền bay.

Thị tỳ quáng mắt chẳng hay

Mê hồn ngã xuống gốc cây tức thì.

Trong ngoài chẳng biết nỗi chi

Đại bằng cắp chúa bay thì đã xa.

Thạch Sanh đương lúc thẩn thơ

Thấy chim cắp một người mà đang bay;

Giương cung chàng mới bắn ngay

Trúng bên cánh tả chim rày liền rơi.

Rút tên lại cắp lấy người

Phép yêu lại biến một thôi đến nhà

Sanh bèn theo dấu nẻo xa

Trông chừng bèn thấy máu hòa cùng tên.

Lấy tên, chàng mới băng miền

Đến nơi sơn động tuyệt hơi khôn tầm

Hóa ra trăm tướng hãm cầm

Trở về cũng chẳng rì rầm với ai.

Thị tỳ chợt tỉnh hồn mai

Vào chầu thưa hết mọi lời quì tâu:

Chúng tôi buổi sớm đi hầu

Theo công nương dạo vườn sau chơi bời

Chẳng hay yêu quái đến nơi

Nó liền đã bắt lấy người đem đi. (650)

Chúng tôi hoảng hốt biết gì

Tỉnh ra nên phải về quì tâu vua

Viện vương nghe hết căn do.

Vội vàng mặc áo liền ra điện tiền

Lệnh truyền nổi trống mau lên

Bá quan nghe trống, bốn bên kéo vào.

Ngự tiền chỉ phán tiêu hao:

Mất nàng công chúa ai nào biết hay

Các quan nghe nói hãi thay!

Chia làm ba đội quân nay đi tìm.

Gươm đao, khí giới, quân quyền

Tìm tòi chẳng thấy hóa nên buồn rầu.

Triều đình kéo đến quì tâu:

Chúng thần tìm khắp chẳng hầu thấy chi!

Vua nghe lời nói vân vi

Việc này tra hỏi biết thì cậy ai?

Thương con luống những thở dài

Giọt sương sa nặng, khóc ngoài bệ đan

Phán rằng: Văn vũ bá quan

Ai mà tìm thấy được nàng chúa tiên

Ta cho phối ngẫu lương duyên

Nhường ngôi Thiên tử, cầm quyền quốc bang

Quần thần nghe lệnh nhà vàng

Quì tâu kể hết mọi đàng khúc nhôi

Chúng tôi hết sức tìm tòi

Lỗi này, cả thể chịu nơi đền rồng.

Muôn tâu giãi hết tấm lòng

Xin sai họ Lý quận công việc này.

Vả, chàng trí lược gồm thay

Chém yêu tinh trước, ai rày chẳng kinh

Vua nghe ngẫm nghĩ tâm tình

Chiếu đòi họ Lý vào thành một khi

Lý Thông vào đến đơn trì

Tung hô vạn tuế vậy thì chầu vua.

Ngự tiền phán bảo căn do:

Việc này quan trạng phải cho tinh tường

Bởi vì công chúa tòa chương

Bị loài yêu quái phi thường bắt đi.

Trạng mà tìm thấy một khi

Thì ta hậu thưởng, nhường vì chẳng quên

Gả nàng công chúa hợp duyên

Để cho sửa trị cầm quyền giáo dân

Vâng lời bái tạ thánh quân

Ra ngoài buồn bã thở than mọi điều:

Biết đâu là quỷ, là yêu?

Lệnh trên ban hỏi những điều hiểm sâu!

Biết rằng công chúa ở đâu

Mà đi tìm trước, kiếm sau bây giờ?

Một mình nghĩ ngợi bơ vơ

Lập mưu mở rạp hát đua mười ngày. (700)
Thôn dân nô nức đến nay.

Chắc là xem hội truyền rày cùng nhau.

Thừa cơ nghe lóng trước sau

Ắt là bắt được, sự âu lo gì.

Nhân dân ai cũng đều đi

Tiếng đồn quan quận người thì cho chơi.

Hát đà tám chín ngày trời

Chẳng ai có nói một lời chi đâu.

Lý Thông chi xiết nỗi sầu

Cố lòng chờ đợi về sau liệu bài

Hát đà đến tối thứ mười…

Thạch Sanh kiếm củi về thời bữa trưa.

Mấy người đi chợ kinh đô

Đồn chàng họ Lý bây giờ hiển vinh.

Thạch Sanh nghe rõ sự tình

Đến nơi thấy hát rành rành vui thay.

Bước vào nhà hát xem ngay

Quân canh chúng hỏi rằng: Mày đi đâu?

Nghe đây trống hát thì vào

Đến xem cho biết thấp cao vân mòng

Nhìn lâu rõ mặt Lý Thông.

Chào anh mới hỏi rằng công việc gì?

Thông xem rõ mặt một khi

Mời Sanh vội vã ngồi thì ở trên.

Các quan hầu hạ hai bên

Đứng thưa thời hỏi rằng: Viên nào rày?

Thông rằng: Cựu khế tôi đây

Cùng nhau kết bạn những ngày còn thơ.

Hội riêng may lại tình cờ

Nghĩ rằng ai đó mà ngờ gặp đây

Truyền đem quần ảo đổi thay

Lụa tơ gấm vóc thực nay lạ lùng.

Sanh rằng: Ơn đội tấm lòng

Phận hèn đâu dám phô sòng khoe khoang.

Thấy nhau mà lại bẽ bàng

Hổ lời hải thệ thẹn đàng sơn minh!

Thông rằng: Em giận trách anh

Nào anh có dám quên tình em đâu.

Từ ngày xa cách mặt nhau

Nhớ em buồn bã khó hầu thăm lênh

Vả, nay có lệnh triều đình

Gượng làm vui vậy, việc mình mới xong

Sanh rằng: Vinh hiển quận công

Còn chi trở ngại mà lòng phải lo?

Thông rằng: Có một việc to

Dẫu tài hiền thánh khó lo vẹn toàn

Sanh rằng: nếu việc cơ quan

Thì anh khá tỏ sự doan em tường

Thông rằng: Công chúa tòa chương

Bị loài yêu quái đón đường bắt đi. (750)

Không hay lành dữ thị phi

Người thì chẳng biết, ma thì cũng không.

Quả nhiên thực giống lạ lùng

Bây giờ có chiếu cửu trùng sai anh.

May mà ta lại gặp mình

Phiền lòng gắng sức để danh muôn đời.

Có hay yêu quái mọi loài

Thì đi cứu lấy nạn người tiên cung

Sanh nghe nói lại cùng Thông:

Làm chi việc ấy mà hòng không ra!

Chính danh tên nó Mãng xà

Động sơn chốn ấy vốn là yêu tinh

Thông liền nói lại cùng Sanh.

Rằng: Vua hạ chiếu cho anh tìm về.

Nhường ngôi thiên tử trị vì

Gả nàng công chúa kết nghì hợp duyên.

Em đà biết rõ căn nguyên

Để anh thu xếp cho tuyền việc công

Về sau tước lộc hưởng chung

Đệ huynh vinh hiển yên lòng mẹ cha

Thạch Sanh vốn dạ thực thà

Thấy lời Thông nói mặn mà dễ nghe.

Cho nên đáp lại một khi:

Kiếm dây cho lính tức thì theo tôi

Nghe lời Sanh nói mừng vui

Dạy làm yến đãi khuyên mời Thạch Sanh.

Sáng mai truyền bảo quân binh

Chỉnh tề khí giới theo mình ra đi.

Thông thì ngựa cưỡi, tàn che

Tiền hô hậu hét bốn bề vang rên.

Sanh thì chẳng ngựa, chẳng yên

Mình trần trùng trục đi lên dẫn đàng.

Động sơn phút đã gần hang

Sanh, Thông bèn mới tỏ tường bảo nhau.

Rằng: Hang nó ở còn sâu

Việc làm cẩn mật dễ hầu lo toan.

Lấy dây chàng mới làm thang

Dặn xong, Sanh mới xuống hang phen này.

Bảo rằng: Thấy động đầu dây

Thì anh rút thẳng đưa rày nàng lên.

Dây kia lại bỏ xuống liền

Để tôi lại buộc tôi lên chớ chầy

Thông nghe mới bảo dòng dây

Sanh vừa xuống đến, nàng rày vừa ra.

Hỏi rằng: Chàng ở đâu ta

Nhân sao mà xuống đây hòa việc chi?

Sanh rằng: Vâng lệnh triều nghi

Xuống đưa công chúa nay thì hồi dương.

Công chúa nghe nói tỏ tường

Đáp rằng: Cảm nghĩa ơn chàng cứu em. (800)

Thiếp xin kết nghĩa lương duyên

Phượng loan chung gối, phỉ nguyền keo sơn.

Sanh rằng: Việc ở triều gian

Lý Thông vâng lệnh thiên nhan đưa về.

Vả tôi là nghĩa bạn bè

Nếu ăn ở thế, lỗi nghì đệ huynh

Nàng rằng: Dẫu việc triều đình

Thì em cũng kết duyên lành từ đây.

Sanh liền hỏi: Nó đâu đây

Thì nàng sẽ nói tôi hay được tường?

Nàng rằng: Nó ở trong giường

Phải tên ai bắn nó đang đau rày

Sanh bèn đưa thuốc khi nay

Bảo rằng: Cho nó uống rày luôn đi.

Uống vào nó sẽ phát mê

Bấy giờ nàng sẽ trở về cùng tôi

Nàng bèn vâng cứ như lời

Bưng vào nàng mới khuyên mời một phen:

Thiếp nay có chén thuốc tiên.

Khuyên chàng uống lấy kết nguyền thất gia.

Rồi ra ta sẽ giao hòa

Kẻo đau thế vậy, xót xa trong lòng!

Xà tinh là giống ác hung

Thấy lời thục nữ trong lòng liền mê

Thuốc vừa uống khỏi một khi

Ruột gan bải hoải, tứ chi bàng hoàng.

Nàng ra mời nói cùng chàng

Sanh bèn mới buộc để nàng lên ngay.

Lý Thông thấy động đầu dây

Sai quân rút thẳng đưa rày nàng lên.

Đưa nàng võng giá về đền

Bảo cùng chư tướng cũng liền về ngay:

Tao còn chực đánh nó đây

Các ngươi ở lại khốn thay trăm đường!

Chư quân nghe nói kinh hoàng

Võng ngay công chúa dặm trường xa bay.

Nỗi nàng công chúa thương thay

Trông sau vắng bạn ngày rày hóa câm.

Lý Thông lăn đá ầm ầm
Cửa hang phút lấp tuyệt tăm tích người!
Thạch Sanh bị hãm, thương ôi!
Giương cung bèn phá lâu đài Xà vương
Bao nhiêu điện, các, cung, chương
Chàng thì phá hết chẳng nhường vật chi.
Mãng xà chợt tỉnh cơn mê
Thét lên một tiếng thực thì ghê thay:
Thằng nào lạ mặt xuống đây
Cả gan phá tán chốn này của tao?
Phá nhà, cướp vợ lung lao
Hung hăng mặt dữ, ta nào có thua? (850)
Sanh rằng: Tao tướng dương tòa
Phụng ban quyền sắc vậy hòa xuống đây
Giết loài yêu quái chúng bay
Bắt người giam hãm, tớ thầy khôn dung.
Xà vương nghe nói, nổi hung
Mắng rằng: Mày bé, thị hùng được sao
Xà vương biến tướng hùng hào
Tam đầu cửu vĩ ai nào chẳng ghê!
Thạch Sanh trông thấy cười xuề
Giơ đao áp lại, bốn bề giao công
Ngoài dư trăm trận đột xung
Xà tinh đã khiếp Thạch ông, tướng trời.
Nó liền hóa phép trận bài
Hỏa hào đốt nấu trong ngoài như nung
Sanh bèn niệm chú hư không
Hóa mưa tưới tắt lửa hồng một khi.
Song long nó hóa tức thi
Hai bên tướng quỷ, bốn bề quân ma.
Ầm ầm sét đánh xông pha
Sự cơ thắng bại thực là chưa phân.
Thạch Sanh trông thấy tần ngần
Tức thì niệm chú Đồng Tân bấy giờ.
Búa đồng chàng mới giang ra.
Bao nhiêu ác quỷ bấy giờ liền tan.
Xà tinh lắm phép nhiệm tàng
Trận bày song kiếm, chim bằng dư trăm
Đều phun lửa cháy ầm ầm
Hơn trăm câu móc vây tầm ở trên.
Dưới thì dăng lưới giữ gìn
Lại vào trong chốn trận tiền giao công.
Thạch Sanh đứng vững như đồng
Khẩn cầu các vị tiên ông phù trì
Cầm đao chàng mới ra uy
Bao nhiêu lưới sắt tức thì phá tan!
Cung vàng bắn với tên vàng
Bao nhiêu câu móc chim bằng tan không.
Xà tinh hết phép, thế cùng
Biến làm bằng thước toan hòng trốn đi.
Thạch Sanh hóa phép tức thì
Phủ vây lưới sắt khó bề trốn thay
Giương cung tên bắn chết ngay
Đại bằng rơi xuống thác ngay dưới đàng.
Thần đao chàng chém tan hoang
Trông lên đã thấy lấp hang bao giờ!
Chàng bèn đứng lại ngẩn ngơ
Thế cùng khôn rõ lối bò, đường lên.
Trở vào trông khắp bốn bên
Thấy Xà tinh ở quả nhiên rộng dài.
Kìa trướng phủ, nọ màn vây
Sập ken (?) vân mẫu, gác rày pha lê. (900)
Trập trùng núi giả, tường huê

Chốn cao nơi thấp khác gì động tiên.

Thạch Sanh bèn phá huỷ liền

Trở ra dạo khắp bốn bên thành vàng.

Thẩn thơ tìm khắp dưới hang

Nhác trông thấy có một chàng, lạ thay!

Ngồi trong cũi sắt bằng nay

Trông chừng diện mạo cũng tay phi thường.

Căn do mới hỏi tỏ tường:

Cớ sao phải chịu vấn vương chốn này

Hoàng nghe thôi mới giãi bày:

Tôi là thái tử con nay Thủy tề

Vì chàng du ngoạn giang khê

Gặp chim yêu quái bắt về hãm đây.

Ơn nhờ tráng sĩ ra tay

Cứu cho thoát khỏi nạn này, muôn trông.

Nghe lời, Sanh mới giương cung.

Tên vàng bắn phá cũi đồng liền tan.

Bấy giờ thái tử bình an

Bước ra bái tạ tỏ tường một khi:

Chẳng hay quê quán nơi chi

Đầu đuôi căn cước khá thì cho hay

Cớ sao mà lại xuống đây?

Xin anh giãi hết niềm tây chu toàn

Sanh rằng: Ta ở dương gian

Vì tình nên phải cứu nàn Chúa tiên

Cứu nàng ta đã đưa lên

Xà tinh nó mới đấu quyền cùng ta.

Tiễu trừ phân bổ làm ba

Trông lên, đá đã lấp hòa cửa hang!

Ta ben(?) tức ruột căm gan

Phá thôi lại đến cứu chàng, cho nên…

Hoàng nghe Sanh tỏ sự duyên

Khen rằng: Anh có phép tiên đại tài.

Vào chầu Vương phụ kim giai

Để người biết mặt biết tài kinh luân.

Trước xin trả nghĩa cùng anh

Sau là phụ tử thỏa tình nhớ nhung

Nghe lời, Sanh đáp lại cùng:

Làm ơn, ai có dễ hòng đền ơn.

Anh xin hỏi thật nguồn cơn:

Xà tinh nó bắt hãm cầm từ bao?

Hoàng rằng: Nó bắt đã lâu.

Ở trong cũi sắt vừa hầu một năm

Sanh rằng: Nó bắt hãm cầm

Tháng ngày nó có cho ăn vật gì?

Hoàng nghe xiết nỗi sầu bi:

Ăn toàn rêu đá qua thì hôm mai!

Thạch Sanh nghe nói thở dài

Trách yêu tinh ở cùng người khắt khe: (950)

Thôi em sắm sửa ra về.

Kẻo Vương phụ nhớ, cùng thì trông mong.

Còn anh sẽ liệu chước dùng

Tìm đường kiếm lối dương cung ra về

Hoàng rằng: Em chẳng có nghe

Có anh theo dõi thì về mới xong.

Ở đây hang đá trập trùng.

Biết đâu lối suốt, nẻo thông mà về

Chẳng bằng trở lại Thủy tề

Bẩm tâu Vương phụ mọi bề sự duyên;

Rút đường, rẽ nước đưa lên

Chấp kinh anh phải tòng quyền mới xong

Sanh nghe Hoàng nói gạn gùng

Chịu lời khi ấy đành lòng đi theo.

Hoàng bèn căn vặn hết điều:

Khi anh xuống đến cung tiêu Thủy tề;

Vua cha đáp nghĩa vật chi

Nếu cho vàng bạc, anh thì chớ tham.

Quý này, có một cái đàn

Của vua Thượng đế Ngọc hoàng ban cho.

Em tâu Vương phụ người cho

Trong đàn có đủ trận đồ, thủy cương

Thông thay các phép lạ dường

Hoạn nạn lánh khỏi, giặc loàn cũng yên

Thì anh lĩnh lấy về liền

Ắt sau dương thế có phen cần dùng.

Căn do sau trước vừa xong

Nay đâu đã tới mé sông giang hà.

Giang thần nghe nói gần xa

Kíp truyền sĩ tốt đều ra đón về.

Trên sông sóng vỗ bốn bề

Dưới sông cá nước chỉnh tề đón đưa.

Giang thần đứng lại, quì thưa:

Lạy mời điện hạ vào tòa khi nay

Vội vàng mở tiệc yến diên

Tiêu thiều nhã nhạc vang rền vui thay!

Còn đương yến ẩm sum vầy

Bấy giờ thái tử tỏ bày cùng Sanh:

Anh em ta lại Thủy đình

Để cho Vương phụ tỏ tình một khi.

Hai người từ tạ ra đi

Giang thần tiễn biệt đưa về đỗi xa.

Lại truyền khắp hết giang hà.

Muôn loài thủy tộc phải ra lạy người.

Truyền ra chưa kịp dứt lời

Côn thời đến trước, Kình thời theo sau.

Cá Lăng cá Vược theo hầu

Nhởn nhơ là lượt mọi màu khoe tươi.

Cá Chày cá Chép đua chơi

Cá Nghê cúi mặt, cá Voi nghiêng mình. (1000)

Cá (Trung-) Vàng cá Bạc (-má) tốt lành

Tôm He, cá Mực tranh hành ngược xuôi.

Mảng xem cả nước vầy vui

Thoắt đà trông thấy đền đài tòa chương.

Truyền cho cá lại hà giang

Anh em bước xuống thủy vương điện tiền

Nhủ Sanh: Tạm đứng cung bên

Để em vào tấu sẽ liền tiếp nghinh

Nhủ thôi bước xuống đan đình

Quan quân trông thấy sự tình lạ ghê!

Trở vào tâu dộng vua hay

Thủy vương nghe biết ngày rày vui sao.

Vội vàng bước xuống long lâu

Ôm con mừng tủi trước sau than rằng:

Từ ngày con tếch dặm băng

Bị yêu cầm hãm, cha hằng cử binh;

Nhiều phen hóa trận lôi đình

Ai ngờ phép tắc yêu tinh cũng tài!

Năm ngày ai chẳng hơn ai

Sa cơ nên phải thu lai hồi thành

Thương con, chua xót sự tình

Biết rằng sinh tử, tử sinh dường nào.

Nay về, cơn cớ bởi sao?

Thì con kể hết tiêu hao cha tường

Hoàng bèn tâu hết dọc ngang:

Có người trung giới tên chàng: Thạch Sanh;

Đã nên phép tắc oai linh

Khâm sai xuống chém yêu tinh cứu người

Cứu xong công chúa lên rồi

Xà tinh chàng lại một hồi phanh thây.

Phá tan động phủ khi nay

Dạo tìm khắp cả đông tây mọi vùng.

Giương cung bắn phá cũi đồng

Vậy nên con mới thoát vòng gian nan.

Chàng đòi trở lại dương gian

Nhưng con lại cứ đặt chàng về đây.

Hãy còn đứng đợi hiên tây

Dám xin vương phụ truyền nay cho vào

Nghe lời con nói tiêu hao

Triều thiên mũ đội, cẩm bào mặc ra;

Tiếp nghênh họ Thạch vào tòa

Lệnh truyền yến ẩm xướng ca tức thì.

Phán rằng: Chàng thực uy nghi

Đáng tài trị quốc, đáng vì minh quân

Trẫm ban trăm lạng kim ngân

Gọi là lễ mọn đền ân tấm lòng.

Sanh rằng: Cảm tạ cửu trùng

Dù rằng ban thưởng tôi không dám rày

Vả, tôi chút phận thơ ngây

Vì vua nên phải trừ rày yêu tinh. (1050)

Tôi cùng hoàng tử giao tình.

Giúp nhau một chút, công trình là bao.

Dù người thương kẻ công lao

Xin cho một phép hồi trào dương gian

Vua nghe lời nói có doan

Hỏi rang: Cha mẹ quê nhang là gì?

Ở trên dương thế làm chi?

Thụ hà tước lộc chức gì cư quan

Nghe thôi quì trước bệ đan

Tâu vua kể hết đoạn tràng khúc nhôi:

Cội đa chốn ấy quê tôi

Mẹ cha sớm đã chầu trời một khi

Rừng mai sớm lại tối đi

Bóng đa nghỉ mát vậy thì hôm mai.

Ngự tiền nghe tỏ đầu đuôi:

Thế thì chẳng ở thủy đài cùng ta.

Nghe lời, chàng mới tâu qua:

Mẹ cha tôi sớm đã qua mất rồi.

Anh em chẳng có một ai

Họ hàng thân thích trong ngoài cũng không.

Nếu tôi vẹn thửa chữ trung

Ắt bên chữ hiếu bỏ không sao đành.

Bây giờ tiếc lộc tham danh

Chữ tu thân ấy đã đành đơn sai.

Vua nghe trạng nói hết lời;

Thế thì trạng hãy ở chơi vài ngày;

Cùng con trẫm được vui vầy

Nếu không lòng trẫm nhớ thay muôn phần

Hoàng nghe cha phán sự nhân

Bảo Sanh: Hãy ở vài tuần khi nay;

Phả phê rồi sẽ phân tay

Nếu không vương phụ người nay buồn rầu.

Thạch Sanh nghe nói gót đầu:

Vậy cho tôi tạm ra sau chơi bời

Hoàng nghe thực ý vâng lời

Dám xin dạo hết trong ngoài năm cung.

Thủy tề nghe nói mừng lòng

Tức thì hạ bút chiếu rồng cho đi.

Lại truyền nội thị một khi

Đào tiên một quả cho đi ăn đường.

Nhủ rằng: Đi phải vội vàng

Rồi về kéo lại mắc nàn như xưa.

Vâng lời dạy bảo bấy giờ

Anh em từ tạ bước ra đi liền.

Xe loan giong ruổi đường liền

Quan quân tiếp đón hai bên hầu kề.

Mảng xem lối nọ đường kia

Ai ngờ lạc đến thành trì yêu tinh.

Hồ tinh giống nó uy linh

Vốn là chín mắt, lập đình ở đây. (1100)
Thấy hai người, nó vui thay

Hóa làm mỹ nữ ngày rày đứng trông;

Mày ngài, mắt phượng, lưng ong

Chào hai quân tử thong dong chơi bời.

Thiếp nay là phận nữ hài

Mẹ cha bức bách ép nài nhân duyên;

Cho nên thiếp phải băng miền

Hay đâu trời định lương duyên vậy thì

Hoàng rằng: Quê quán tên chi

Chẳng hay tên họ là gì cho hay?

Sanh rang: Chẳng phải người ngay.

Nó, loài yêu quái hiện rày trêu em!

Yêu tinh biết ý khôn kiên

Hóa ra chín mắt đứng nhìn trơ trơ.

Hoàng bèn trông rõ bấy giờ

Tứ chi ngũ tạng đều là sởn ghê!

Hồ tinh xông đột tứ bề

Bước lên toan bắt vậy thì cả hai.

Sanh bèn bước xuống ra oai

Đao thần chuyển lực ra tài một khi.

Ào ào xông đột tứ vi

Giương cung bắn nó, nó thì thu tên.

Sanh xem thấy sự kỳ nhiên

Búa đồng kíp bổ, đấu quyền ra tay.

Hồ tinh nó chẳng sợ rày.

Cùng chàng giao chiến cả ngày khôn nao

Sanh càng ra sức anh hào

Hồ tinh lướt thẳng xông vào mới ghê!

Sanh bèn niệm chú tức thì

Cung vàng tên lắp tức thì ra tay.

Hồ tinh bước sấn đến ngay

Tràn ngang bèn ẵm ngang rày Thạch Sanh

Vội vàng hóa phép hiển linh

Hỏa hào đốt cháy yêu tinh bấy giờ.

Hồ tinh biết trước liền che

Dập ngay lửa tắt bấy giờ mới xong:

Sanh bèn niệm chú thinh không

Hóa ra đỉnh núi bao vòng xung quanh.

Làm cho khủng khiếp yêu tinh

Sa cơ phải hiện nguyên hình hồ ly

Thạch Sanh rộng xá một khi

Bảo cho nó phải an bề tu thân.

Lên xe, kể hết sự nhân

Rằng: Hồ tinh thực phép thần dọc ngang.

Đấu cùng với nó tài thường

Tưởng rằng không phép chống đương được nào

Hoàng rằng: Vốn nó lung lao

Ở đây Ngũ vị ai nào dám qua!

Lập riêng cho nó một tòa

Chẳng ai dám đến gần mà trêu ngươi. (1150)

Bây giờ bắt được nó rồi

Thực là ơn ấy muôn đời ở anh.

Xe loan thoắt lại đăng trình

Phút đâu xe đã về thành Thủy vương.

Ngự tiền phán hỏi tỏ tường

Rằng: Con đi dạo ở phương nào rày?

Hoàng nghe đặt gối tâu bày:

Chúng con đi dạo thủa rày ngũ cung

Thạch Sanh thực đấng anh hùng

Tù oan thì giải, tù công thì hành

Khi về lại gặp Hồ tinh.

Từ xưa Ngũ vị đã kinh đến rày.

Chàng bèn hóa phép ra tay

Bây giờ mới ruổi xe mây về chầu.

Thủy vương nghe rõ trước sau

Sắc phong quốc trạng, chức đầu quận công.

Chàng bèn lĩnh lấy chiếu rồng

Quì tâu, kể hết sự lòng vân vi:

Tâu rằng kỵ nhật đến kỳ

Tôi xin trở lại nay thì dương gian

Nghe lời chàng tỏ nguồn cơn:

Lấy chi báo đáp đền ơn bây giờ?

Hoàng rằng: Muôn đội ơn xưa

Cứu con thoát khỏi sự cơ vận nàn

Muốn lưu tình nghĩa trả ân

Xin cha cho một cái đàn là xong

Vua rằng: Sự ấy tùy lòng

Con nên theo tiễn quận công lên đường.

Lấy đàn đưa trạng hồi hương

Châu phê tức khắc dẫn đường trạng lên.

Thạch Sanh bái tạ điện tiền

Lĩnh đàn, theo nước thẳng miền dương gian.

Tới nơi công việc vừa an

Hoàng từ Trạng, mới đôi đàng biệt ly:

Ngày nay anh ở, em về

Tấm lòng ân ái mọi bề nhớ thương

Sanh rang: Xin chớ ngại ngùng

Mặt tuy xa cách, nhưng lòng không xa.

Anh em tình nghĩa mặn mà

Non sông dời đổi dám là vội quên.

Thôi em hãy trở lại đền

Xin đừng thương nhớ kém yên mình vàng

Hoàng nghe vâng lĩnh ý chàng.

Kíp truyền Hà-bá đưa chàng trạng lên.

Chia tay nam bắc băng miền

Tạm cho Hà-bá lĩnh quyền binh cơ

Phép thần rẽ nước bấy giờ

Thạch Sanh khi ấy lên bờ một khi.

Lại về chốn cũ như y

Đêm ngày luyện tập tinh vi phép thần. (1200)

Cội đa có nghĩa ân cần

Từ ngày chàng vắng muôn phần ủ ê.

Ngày nay lại thấy chàng về

Lá xanh, hoa thắm đề huề lại tươi.

Mới hay cảnh cũng tùy người

Cỏ cây còn thế luống người tri năng

Nỗi nàng công chúa bàng hoàng

Sự mình chẳng có nói rằng cùng ai.

Vua cha thở vắn thở dài

Thương con bỏ vắng đền đài chẳng ra;

Hai hàng lệ ngọc nhỏ sa

Khôn phương phép nhiệm, khôn hòa bùa linh

Lý Thông quì tấu phân minh:

Từ tôi phụng chiếu triều đình vua phê

Tìm nàng công chúa đem về

Yêu tinh chém giết đã ghê kinh hoàng.

Tôi đà lấp mất cửa hang

Vậy xin trở lại đền vàng tâu qua

Nghe lời Thông nói căn do

Vua bên phán bảo triều đô tức thì .

Phong làm quốc tế (rể) triều nghi

Gả nàng công chúa nhường vì quốc gia

Chờ nàng công chúa nói ra.

Bấy giờ thì sẽ giao hòa hợp duyên

Vâng lời bái tạ điện tiền

Về cung chàng mới khấn nguyền hôm mai.

Lầm rầm: Lạy chín phương trời

Lạy mười phương phật độ tôi an hòa.

Cho nàng công chúa nói ra

Thì tôi bái tạ ba tòa Hoàng thiên

Trong thì vua Viện khấn nguyền

Tăng ni niệm phật dưới đền đã vang;

Ngoài thì họ Lý lập đàn

Đêm ngày khấn nguyện đèn nhang chẳng rời.

Hành phù chư tướng bời bời

Pháp sư, phù thuỷ đánh tươi ba đồng

Truyền cho đủ một tháng ròng

Đồng kia chẳng ngã trong lòng sợ thay!

Cháy đồng lại để mê thầy

Gót chân chín dạn, bàn tay tơi bời.

Hô binh, hô tướng hết hơi

Trầu thời bỏ mốc, cau thời bỏ meo;

Chuối khô, oản rắn, chè thiu

Mõ rìu đã dập, cảnh tiu cũng rè!

Đạo tràng mỏi mệt chán chê

Thầy cùng quan tướng ủ ê đoạn tràng!

Bao nhiêu thần tướng mọi phương.

Cùng thời tức khắc mọi đường phá tan.

Lý Thông vào điện phàn nàn.

Quì quì bái bái vội vàng một khi. (1250)

Thiết riêng lập lại một vì

Khấn chư tổ khảo cùng thì ông cha;

Trong ngoài tiên tổ những là

Đất trời phù hộ nàng hòa nói ngay:

Thì tôi trả lễ bằng nay:

Lợn thì chín chục, trâu rày sáu mươi.

Khôn thiêng khấn phật, vái trời

Thơm danh để đức muôn đời về sau.

Đem ngày hương lửa dài lâu

Xôn xao khấn nguyện đã hầu ba trăng!

Nàng thì chẳng nói chẳng rằng

Miệng hoa âm ỉ chẳng hằng nói chi.

Viện vương mặt ủ mày ê

Thương con chua xót, mồm thì hôi tanh.

Này đoạn trong miếu yêu tinh

Đền đài phá tán, bùa linh yểm trừ

Ngẩn ngơ ở bãi ở bờ

Cơ hàn đói khát thực là khốn thay!

Ngày ngày thơ thẩn ăn mày

Đêm thì ăn trộm của rày thôn dân;

Bắt gà, bắt chó kiếm ăn

Làm cho hủy hoại thôn dân ngày ngày.

Mãng xà hồn cũng ghê thay!

Khốn cùng ăn những thủa nay ngô đồng.

Cùng nhau ăn trộm làm xong

Bắt gà bắt chó khắp vùng thôn dân.

Làm cho chó cắn ầm ầm

Thôn dân xơ xác nhiều phần khốn thay!

Một đêm thanh vắng gió mây.

Xà tinh bèn mới gặp rày Trăn tinh;

Cùng nhau mới hỏi sự tình:

Chẳng hay sở ngụ quê thành đâu ta?

Làm sao ngao ngán xót xa

Thì anh nói hết thực thà ta hay

Nghe lời Trăn mới trình bày:

Quê tôi thời ở ngày rày Miếu sơn (?);

Có lầu có các cung chương

Bạc vàng cũng đủ mọi đường hẳn hoi.

Mỗi năm phải nộp một người.

Tháng ngày no đủ vui chơi bảo đình

Hay đâu gặp đứa anh linh

Nó bèn đấu trận tung hoành với tôi

Phép mầu nó thực không hai

Vậy nên tôi phải lạc loài đến đây

Nói thôi mới hỏi rằng nay:

Thế thì quê quán anh rày ở đâu?

Nhân sao xin nói gót đầu

Thì anh tỏ bảo tôi hầu được hay.

Xà tinh mới nói khi nay:

Quê tôi chính thực ở rày Động-sơn (?) (1300)

Thiên thành cao rộng một hang

Ra vào đài, các, cung chương bời bời.

Dạo tìm thiên hạ khắp nơi

Tìm người mà bắt được thời khiếp uy.

Bị thằng mặt đỏ tài kỳ

Mày xanh biêng biếc nó thì đánh tôi.

Vậy nên thân phải lạc loài

Bắt gà bắt chó rông rài cho qua.

Nghe lời Trăn cũng nói ra:

Ấy tháng ngày trước nó đà đánh tôi.

Bây giờ thực đã rõ mười

Đinh ninh hai mặt một lời tri chu

Âu là ta quyết trả thù

Gieo oan cho nó để vua bắt rầy.

Xà tinh mới hỏi khi nay:

Vậy thì tên tuổi nó rày là chi?

Chẳng hay nó ở quê gì?

Trả thù ta biết lấy chi báo cùng?

Trăn rằng: Anh chớ ngại ngùng

Để tôi liệu kế vân mòng cho hay.

Tên nó là Thạch Sanh nay

Cửa nhà chẳng có ở rày bóng đa.

Nó thì không mẹ không cha

Anh em chẳng có, chẳng hòa vật chi

Việc làm nào có khó gì

Biến vào kho nội trộm thì của vua.

Chạy ra rồi lại chạy vô

Để quân canh biết tri hô ngày rày

Xà tinh khen: Trí giỏi thay!

Mưu kia Gia Cát, trí nay Phượng Sồ

Hai hồn khi ấy vào kho

Cùng nhau lấy hết cả đồ kim ngân.

Trở đi, trở lại tần ngần

Cho quân canh biết dời chân ra ngoài;

Gốc cây, trông thấy nằm hoài

Bảo nhau bắt lấy nó thời chẳng sai.

Thạch Sanh mới hỏi một hai

Thưa rằng: Các chú bắt ai vậy mà?

Bảo rằng: Sao dám vào tòa

Bạc vàng trộm lấy vậy mà trốn đây?

Sanh rằng: Việc ấy lạ thay!

Thế mà các chú bắt rày làm chi?

Bảo tôi, tôi sẽ theo đi

Phỏng như trộm cắp vậy thì cỏ chăng?

Quân rằng: Này bạc, này vàng

Mày còn biến trá nói năng chi rày?

Sanh rằng: Như vậy oan thay!

Vốn tôi vẫn ở xưa nay thật thà.

Việc này thôi hẳn oan ta

Chịu gông, khi ấy về tòa Viện vương. (1350)

Bằng này của cải bạc vàng

Quân vào thưa hết mọi đàng được hay:

Canh ba đường thuở khuya rày

Thấy thằng mặt đỏ, xanh mày vào kho;

Trộm toàn vàng bạc đủ no

Chúng tôi bắt được đem vô nộp trình

Thông nghe hết tỏ chân tình

Chắc rằng hẳn chú Thạch Sanh đó rày.

Nhân sao vào được mới hay

Khen cho phép tắc thằng này cũng ghê!

Dạy đem giam Ngục Lại lê

Canh cho nghiêm mật chớ hề hở hang.

Vâng lời Thông dạy, liền giam

Đêm ngày tra khảo, nỗi chàng mà thương!

Ngục quan thét mắng đã vang

Nào là cha mẹ, quê hương chốn nào?

Truyền đem giam lại cho tao.

Tấn tra mới hỏi rằng: Nào tiền canh?

Sanh rằng: Ta có một mình

Quê hương thì ở Cao-bình, đường xa.

Thuở nay vốn ở cội đa

Mẹ cha chẳng có, cửa nhà cũng không.

Tiền thì chẳng có một đồng

Đêm ngày kiếm củi làm cùng kiếm ăn.

Ví bằng có nói dối chăng

Này dao, này búa, này rằng cung tên;

Này là cái đàn tam huyền

Lấy chi thì lấy nhưng tiền thì không

Sai quân tước lấy cái cung

Ba đời nhà nó tham cùng hơn ai!

Mó vào thì rụng rời tay!

Dẫu mà muốn lấy khó nay được toàn!

Ngục quan nghe nói mừng rơn.

Lấy dao, lấy búa, lấy đàn vân vi.

Vừa thò tay mó một khi

Ai ngờ một lũ đều thì ngã ra!

Ngục quan bèn giận những là

Bước vào đỡ lấy thấy lòa con ngươi

Quan quân thấy sự lạ đời

Bước vào tâu hết mọi lời quì thưa.

Thông rằng: Bay cứ canh giờ

Để tao sớ tấu vậy mà giết đi.

Vâng lời Thông nói một khi

Về nhà mới bảo: vậy thì nghiêm canh

Lý Thông ngồi nghĩ một mình:

Nếu mà tâu, sợ sự mình tỏ ra.

Chẳng bằng khâm mệnh quốc gia

Chờ ba ngày nữa đem ra xử tù

Sanh từ đến ở ngục u

Trong lòng cũng chẳng giận thù cùng ai. (1400)
Nhân khi vắng vẻ thảnh thơi

Chàng bèn mới hỏi rằng ai lạ lùng?

Quân rằng: Quốc tế quận công

Chính danh tên gọi Lý Thông thực người.

Sanh nghe quan nói đầu đuôi.

Biết rằng Thông thực là người bất nhân!

Biết mà lòng chẳng oán hờn

Mặc ai vô nghĩa, bất nhân cũng đành.

Biết mà lòng chẳng phàn nàn

Lấy đàn mới gẩy nhặt khoan tính tình

Đàn kêu nghe tiếng nên xinh

Đàn kêu: tang tịch, tình tinh, tang tình

Đàn kêu: ai chém Trăn tinh

Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang?

Đàn kêu: ai chém Xà vương?

Đem nàng công chúa triều đường về đây?

Đàn kêu: hỡi Lý Thông mày!

Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân?

Đàn kêu: sao ở bất nhân?

Biết ăn quả lại quên ân người trồng!

Đàn kêu năn nỉ trong lòng

Tiếng ti tiếng trúc đều cùng như ru.

Đàn kêu: trách Hán quên Hồ

Trách Tần quên Sở, trách Ngô quên Tề

Đàn kêu thấu đến cung Phi

Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa!

Nàng đương rầu rĩ mặt hoa

Tiếng đàn lừng lẫy như là oán ân;

Khác nào như kẻ phùng xuân

Cười cười, nói nói trước sau trình bày:

Rằng: Đàn ai gẩy đâu đây?

Xin cha đòi lại ngày rày cho con!

Viện vương nghe nói, phút cười

Trong lòng hớn hở mừng vui nào tày.

Rằng: Từ phải nạn đến nay

Làm sao con cứ chẳng hay nói mà?

Làm cho chua xót lòng cha

Cầu trời khấn phật kể đà hết hơi.

Hay là nghe tiếng đàn người

Thì con phải nói khúc nhôi cha tường.

Nàng nghe bày tỏ mọi đường,

Rằng: Người đàn ấy thực chàng cứu con.

Dưới hang đã tỏ lòng son:

Rằng về loan phượng kết đôi duyên vàng.

Lý Thông bạc ác phụ phàng

Cửa hang lấp lại tìm đường tranh công.

Vì con lâu chẳng thấy chồng

Trong lòng luống những giận lòng câm đi.

Nghe lời con nói một khi

Lệnh truyền nội giám tức thì đòi ngay. (1450)

Lý Thông nghe tiếng đàn rày

Bảo: Đừng gẩy nữa mà mày chết tươi!

Sanh rằng: Nói cũng nực cười

Tôi buồn, tôi gẩy đàn chơi chút mà.

Dù rằng chết cũng nên ma, (1450)

Được về thượng giới cũng là qui tiên.

Thị thần bèn bước đến liền.

Trình Thông mới nói việc viên gẩy đàn:

Tôi xin lĩnh lại đền vàng

Vào chầu để đức thiên nhan ngài đòi.

Thông nghe, vâng lệnh cứ lời

Giao tù, bụng những thở dài mà lo.

Sanh từ bước đến triều đô

Lần qua cửa tía, bước vô đền vàng.

Còn xa, chưa tỏ mặt nàng

Đến gần, công chúa thấy chàng mừng vui:

Kể từ gắn bó kết đôi

Đến nay tôi những ngậm ngùi toan lo.

Lòng tôi trăm mối tơ vò

Nghĩ rằng xa cách Việt, Hồ đôi nơi.

Nhân sao anh được tái hồi

Sự tình xin tỏ khúc nhôi vân mòng?

Chàng đương nghĩ ngợi, nói cùng:

Hãy khoan, xin kể vân mòng cho hay.

Viện vương phán bảo niềm tây:

Chẳng hay quê quán chàng rày nơi nao?

Cửa nhà, cha mẹ thế nào?

Căn do tình tự làm sao phải bày

Xuân thu tuổi đã bao rày?

Tính danh vốn gọi tên này là chi?

Nghe lời Sanh mới tâu quì

Xin bày tình tự vân vi mọi lời:

Cao-bình chốn ấy quê tôi.

Mẹ cha nay đã chầu trời một khi.

Tên tôi xin kể vân vi:

Thạch Sanh tên đặt vậy thì chẳng sai.

Xuân thu tuổi mới mười hai.

Bóng đa chốn ấy hôm mai bạn cùng.

Ngày thì luyện tập đao cung

Cứ đi kiếm củi non Bồng hôm mai.

Lý Thông chàng mới gặp tôi.

Kết làm bằng hữu định lời đệ huynh.

Dặn tôi, chàng bảo đi canh

Chẳng là chàng phải nộp mình miếu trung

Trăn tinh mới gọi Lý Thông

Vậy nên tôi phải giao công nhọc lòng.

Tôi bèn chuyển lực uy hùng

Trăn tinh bị phải búa đồng chết ngay!

Đầu trăn cho gã khi nay

Mà gã nói dối vua rày vẫn nuôi! (1500)

Bảo tôi đi trốn một nơi

Chẳng ngờ, chàng nộp đan đài lấy công

Vua phong cho chức quận công

Thì tôi cũng chẳng oán lòng trách chi.

Oán ân cũng chả làm gì

Củi than lại cứ sớm khuya việc thường.

Chẳng ngờ công chúa tòa chương

Bị con yêu Mãng xà vương bắt rày.

Tôi liền trông thấy nó bay

Giương cung mới bắn nó rày ngã ra.

Gớm thay phép tắc yêu xà!

Bỏ tên lại cắp vượt hòa xuống hang.

Tôi theo thẳng đến cửa hang

Đã trông thấy nó đem nàng xuống ngay

Tôi bèn trở lại bằng nay

Hay đâu vua lại bắt rày Thông đi.

Tìm tôi, Thông mới tỉ tê, (?)

Ân cần một dạ, thề nghi nặng lời.

Thấy chàng nói thảm ngùi ngùi

Nghĩ mình cũng ở đất trời, đất vua;

Cho nên chẳng ngại công phu

Dặn dò sau trước, nhỏ to một lời:

Đưa nàng lên khỏi vừa rồi

Cửa hang chàng lấp, chẳng thời có thương

Tôi bèn chuyển lực uy dương

Phép làm biến hóa Xà vương bắt rày.

Trông lên đá đã lấp đầy

Giận mình bèn mới phá rày dưới hang.

Thấy chàng thái tử Long đường

Bị con yêu Mãng xà vương bắt rày.

Hãm trong cũi sắt khốn thay!

Giương cung, bèn bắn phá rày cũi ra.

Chàng bèn mời xuống thủy hà

Tâu cùng Thủy tế vua cha được tường.

Thủy tế cầm lại cung chương

Cho đi khám xét ngục trường các cung.

Ngục tù đông đã nên đông

Tù oan thì giải, tù công thì hành.

Trở về, lại gặp yêu tinh

Được nhờ pháp bảo tiên linh yểm trừ

Nên vua Thủy chiếu bấy giờ

Phong làm Quốc trạng thủy hà Long cung.

Cho đàn trả nghĩa, đền công

Đưa đường, rẽ nước, dương cung ra về.

Lên bờ từ đó một khi

Bóng đa chốn ấy vẫn nghề củi than.

Đêm ngày luyện tập cung tên

Quả không biết bạc, biết vàng là đâu!

Xin vua rộng xét đuôi đầu

Tha cho khỏi tội, dám hầu sai ngoa. (1550)

Ngự nghe khi ấy phán ra
Lệnh truyền cởi trói cho mà Thạch Sanh;
Liền một bước lại đan đình
Truyền làm yến đãi Thạch Sanh bấy giờ.
Tiệc đương yến ẩm say sưa
Châu phê hạ chiếu bấy giờ sắc phong
Ban cho hai chức quận công
Trừ yêu hai chức, thần thông hai quyền
Gả nàng công chúa hợp duyên
Phong làm Quốc tế cầm quyền quốc gia
Chàng vâng bái tạ vua cha
Tay cầm chiếu chỉ vào tòa một khi.
Viện vương phán bảo một khi:
Tội Lý Thông ấy mặc thì Thạch Sanh;
Để ngươi liệu định cho minh
Báo thù trả oán, sự tình bấy nay
Sanh nghe đặt gối tâu bày
Rằng: Xin rộng lượng vua nay xét cùng:
Nay chàng ăn ở khác lòng.
Máu tham quen giữ thói đồng dâm ô.
Làm chi đứa dại ngoan ngu
Xin tha cho nó về tù bản hương.
Vua rằng: Sự ấy mặc chàng
Giết tha cho bõ lòng vàng thời thôi.
Sanh từ nghe phán mọi lời
Đòi tù họ Lý đến nơi đan đình.
Sanh rằng: Khéo thực là anh!
Tội trời phụ nghĩa bạc tình chẳng oan.
Lý Thông thẹn mặt hổ han
Cúi đầu chẳng dám kêu van một lời.
Viện vương mắng: Lý Thông ôi!
Không Sanh, mày chết bỏ đời Miếu-sơn.
Làm sao phụ nghĩa vong ân.
Tranh công rồi lại ra phần bạc đen!
Ấy là phạm tội một phen
Công tìm công chúa mày liền lại tranh.
Ví? chàng ăn ở hẹp tình
Tội ngươi đã đáng tan tành thịt xương.
Tha cho trở lại quê hương.
Cũng may mà có lời chàng mới tha.
Thông nghe bái tạ bước ra
Quan quân sỉ hổ, người ta chê cười
Mẹ con bị nhục thương ôi!
Ngọc hoàng ngự phán kim giai tức thời.
Kíp sai ngũ bộ thiên lôi.
Đằng vân giá vũ đến nơi lạ dường.
Mẹ con về đến giữa đường
Thiên lôi ngũ bộ đánh nhường cả hai.
Cho hay những kẻ phi loài
Người dù không giết thì trời chẳng tha. (1600)
Triệu hồn hai mẹ con ra
Ngọc hoàng truyền chỉ đem ra tức thì.
Mấy lời phán tỏ một khi:
Mày trên dương thế ở thì chẳng hay.
Cùng người làm bạn không ngay.
Bắt mày hóa kiếp làm rày bọ hung.
Làm người bạo ngược hai lòng
Hành, tàng đã thấu công đồng sát tri.

Viện vương phán bảo triều nghi
Truyền làm sính lễ vậy thì hợp duyên.

Sanh bèn bái tạ điện tiền

Cùng nàng công chúa hợp duyên vui vầy;

Cầm quyền việc nước ra tay

Thăng quan, xá thuế, cùng rày tù tha.

Miếu-sơn lại lập một tòa

Thờ Trăn tinh đấy thực là anh linh.

Động-sơn lại lập một thành

Thờ Xà tinh đấy anh linh khác rày.

Đoạn thôi lại lập đàn chay

Tế thiên, Địa phủ cùng rày Thủy cung

Tạ từ diệu pháp tiên ông

Lại cùng táng lễ báo lòng mẹ cha.

Nghe thôi các nước truyền ra

Thông tin mới bảo nhau hòa một khi:

Cũng đòi con đức thượng vì

Con dòng chẳng lấy, lấy thì khố không.

Rủ nhau phấn lữ binh nhung

Báo thù cho bõ chút lòng chê ta.

Nghe tin các nước gần xa

Nước nào nước ấy binh gia chập chùng.

Đi bộ: núi lở tan không.

Đi thủy: nước chảy khô sông, lạ dường!

Đầu binh còn ở nước Lương

Cuối binh còn hãy ở ngang nước Tề.

Quân triều trông thấy đã ghê

Phá năm cửa ải tức thì tan hoang!

Sớ về lâu với Viện vương

Triều đình nghe biết, kinh hoàng lắm thay!

Sai binh khiến tướng đi ngay

Đi bao nhiêu lại hết rày bấy nhiêu!

Viện vương hoảng hốt trăm chiều

Lệnh sai Quốc tế vào chầu một khi:

Phiền con gắng sức ra uy

Cử binh trợ lực phù trì khi nay.

Thạch Sanh đặt gối tâu bày:

Để cho các nước nó vây lấy thành,

Thì con sẽ liệu hành binh

Ắt là các nước sẽ xin lại hàng.

Vua rằng: Binh nó vô vàn

Bổ vây bốn mặt đôi đàng khó nên. (1650)

Sanh rằng: Để nó reo lên

Lo gì đánh nó mà phiền lòng vua.

Chư quân kéo đến reo hò

Gọi: Nào quốc tế triều đô đâu nào?

Không ra đối địch cùng tao

Hay là khiếp sợ ta nào có tha!

Viện vương nghe nói xót xa

Cung phi hoàng hậu trong tòa đều lo!

Bấy giờ công chúa nói vô

Bảo chàng sao chẳng toan lo đánh rày?

Chàng rằng: Nàng khéo nói bây

Nào ai có khiến lo thay cho người.

Nói thôi mỉm miệng liền cười.

Rằng: Nàng có muốn ra chơi xem rày?

Nàng rằng: Phận gái thơ ngây

Có gì mà dám xem rày việc binh.

Chàng rằng: Hãy cứ nghe anh

Cùng xem đánh giặc quyền hành thế kia.

Nàng nghe chàng nói một khi

Theo chàng xem đánh giặc thì làm sao.

Xe loan chàng thiếp ngự vào

Tay tiên bèn gẩy thanh tao cung đàn.

Đàn kêu: tích tịch tình tang

Tiếng ti, tiếng trúc cung đàn đua vui.

Đàn kêu hơn thiệt mọi lời

Nhân duyên phu phụ số trời đã xe.

Đàn kêu: ta dỗ thì nghe

Nên đem binh lại, hàng về chưng nay.

Đàn kêu, nghe thấy lạ thay!

Cùng nhau cá nước (hai vợ chồng), rồng mây phải thời.

Đàn kêu: chớ có lược lời

Trước là tổn tướng, sau thời hại binh.

Đàn kêu: thương kẻ hành chinh

Rằng: đi chiến trận tử sinh khôn lường;

Vợ con nhà vắng ngại dường

Khôn hay sinh tử chiến trường làm sao!

Đàn kêu: bay phải hàng tao

Đàn kêu nhủ bảo thấp cao sự thường…

Quân thần đây luận đó bàn:

Nhân tâm chẳng thuận sao bàn thuận qui?

Đàn kêu nhủ bảo vân vi

Hàng tao, tao lại cho về cựu bang.

Chư quân nghe tiếng đàn vang

Khác nào như nước cành dương tưới nhuần.

Đàn kêu thực nghĩa thực nhân

Thánh tha thánh thót, muôn phần giá cao.

Trận bày như động hỏa hào

Đàn như lửa cháy nước vào tan không!

Thực là nên đấng anh hùng

Tuốt gươm bước lại sân rồng khoan khoan. (1700)

Ầm ầm một đạo hào quang

Cung đàn dỗ bảo quân thường ngã ra.

Lại vâng chiếu chỉ quốc gia

Trong mười tám nước can qua về đầu.

Lệnh truyền các nước đâu đâu

Can qua tức khắc lai chầu một khi.

Sanh rằng: Sao chẳng đánh đi

Thuận thì đã thuận, ai thì tranh ai.

Ví dù chẳng có nghe lời

Cung này ta bắn trong ngoài cũng tan.

Phản (-nghịch) vương phục tội đền vàng

Đương cơn phản gián khôn bàn phải chăng.

Sanh rằng: Tội đã bằng non

Trăm khôn nghìn khéo, ai còn giận đâu.

Cùng ta nay đã hàng đầu

Thì cho trở lại, về hầu trị dân.

Vâng lời truyền bảo chư quân

Đưa nhau kéo đến trước sân tỏ tường:

Xin vua tạm cấp ít lương

Để cho các nước ăn đưòng về nay.

Sanh nghe đáp lại khi rày:

Lương ban mười tám hộc này ra cho.

Nguyễn Đạt (?) là tướng nước Ngô

Bảo nhau mới nói nhỏ to mọi lời:

Binh ta vô số là người

Sức ta ăn hết mỗi người một lương.

Bước về tấu bẩm cùng chàng

Rằng: binh hàng vạn, quân ngàn đông thay.

Lương ban mười tám hộc này

Lấy gì cho đủ quân nay ăn đường?

Tôi nay ăn một hộc lương

Người ban cho thế, ăn đường làm sao?

Sanh nghe mới nói thấp cao:

Chàng đừng chê vội, ta nào có nghe.

Nguyễn Đạt đáp lại một khi:

Ăn mà chẳng hết người thì chiết lương.

Sanh nghe mới phán tỏ tường:

Ta nay đánh cuộc cùng chàng một keo:

Ta thì, lương có một niêu

Đố ngươi ăn hết, nhường triều lại cho.

Như ngươi hết dạ hồ đồ, (?)

Thì ngươi đoan (cam kết) lại lời cho thật thà.

Nguyễn Đạt ngồi nghĩ nói ra:

Sức ăn ít kẻ được qua tôi rày.

Vẻ chi có một niêu này

Ăn mà chẳng hết buộc tay xưng thần.

Muôn năm lai cống triều tân

Bao nhiêu đồ số (bản đồ) trước sân nộp người.

Sanh nghe chàng nói khúc nhôi

Truyền thổi lập tức một nồi xem qua. (1750)

Nồi cơm Sanh mới đem ra

Phán đòi Nguyễn Đạt ngồi mà ăn đi.

Đạt liền ngồi xuống một khi

Dỡ ra bèn mới vậy thì ngồi ăn.

Nồi cơm có phép chi chăng?

Ăn hoài ăn hủy ba lưng lại đầy!

Ra công ăn hết khi nay

Cơm ăn thì đã no rày là no.

Sanh bèn bảo tướng nước Ngô:

Trong mười tám nước ăn hầu (hầu dễ) đã xong.

Nguyễn Đạt bái tạ Thạch công.

Đoạn rồi các nước ngoài trong đều vào.

Đua nhau kéo đến ào ào

Thấy nồi ai cũng ngán ngao làm vầy:

Binh ta vô số đông thay!

Một niêu ăn uống phỏng rày đủ sao?

Sanh rằng: Bay hãy bước vào

Ăn mà hết được thì tao thưởng tài.

Quân liền bước xuống ăn ngay

Lao xao một lũ ăn rày thực no.

Niêu cơm cũng chẳng hết cho

Bấy giờ ai cũng nhỏ to đều hàng.

Thạch Sanh trở lại đền vàng

Cầm tay công chúa thiếp chàng hồi cung.

Thạch Sanh vào tạ cửu trùng

Quì tâu tỏ nỗi giao công chiến trường:

Chư hầu nay đã đầu hàng

Không còn ngạo ngược chịu làm hầu vương.

Viện vương nghe nói vội vàng

Mừng vui bèn mới khen chàng Thạch Sanh:

Tài so Hạng Vũ (tướng đời Tần) Hán Minh (Khổng minh)

Anh hùng sửa trị một mình đã ghê!

Nay nhân các nước đều về

Tôn chàng thay mặt, nhường vì thiên nhan.

Thạch Sanh vâng lệnh đền vàng

Chàng bèn cùng với hầu vương đều vào.

Hầu vương nghe lệnh xôn xao

Long lanh áo mạo, hồng bào, cân đai.

Viện vương phán bảo trong ngoài

Cho chàng lĩnh ấn lên ngai bảo tòa.

Chàng vâng lệnh trước triều ca, (vua và các quan)

Khấu đầu chịu lấy vào tòa thiên nhan.

Đoạn thời lĩnh chiếu vua ban.

Hoàng hậu (Quỳnh Nga) đặng chiếu triều đường thủa nay.

Văn ban vũ bá sắp bày

Kim ngân ban tặng ngày rày thiếu ai.

Lại ban mười tám nước ngoài

Phong làm vương tước thay trời trị dân.

Đoạn thôi yến đãi triều tân

Phán cho các nước đem quân ra về. (1800)

Chư quân đâu đấy đều nghe

Muôn dân vạn họ theo nghề nông tang.

Nỗi nàng công chúa tòa vàng

Từ ngày lửa bén hơi hương thỏa tình.

Quế lan nay đã nảy cành

Thu đi, thu lại một ngành hóa ba.

Mới hay người ở thực thà
Trời kia chẳng phụ, ắt là thanh tao. (sướng)
Cứ trong tích cũ chép sao
Viện triều yên nối, Nam giao (nước Nam) vững vàng.
Bút hoa ghi chép tỏ tường
Truyện này thong thả thư đường mà xem.

THIỀN UYỂN TẬP ANH

Lê Mạnh Thát
Thiền Uyển Tập Anh
Soạn giả: Kim Sơn – Thiền phái Trúc Lâm
Thế Kỷ 14
(1337) Tựa sách: Thiền Uyển Tập Anh Năm
Soạn giả: Kim Sơn – Thiền phái Trúc Lâm 1337
Dịch giả: Lê Mạnh Thát (Dựa trên bản in năm 1715) 1976
Nhà xuất bản: Đại Học Vạn Hạnh – Saigon 1976, 1999
Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc 2001
Điều hợp: Lê Bắc – bacle@hotmail.com 2001 Mục Lục
Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh ………………………………………………………………………. 7
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục…………………………………………………………………………………. 10
Quyển Thượng ………………………………………………………………………………………………… 10
Dòng Pháp của Thiền Sư Vô Ngôn Thông……………………………………….. 10
1. THIỀN SƯ Vô Ngôn Thông (759 – 826)…………………………………………………………. 10
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người) ……………………………………………………………………………… 14
2. THIỀN SƯ Cảm Thành (? – 860)………………………………………………………………….. 14
Thế Hệ Thứ Hai (1 người) ……………………………………………………………………………….. 17
3. THIỀN SƯ Thiện Hội (? – 900)…………………………………………………………………….. 17
Thế Hệ Thứ Ba (1 người) ………………………………………………………………………………… 19
4. THIỀN SƯ Vân Phong (? – 956) (Một tên nữa là Chủ Phong) ……………………………… 19
Thế Hệ Thứ Tư (2 người, 1 người khuyết) …………………………………………………………… 21
5. Đại Sư Khuông Việt (933 – 1011) (Trước tên là Chân Lưu) ………………………………… 21
Thế Hệ Thứ Năm (2 người, khuyết 1)…………………………………………………………………. 26
6. THIỀN SƯ Đa Bảo……………………………………………………………………………………. 26
Thế Hệ Thứ Sáu (3 người, 1 người khuyết lục)……………………………………………………… 27
7. TRƯỞNG LÃO Định Hương (? – 1075)…………………………………………………………… 27
8. THIỀN SƯ Thiền Lão………………………………………………………………………………… 29
Thế Hệ Thứ Bảy (7 người, khuyết 1) ………………………………………………………………….. 30
9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 – 1090) ……………………………………………………………… 30
10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ…………………………………………………………………………………. 42
11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034)………………………………. 44
13. THIỀN SƯ Quảng Trí………………………………………………………………………………. 45
14. Lý Thái Tôn………………………………………………………………………………………….. 46
Thế Hệ Thứ Tám (6 người, thiếu 3 người) …………………………………………………………… 48
15. QUỐC SƯ Thông Biện (? – 1134)……………………………………………………………….. 48
16. Đại Sư Mãn Giác (1052 – 1096)…………………………………………………………………. 51
17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 – 1088)……………………………………………………………….. 53
Thế Hệ Thứ Chín (8 người, 3 người khuyết lục)…………………………………………………….. 55
18. THIỀN SƯ Đạo Huệ (? – 1073) ………………………………………………………………….. 55
19. THIỀN SƯ Biện tài …………………………………………………………………………………. 56
20. THIỀN SƯ Bảo Giám (? – 1173)…………………………………………………………………. 57
21. THIỀN SƯ Không Lộ ( ? – 1119) ………………………………………………………………… 58
22. THIỀN SƯ Bản Tịnh (1100 – 1176) …………………………………………………………….. 61Thế Hệ Thứ Mười (Gồm 12 người, 2 người khuyết lục) …………………………………………… 63
23. THIỀN SƯ Minh Trí (? – 1196) (Trước tên Thiền Trí) ……………………………………… 63
24. THIỀN SƯ Tín Học (? – 1200)……………………………………………………………………. 64
25. THIỀN SƯ Tịnh Không (1091 – 1170)………………………………………………………….. 65
26. THIỀN SƯ Đại Xả (1120 – 1180)………………………………………………………………… 67
27. THIỀN SƯ Tịnh Lực (1112 – 1175)……………………………………………………………… 70
28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? – 1190) ……………………………………………………………………. 71
29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 – 1165)…………………………………………………….. 73
30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? – 1207)………………………………………………………………….. 74
31. THIỀN SƯ Giác Hải ………………………………………………………………………………… 78
32. THIỀN SƯ Nguyện Học (?- 1181) ………………………………………………………………. 79
Thế Hệ Thứ Mười Một (9 người, 8 người khuyết lục)………………………………………………. 82
33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 – 1190)……………………………………………………… 82
Thế Hệ Thứ Mười Hai (Có 7 người, 6 người khuyết lục)…………………………………………… 84
23. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? – 1203) …………………………………………………………… 84
Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 người, 3 người khuyết lục)……………………………………………. 87
35. CƯ SĨ Thông Sư (? – 1228)………………………………………………………………………. 87
36. THIỀN SƯ Thần Nghi (? – 1216)………………………………………………………………… 88
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (Gồm 5 người, 3 người khuyết lục)……………………………………….. 90
37. THIỀN SƯ Tức Lự (Một tên là Tĩnh Lự)………………………………………………………. 90
38. THIỀN SƯ Huyền Quang (? – 1221)……………………………………………………………. 90
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (Có 7 người, ở đây chỉ có 1 người) ………………………………………. 93
39. CƯ SĨ Ứng Vương. …………………………………………………………………………………. 93
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục…………………………………………………………………………………. 94
Quyển Hạ……………………………………………………………………………………………………….. 94
Dòng Pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi – Chùa Pháp Vân………………………. 94
40. THIỀN SƯ Tỳ Ni Đa Lưu Chi……………………………………………………………………… 94
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người) ……………………………………………………………………………… 98
41. THIỀN SƯ Pháp Hiền (? – 626)………………………………………………………………….. 98
Thế Hệ Thứ Hai (1 người) ……………………………………………………………………………… 100
Thế Hệ Thứ Ba (1 người) ………………………………………………………………………………. 100
Thế Hệ Thứ Tư (1 người)………………………………………………………………………………. 100
42. THIỀN SƯ Thanh Biện (? – 686) ………………………………………………………………. 100
Thế Hệ Thứ Năm (1 người khuyết lục) ……………………………………………………………… 102
Thế Hệ Thứ Sáu (1 người khuyết lục)……………………………………………………………….. 102Thế Hệ Thứ Bảy (1 người khuyết lục)……………………………………………………………….. 102
Thế Hệ Thứ Tám (3 người, 2 người khuyết lục)…………………………………………………… 102
43. THIỀN SƯ Định Không (? – 808)………………………………………………………………. 102
Thế Hệ Thứ Chín (3 người, đều khuyết lục) ……………………………………………………….. 104
Thế Hệ Thứ Mười (4 người, 1 người khuyết lục)………………………………………………….. 104
44. TRƯỞNG LÃO La Quý……………………………………………………………………………. 104
45. THIỀN SƯ Pháp Thuận (925-990)…………………………………………………………….. 105
46. THIỀN SƯ Ma Ha (Tên cũ là Ma Ha Ma Gia)………………………………………………. 107
Thế Hệ Thứ Mười Một (4 người, 2 người khuyết lục)…………………………………………….. 109
47. THIỀN ÔNG Đạo Giả (902-979)……………………………………………………………….. 109
48. THIỀN SƯ Sùng Phạm (1004-1087)………………………………………………………….. 109
Thế Hệ Thứ Mười Hai (7 người, 2 người khuyết lục) …………………………………………….. 110
49. THIỀN SƯ Vạn Hạnh (?-1025)…………………………………………………………………. 110
50. THIỀN SƯ Định Huệ……………………………………………………………………………… 116
51. THIỀN SƯ Đạo Hạnh (? – 1117) ………………………………………………………………. 116
52. THIỀN SƯ Trì Bát (1049-1117)………………………………………………………………… 123
53. THIỀN SƯ Thuần Chân (? – 1105) ……………………………………………………………. 124
Thế Hệ Thứ Mười Ba (6 người, 2 người khuyết lục) ……………………………………………… 126
54. TĂNG THỐNG Huệ Sinh (? – 1064) …………………………………………………………… 126
55. THIỀN SƯ Thiền Nham (1093-1163)…………………………………………………………. 129
56. QUỐC SƯ Minh Không (1066-1141)………………………………………………………….. 129
57. THIỀN SƯ Bản Tịch (? – 1140) (Trước tên là Pháp Mật)…………………………………. 131
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (4 người, 3 người khuyết lục) ……………………………………………. 133
58. TĂNG THỐNG Khánh Hỷ (1067 – 1142)……………………………………………………… 133
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (3 người, 1 người khuyết lục)……………………………………………. 136
59. THIỀN SƯ Giới Không……………………………………………………………………………. 136
60. THIỀN SƯ Pháp Dung (? – 1174)……………………………………………………………… 137
Thế Hệ Thứ Mười Sáu (3 người) ……………………………………………………………………… 139
61. THIỀN SƯ Trí Nhàn (Một tên là Tĩnh Lự)……………………………………………………. 139
62. THIỀN SƯ Chân Không (1046-1100)…………………………………………………………. 141
63. THIỀN SƯ Đạo Lâm (? – 1203)………………………………………………………………… 143
Thế Hệ Thứ Mười Bảy (có 4 người, 1 người khuyết lục) ………………………………………… 145
64. THIỀN SƯ Diệu Nhân (1042-1113) …………………………………………………………… 145
65. THIỀN SƯ Viên Học (1073 -1136) ……………………………………………………………. 146
66. THIỀN SƯ Tịnh Thiền (1121 – 1193)…………………………………………………………. 147
Thế Hệ Thứ Mười Tám (có 2 người, 1 người khuyết lục) ……………………………………….. 14867. QUỐC SƯ Viên Thông (1080 – 1151) ……………………………………………………….. 148
Thế Hệ Thứ Mười Chín – Hai Mươi (1 người khuyết lục)…………………………………………. 151
68. THIỀN SƯ Y Sơn (? – 1216) ……………………………………………………………………. 151
Hệ Phái của Thiền Sư Thảo Đường…………………………………………………. 153
69. THIỀN SƯ Thảo Đường …………………………………………………………………………. 153
Thế Hệ Thứ Nhất (3 người) ……………………………………………………………………………. 153
70. HOÀNG ĐẾ Lý Thánh Tôn………………………………………………………………………. 153
71. THIỀN SƯ Bát Nhã……………………………………………………………………………….. 153
72. CƯ SĨ Ngộ Xá ……………………………………………………………………………………… 153
Thế Hệ Thứ Hai (4 người) ……………………………………………………………………………… 154
73. THAM CHÁNH Ngô Ích ………………………………………………………………………….. 154
74. THIỀN SƯ Hoàng Minh………………………………………………………………………….. 154
75. THIỀN SƯ Không Lộ……………………………………………………………………………… 154
76. THIỀN SƯ Định Giác {Tức Giác Hải} …………………………………………………………. 154
Thế Hệ Thứ Ba (4 người) ………………………………………………………………………………. 155
77. THÁI PHÓ Đỗ Vũ ………………………………………………………………………………… 155
78. THIỀN SƯ Phạm Âm …………………………………………………………………………….. 155
79. HOÀNG ĐẾ Lý Anh Tôn …………………………………………………………………………. 155
80. THIỀN SƯ Đỗ Đô …………………………………………………………………………………. 155
Thế Hệ Thứ Tư (4 người)………………………………………………………………………………. 155
81. THIỀN SƯ Trương Tam Tạng ………………………………………………………………….. 155
82. THIỀN SƯ Chân Huyền………………………………………………………………………….. 156
83. THÁI PHÓ Đỗ Thường…………………………………………………………………………… 156
Thế Hệ Thứ Năm (4 người) ……………………………………………………………………………. 156
84. THIỀN SƯ Hải Tịnh ………………………………………………………………………………. 156
85. HOÀNG ĐẾ Lý Cao ……………………………………………………………………………….. 156
86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP Nguyễn Thức ……………………………………………………… 156
87. Phụng Ngự Phạm Đẳng …………………………………………………………………………. 1567 Thiền Uyển Tập Anh
Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh
[1a1]
Thiền uyển tập anh, sao dùng nghĩa đó? Xin thưa, dùng sự anh tú của nó làm nghĩa vậy. Sao
thế?
Người theo Thiền tôn cố nhiên là nhiều, nhưng kẻ biết lẽ huyền thật ra lại hiếm: chính như một
con phụng giữa bầy gà, một cây lan trong đám cỏ. Nếu chẳng phải phú bẩm anh dị, tri kiến siêu quần,
làm sao thấu được ý chí huyền vi, để có thể làm lãnh tụ cho kẻ hậu học và mô thức cho người đời sau?
Đáng tin thay! Trong vườn Thiền, người anh kỳ là hiếm, nhân đấy trích lấy những bậc danh
công, thạc đức để làm tỏ sự tổ thuật của Thiền học. Nên cái nghĩa của Tập anh chính do đó mà có tên.
Kể từ hỗn độn bắt đầu, bấy giờ có Phật Uy Âm xuất thế1
, sáng làm tị tổ của Thiền tôn. Nhưng
thời ấy, tục còn thuần hậu, người nhiều chất phác, kinh giáo ở tại hư không [1b1], không cần nói ra để
làm máy hóa độ. Kẻ nào lấy ma làm Phật kẻ đó trá ngụy ngày càng sinh, gian dâm ngày càng dấy,
nghiệp nợ kết đầy, chướng tội thêm thẳm. Nếu chẳng dùng đến thuyền từ cứu vớt, thì chẳng thể được.
Cho nên cha cả Thích Ca xuất hiện ở Ta Bà2
, vì họ mà nói ra kinh kệ, dạy dỗ chúng sanh, chín
kiếp vượt tu3
, công thành quả mãn. Do thế, Phật giáo đại hành, Thiền tôn tiếp nối, như gió thổi qua sáu
nẻo4
, để đem mát lành, tuyết rơi trên ba đường5 để dẹp nóng dữ. Bí quyết thành Phật làm Tổ, từ đó mới
mở được mối manh.
Nước Đại Việt ta, lời Phật thấm nhuần khắp cả, mưa pháp sóng gội nhiều nơi, cắt tóc xuất gia,
chứng ấn ngộ không thì cũng có người. Về hành tích, lòng Thiền họ sáng như mặt trời, gương đạo trong
như giá băng. Có người ra đời để giúp nước an dân, có kẻ nhập thế để đỡ ngã, vớt chìm. Có người sớm
ngộ ấn tâm, chống gậy làm thần diệu cơ mầu của Đạt Ma6 [2a1]. Có kẻ muộn vào cửa Thiền, chú sen7
khiến hiển hiện bí quyết của Đồ Trừng. Còn những vị, chim rừng chuộng niềm đức, nghe kinh trong cửa,
dã thú mến lòng nhân, cửa bếp dâng cơm. Đó là lòng thành cảm cách đã hiệp, chỗ học thần hóa được

1 Uy Âm Phật: tức Đức Phật đầu tiên của thế giới Không kiếp, trước đó không có một Đức Phật nào hết. Cho nên tên Đức Phật này
được dùng để chỉ cho ranh giới giữa giai đoạn lúc chưa có sự phân biệt của chúng sanh và giai đoạn sau đó khi đã có sự phân
biệt. Xem Pháp hoa thông nghĩa 6 và Tổ đình sự uyển 5.
2 Ta bà: Phạn: Sahà, tên thế giới của chúng ta, được định nghĩa là thế giới “chịu nhận ba thứ độc (tức tham, sân, si) và các loại
phiền não”. Xem Bi hoa kinh 5 tờ 119c 22-23.
3 Cửu kiếp lịch tu: Điển tích Phật Thích Ca, nhờ ngợi ca Đức Phật Phất Sa bằng bài tán:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỉ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
trong khi đang làm một vị Bồ Tát trên đường đi tới giác ngộ, mà đã có thể thâu ngắn thời gian tu hành của mình bằng cách vượt
được chín kiếp, để trở thành Phật Thích Ca, trong khi Di Lặc còn phải đợi chín kiếp nữa. Xem Đại trí độ luận 25 tờ 87b27.
4 Lục đạo: cũng gọi là Lục thú, tức chỉ cho sáu con đường sống sáu lối sống, đây là con đường sống của thiên thần, của con người,
của phi thiên, của súc sanh, của quỉ đói và của địa ngục.
5 Tam đồ: tức ba con đường, đấy là: 1. con đường lửa chỉ cho chỗ lửa dữ của địa ngục, 2. Con đường máu chỉ cho thế giới ăn nuốt
lấy sinh mạng của nhau tức loài súc sanh và 3. Con đường đao kiếm chỉ cho thế giới đấu tranh bức hiếp lẫn nhau tức loài quỷ đói.
Xem Tứ giải thoát kinh.
6
Tức Bồ Đề Đạt Ma, Phạn Bodhidharma, đến Trung quốc vào năm 520 và mất năm 528, người được coi thực sự khai sáng ra nền
thiền Trung quốc. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 3 tờ 217a9 – 220b25 và Tục cao tăng truyện 16 tờ 551b27 – c26 và Lịch đại
pháp bảo kỳ tờ 180 c3 – 181a18.
7
Tức Phật Đồ Trừng (232 – 348). Chú sen có nghĩa là đọc chú làm cho hoa sen mọc lên từ một bát nước. Sự tích lấy từ truyện
Trừng gặp Thạch Lặc, và Lặc hỏi Trừng về chuyện “Đạo Phật có linh nghiệm gì? Trừng biết Lặc không hiểu tới lẽ sâu của Đạo, nên
có thể dùng đạo thuật để làm bằng cớ, nhân đó nói rằng: “Đạo cả tuy xa, nhưng có thể lấy việc gần để làm chứng”. Bèn lấy một
cái bình bát đựng đầy nước, đốt hương và niệm chú thì phút chốc mọc lên một hoa sen xanh, sắc đẹp sáng chói mắt. Lặc do đó
tin phục. Xem Cao tăng truyện 9 tờ 383c3 – 10. 8 Thiền Uyển Tập Anh
xong, há chẳng là sự mầu nhiệm của bốn mắt nhìn nhau ư ! Thật đã đủ để làm bậc anh tú trong vườn
Thiền vậy.
Ôi ! Phật đạo chí huyền, mà lòng lại huyền ở trong huyền1
. Phật đạo rất lớn mà lòng lại lớn ở
trong lớn. Lòng ư ! Lòng ư ! Nó là cái chủ tể của sự tu đạo ư !
Một sách Thiền uyển này, bắt đầu từ Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền đạo, đèn đèn nối nhau,
ánh ánh huy hoàng, song rút gọn lời dài, làm ngắn chuyện rộng thì cũng đều cái lòng ấy là Chánh giác
vô thượng vậy. Xét nguyên do nó, nếu chẳng phải gột rửa sáu trần, rời bỏ bốn tướng2
mà có thể được
như thế sao?
Tôi ròng học sách Nho, xem [2b1] thêm kinh Phật, xét về lý hữu vô của chúng, tuy nói là hai
đường, nhưng khảo về chỗ quy kỉnh thì tợ cùng một lẽ. Nhân khi rảnh rỗi giảng dạy ở trường3
, gặp một
bạn thiền đến bàn lời Phật, đối thoại hồi lâu, là những vấn đề lông rùa sừng thỏ. Ông nhân đó lấy ra từ
trong tay áo, có Tập anh một tập nhờ tôi chỉnh cú, để tiện in lại, nhằm khỏi sai lầm. Tôi xem trong sách
ấy có nhiều cao thiền, danh tổ, học tu hết sức, chứng ngộ rất thiêng bất giác ttrong lòng vừa kính vừa
phục. Họ bàn không, nói giác, đấy đương nhiên không phải nằm trong phần việc của tôi.
Nhưng kinh Dịch có nói: “Trẻ nhỏ cầu ta”4
. Cho nên, tôi không thể không theo lời xin của ông để
sửa lại những chữ thiếu và mất, thêm vào những chỗ sót và thoát lạc. Trong khoảng tuần nhật, lời văn
nghĩa lý của sách này rõ ràng trở lại như xưa, không kém gì ánh trăng thêm sáng. Ông nhân đó xin tôi
một bài tựa dùng để khắc vào đầu sách, nhằm hiển dương Phật giáo [3a1]. Tôi không tiếc công, cho gọi
đứa ở đến trước mặt, bảo lấy bút giấy, chuẩn bị viết lách, rồi thảo một thiên lời quê. Ông nhân đó vái
chào mà nhận. Cẩn tự.
In lại vào ngày tốt tháng tư năm Lê Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715).
[3b1] Thác tích của Thiền tôn: Thích tử Như Trí
Môn đồ: Sa di Tính Nhu
Tính Xuyến
Tính Trung
Tính Huy
Tính Kiến
Tính Bổn
Thiện nam tử Tính Phận
Tính Thành
Tính Từ
Tính Hưng
Tính Minh

1 Huyền trung chi huyền: Đây là một trong ba thứ huyền của phái Lâm tế, đấy là: 1. Huyền trung huyền, 2. Thể trung huyền và
3. Cú trung huyền. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 311b19. Xem thêm Lão Tử, Đạo đức kinh thượng thiên tờ 1b3, Huyền chi hựu
huyền, Chúng diệu chi môn.
2 Sáu trần: tức sáu đối tượng của sáu giác quan, mà thông thường thì gồm sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của tai,
hương là đối tượng của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của thân, và pháp là đối tượng của ý.
Bốn tướng: tức bốn diễn trình của sự vật, đấy là sự sinh ra, sự trì giữ, sự thay đổi và sự diệt chết. Xem Câu xá luận 5 tờ 27a12 –
20a9.
3 Chiên đường: Điển lấy từ việc Dương Chấn (? – 124) dạy học, trước nhà có treo bảng một con chim ngậm trong mỏ ba con cá
chiên, nên sau này người ta gọi nhà chiên hay chiên đường, để chỉ chỗ các thầy đồ dạy học. Xem Hậu Hán thư 84 tờ 1b5-9.
4
Dẫn Chu dịch: “Quẻ Mông”: “Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã”. Xem Chu dịch 1 tờ 9a3. 9 Thiền Uyển Tập Anh
Tính Băng
Thiện nữ nhân hiệu Diệu Tặng
hiệu Diệu Đạo
Tính Phụng 10 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thi ề n Uy ể n T ậ p Anh Ng ữ L ụ c
Quyển Thượng
[4a1]
Dòng Pháp của Thiền S ư Vô Ngôn Thông
1. THIỀN SƯ Vô Ngôn Thông1
(759 – 826)
Chùa Kiến sơ, làng Phù đổng, Tiên du2
. Sư vốn người Quảng châu, họ Trịnh, nhỏ đã mộ đạo,
không màng gia sản, đến thọ nghiệp tại chùa Song lâm ở Vũ châu3
. Tính tình trầm hậu, ít nói, im lặng
mà biết, rõ hiểu mọi việc một cách tổng quát. Cho nên, người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông {Truyền
đăng4
gọi Bất Ngữ Thông}.

1
Thiền sư Vô Ngôn Thông
Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc:
(a). Truyền đăng lục 9 ĐTK. 2076, tờ 268a28-b13: Hoài Nhượng thiền sư, đệ tam thế Hồng châu Bách Trượng Hoài Hải thiền sư
pháp tự Quảng châu, An hòa tự, Thông thiền sư giả, Vụ châu, Song lâm tự thọ nghiệp, tự ấu, quả ngôn, thời nhơn vị chi Bất Ngữ
Thông dã. Nhân lễ Phật, hữu thiền giả vấn vân: “Tọa chủ lễ để thị thập ma? Sư vân: “Thị Phật” Thiền giả nãi chỉ tượng vân: “Giá
cá thị hà vật?” Sư vô đối. Chí dạ, cụ oai nghi, lễ vấn thiền giả vân: ” Kim nhật sở vấn, mỗ giáp vị tri ý chỉ như hà”. Thiền giả vân:
“Toạ chủ kỷ hạ da? Sư vân: “Thập hạ” Thiền giả vân: “Hoàn tằng xuất gia dã vị?” Sư chuyển mang nhiên. Thiền giả vân: “Nhược
dã bất hội, bách hạ hề vi?” Thiền giả nãi mệnh Sư đồng tham Mã Tổ. Hành chí Giang tây, Mã Tổ dĩ viên tịch. Nãi yết Bách Trượng,
đôn thích nghi tình. Hữu nhân vấn: “Sư thị thiền sư phủ?” Sư vân: “Bần đạo bất tằng học thiền.” Sư lương cửu khước triệu kỳ
nhân. Kỳ nhân ứng nặc. Sư chỉ tông lư thọ tử. (kỳ nhân vô đối). Sư nhất nhật linh Ngưỡng Sơn tương sàng tử lai. Ngưỡng Sơn
tương đáo. Sư vân: “Khước tống hoàn bản xứ. Ngưỡng Sơn tùng chi. Sư vân: “Sàng tử na biên thị thập ma vật?” Ngưỡng Sơn
vân: “Vô vật”. Sư vân: “Giá biên thị thập ma vật?” Ngưỡng Sơn vân: “Vô vật”. Sư triệu: “Huệ Tịch”. Ngưỡng Sơn vân: “Nặc”. Sư
vân: “Khứ”.
(b). Liêu đăng hội yếu 7 (Vạn 136 tờ 275a15), chép giản lược hơn, và nói Huệ Tịch lúc bấy giờ còn là một Sa di.
(c). Đại quang minh tạng, quyển trung (Vạn 137 tờ 422b.), chép từ đoạn “có người hỏi Sư có phải Thiền sư ?” vân vân, như
Truyền đăng lục (đã dẫn), cuối cùng có lời bình của Bản Đàm: “Cổ nhân tự lợi căn thượng trí dĩ hoàn nhất đẳng phác mậu chi tư,
đại lược tương tợ. Kỳ thọ đạo ký bất tương viễn, nhi dụng xứ diệc nhiên, Bất Ngữ Thông dĩ hạ chí vu Đại An chư sư, thân tự Bách
Trượng lô bị trung lai, nhi đoàn liu tinh kim, lược vô chỉ uế. Thử đản trước kỳ nhất thời ứng cơ nhi dĩ, yếu nghiệm kỳ khí lực tương
địch, lợi độn tương ma, tự phi kỳ gia đệ huyễnh, thục cảm khinh xúc?”.
(d). Ngũ đăng hội nguyên 4 (Vạn 138 tờ 63b), chép như Truyền đăng lục, đã dẫn, từ đầu đến cuối, chi tiết đối thoại với Ngưỡng
Sơn có khác một chút: “Sư nhất nhật triệu Ngưỡng Sơn: “Tương sàng tử lai”. Sơn tương đáo. Sư viết: “Khước tống bản xứ trước.”
Sơn tùng chi. Sư triệu: “Huệ Tịch” Sơn ứng nặc. Sư viết: “Sàng tử na biên thị thậm ma vật?”. Sơn viết: “Chẩm tử” giá biên thị
thậm ma vật?” Sơn viết: “Vô vật” Sư phục triệu: “Huệ Tịch”. Sơn ứng nặc. Sư viết: ” Thị thậm ma” Sơn vô đối, Sư viết: “Khứ”.
(e). Ngũ đăng nghiêm thống 4 tờ 103b. và Chỉ nguyệt lục 11 tờ 125c cả hai bài đều chép như Ngũ đăng hội nguyên đã dẫn.
2
Tức huyện Tiên du. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: “Huyện Tiên du ở xiên về phía đông bắc phủ lỵ Từ sơn 10 dặm,
rộng từ đông sang tây 18 dặm, nam xuống bắc 10 dặm, phía đông 10 dặm thì đến địa giới huyện Quế dương, tây 7 dặm thì đến
địa giới huyện Yên Phong, nam 11 dặm thì đến địa giới huyện Siêu loại của phủ Thuận an, bắc 6 dặm đến địa giới huyện Yên
phong. Đời Trần về trước nguyên đã có tên huyện này. Sử ký nói Nguyễn Thủ Tiệp chiếm cứ Tiên du, tức là ở đây. Đời thuộc
Minh, châu Vũ ninh gồm lấy nó và thuộc phủ Bắc giang. Đời Lê Quang Thuận, đổi nó thuộc phủ Từ sơn. Triều ta nhân theo đấy.
Nó gồm hai tổng, 56 xã thôn”. Nay tức là huyện Tiên du, tỉnh Hà bắc. Làng Phù đổng ở tại huyện này. Chùa Kiến sơ, như truyện
của Cảm Thành xác định là do một nhà giàu họ Nguyễn của làng đấy đem nhà mình cải thành chùa, rồi đem cúng cho Cảm Thành
có lẽ khoảng năm 820 hay trước đó không lâu. Huyện Tiên du này, vào thời kỳ nhà Lý chắc gọi là quận Tiên du, bởi vì trong
truyện Cảm Thành nói Thành là người Tiên du, xuất gia ở núi Tiên du quận mình.”
3
Vụ châu, địa danh đời Đường, sau đổi là Tư châu. Nay là huyện lỵ huyện Vụ Xuyên, Quý châu.
4
tức Truyền đăng lục do Đạo Nguyên khởi viết năm 1004. Nó gồm cả thảy 30 quyển, mô tả lịch sử truyền thừa của Thiền tôn từ
Phật Tỳ Bà Thi trở xuống cho tới Thiền sư Huệ Thành (941 – 1007). Năm Cảnh Đức thứ 4 (1007) là năm ông hoàn thành tác phẩm
này. Vì nó được viết trong khoảng Cảnh Đức (1004 – 1007) đời Tống Chân Tôn nên cũng có tên Cảnh Đức truyền đăng lục, hiện ở
trong Đại tạng kinh số ĐTK 2076. 11 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Một hôm vào lúc Sư lễ Phật, có một Thiền khách đến hỏi: “Tọa chủ lễ cái gì đó?”
Sư đáp: “Lễ Phật”
Thiền khách chỉ tượng Phật hỏi: “Cái này là cái gì?” Sư không đáp được.
Đêm đó Sư y phục nghiêm chỉnh đến lạy thiền khách, thưa rằng: “Điều ngài hỏi khi nãy tôi chưa
biết ý chỉ như thế nào?”
Thiền khách hỏi: “Tọa chủ xuất gia đến nay trải được mấy hạ?”
Sư thưa: “Mười hạ”.
Thiền khách hỏi: “Lại từng xuất gia chưa?”
Sư trở thành hoang mang.
Thiền khách bảo: “Nếu không hiểu điều đó, thì dù có trăm hạ cũng chẳng ích gì !”
Rồi đem Sư cùng đến tham vấn Mã Tổ1
. Đi tới Giang tây2
, thì Tổ đã tịch [4b1], bèn đến yết kiến
Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải
3
.
Bấy giờ có vị tăng hỏi: “Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?”
Bách Trượng đáp: “Đất lòng nếu không,
Trời tuệ tự chiếu4
.
Nghe xong Sư tỉnh ngộ.
Trở về Quảng châu, trụ trì chùa Hoà an. Có người hỏi: “Thầy phải là Thiền sư chăng?”
Sư đáp: “Bần đạo không từng học thiền”
Im lặng giây lâu, Sư gọi, Người đó đáp: “Dạ”.
Sư chỉ cây soan. Người đó không trả lời.
Thiền sư Ngưỡng Sơn5
, khi còn là sa di, có lần Sư gọi: “Tịnh con, đem cái giường lại đây cho ta”.
Nguỡng Sơn đem giường đến. Sư bảo: “mang lại chỗ cũ”. Nguỡng Sơn vâng theo.
Sư lại hỏi: “Tịch, bên này có cái gì?”
“Không vật”.
“Còn bên kia?”
“Không vật”.
Sư lại hỏi: “Tịch con !”

1
Tức Thiền sư Đạo Nhất (709 – 788) ở Giang tây, là học trò đắc pháp duy nhất của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sư người họ Mã, nên
thường gọi là Mã Tổ. Về tiểu sử, xem Truyền đăng lục 6 tờ 245 c23-246c6.
2
Giang tây, vùng đất ở phía nam thuộc lưu vực trung bộ sông Dương tử, tương đương với phần đất tỉnh Giang tây ngày nay.
3
Bách Trượng Hoài Hải (749 – 814) là học trò của Mã Tổ. Sư người Trường lạc, Phúc châu. Sau khi đắc pháp với Mã Tổ rồi, bèn đến
tại núi Đại hùng ở Hồng châu, vì ở ngọn núi này cao dốc nên cũng gọi là Bách trượng. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 249b26 – 250c.
Ở Trung Quốc, Hải được coi như là vị thầy của hai người học trò đã khai sinh ra hai phái thiền lớn của Trung Quốc, đấy là Linh
Hựu ở Qui Sơn, người đã cùng với học trò mình là Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn khai sinh ra phái thiền Qui Ngưỡng, và Hy Vận ở Hoàng
bá, người đã dạy cho học trò mình là Nghĩa Huyền ở Lâm Tế thành lập nên phái thiền Lâm tế. Ở đây, ta có thể nói Hải còn có một
nguời học trò thứ ba cũng khai sinh ra một thiền phái lớn khác ngoài đất Trung Quốc, đấy là thiền phái Kiến sơ của Vô Ngôn
Thông ở Việt nam.
4
Tham chiếu Truyền đăng lục 6 tờ 250a17: Thiền sư Bách Trượng, có Tăng hỏi: “Như hà thị Đại thừa đốn ngộ pháp môn?” Sư viết:
“Nhữ đẳng tiên hiết chư duyên, hưu tức vạn sự; thiện dữ bất thiện, thế, xuất thế gian, nhất thiết chư pháp, mạc ký, mạc ức, mạc
duyên niệm, phóng xả thân tâm linh kỳ tự tại, Tâm như mộc thạch, vô sở biện biệt. Tâm vô sở hành. Tâm địa nhược không, tuệ
nhật tự hiển. Như vân khai nhật xuất (…)”.
5
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (814 – 890): Xem Truyền đăng lục 11 tờ 282a – 283c); Huệ Tịch ngữ lục, ĐTK 1910, tr. 582a và tr. 584c23. 12 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Nguỡng Sơn thưa: “Dạ”.
Sư bảo: “Đi đi”.
Tháng chín mùa thu năm Canh tý Đường Nguyên Hoà thứ 15 (820), Sư đến trác tích chùa đấy1
.
Ngoài việc cơm cháo, vui cái vui thiền, thường ngồi quay mặt vào vách, không bao giờ nói năng, suốt
mấy năm mà không ai biết. Chỉ có thầy Cảm Thành chùa đó [5a1] lòng càng tôn kính, hầu hạ hai bên,
âm thầm rõ thấu huyền cơ, được hết yếu chỉ.
Một hôm Sư không bệnh, tắm rửa thay y phục, gọi Cảm Thành đến dạy rằng: “Ngày xưa, Tổ ta
là Nam Nhạc Nhượng Thiền sư2
, khi ngài sắp tịch, có dạy:
“Tất cả các pháp
Đều từ tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu đạt đất lòng
Chỗ làm không ngại
Không gặp thiện căn
Cẩn thận chớ nói”3
Dạy xong, Sư chắp tay mà mất. Cảm Thành làm lễ trà tì thu xá lợi
4
, dựng tháp thờ Sư tại núi
Tiên du, bấy giờ là nhằm ngày12 tháng giêng năm Bính ngọ Đường Bảo Lịch thứ 2 (826), Sư thọ sáu
mươi tám tuổi
5
.
Đến năm Khai Hựu Đinh sửu (1337) phàm có năm trăm mười hai năm1
. Thiền học nước Việt ta
bắt đầu từ Sư vậy2
.

1
Tức chùa Kiến sơ, làng Phù đổng.
2
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 – 744), đệ tử đắc pháp của Huệ Năng và thầy của Mã Tổ Đạo Nhất. Xem Truyền đăng lục 5 tờ
240c7 – 241a26.
3
Nguyên văn:
Nhất thiết chư pháp,
Giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh,
Pháp vô sở trụ.
Nhược đạt tâm địa,
Sở tác vô ngại.
Phi ngộ thượng căn,
Thận vật khinh hứa.
So sánh Truyền đăng lục 5 tờ 241a13: (Nam Nhạc Thiền sư nói:) Nhất thiết pháp giai tùng tâm sinh, Tâm vô sở sinh, pháp vô
năng trụ. Nhược đạt tâm địa, sở tác vô ngại. Phi ngộ thượng căn, nghi thân tự tại.
4
Trà tỳ, cũng gọi là Xà duy, là những phiên âm của chữ Phạn savya, nghĩa là sự đốt xác người sau khi chết, tức hỏa táng. Xá lợi,
phiên âm của chữ phạn sàrìra, chỉ cho số xương cốt còn lại sau khi đốt, mà người ta thường gọi là linh cốt của đức Phật và các vị
tổ.
5
Nguyên văn: Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính ngọ chính nguyệt thập nhị nhật nhị thập bát niên. Câu này đoạn đầu thật quá rõ
ràng, đây là “Bấy giờ ngày 12 tháng giêng năm Bính ngọ. Đường Bảo Lịch thứ hai”. Điểm khó khăn nằm ở bốn chữ cuối cùng, mà
nhiều người đã nhận thấy. Xem Gaspardone, Bibliographie Annamite tr. 147 chẳng hạn. Chúng tôi nghĩ rằng bốn chữ “nhị thập bát
niên” nếu thêm chữ “thọ” vào trước chữ “nhị” và sửa chữ “nhị” thành chữ “lục”, thì ta sẽ có “thọ lục thập bát niên”. Và tuổi thọ
của Vô Ngôn Thông chắc chắn phải là 68, như ta có thể truy ra sau. Cứ vào tiểu sử, ta biết Thông xuất gia từ nhỏ, vì Thông “thiếu
mộ không môn, bất trị gia sản”. Vậy với tư cách một đồng chân nhập đạo, với sự “quả ngôn mặc thức” của mình, Thông chắc
chắn phải thọ giới Tỳ kheo, để thực sự làm một nhà sư Phật giáo vào lúc Thông 20 tuổi. Đến khi Thông gặp vị Thiền khách thì bấy
giờ theo chính lời Thông, Thông đã trải qua 10 hạ, nghĩa là 10 năm từ lúc thọ giới. Nói cách khác, khi gặp vị Thiền khách Thông
đã 30 tuổi. Năm Thông 30 tuổi này cũng là năm Thông được vị Thiền khách vừa nói đem đến yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất. “Nhưng
vừa tới Giang tây thì Tổ đã thị tịch”. Tổ đây tức là Mã Tổ, và năm Mã Tổ mất là năm 788. Vậy năm 788 này cũng là năm Thông 30
tuổi. Từ đó, suy ra năm sinh của Thông tức rơi vào năm 759. Bấy giờ, ta biết Thông mất vào năm 826. Như thế tuổi thọ của
Thông tính theo lối đông phương đúng là 68 tuổi. Do đó, chúng tôi nghĩ: “nhị thập bát niên” là một viết sai và thiếu của “thọ lục
thập bát niên”. Viết thiếu chữ, trường hợp này Thiền uyển tập anh bản in năm 1715 có khá nhiều. Chẳng hạn, ở tờ 17b6 hai cái
tên khá quen thuộc là Bảo Tính và Minh Tâm thì bị viết thành Bảo Tính Minh. Về việc chữ lục bị viết thành chữ nhị thì cũng khá dễ
xảy ra, vì tự dạng của chúng rất dễ lầm. 13 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Pháp tự của Thiền sư (Vô Ngôn) Thông ở Kiến sơ.

1
Nguyên văn: Hựu chí Khai Hựu Đinh sửu nhị thập tứ niên. Câu này cùng có một trường hợp tương tự như câu trên, và chúng tôi
đề nghị cách đọc và hiểu nó thế này. Thứ nhất, chữ hựu chắc phải là chữ dĩ viết lộn, bởi dáng chữ khá giống nhau. Tiếp đến,
những chữ nhị thập tứ niên, chúng tôi nghĩ chúng là một viết lộn, sai và thiếu cũng có thể những chữ sau “phàm ngũ bách thập
nhị niên”. Nhị thập là một viết ngược của thập nhị. Sự viết ngược này xuất hiện khá nhiều trong Thiền uyển tập anh, như Lương
Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm trong truyện của Cứu Chỉ. Chữ tứ chắc là một viết sai và ngược của chữ bách, bởi
dáng chữ chúng khá giống nhau. Như vậy, nhị thập tứ niên đúng ra phải đọc bách thập nhị niên. Cuối cùng, vấn đề thêm hai chữ
“phàm ngũ” Ngó vào tự dạng của hai chữ đấy, ta thấy chúng có những nét rất giống với chữ sửu đi trước. Có thể, người hiệu đính
bản in năm1715 của Thiền uyển tập anh, vì để bản đã lu mờ hay bị mọt cắn, đã không thấy ý nghĩa của chữ phàm ngũ ấy và coi
chúng như những điển tự của chữ sửu đứng trước, nên đã loại ra. Còn chữ bách thập nhị, một khi đã loại chữ phàm ngũ thì bỏ
chữ bách, hoặc sửa nó lại thành chữ tứ hay một chữ gì đó. Trong trường hợp này, có lẽ họ đã sửa thành chữ tứ và tạo nên sự viết
lộn ngược trên. Dầu sao đi nữa, chúng tôi nghĩ rằng một đề nghị giải quyết một đoạn văn như thế không đến nỗi hoàn toàn
không có lý. Và lý do cho đề nghị ấy là sau.
Ta biết tác giả Thiền uyển tập anh biết khá nhiều về Truyền đăng lục của Đạo Nguyên. Mà cứ theo lối viết của Nguyên thì sau
những vị tổ chính yếu của Thiền tôn Trung Quốc như Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Năng mất, Nguyên đều tính từ năm mất của họ
đến năm Nguyên đang viết Truyền đăng lục, tức năm Cảnh Đức thứ nhất (1004), và nói “đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ
nhất phàm bao nhiêu năm. Ví dụ, về Huệ Năng thì ông nói “đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm 292 năm. Năng mất
năm 713, đến năm 1004 thì quả là 292 năm. Trường hợp Thiền uyển tập anh cũng vậy. Tác giả muốn tính cho ta biết từ khi Vô
Ngôn Thông mất đi cho tới lúc ông đang viết tác phẩm của mình gồm cả thảy bao nhiêu. Thông mất năm 826 đến đời Trần, Khai
Hựu Đinh sửu (1337), thì Thông cách ta đúng 512 năm theo lối tính phương đông. Đấy là lý do tại sao chúng tôi đề nghị sửa nhị
thập tứ niên thành phàm ngũ bách thập nhị niên và dịch theo đó.
2
Nguyên văn: Ngã việt thiền học tự Sư chi thỉ. Câu này đã làm một số người như Gaspardone (sđd.) tự hỏi làm sao tác giả Thiền
uyển tập anh có thể viết một câu như thế, trong khi biết rõ ràng rằng, thiền học Việt nam không phải bắt đầu với Vô Ngôn Thông,
mà là với Tỳ Ni Đa Lưu Chi như chính ông đã ghi lại. Phải chăng đã có những sai lầm văn cú trong lúc truyền bản? Thực ra, viết
như thế, tác giả Thiền uyển tập anh muốn phơi bày quan điểm và lập trường viết sử của mình, để từ đó biện minh cho việc ông
đã bắt đầu cuốn sử về Thiền tôn Việt nam của mình bằng dòng Vô Ngôn Thông. Nói khác đi, Thiền của Vô Ngôn Thông mới là
phái Thiền chính thống theo quan niệm của ông. Thiền của Tỳ Ni Đa Lưu Chi dù có xưa hơn vẫn không thể có danh dự đó được.
Viết về lịch sử Thiền tôn Việt nam cho đến thời ông đã có nhiều đánh giá khác nhau, mà việc nổi bật nhất là việc Thông Biện
không thừa nhận có phái thiền của Nguyễn Bát Nhã, tức thiền phái Thảo Đường, và thiền phái của Nguyễn Đại Điên. Quan điểm
này sau đó được Thường Chiếu, tác giả của Nam tôn tự pháp đồ, chấp nhận, đến nỗi Quách Thần Nghi phải tra hỏi. Nhưng đến
tác giả Thiền uyển tập anh dù quan điểm vừa nói vẫn đang còn có giá trị, ông đã phải thêm vào phần ghi lại sự truyền thừa của
phái Thảo Đường. Ta không biết, đây có phải là vì ảnh hưởng của Huệ Nhật, tác giả Liệt tổ yếu ngữ , một người được tác giả
Thiền uyển tập anh tôn trọng dẫn ra với một niềm tôn trọng và tin tưởng khá vô biên? Và Huệ Nhật, một sử gia Phật giáo khác
thời Lý Trần, phải chăng đã gồm thêm phái Thảo Đường trong cuốn sách của mình?.
Ngoài ra như đã chứng minh trong phần nghiên cứu, tác giả Thiền uyển tập anh thuộc phái thiền Trúc lâm. Mà phái thiền đấy
xuất phát từ dòng Kiến sơ. Cho nên không có gì là lạ khi ông bắt đầu thiền Việt nam từ Vô Ngôn Thông. 14 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Nhất (1 ng ư ờ i )
2. THIỀN SƯ Cảm Thành (? – 860)
Chùa Kiến sơ, đời thứ 2. Người Tiên du, họ Thị
1
. Ban đầu Sư [5b1] xuất gia, tên đạo là Lập Đức,
ở tại núi Tiên du2
của quận mình. Sư lấy việc đọc kinh làm sự nghiệp. Có hương hào họ Nguyễn mến Sư
đức hạnh cao cả, muốn đổi nhà làm chùa mời Sư tới ở, bèn đến lấy tình mời Sư, Sư chẳng chịu nhận.
Ban đêm mộng thấy thần nhân mách: “Nếu theo ý của Nguyễn, thì chẳng mấy năm sẽ được điều lành
lớn”, bèn đáp lại lời mời. {Nay là chùa Kiến sơ ở Phù đổng}.
Chẳng bao lâu thì Thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Sư biết Thông là người phi thường, sớm hôm
phục dịch, chưa từng biếng nhác. Thông cảm động trước lòng thành của Sư, bèn đặt tên là Cảm Thành.
Một hôm, Thông gọi Sư đến dạy: “Xưa, Đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn , mà xuất hiện ở đời
3
, hóa
duyên xong xuôi, ngài vào Niết bàn. Chân tâm vi diệu như thế gọi là Chánh pháp nhãn tạng, thật tướng
vô tướng, tam muội pháp môn, chính ngài tự thân trao cho đệ tử là tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Sư tổ4
,
đời đời truyền nhau, đến Đại sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang, trải bao hiểm nguy, để truyền pháp này cho đến
Lục tổ Tào Khê, đắc pháp với Ngũ tổ. Khi Đạt Ma [6a1] mới đến, vì người đời chưa biết tin, nên lấy sự
truyền y để làm rõ việc đắc pháp. Nay đức tin đã chín muồi, thì y bát là đầu mối của tranh chấp, phải
dừng lại ở nơi ông, không nên truyền nữa5
. Từ đó, lấy tâm truyền tâm, không truyền y bát. Bấy giờ Nam
Nhạc Nhượng đầu tiên được tâm truyền, rồi Nhượng trao cho Mã Tổ Nhất, Nhất lại trao cho Bách Trượng
Hải
6
. Ta nhờ ở Bách Trượng mà được tâm pháp đó. Lâu nghe phương này, hâm mộ Đại thừa cũng nhiếu,
nên ta xuôi Nam để tìm thiện tri thức. Nay gặp được ngươi, ấy bởi duyên xưa. Hãy lắng nghe ta nói kệ:

1
Bản đời Lê viết “Tánh Thị”, thì Thị đây chỉ họ của Cảm Thành. Thành như vậy họ Thị, họ Thị không phải là không biết đến trong
lịch sử. Tam quốc chí 63 còn ghi lại một nhân vật của triều Tôn Ngô tên Thị Nghi, rồi chú rằng: Nghi nguyên có họ Thị nhưng sau
viết cải thành Thị. Bản đời Nguyễn trước chữ “Tánh Thị”, viết thêm hai chữ “vị tường”. Đây chắc là một tăng bổ của Phúc Điền,
nếu không phải là của Tiêu sơn tự cổ bản.
2 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a6-7 nói: “Phật tích ở tại huyện Tiên du, lại có tên là núi Tiên du. Xưa có tiều phu Vương Chất
vào thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng, bèn dựa búa đứng xem. Xem xong cuộc cờ, ngó lại thì không thấy ai cả, mà
cán búa đã mục bao giờ, nên có tên là thôn Lạn kha”. Vậy núi Tiên du cũng có tên là núi Phật tích hay núi Lạn kha. Và núi Lạn
kha này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: “Núi Lạn kha ở tại huyện Tiên du về phía nam cách bốn dặm, trên núi có ao
Thú long, trên chóp Thất sơn có bàn cờ đá. Tương truyền xưa có tiều phu Vương Chất vào núi thấy hai ông già đánh cờ dưới
bóng cây tùng bèn dựa búa đứng nhìn, đến khi cuộc cờ tan, mà không biết cán đã mục tan. Dưới núi có động tên Vạn phúc, cảnh
trí thanh vắng tương truyền đời Lý dựng nên. Sử ký nói Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên du đánh với An Dương Vương, tức là nơi
đây. Truyền kỳ lục nói Từ Thức cởi áo cừu cho tiên nữ, tức cũng ở núi đây”. Tuy nhiên An nam chí lược 1 tờ 22 cũng ghi: “Núi
Tiên du có bàn đá lấp loáng dấu những đường gạch, tương truyền Tiên đánh cờ trên đó, sau bọn con gái đi hái củi giao hợp ở
trên đó nên nó lật xuống và vỡ ra”. Nay tức núi Lạn kha, huyện Tiên du, Hà Bắc.
3
Kinh Pháp hoa, phẩm Phương tiện: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”. Xem Diệu pháp liên hoa
kinh 1 tờ 7a21.
4 Truyền đăng lục 1 tờ 205b26 – 28 nói, khi Phật sắp nhập diệt, Phật nói với đệ tử Ma Ha Ca Diếp rằng: “Ta đem thanh tịnh pháp
nhãn. Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu chánh pháp, đem giao cho ngươi, ngươi nên giữ gìn”.
5
Cả đoạn từ “Khi Đạt Ma mới đến” cho tới “không nên truyền nữa” ở đây là dẫn y nguyên văn câu nói của Hoằng Nhẫn cho Huệ
Năng lúc Nhẫn truyền ca sa cho Năng, mà cả Pháp bảo đàn kinh tờ 394a28 lẫn Truyền đăng lục 3 tờ 223a20 đều có chép. Nguyên
văn nó đọc: “Tích Đạt Ma sơ chí, nhãn vị chi tín, cổ truyền y bát dĩ minh đắc pháp. Kim tín tâm di thục, y nãi tranh đoan. Chỉ ư
nhữ thân, bất phục truyền dã”. Vì dẫn nguyên văn này, cho nên chữ ông trong đoạn này phải hiểu là chỉ Huệ Năng.
6
Sự truyền thừa nói đến trong đoạn này, ta có thể vẽ thành đồ biểu như sau:
Thích Ca Mâu Ni
Ma Ha Ca Diếp …
Bồ Đề Đạt Ma (? – 528)
Huệ Khả (487 – 593)
Tăng Xán (? – 606)
Đạo Tín (580 – 651)
Hoằng Nhẫn (601 – 674) 15 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
“Các nơi đồn đãi
Dối tự rao truyền
Rằng thủy tổ ta
Gốc tự Tây thiên
Truyền pháp nhãn tạng
Gọi đấy là Thiền
Một hoa năm lá1
Hạt giống liên miên
Ngầm hợp mật ngữ
Muôn ngàn có duyên2
Tam tông đều gọi
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên
Đụng đâu cũng vướng3
Phật tổ thành oan
Sai một mảy may
Đi mất trăm ngàn
Ngươi khéo quan sát
Chớ lửa cháu con
Dẫu có hỏi ta
Ta vốn Vô Ngôn4
[6b1] Nghe xong lời đó, Sư liền tỉnh ngộ.
Một lần có vị Tăng đến hỏi: “Thế nào là Phật?”
Sư đáp: “Khắp hết mọi nơi.”
Lại hỏi: “Thế nào là tâm Phật?”

Huệ Năng (638 – 713)
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 – 744)
Mã Tổ Đạo Nhất (709 – 788)
Bách Trượng Hoài Hải (720 – 814)
1
Nguyên văn: Nhất hoa khai ngũ diệp. Đạt Ma truyền pháp cho Huệ Khả đọc bài kệ:
Ngô bản lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c 17-18
2
Nguyên văn: Tiềm phủ mật ngữ, thiên vạn hữu duyên. Lời phú chúc của Đạt Ma cho Huệ Khả cũng nói:
Tiềm phù mật chứng
Thiên vạn hữu dư
Nhữ dương xiển dương
Vật khinh vị ngộ.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c15.
3
Nguyên văn: Xúc đồ thành trệ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập tứ khoa tụng:
Ngu nhân bị tha cấm hệ
Trí giả tạo tác giai không
Thanh văn xúc đồ vi tuệ
Đại sĩ nhục nhãn viên thông.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450 c13-14. Xem thêm Bích nham lục 5 tắc 4 (tờ 182a5).
4
Nguyên văn: Ngã bản vô ngôn. Có thể dịch: “Ta vốn không lời”. Vô Ngôn có thể chỉ Vô Ngôn Thông, cũng có thể chỉ cái chân lý
không thể diễn tả được. 16 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Chẳng từng che dấu”
Lại thưa: “Người học không hiểu”.
Sư bảo: “Đi quá xa rồi”
Về sau, Sư không bệnh mà mất. Bấy giờ là năm Canh thìn Đường Hàm Thống thứ nhất (860). 17 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Hai (1 ng ư ờ i )
3. THIỀN SƯ Thiện Hội (? – 900)
Chùa Định thiền1
làng Siêu loại
2
. Người Điển lãnh3
. Lúc nhỏ xuất gia với sư Tiệm Nguyên chùa
Đông lâm4
cùng làng, tự gọi là Tổ Phong. Sư rảo khắp cõi ngoài, cầu học Thiền chỉ. Sau gặp Cảm
Thành chùa Kiến sơ, bèn xin ở lại hầu hạ hơn mười năm, mà hoàn toàn không mỏi mệt. Một hôm Sư vào
thất hỏi: “Trong kinh5
nói: “Đức Thích Ca Như Lai, nhân địa tu hành trải qua ba tăng kỳ kiếp mới được
thành Phật”6
. Nay Đại đức lại luôn luôn bảo: “Tức tâm tức Phật”. Tôi thật chưa hiểu, xin một phen khai
thị cho”.
[7a1] Thành hỏi: “Trong kinh đó là do ai nói?”
Sư thưa: “Há chẳng phải Phật nói sao?”
Thành hỏi: “Nếu là Phật nói thì tại sao trong kinh Văn Thù bảo: “Ta ở đời 49 năm, chưa
từng nói một chữ cho ai”7
. Vả lại cổ đức nói: “Người tìm văn lấy chứng, thì thêm vướng mắc. Người khổ
hạnh cầu Phật thì đều lầm mê. Người lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo. Người chấp tâm tức Phật là ma”.1

1 Đây chắc là một viết đảo của tên chùa Thiền định tại làng Khương tự huyện Siêu loại ngày xưa, nay là huyện Thuận Thành Hà
Bắc. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: ” Chùa Diên ứng ở tại xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn pho tượng Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rất có dấu thiêng. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa một trăm gian, tháp chín tầng, cầu
chín nhịp, nền cũ nay hãy còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì thuở Sĩ Nhiếp làm thái thú đóng tại thành Luy lâu, ở núi xanh phía
tây thành ấy có một vị Sư tên Khâu Đà La. Có người con gái của Tu Định tên A Man bị Sư phạm đến mà có thai, sinh ra một đứa
con gái. Sư đem dấu trong một cây to giữa núi sâu, sau bị gió mưa lớn, cây trốc gốc, nổi trong nước trôi đến bến Luy lâu. Người
ta cho là lạ, vớt cây lên bờ rồi đẽo thành bốn pho tượng Phật, rồi cất chùa tên là Thiền định, tức nay là chùa Diên ứng để đặt bốn
tượng ấy mà thờ. Về sau mỗi khi cầu mưa đều có linh ứng, nên đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Thập di ký
của Lý Tế Xuyên nói: “Người Cổ Châu mỗi năm mừng ngày Phật đản đều họp nhau ở chùa Thiền định”. Đời Trần Nghệ Tôn có
khen ban mỹ hiệu. Sử đời Lê chép Lê Nhân Tôn vào năm Thái Hoà thứ 6 (1448) sai Lê thái úy đến Cổ châu rước tượng Phật Pháp
Vân về chùa Báo thiên tại kinh thành để cầu mưa.
2
Tức huyện Siêu loại. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: “Huyện Siêu loại, từ đông sang tây 27 dặm, từ nam xuống bắc 9
dặm, đông đến địa phận huyện Lương tài 7 dặm, tây đến địa phận huyện Gia lâm thuộc phân phủ 6 dặm, bắc đến địa giới huyện
Gia bình 3 dặm, thuộc đất Luy lâu đời Hán. Sử ký nói, Sứ quân Lý (Lãng công) chiếm cứ Siêu loại, tức là ở đây. Năm Thiên Huống
Bảo Tượng (1068) đổi làng Thổ lôi làm làng Siêu loại (xin ghi vào đây để tiện tham khảo), sau đổi làm huyện. Đời thuộc Minh nó
thuộc Bắc giang. Lê Quang Thuận cải thuộc phủ Thuận an và do phủ đó kiêm lý. Triều ta nhân theo. Nó coi 6 tổng 68 xã thôn”.
Hiện nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà bắc. Cương mục chính biên 3 tờ 26b6 nói: “Làng Siêu loại ở tại huyện Siêu loại, tỉnh Bắc
ninh, nay là xã Thuận quang”. Nhưng hiển nhiên xã Thuận quang hiện không có chùa Thiền định. Do đó, làng Siêu loại đời Lý phải
coi là tương đương với huyện Siêu loại tức huyện Thuận thành ngày nay.
3 Điển lãnh, tên làng. Truyện này nói Thiện Hội “lúc nhỏ xuất gia với Sư Tiệm Nguyên chùa Đông lâm cùng làng”. Vậy chùa Đông
lâm ở tại làng Điển lãnh. Bây giờ cứ Cổ châu pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục tờ 16b3-4 ta biết một ngôi chùa tên Đông lâm ở
Điển lĩnh, và đây là chùa thờ Phật Pháp vân thời Lý Nhân Tôn. Vậy Điển lãnh cũng là Điển linh và ở tại làng Khương tự ngày nay.
Ngoài chùa Đông lâm, làng này còn có chùa Phúc Thánh mà Minh Trí (tức Thiền trí) trụ trì.
4
Chùa này, Đại Việt sử lược 2 tờ 10b3 nói dựng vào năm Long Thụy Thái Bình năm thứ hai (1055), nhưng không nói rõ ở đâu. Cứ
theo đây thì nó phải ở làng Điển lãnh. Truyện của Thiền sư Minh Trí ở dưới còn ghi thêm một chùa khác nữa cũng thuộc Điển lãnh
đó là chùa Phúc thánh. Chùa này theo Toàn thư B4 tờ 6b4 ghi vào năm 1144 Lý Anh Tôn cũng cho dựng một chùa tên Phúc
thánh.
5
Giáo, chỉ Phật giáo được truyền thừa bằng kinh điển; các tông phái ngoài Thiền tông.
6
Tham chiếu, Phú pháp tụng nhân duyên truyện 1 tờ 297b6-8: “Khi gặp diệt độ, Phật bảo đại đệ tử Ma Ha Ca Diếp: ” Ngươi nay
nên biết, trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, ta vì chúng sanh, siêng tu khổ hạnh, một lòng chuyên tìm pháp không gì hơn. Nguyện
xưa của ta như vậy, nay đã thỏa rồi”.
7
Vị tằng thuyết nhất tự. Các thiền gia thường nói nó xuất xứ từ kinh Văn Thù. Hiện có một số kinh mang tên Văn Thù hay Văn Thù
là người đối thoại chính. Nhưng không có kinh nào có câu đó. Ý nghĩa tương tự cũng có thể tìm thấy trong kinh Lăng già 3 tờ
498c17-19: “Ngã tùng mỗ dạ đắc tối chánh giác nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết bàn, trung gian nãi chí bất thuyết nhất tự.” 18 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư hỏi: “Như vậy tâm này là cái gì? Cái chẳng phải Phật là cái gì?”
Sư tiếp: “Như vậy tâm này là Phật gì?”
Thành đáp: “Xưa có người hỏi Mã Tổ: “Tâm tức là Phật, cái nào là Phật?” Mã Tổ dạy: “Ông nghĩ
cái nào không phải là Phật chỉ ra xem?”. Người ấy không trả lời. Tổ dạy “Hiểu được khắp nơi có, không
hiểu mãi xa sai”2
Chỉ một câu thoại đầu nầy, ngươi lại hiểu chưa?”
Nghe lời đó xong, Sư thưa: “Con đã hiểu rồi”.
Thành hỏi: “Ngươi hiểu như thế nào?”
Sư thưa: “Khắp cả mọi nơi, không chỗ nào là chẳng phải tâm Phật”.
Sư liền sụp xuống lạy.
Thành bảo: “Cần [7b1] phải làm thế a?”
Nhân đó đặt tên là Thiện Hội. Về sau, Sư mất tại chùa mình, tức năm Canh thân Đường Quang
Hoá thứ 3 (900).

1
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Tầm văn thủ chứng giả ích trệ, khổ hạnh cầu Phật giả cu mê, ly tâm cầu Phật dã ngoại đạo, chấp
tâm thị Phật dã vi ma”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 248a1-3.
2
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Hữu hành giả vấn” Tức tâm thị Phật, na cá thị Phật?”. Sư vân: “Nhữ nghi na cá bất thị Phật chỉ xuất
khán”. Vô đối. Sư vân: “Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ.” Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a22-24. 19 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Ba (1 ng ư ờ i)
4. THIỀN SƯ Vân Phong (? – 956) (Một tên nữa là Chủ Phong)
Chùa Khai quốc1
, kinh đô Thăng Long, người Từ Liêm, quận Vĩnh Khương2
, họ Nguyễn. Khi mẹ
mang thai, bà thường ăn chay, tụng kinh, lúc sinh có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà. Cha mẹ thấy điềm lạ,
nên cho Sư đi xuất gia. Lớn lên, Sư theo hầu sư Thiện Hội ở Siêu loại làm đệ tử nhập thất
3
, lặng nắm
huyền chỉ, thiền học ngày thêm càng tiến triển. Hội có lần bảo Sư: “Sống chết là việc lớn, cần phải giải
quyết ngay”.
Sư hỏi: “Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi?”
Hội đáp: “Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh”.
Sư hỏi: “Thế nào là chỗ không sống chết?”
Hội đáp: “Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được”.
Sư hỏi: “Làm sao mà hiểu?”
Hội đáp: “Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến”.
Chiều Sư [8a1] lại vào, như đã hẹn, Hội bảo: “Đợi đến sáng mai đông đủ, sẽ chứng minh cho
ngươi”.

1
Tây hồ chí, phần về Cổ tích, ghi: “Chùa Khai quốc ở tại bờ sông Nhị hà, phía bắc của hồ (Tây), nay là bến Yên phụ mé ngoài đê.
Nguyên Nam Đế nhà Tiền Lý nhân nền cũ của chùa An trì của triều Hồng Bàng, mà dựng lên, nên có tên Khai quốc. Sau danh
tăng triều Ngô là Nguyễn Vân Phong người Từ Liêm tu bổ lại. Trong khoảng hai triều Đinh và Lê, Quốc sư Ngô Khuông Việt
thường trụ trì tại đó. Nhà Lý trùng tu lại”. Đến phần về chùa chiên, Tây hồ chí lại ghi: “Chùa Khai quốc do Nam đế triều Tiền Lý
nhân nền cũ chùa An trì, mà dựng lên. Chùa ở bến Yên Phụ trên bờ sông phía ngoài đê thuộc mạn bắc hồ. Khi họ Lý dời đô đến,
có sửa sang lại. Những danh tăng như Lý Thảo Đường, Ngô Thông Biện, đến Viên Học và Tịnh Không đều có ở đó. Triều Trần
thường hay đến chơi. Trong khoảng Đại Bảo nhà Tiền (phải đọc là Hậu) Lê (1428 – 1789), vua ban tên An quốc. Tiên nhân Trần
Tú Uyên sinh ở đó nên có tên vậy. Trong khoảng Hoằng định (1600 – 1618) nhà Hậu Lê, bờ sông bị lở, người trong ấp dời vào
bên hồ, nay là chùa Trấn bắc”.
Về chùa Trấn bắc này, nó viết tiếp: “Trấn bắc là chùa An quốc dời vào, đổi tên như vậy, nay ở trong phần đất phường An
phụ. Bãi Rùa trên hồ nguyên có điện Hàm nguyên của triều Trần việc dựng điện có nói trong phần về cổ tích, nền cũ nó vẫn còn.
Năm Lê Hoằng Định thứ 16 (1615) sông lở, chùa gần sụp. Người trong ấp dời vào dựng lại ở đấy. Trong khoảng Chính hoà (1680
– 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn quốc. Trong khoảng Vĩnh Hựu (1735 – 1739) và Cảnh Hưng (1740 – 1786) có những
danh Tăng như Hà Giác Quan, Đỗ Tu Ma, Đỗ Trung Nghĩa đều ở đó. Ba tháp Thông quang, Linh quang và Viên quang cùng tượng
của họ hiện còn. Đời Gia Long của triều ta, Bùi phương trượng kế đăng, tháp Tịch quang của Sư này nay vẫn còn. Đầu đời Thiệu
Trị, vua tuần du Bắc hà, đổi tên chùa là Trấn Bắc, sắc cho quan tỉnh làm bảng vàng treo, nay còn”. Đó là lai lịch chùa Khai quốc
của thủ đô Hà nội viết vào khoảng sau năm 1851, năm Nguyễn Đăng Giai được bổ làm kinh lược sứ sáu tỉnh miền Bắc, mà Tây hồ
chí nhắc tới. Đây là niên đại chậm nhất xuất hiện trong nó. Về chùa Trấn bắc này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết:
“Chùa Trấn bắc vốn tên là chùa Trấn quốc, ở bên Hồ Tây, phường Yên phụ, huyện Vĩnh Thuận, xây vào khoảng Lê Hoằng Định
(1600 – 1618) đến khoảng Vĩnh Tộ (1619 – 1628) thì trùng tu nên cơ sở trở nên rộng rãi, cảnh trí trở nên đẹp đẽ. Bi ký của Trạng
nguyên Nguyễn Xuân Chính viết đang còn. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) triều ta vua ban cho chùa 20 lạng bạc. Đến năm Thiệu
Trị thứ hai, vua xa giá đến chơi cúng chùa một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền kẽm, đổi biển chùa làm chùa Trấn Bắc”.
2 Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6 nói: “Vào thời Lý, Trần, đặt trấn Vĩnh Khương, ở Từ liêm”. Về huyện Từ liêm, Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà nội, viết: “Huyện Từ liêm, từ đông sang tây rộng 11 dặm, từ bắc xuống nam rộng 14 dặm, đông đến huyện Vĩnh thuận
một dặm, tây đến địa giới huyện Đan phụng 10 dặm, nam đến địa giới huyện Thanh trì, phủ Thường tín 5 dặm, bắc đến bờ sông
Nhị hà đối diện với địa giới huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh và huyện An lãng, tỉnh Sơn tây 9 dặm. Đời Hán là đất huyện Luy lâu.
Đời Tuỳ đổi làm huyện Giao chỉ. Đường Vũ Đức năm thứ tư (621) cắt ra, đặt tên huyện Từ liêm, rồi đặt Từ châu vì huyện đó có
sông Từ và sông Liêm, nên gọi tên đó. Năm thứ 6 (623) đổi làm Nam Từ châu. Năm đầu Trinh Quán (627) bỏ châu đó đi, đem ba
huyện sáp nhập vào huyện Giao chỉ thuộc Đô hộ phủ. Sau phục nguyên tên huyện chưa rõ đời nào. Đời thuộc Minh, nó thuộc phủ
Giao châu. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc thống hạt của phủ Quốc oai tỉnh Sơn tây. Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. Năm
Minh Mạng thứ 12 (1832) cải thuộc phủ Hoài đức kiêm lý, gồm 13 tổng, 87 xã thôn sở”. Nay là đất huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây.
3
Nhập thất đệ tử, chỉ người đệ tử đắc ý nhất. Ý nghĩa rút ra từ câu “Do giả thăng đường hỷ, vị nhập ư thất giả” của chương Tiên
tiến trong Luận ngữ. Xem Luận ngữ 11 tờ 3b7. 20 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy.
Hội hỏi: “Ngươi thấy đạo lý gì?”
Sư thưa: “Con đã lĩnh hội”.
Hội hỏi: “Ngươi hiểu như thế nào?”.
Sư đưa nắm tay lên, thưa: “Bất tiếu là cái này đây”.
Hội liền bảo thôi.
Về sau, Sư mất vào năm Bính thìn Hậu Chu Hiển Đức thứ 3 (956). 21 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Tư (2 ng ư ờ i, 1 ng ư ờ i khuy ế t)
5. Đại Sư Khuông Việt (933 – 1011) (Trước tên là Chân Lưu)
Chùa Phật Đà, làng Cát lợi, Thường lạc1
. Người Cát lợi, họ Ngô, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế.
Sư tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng, nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học
Trụ Trì đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai quốc, thọ giới Cụ túc2
. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm
hiểu yếu chỉ của Thiền. Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến,
Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng thống3
. Năm Thái Bình thứ hai (917). Vua ban hiệu Khuông
Việt đại sư4
.
Hoàng đế Lê Đại Hành càng kính trọng Sư hơn, phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư đều
dự vào.

1 Tây hồ chí, phần Đền miếu, nhân nói về Sóc Thiên vương ghi rằng: “Vương là người ấp Sóc sơn làng Thường lạc” rồi chú là “nay
huyện Kim anh”. Chú như thế có lý hay không? Chúng tôi nghĩ là có lý, vì hai cớ sau. Thứ nhất , trong truyện của Thiền sư Trí Bảo
đời thứ 11 dòng Kiến sơ, thì Bảo ở chùa “Thanh tước núi Du hỷ làng Cát lợi hy, Thường lạc”. Bây giờ, cứ Đại nam nhất thống chí,
tỉnh Bắc ninh, thì “núi Thanh tước ở tại phía tây huyện lỵ Kim anh 14 dặm, giáp giới huyện An lãng, tỉnh Sơn tây”. Núi Thanh tước
này, chúng tôi nghĩ là núi Du hý mà Khuông Việt đã đến dựng chùa, và chùa Thanh tước mà Trí Bảo ở, rất có thể là do Việt dựng.
Sau này, có lẽ vì tên Du hý không được nghiêm trang cho lắm, nên người ta đã lấy chùa Thanh tước, để gọi nó. Chứng cớ thứ hai
là cái bia chùa Báo ân tìm thấy tại xã Tháp miếu, huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Trong phần ghi giới hạn ruộng của
chùa này, ta có câu: “Đông cận chí Lợi hy xã vi giới phía đông gần đến xã Lợi hy làm giới hạn. Cứ vào đây thì không cần phải bàn
biết ruộng chùa Báo ân lúc đó gồm những gì, ta có thể kết luận rằng, xã Lợi hy ở phía đông huyện Yên lãng và xã Tháp miếu, nếu
xã Lợi hy đấy là thuộc làng Cát lợi hy của Thường lạc nói trên. Quận Thường lạc đời Lý như vậy chắc chắn phải bao gồm phần đất
của huyện Kim anh ngày nay.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: “Huyện Kim anh ở về phía tây hơi xiên nam của phủ Thiên phúc 20 dặm, từ đông sang
tây rộng 36 dặm, nam xuống bắc rộng 42 dặm, từ huyện lỵ sang phía đông tới địa giới huyện Đông ngạn phủ Từ sơn 22 dặm,
phía tây tới địa giới huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây 14 dặm, phía nam tới địa giới huyện Đông ngạn, phủ Từ sơn 9 dặm, phía bắc
đến địa giới huyện Phổ an tỉnh Thái nguyên 33 dặm. Đầu đời Lê Quang Thuận đặt gọi là Kim hoa. Năm Thiệu Trị thứ nhất triều ta
(1841) cải làm Kim anh, lãnh 9 tổng 33 xã thôn”. Huyện Kim anh ngày nay thuộc tỉnh Vĩnh phúc.
2
Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập thể của tổ chức Phật giáo. Thường
thường, những kỷ luật ấy gồm số những điều luật, mà tùy theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm mấy chục
giới cho đến 500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người nào chịu nhận số những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo
nếu là đàn ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn bà, và họ là những người đã thọ Cụ túc giới.
3 Đại Việt sử lược 1 tờ 17a9 nói: Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ”. Toàn thư B1
tờ 3b6-8 cũng ghi: Năm Thái Bình thứ 2 bắt đầu định phẩm cho văn võ Tăng đạo”, nhưng còn thêm: “Tăng thống Ngô Chân Lưu
được vua ban hiệu là Khuông Việt đại sư”. Cứ vào đây thì cũng có thể thấy, dù cả hai bộ sử không ghi rõ năm nào Việt được
phong làm Tăng thống, ta có thể kết luận dễ dàng là, Việt phải được phong làm Tăng thống vào chính năm Thái Bình thứ 2 (971),
bởi vì Tăng thống là một chức quan do triều đình thiết lập trong liên hệ với tổ chức Phật giáo, mà thời Đinh Tiên Hoàng thì đến
năm (971) mới bắt đầu thiết lập những phẩm trật không những cho các quan văn vũ, mà còn cho cả tăng sĩ và đạo sĩ, do đó chức
Tăng thống của Việt cũng phải ra đời vào năm đó.
4 Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của nước ta. Về lai lịch chức này tại Trung quốc, Đại tống tăng sử
lược quyển trung tờ 243a 19b-12 viết: “Về sự bắt đầu của chức này, thì khi nhà Diêu Tần đặt chế độ ở Quan trung, bèn lập nên
Tăng chính để làm người đứng đầu Phật giáo. Khi nhà Ngụy lên ngôi ở đất Bắc, bèn cải làm Tăng thống để thống lãnh sư sãi, tuy
nêu một tên mới, nhưng chức vụ vẫn giữ. Trong khoảng Hậu Ngụy Hoằng Thỉ (396-397), Sa môn Pháp quả ở Triệu quận, giới
hạnh tinh nghiêm, mở trường thuyết pháp, vua Thái Tổ trưng làm Sa môn thống. Chức quan Sa môn thống bắt đầu từ Pháp Quả
vậy. Lại có Sa môn Sư Hiền người Kế tân, vốn dòng vương gia đông du đến đất Lương, rồi lại tới kinh đô, gặp lúc Phật pháp bị bãi
bỏ (440 – 451), bèn tạm làm nghề bốc thuốc để giữ đạo không đổi. Đến ngày Phật pháp trùng hưng lại làm Samôn cùng với năm
người bạn. Vua Ngụy (Văn Thành Đế 452 – 465) tự mình cắt tóc cho Sư, xuống chiếu cho Hiền làm Tăng thống. Chức quan Tăng
thống bắt đầu từ Sư Hiền vậy. Đến khi nhà Tùy trùng hưng Phật giáo, thay đổi hoàn toàn phong tục, mời Tăng Mãnh ở chùa Đại
hưng thiện làm Tuỳ quốc đại thống. Lại có Sa di Hiệu Thánh, trước ở Lạc dương giữ chức Quốc tăng đồ sau mời vào Nghiệp, đổi
làm Quốc thống, tức Tăng thống của một nước vậy. Nhà Tống nhân theo chế độ nhà Đường, bỏ Tăng thống mà lập Tăng lục”.
Ở Trung quốc như vậy, chức Tăng thống bắt đầu với Sư Hiền khoảng từ năm 452 cho đến đời Đường thì bỏ chức đó mà lập nên
chức Tăng lục. ở nước ta Đinh Tiên Hoàng đã thiết trí chức Tăng thống, nhưng đồng thời cũng đặt luôn chức Tăng lục, vì năm 971
này, sau khi ban Khuông Việt đại sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu, thì cùng lúc đã cử Trương Ma Ni làm Tăng lục. 22 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Một lần Sư đi chơi núi Vệ linh1 ở quận Bình lỗ2
, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để
ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải
đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: “Ta là Tỳ Sa Môn thiên vương3
,
những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật
pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết”. Sư kinh hãi thức dậy, nghe
trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng
mười trượng, cành lá sum sê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc
tượng như đã thấy trong mộng, để thờ.
Năm Thiên Phúc thứ 1 (981), binh Tống đến quấy nước ta. Vua biết rõ việc đó, liền sai Sư đến
bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu ninh4
, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy
nhót, giặc bèn [9a1] tan vỡ1
.

1 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 4b2-3 viết: “Núi Vệ linh ở tổng Kim hoa bàn cứ giữa một số xã, trước núi có một ngọn hình
giống cái lư hương, đầy núi có hàng ngàn cây tùng xanh biếc, quang cảnh u tịch. Tương truyền (Phù Đổng) Thiên Vương phá giặc
Ân rồi, đến đó, cưỡi ngựa sắt bay lên trời mà đi mất, để lại một chiếc áo treo ở cây si. Nay bốn xã xung quanh núi đều phụng thờ.
Miếu ở dưới chân núi, rất có tiếng thiêng”.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, viết: “Núi Sóc ở xã Vệ linh huyện Kim anh, cũng gọi là núi Vệ linh. Địa dư chí của Nguyễn
Trãi nói, sông Thiên đức và Vệ linh Kinh bắc. Vệ linh tức là núi đó. Tương truyền đó là chỗ Phù Đổng Vương đánh ngựa bay lên
trời, nay có miếu thờ. Thế núi quanh co, phía trước có một ngọn giống như hình cái lư hương, cách bên bờ núi, cây cối xanh tốt,
quang cảnh u tịch.
Núi Vệ linh như vậy cũng có tên núi Sóc ở tại huyện Kim anh tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Truyện Thiền sư Trường Nguyên thuộc đời
thứ 10 dòng Kiến sơ của Thiền uyển tập anh nói Nguyên ở tại chùa Sóc thiên vương núi Vệ linh chợ Bình lỗ. Chùa này rất có thể là
chùa do Khuông Việt dựng nên.
2
Cái tên Bình lỗ xuất hiện xưa nhất trong Toàn thư B4 tờ 2b4-8 trong trận đánh với nghĩa quân Thân Lợi vào tháng 5 năm 1141.
Nhưng phải đợi đến câu nói của Trần Quốc Tuấn rằng: “Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, Nam phương mới mạnh, Bắc
phương mệt yếu trên dưới cùng một chí, dân tâm không rã rời, đắp thành Bình lỗ, mà phá quân Tống”, mà Cương mục chính biên
8 tờ 36b2-4 cũng ghi lại, rồi chú về thành Bình lỗ như : “Thành Bình lỗ, Cựu sử không ghi, chỉ Địa dư chí của Nguyễn Trãi chú
rằng triều Lý đào sông Bình lỗ để tiện việc đi lại ở Thái nguyên”. Nhưng khảo Địa dư chí của Nguyễn Trãi, thì lời chú vừa dẫn
không phải do Nguyễn Trãi hay những người thời ông viết ra. Ngược lại, nó do Nguyễn Thư Hiên của thế kỷ thứ 18 chép lại từ
chính sử. Hiên đậu tiến sĩ năm 1721. Khảo chính sử tức Toàn thư B3 tờ 12a6 thì trong thời nhà Lý không bao giờ có việc đào một
con sông nào tên Bình lỗ hết. Ngược lại chính vào thời Lê mới xảy ra việc ấy. Toàn thư B11 tờ 77a và Cương mục chính biên 18 tờ
14b 4-8 viết: “Năm Thái Hòa thứ 7 (1449) sai tư khấu Lê Khắc Phục, đốc lĩnh Bách tác chư cục, Tứ sương thiên khai vệ quân và
binh dân trấn Thái nguyên đào sông Bình lỗ từ Lãnh canh đến cầu Phù lỗ thông với Bình than để tiện việc đi lại ở trấn Thái
nguyên”. Như vậy, chắc Nguyễn Thư Hiên đã cứ vào đoạn này để nói tới chuyện nhà Lý đào sông Bình lỗ, bởi vì về một mặt Toàn
thư B3 tờ 12a-6 có ghi là vào “năm Quảng Hựu thứ 5 (1089) đào sông Lãnh kênh, và mặt khác đoạn vừa dẫn lại bảo đào sông
Bình lỗ bắt đầu từ Lãnh canh. Nói khác đi, theo Hiên và cứ vào hai đoạn đó thì sông Lãnh kênh cũng là sông Bình lỗ. Vậy sông
Bình lỗ là sông nào? Cứ vào đoạn Toàn thư vừa dẫn, ta phải đào sông Bình lỗ từ Lãnh canh tới cầu Phù lỗ thông với Bình than.
Thế thì cầu Phù lỗ ở đâu? Ngày nay tại huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh Phú ta có một làng tên Phù lỗ. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc
ninh, không những xác nhận có làng tên Phù lỗ, mà còn nói làng này có chợ, gọi là chợ Phù lỗ. Nó ở huyện Kim anh. Làng này
hiện có một con sông chạy ngang qua, đó là sông Cá lồ. Vậy sông Bình lỗ chắc là sông Cá lồ này, chứ không gì khác. Quận Bình lỗ
từ đó phải gồm phần đất con sông này chảy qua, mà ta có thể tưởng tượng là rơi vào khoảng huyện Kim anh ngày nay.
3
Theo vũ trụ quan huyền thoại Phật giáo tiểu thừa thì vũ trụ chia làm ba cõi, đó là cõi có tham dục, cõi có hình tướng, cõi không
hình tướng. Cõi có tham dục hay dục giới lấy núi Tu di làm trung tâm, và quả đất chúng ta ở về phía nam ngọn núi ấy, tên là Nam
diêm phù đề. Núi đó có bốn tầng. Tầng thứ nhất cho đến tầng thứ ba là chỗ ở của những loài dạ xoa. Tầng thứ tư là chỗ ở của
bốn vị vua trời hay Tứ Thiên Vương ở tại bốn phương của tầng ấy, mà về phía bắc thì do vị vua tên Tỳ Sa môn Thiên Vương, tức
phiên âm của chữ vaisravâna, cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương. Cuối cùng trên chóp đỉnh tu di là cõi trời Tam Thập Tam Thiên
hay cũng gọi là trời Đao lợi hay Đâu suất, nơi ngự trị của Đế Thích. Đế Thích như vậy theo huyền thoại này cai quản cõi Dục giới.
Xem Trường a hàm 20 tờ 39c.
Những tên thần nói đến trong truyện đây là dẫn từ thần thoại vừa kể.
4 Đại Việt sử lược 1 tờ 19ab-9: “Năm Thiên phúc thứ nhất (981) mùa xuân tháng ba, Hầu Nhân Bảo đem quân đến Lãng Sơn, Trần
Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, vua tự làm tướng đem quân chống lại, đóng cọc ngăn sông. Quân Tống
rút lui về giữ sông Ninh, Vua sai quân đánh giả hàng, để dụ Nhân Bảo lên phía Bắc. Nhân Bảo thua, Bảo bị bắt và chém. Khâm Tộ
v.v … nghe Nhân Bảo thua, rút lui”. Toàn thư B1 tờ 14 a1-7 viết: “Năm Thiên Phúc thứ hai (981) mùa xuân tháng ba Hầu Nhân
Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng sơn. Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông Bạch đằng. Vua tự làm tướng đem quân
chống lại, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông. Quân Tống rút lui, lại đến sông Chi lăng. Vua sai quân sĩ giả hàng để dụ Nhân Bảo,
nhân thế bắt được Bảo, chém đi. Khâm Tộ v.v… nghe quân thủy bại, rút quân về. Vua đem các tướng đuổi đánh. Quân Khâm Tộ
thua lớn, chết hơn phân nửa, thây rải đầy đồng, bắt tướng chúng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đem về Hoa lư”. 23 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ nước ta. Bấy giờ pháp sư Đỗ
Thuận cũng có tiếng tăm lừng lẫy. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở
Giang khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi bàn văn chương, bèn đem thơ tặng, có câu: “Ngoài trời lại có trời soi
rạng”. Vua đưa hỏi Sư. Sư thưa rằng: “Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với chúa nó không khác “. Khi
Giác trở về, Sư làm một bài thơ nhan đề Vương lang qui 2 để tin đưa. Bài từ như sau:

Cương mục chính biên I tờ 16b5 – 18a1 cũng chép chuyện này. Về sông Chi lăng, nó chú rằng: “Chi lăng thuộc Ôn châu phủ
Trường Khánh là ở đầu địa giới tỉnh Lạng sơn. Sông Chi lăng là sông của xã Chi lăng”.
Xã Chi lăng hiện nay ở về phía nam huyện Chi lăng tỉnh Lạng sơn, có dòng sông Thương chảy ngang qua nó ở khúc ải Chi lăng sát
dưới chân dãy núi đá vôi có tên Cai kinh, rồi xuôi dòng xuống sông Lục đầu. Vậy sông Chi lăng của Toàn thư tức là sông Thương
ngày nay. Còn sông Ninh của Đại Việt sử lược là sông nào? Con sông này chắc là sông Chi ninh, vì Toàn thư B1 tờ 30a8-9 ghi
chuyện Lê Ngọa Triều cho cột người nơi mạn thuyền, rồi cho người chèo qua chèo lại để cho cá sấu ăn, ở tại sông Ninh, nhưng
Đại Việt sử lược 1 tờ 21b4 lại ghi sự việc đó xảy ra ở sông Chi Ninh. Vậy nó cũng là sông Hữu ninh, mà Thiền uyển tập anh ở đây
nói tới. Chữ chi và chữ hữu tự dạng rất giống nhau, và chữ hữu của bản in Thiền uyển tập anh ngày nay là một bản khắc lộn của
chữ chi bởi vì cứ vào đoạn trích của nó trong Việt điện u linh tập tờ 42 thì nó ghi là Chi giang. Như vậy, sông Ninh là sông Chi
ninh, và cứ những dẫn chứng trên thì nó phải là sông Chi lăng. Sông Chi ninh có lẽ đến cuối đời Lê vì kỵ húy của Lê Trang Tôn(
(1533 – 1548) là Ninh, nên đã sửa lại là Chi lăng, nhân ở cạnh đấy đã có ải Chi lăng và xã Chi lăng.
1
So sánh đoạn này với đoạn trích của nó nhan đề Sóc thiên vương sự tích ký do Nguyễn Văn Chất (1422 – ?) thêm vào trong Việt
điện u linh tập tờ 39, mà sau này một “nho sĩ họ Đoàn” đã chép lại vào quyển thứ ba của Lĩnh nam trích quái truyện tờ 115 vì
truyền bản cũ chứa nhiều chữ sai, nên tôi xin phiên âm ra đây để tiện việc đối chiếu:
“Án Thiền uyển tập thơ, tích Lê Đại Hành thời, hữu Khuông Việt thái sư bất sỹ, thường nhàn du Bình lỗ quận Vệ linh sơn, ái kỳ
cảnh trí u nhã, dục sáng am cư chi. Nhất nhật du lãm sơn am, giả mỵ kiến, thân phi kim giáp, thủ chấp kim thương, tùng giả sổ
thiên nhân tự xưng thị Sóc Thiên Vương, quản lĩnh Dạ Xoa thần linh, phụng Thượng đế mạng, bảo thử thổ hộ phương dân, dự
quân hữu duyên, cố tương kiến sĩ. Thái sư kinh giác, văn sơn trung hát thanh, nhân nhập thâm sơn, kiến nhất đại mộc phồn mậu,
thụy khí khả ái, nải tức kỳ xứ lập miếu, phạt thủ đại mộc tố thần tượng, như mộng trung sở kiến giả.
Thiên Phúc niên gian, Tống binh nhập khấu. Đại Hành hoàng đế tố văn kỳ sự đảo. Thời Tống binh trú Tây kết thôn nội, lưỡng
quân vị tiếp. Hốt kiến nhất nhân, thân trường trượng dư, phi phát nộ mục, tùng giang trung xuất, ba đào dũng kích. Tống binh
đại cụ nhi thối. Tống tướng quân Quách Quỳ nãi ban Sư bắc hồi. Đại Hành mạng tăng lập từ vũ dĩ tạ chi”.
Đoạn trích trong Việt điện u linh tập, trừ hai câu cuối cùng mà Nguyễn Văn Chất hay những người sao chép về sau đã thêm vào
một cách sai lầm, tương đối trùng hợp với bản văn của Thiền uyển tập anh. Bản trích của nho sĩ họ Đoàn trong Lĩnh nam trích
quái, dù dựa vào Nguyễn Văn Chất, đã có nhiều xuất nhập văn cú, đặc biệt là đoạn về rút quân về giữa Chi ninh giang của tướng
Tống. Nó bảo: “Quân Tống bỗng thấy một người xuất hiện giữa sóng gió, cao hơn mười trượng, tóc tai dựng ngược lên, trừng
mắt mà nhìn, ánh sáng thần chói lọi. Quân Tống thấy mà khiếp sợ, rút về giữa Chi (nó viết là kỳ) giang”.
2 Ngọc lang quy, mà bản đời Nguyễn tờ 5b10 gọi Vương lang quy, là tên Khuông Việt đặt cho bài từ, chứ đúng ra nó phải có tên
Nguyễn lang quy, bởi vì thể tài, âm luật và nhạc điệu, của nó hoàn toàn đồng nhất với Nguyễn lang quy . Nguyễn lang quy chỉ sự
từ biệt Đào Nguyên để trở về trần của Lưu Thần và Nguyễn Triệu. Chính nó dựa tích đó mà có tên, và từ đấy nó thường là một
thứ nhạc từ tin đưa. Theo từ luật 4 tờ 19b2-5 thì âm luật của loại từ Nguyễn lang quy thế này:
x b x t t b b
x b x t b
x b x t t b b
x b x t b
b t t t b b
x b x t b
x b x t t b b
x b x t b
trong b là vần bằng , t là vần trắc và x là có thể là bằng hay trắc tùy ý. Như vậy bài từ theo điệu Nguyễn lang quy đúng là có 4
vế, mỗi vế hai câu, mà câu đầu có 7 chữ và sau 5 chữ. Nhưng riêng câu đầu của vế thứ 3 thì chỉ có 6 chữ, nên tổng cộng số chữ
của bài từ loại đấy tất có cả thảy 47 chữ. Bây giờ cứ vào âm luật vừa nêu, ta thử xét lại bài từ Ngọc lang quy đó các bản chép lại
của Khuông Việt. Bản in đời Lê, đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh báo ngã hoàng. 24 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Trời lành gió thuận, gấm buồm dương
Thần tiên về để hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình ray rứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu Thượng hoàng1
.

Toàn thư B1 tờ 18b5 – chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Diêu vọng thần tiên phục đế vương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh tấu ngã hoàng.
Việt sử tiêu án 1 tờ 70a3-6 chép giống y như Toàn thư, chỉ trừ câu thứ nhất nó chép thiếu chữ quang và câu thứ bảy nó đối hai
chữ nam cương thành biên phương. So hai bản chép Thiền uyển tập anh và Toàn thư với bản âm luật nêu trên thì hiển nhiên bản
chép của Thiền uyển tập anh tỏ ra dư một chữ, trong khi bản Toàn thư dư đến hai chữ. Xét ra, câu thứ năm của bản Thiền uyển
tập anh có đến bảy chữ, trong khi theo luật thì chỉ có sáu chữ thôi, như vậy dư một chữ. Bây giờ, so câu đó với câu tương đương
trong Toàn thư thì quả nó dư một chữ, và chữ đó là chữ nhân. Do đó, sau khi loại bỏ chữ nhân ra khỏi nó và chúng tôi nghĩ chữ
ấy là một diễn tự từ chữ trường đi trước nó mà ra, bản chép Thiền uyển tập anh tỏ ra hoàn toàn phù hợp với bản âm luật trên.
Bản chép Toàn thư , ngược lại, đi thêm vào câu thứ hai 2 chữ “diêu vọng”, và như vậy câu đấy có 7 chữ. Chúng tôi hiện chưa truy
ra đâu là nguyên do của sự thêm hai chữ đó. Song cứ vào bản âm luật trên thì chúng dĩ nhiên là không phù hợp, và không phù
hợp ngay cả với bản chép Thiền uyển tập anh. Vì thế, chúng tôi đề nghị nên lấy bản Thiền uyển tập anh, sau khi đã loại bỏ chữ
nhân trong câu 5, làm chuẩn cho việc nghiên cứu lịch sử từ và nhạc điệu từ Việt Nam.
Có thể nói bài Ngọc lang quy đây là bài từ xưa nhất thuộc loại Nguyễn lang quy hiện còn, không những của nước ta, mà còn của
Trung quốc nữa, bởi vì những bài từ Nguyễn lang quy xưa nhất hiện còn ghi trong các sách từ như Tống lục thập danh gia từ,
Tuyệt diêu hảo từ thiêm, Từ tổng v.v… là câu Aâu Dương Tu và Tô Thức, Hoàng Đình Kiên và Yên Cơ Đạo. Trong Giáo phường ký
tờ 5b7, Tồi Lịnh Khâm có ghi Nguyễn lang mê giữa những tên khúc không lưu hành trong giáp phường đời Đường. Chúng tôi nghi
Nguyễn lang mê đấy là tiền thân của Nguyễn lang quy. Về nhạc điệu bạch thạch đạo nhân ca khúc 2 tờ 2a8 liệt nó vào loại lịnh,
nhưng đã không ghi lại nhạc bản của nó. Cho nên, ngày nay ta khó biết đích xác nó phải hát như thế nào, dầu có sách nói nó
thuộc chính khúc cung nam lữ v.v …
1 Toàn thư B tờ 18 a5-b8 viết: “Năm Đinh hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ, vua sai Pháp sư
tên Thuận giả làm người chèo đò, đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Lúc ấy, gặp khi có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, Giác vui
ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng
Ngoảnh mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, cũng tiếp vần đọc:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng lấy làm lạ. Đến khi về tới sứ quán, Giác làm một bài thơ gởi cho Sư rằng :
May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợi sứ Giao châu
Đông đô đôi biệt dòng lưu luyến
Nam việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả buồm đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm trăn ngắm thu.
Thuận đem bài thơ dâng cho vua. Vua mời Sư Ngô Khuông Việt đến xem. Không Việt nói: ” Bài thơ này có ý tôn trọng Bệ hạ cùng
với chúa nó không khác”. Vua khen ý đó, tặng thưởng càng nhiều. Giác giã từ trở về, vua xuống chiếu cho Khuông Việt viết một
khúc từ đến tin đưa. Bài từ thế này:
“Trời thanh gió thuận buồm gấm trương
Xa ngắm thần tiên về đế hương
Muôn trùng sông núi vượt đại dương
Xa xôi hút dặm đường
Lòng lưu luyến ngỏ ly trường 25 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sau Sư lấy cớ già yếu, xin từ về núi Du hí ở quận mình1
, lập chùa trụ trì; người học tìm tới đông
đảo. Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: “Thế nào là chung thủy của sự học đạo”.
Sư đáp: “Thủy chung không vật, diệu hư không
Hiểu được chân hư, thể tự đồng”.
Bảo tiếp: “Làm sao đảm bảo được?”.
Sư đáp: “Không có chỗ cho nguời xuống tay”.
[9b1] Bảo nói: “Hòa thượng nói xong rồi”.
Sư lại hỏi: “Ngươi hiểu gì”.
Bảo bèn hét lên.
Ngày 15 tháng hai năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) triều Lý, khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ
rằng:
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lủa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng.
Nói kệ xong, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi {Có nơi nói thọ 79 tuổi}2
.

Cầm tay Sư hỏi han
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu thượng hoàng”.
Giác vái mà trở về.
Xem thêm Việt sử tiêu án 1 tờ 69b37a6 có chép đủ và y hệt những bài thơ ở đây. Cương mục chính biên 1 tờ 22b7-23a2 của năm
Đinh hợi Thiên Phúc thứ 7 không ghi việc Lý Giác đến san phong cho Lê Đại Hành. Đại Việt sử lược cũng thế.
1
Núi Du hý của quận Thường lạc này chắc là núi Thanh tước của huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Truyện của Thiền sư Trí
Bảo thuộc đời thứ 11 dòng Kiến sơ nói Bảo ở tại chùa “Thanh tước, tại núi Du hý, làng Cát lợi hy, Thường lạc”. Như vậy, ngay thời
Lý đã có chùa Thanh tước tại núi Du hý. Nó có lẽ do Khuông Việt dựng lên. Đất quận Thường lạc ngày nay gồm một phần nếu
không là toàn bộ vào huyện Kim anh ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh nói: “Núi Thanh tước ở phía Tây huyện Kim
anh cách huyện lỵ 14 dặm, giáp giới với huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây”. Cái tên Du hý có vẻ không được trang nghiêm lắm, nên có
người đã đổi nó thành Thanh tước, như tên nó ngày nay.
2
Cứ tiểu sử này thì Khuông Việt được phong làm Tăng thống lúc 40 tuổi. Nhưng theo Đại Việt sử lược1 tờ 17a10 cũng như Toàn
thư B1 tờ 3b7-8 thì đến năm Thái Bình thứ hai, nghĩa là vào năm 971 mới có việc định phẩm trật của văn võ và Tăng đạo. Cho
nên, chức Tăng thống của Việt không thể phong trước năm 971.
Vậy, Việt phải sinh vào năm 930. Bấy giờ, nếu Việt mất vào năm Thuận Thiên thứ hai nhà Lý, tức năm 1011, như thế thì tuổi thọ
của Việt, tính theo tuổi Việt nam, tất phải 82 tuổi. Cả ba bản in triều Lê và Nguyễn đều ghi thọ 52 tuổi, thọ ngũ thập hữu nhị.
Chúng tôi nghĩ chữ “ngũ” chắc chắn là một viết sai của chữ “bát”, một điều rất dễ xảy ra, do thế, đề nghị sửa “thọ ngũ thập hữu
nhị” thành “thọ bát thập hữu nhị” và dịch là “thọ 82 tuổi”. 26 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Năm (2 ng ư ờ i, khuy ế t 1)
6. THIỀN SƯ Đa Bảo
Chùa Kiến sơ, làng Phù đổng, Tiên du. Không biết người đâu, và cũng không biết họ gì. Khi Đại
sư KhuôngViệt giảng dạy tại chùa Khai quốc, Sư đến tham học. Đại sư khen là người gặp việc thì chóng
hiểu, xử sự cẩn thận, nên riêng cho nhập thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bát, tiêu dao ngoại vật. Sau được chùa Kiến sơ, bèn đến
ở đó. Lý Thái Tổ lúc chưa lên ngôi, Sư thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường, bèn bảo: “Chú này cốt
tướng khác phàm, ngày kia làm vua ắt là nó đây”. Vua cả kinh, thưa: “Hiện nay [10a1] đức Thánh
thượng anh minh còn đó, trong ngoài cả nước yên vui, thầy ta sao lại nói lời phải tội tru di này?”.
Sư bảo: “Mệnh trời đã định, người dù muốn trốn cũng chẳng được nào. Giả như lời này mà
đúng, thì mong chớ bỏ nhau”.
Khi Vua lên ngôi, nhiều lần triệu Sư vào cung, hỏi bàn yếu chỉ của Thiền và lễ Sư rất hậu. Cả đến
công việc chính trị của triều đình, Sư đều dự phần giải quyết. Vua xuống chiếu trùng tu chùa Sư1
. Sau
không biết Sư tịch ở đâu.

1
Về việc Đa Bảo đến ở chùa Kiến sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn, truyện Xung thiên dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương
của Việt điện u linh tập tờ 205 viết: “Xét Báo cực truyện và Thế truyền nói, Vương thần thổ địa chùa Kiến sơ giáng sanh. Xưa
Thiền sư Chí Thành (nghi là Cảm Thành) ở chùa Kiến sơ tại làng Phù đổng, lập nhà thờ thần thổ địa ở mé bên phải của chùa làm
chỗ thanh tịnh để niệm Phật tụng kinh. Ngày tháng soi mòn, phần lớn đã làm mất dấu cũ của nó, nên Sa môn thiền sư không do
đâu mà biết được. Thổ nhân ưa thờ quỷ, đốt hương cầu đảo, gọi bậy là dâm từ. Đến khi Thiền sư Đa Bảo trùng tu chùa, cho chỗ
thờ là dâm từ, muốn phá hủy đi.
Một hôm, tại cây cổ thụ của đền thờ thần hiện một bài thơ đề kệ rằng:
Phật pháp ai hay hộ
Giữ đức tại Kỳ viên
Nếu không ta gây giống
Sớm theo xứ khác thiên
Chớ chở Kim cang bộ
Dấu kín Na la diên
Đầy trời người như bụi
Chùa Phật thành oan khiên.
Ngày khác, một bài kệ khác lại hiện ra ở đó, thần ứng ra tám câu viết:
Phép Phật từ bi lắm
Oai quang khắp đại thiên
Muôn thần đều hướng hóa
Ba cõi thảy khắp truyền
Thầy ta ra hiệu lịnh
Tà qủy ai dám trên
Nguyện thường theo họ giới
Lớn nhỏ giữ Kỳ viên.
Sư lấy làm lạ, bèn lại thiết đàn trì giới cho thần, cúng dùng đồ chay lạt. Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long, biết Đa Bảo đức hạnh cao
thượng, cùng làm đàn việt cho Bảo. Khi đã nhận ngôi, tự thân đến chơi chùa Bảo. Thiền sư nghênh giá đi qua bên chùa. Sư lên
tiếng hỏi: “Phật tử, ngươi sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng đức tân thiên tử?”. Thần ứng thanh, hiện ra nơi da cây bốn câu
rằng:
Đức kế càn khôn lớn
Oai thanh yên tám miền
Cõi âm nhờ ân huệ
Nhuần thấm phong Xung thiên.
Thái Tổ thấy đọc, rất biết ý của thần, ban hiệu là Xung thiên thần vương. Bài thơ tự nhiên biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ tạc
tượng của thần, dung nghi hùng vĩ, và tướng hầu tám pho. Sơn thếp xong rồi, lại hiện ở dưới đại thụ một bài thơ bốn câu:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc
Bóng mất trời lên non. 27 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Sáu (3 ng ư ờ i, 1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
7. TRƯỞNG LÃO Định Hương (? – 1075)
Chùa Cảm ứng, Ba sơn1
, phủ Thiên đức2
, Sư họ Lã, người Châu minh3
, gia thế dòng tịnh hạnh.
Thuở nhỏ thọ giáo với Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến sơ. Trải qua 24 năm, môn đồ của Bảo có hơn trăm

Sư đem bài kệ trình vua. Thái Tổ không hiểu nó nói gì. Về sau nhà Lý tám đời thì truyền ngôi cho nhà Trần. Chữ Bát cùng với chữ
Bát giống nhau. Một tám tức như tám. Huệ Tôn tên là Sám, đấy gọi là “trời lên non”. Nó thần diệu như vậy đó.
Truyện Xung thiên chiêu ứng thần vương của Lĩnh nam trích quái truyện cũng trùng trường hợp như vừa dẫn, trừ một số những
sai khác về văn cú và điểm xuất phát, mà theo nó thì chuyện này rút ra từ Cổ pháp ký và Kỷ đức ký. Tuy nhiên cứ Toàn thư B4 tờ
34a4-b1 trong lời bàn của Ngô Sĩ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì nhân vật chính của chuyện không phải là Đa Bảo, mà là Vạn
Hạnh. Liên viết: Thế truyền Lý Thái Tổ lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ pháp đến thăm chùa làng Phù đổng. Có thần nhân
đề thơ trên cột chùa rằng:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.
Sư Vạn Hạnh đem bài thơ dâng lên. Lý Thái Tổ xem, nói rằng: “Việc thần nhân không thể hiểu được”. Người đời truyền tụng nó,
mà không biết nó nói gì. Đến khi họ Lýmất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Bởi vì Huệ Tôn trở lên đến Thái Tổ có tám đời, mà
Huệ Tôn tên Sám, tức trời lên non thì bóng mất”. Như thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra phải là Vạn Hạnh chứ không
phải Đa Bảo. Và cứ vào đấy, thì những bài thơ trên cũng phải là của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm
truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh. Việt sử tiêu án 1 tờ 128a6-9 cũng ghi lại chuyện Lý
Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên.
1 Đây nói Hương ở chùa Cảm ứng tại Ba sơn, nhưng truyện của Viên Chiếu dưới nói: ” Chiếu đến học với Định Hương ở núi Ba tiêu”.
Vậy, Ba sơn tức cũng Ba tiêu sơn. Có lẽ vì sự sai khác vừa thấy, bản in đời Nguyễn thay vì có Ba sơn, nó đã viết Tiêu sơn. Nhưng
cứ sử thì Ba sơn và Tiêu sơn cũng là một. Vạn Hạnh sau khi dựa vào sấm văn để tuyên bố là “nhà Lê đương mất, nhà Lý đương
hưng”, thì “Lý Công Uẩn sợ lời nói đó tiết lộ, sai anh mình đem Vạn Hạnh đi mất”. Đại Việt sử lược 2 tờ 1b3 nói “dấu Vạn Hạnh ở
Ba sơn”. Song Toàn thư B1 tờ 32a6 thì nói “dấu Vạn Hạnh ở Tiêu sơn”. Thì rõ ràng Tiêu sơn của thời Lê trở đi là Ba sơn của thời
Lý Trần.
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a5-6 nói: “Tiêu sơn ở tại xã Tiêu sơn huyện Yên phong, trên có chùa Trường liêu,
triều Lý dựng theo chỗ tu trì của tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh. Lý Thái Tổ đầu thai ở đó”. Đại nam nhất thống chí 38, tỉnh Bắc ninh
viết: “Tiêu sơn ở phía tây nam huyện lỵ Yên phong 14 dặm. Núi có chùa Thiên tâm và chùa Trường liêu. Mẹ Lý Thái Tổ có lần đến
chơi chùa Tiêu sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh ra vua. Quốc sư nhà Lý là Sư Vạn Hạnh có bài sấm cây bông gạo truyền
ra từ nơi đây”. Núi Tiêu sơn như vậy ở tại xã Tiêu sơn, huyện Yên phong tỉnh Hà bắc ngày nay.
Còn về chùa Cảm ứng, Lịch triều hiến chương loại chí cũng như Đại nam nhất thống chí không thấy nói tới. Bộ trước kê ra
một chùa tên Trường liêu cho núi Tiêu sơn. Bộ sau thêm chùa Thiên tâm. Vậy chùa nào là chùa Cảm ứng? Về chùa Trường liêu,
Đại nam nhất thống chí 39, tỉnh Bắc ninh viết: “Chùa Lục tổ tức là chùa Trường liêu. Sử ký nói, Sư Vạn Hạnh trú trì chùa đó, sau
mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm tự đinh, quanh năm cúng thờ”. Nhưng cứ truyện Thường
Chiếu tờ 37b7 thì chùa Lục tổ ở tại làng Dịch bảng phủ Thiên đức, tức làng Đình bảng, huyện Từ sơn hiện nay. Vậy chùa Trường
liêu dứt khoát không phải là chùa Lục tổ. Cứ Cương mục chính biên 2 tờ 7b1 thì chùa Trường liêu tức chùa Tiêu sơn. Còn chùa
Thiên tâm, Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 viết: “Nguyên trước, viện Cảm tuyển, chùa Thiên tâm, châu Cổ pháp có con chó sinh con
sắc trắng có lông đen vằn vện có hai chữ “Thiên tử”, người ta bàn cho rằng đó là điềm năm Tuất sẽ sinh ra một người đại quý.
Vua quả sinh vào năm Giáp Tuất Thái Bình thứ 5″ Chuyện này Đại Việt sử lược 2 tờ 2a5-7 nói xảy ra ở “chùa Ứng Thiên, châu Cổ
pháp”, còn Toàn thư B2 tờ 1b6-2a1 thì ghi nói tại “viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp”. Ngoài ra Toàn thư B2 tờ
1a3 bảo mẹ Lý Công Uẩn thường đến chơi chùa Tiêu sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh Uẩn. Việt sử tiêu án 1 tờ 77b6-8
lại dẫn Ngoại truyện, rồi viết: “Mẹ vua năm tuổi hai mươi, nghèo khổ không chồng, đến nương tựa vị Sa môn già chùa Ứng thiện,
vị Sa môn già cho làm bếp, bèn giả ngủ, lửa tắt, vị Sa môn bỗng chạm đến, kinh hoảng đứng dậy, trong lòng biết mình có thai mà
sinh ra vua”. Cứ vào những dẫn chứng đó thì chùa Tiêu sơn cũng là chùa Ứng thiên , cũng là chùa Ứng thiên tâm, cũng là chùa
Thiên tâm. Từ đấy ta cũng có thể nói chùa Cảm ứng là nó bởi những sai khác tên gọi vừa thấy đồng bởi chùa Ứng thiên tâm. Lại
có viện Cảm tuyển, mà chính truyện của Vạn Hạnh của Thiền uyển tập anh viết thành Hàm toại, nên rất có thể tự nguyên ủy
người ta thường gọi tắt tên chùa là Cảm ứng.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B2 tờ 3a2 nói năm 1010 Lý Thái Tổ “đổi Cổ pháp làm Thiên Đức”. Cương mục chính biên 2
tờ 6b3-6 chú: “Cổ pháp tên châu, từ Đinh về trước là châu Cổ lãm, nhà Lê đổi là Cổ pháp, nhà Lý nâng lên làm phủ Thiên đức, đời
Trần cải làm huyện Đông ngạn, nhà Hậu Lê nhân theo, nay là huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh ấy vậy”. Đại nam nhất thống chí
38, tỉnh Bắc ninh cũng chép vậy. Nhưng rõ ràng phủ Thiên đức đời Lý không chỉ gồm có huyện Đông ngạn, bởi vì Thiền uyển tập
anh ở đấy nói Ba sơn ở phủ Thiên đức, nhưng Ba sơn ngày nay và thời Đại nam nhất thống chí ở tại huyện Yên phong. Vậy tối
thiểu phủ Thiên đức gồm ngoài huyện Đông ngạn ra, còn có huyện Yên phong, và huyện Tiên du nữa.
3
Châu minh là quê hương của bốn vị Thiền sư khác ngoài Định Hương, đấy là Bảo Tính, Minh Tâm, Cứu Chỉ, và Tín Học. Nó cũng là
nơi có chùa Thông thánh, ở đấy Tức Lự đã sống và dạy dỗ học trò. Theo truyện của Tức Lự thì nó thuộc về phủ Thiên đức. 28 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
người , chỉ có Sư cùng với Quốc Bảo Hòa được chọn làm thủ lãnh, nhưng Sư thấu rõ nhất tôn chỉ của
Bảo.
Một hôm Sư hỏi Bảo: “Làm thế nào để thấy được chân tâm?”
Bảo dạy: “Chính ngươi tự phát hiện”.
Sư bỗng nhiên hiểu được yếu chỉ, liền thưa: “Hết thảy đều như thế, chứ có riêng gì tôi”.
Bảo hỏi: “Ngươi đã hiểu chưa?”.
Sư đáp: “Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu”1
.
Bảo dạy: “Nên đem tâm đó mà quyết chắc”
Sư bưng tai, đứng quay lưng lại. Bảo liền quát “Đi”. Sư sụp lạy.
Bảo dạy: “Từ nay ngươi hãy như một kẻ đui điếc trong việc tiếp người”.
Đô tướng thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân khâm phục tài đức của Sư, nên mời về chùa đó ở.
Người học vân tập, dạy dỗ dắt dìu, công Sư không ít.
Ngày mồng 3 tháng 3 năm Canh dần2
Sùng Hưng Đại Bảo thứ 2 (1050) triều Lý Thái Tôn, Sư
nhuốm bệnh, họp chúng để từ biệt, đọc kệ:
“Bản lai không xứ sở3
Xứ sở ấy chân tông
Chân tông huyền như vậy
Huyền hữu tức không không”4
.
Nói kệ xong, Sư lặng lẽ viên tịch.

Truyện của Cứu Chỉ nói Chỉ người Phù đàm, Chu minh. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Phù đàm quê hương
của Quách Tán tiến sĩ khoa 1478 và nói Phù đàm thuộc huyện Đông ngạn, tức huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Cứ vào đồng
nhất này và cứ vào việc Chu minh rất có thể bao gồm cả địa phận làng Phù đàm và vài làng kế cận huyện Từ sơn tỉnh Hà bắc hiện
nay.
1
Nguyên văn: Đệ tử liễu thời hoàn đồng vị liễu. Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu: “Cho nên Tổ sư nói: Biết rồi cũng giống như chưa
ngộ”. Xem Truyền đăng lục 29 tờ 264b25. Xem thêm Long Nha hoà thượng, Cư độn tụng:
Ngộ liu hoàn đồng vị ngộ nhân
Vô tâm thắng bại tự an thần
Tùng tiền cổ đức xưng bần đạo
Hướng thử môn trung hữu kỷ nhân.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 453 a1-2.
2
Nguyên văn: “Sùng Hưng Đại Bảo tam niên Canh dần. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 9a2 và Toàn thư B2 tờ 37b1 thì Canh dần
phải nhằm năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ hai, chứ không phải thứ ba. Chữ tam chắc chắn là một viết lộn của chữ nhị, chỉ cần thêm
một nét thôi. Chúng tôi dịch theo đề nghị sửa sai này.
3 Đồng An Sát thiền sư. Thập huyền đàm:
Diệu thể bản lai vô xứ sở
Thông thân hà cánh hữu tung do.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b9-10.
4
Về ý và từ, rút ra từ định nghĩa Không Không trong Đại trí độ luận. “Những gì là Không Không? Trả lời: Tất cả mọi vật đều Không,
cái Không ấy cũng Không nên gọi là Không Không”
(Hà đẳng vi Không Không? Nhất thiết Pháp Không thời Không diệc Không, thị danh Không Không).
Đại trí độ luận còn định nghĩa thêm: “Không Không là đem Không mà phá vỡ nội Không, ngoại Không phá ba Không đó gọi là
Không Không” (3) Xem Đại trí độ luận 31 tờ 287c24-27 29 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
8. THIỀN SƯ Thiền Lão1
Chùa Trùng minh, núi Thiên phúc2
, Tiên du. Ban đầu Sư đến tham bái Thiền sư Đa Bảo tại chùa
Kiến sơ, lãnh được tâm yếu rồi đến trác tích tại núi ấy3
. Gió thiền càng nổi, kẻ học hàng nghìn, đông đảo
làm cho tòng lâm thịnh vượng.
Vào khoảng Thông Thụy (1034 – 1038), Lý Thái Tôn có lần đến [11a1] chùa và hỏi Sư rằng:
“Hòa thượng ở núi này đến nay được bao lâu?”.
Sư thưa: “Chỉ biết tháng ngày này
Ai hay xuân thu trước”4
Vua hỏi: “Hàng ngày làm việc gì?”
Sư đáp: “Trúc biết hoa vàng đâu cảnh ngoại
5
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân”
Vua hỏi: “Có ý chỉ gì?”
Sư đáp: “Lắm lời không ích về sau”
Vua hoát nhiên như có sở đắc.
Khi sắp sai sứ rước Sư về triều làm cố vấn, thì Sư đã viên tịch trước đó6
. Vua rất buồn tiếc, làm
thơ thương khóc, sai trung sứ ban nhiều lễ hậu, lập đàn trà tỳ, thu linh cốt, xây tháp ở cửa núi, lại sửa
sang rộng rãi chùa Sư, đặt môn đồ lo việc hương hỏa.

1
Thiền Lão đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt. Xem chú thích (2) truyện Lý Thái Tôn. Nhưng có lẽ vì tôn trọng Nguyệt nên chỉ
xưng Thiền Lão, rồi sau thành quen. Nhưng cũng có thể tránh húy Nguyệt của Thiện Đạo quốc mẫu.
2
Núi Thiên phúc này là một ngọn của núi Tiên du, bởi vì truyện của Đạo Huệ ở tờ 23b5 nói Huệ ở “chùa Quang minh, núi Thiên
phúc, Tiên du”, nhưng truyện của Cứu Chỉ ở tờ 16b7 nói Chỉ “vào ở chùa Quang minh núi Tiên du”. Thì núi Thiên phúc là núi Tiên
du, tức núi Lạn kha hay núi Phật tích ở xã Phật tích huyện Tiên du, tỉnh Hà bắc hiện nay. Có lẽ, cái tên Thiên phúc bắt đầu xuất
hiện lúc Lý Thái Tôn xây viện Thiên phúc ở núi Tiên du, mà Toàn thư B2 tờ 29b7 ghi lại vào năm 1041.
3
Từ sơn đây chắc là Tư sơn khắc sai vì tự dạng giống nhau. Hiện tượng này xảy ra nhiều lần trong bản in này. Ngoài ra cứ truyện
của Thiền Lão thì Lão không ở nơi nào khác “chùa Trùng minh núi Thiên phúc, Tiên du”.
4
Tham chiếu câu trả lời của Toàn Phó trong Truyền đăng lục. Có người hỏi Phó: ” Hoà thượng tuổi nhiều ít?” Phó trả lời:
“Thỉ kiến khứ niên cửu nguyệt cửu
Như kim hựu kiến thu điệp hoàng”
(Mới thấy năm qua chín tháng chín
Mà nay lại gặp lá thu vàng.)
Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297b20-21
5
Thúy trúc hoàng hoa. Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu xa, nó nằm ngay trước mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của
Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Trúc biếc xanh xanh, đều là pháp thân, hoa vàng dờn dợn, chẳng gì là chẳng phải Bát nhã”. Xem
Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
6
Cứ vào đây thì hình như Thiền Lão phải viên tịch dưới thời Lý Thái Tôn. Nhưng truyện của Quảng Trí ở tờ 18a9-10 nói: “Năm đầu
Chương Thánh Gia Khánh (1059) Sư bỏ đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên du”, thì rõ ràng Lão không thể viên tịch dưới triều
Lý Thái Tôn được, bởi vì Chương Thánh Gia Khánh là niên hiệu của Lý Thánh Tôn. Lý Thái Tôn mất năm 1054. 30 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Bảy (7 ng ư ờ i, khuy ế t 1)
9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 – 1090)
Chùa Cát tường, kinh đô Thăng Long, Sư họ Mai, tên Trực, người Long đàm1
Phúc đường2
, là
con người anh bà Linh Cảm thái hậu nhà Lý3
. Thuở nhỏ thông minh hiếu học, nghe đồn vị trưởng lão tại
chùa Mật nghiêm4
quận mình xem tướng giỏi, nên đến xem thử cho biết. Vị trưởng lão nhìn kỹ [11a1]
rồi bảo: “Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì
việc thọ yểu khó bảo toàn”. Sư cảm ngộ, giã từ cha mẹ, đến núi Ba tiêu theo học với Định Hương, hầu
hạ nhiều năm, nghiên cứu Thiền học, Sư thường trì kinh Viên giác, rõ thấy được phép Tam quán5
. Một
tối trong lúc thiền định, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy,

1
Tức huyện Thanh trì. Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 nói: “Huyện Thanh trì, xưa gọi là Thanh đàm” Đại nam nhất thống
chí, tỉnh Hà nội, nói: “Huyện Thanh trì xưa là châu Long đàm thuộc phủ Giao châu, Lê Quang Thuận đổi lại cho lệ thuộc vào phủ
thống hạt. Đời Trung Hưng tránh tên húy mới đổi là Thanh trì”. Phương đình địa dư chí 5 nói: “Huyện Thanh trì xưa là Long đàm
nhà Minh đổi làm Thanh đàm thuộc châu Phúc yên, Lê Trung Hưng đổi làm Thanh trì, lại đổi chữ Thanh ba chấm thủy thành chữ
Thanh không có ba chấm thủy, lĩnh mười hai tổng, 100 xã thôn sở”. Hoàng minh thực lục ghi: “Ngày mồng một Quí tị tháng sáu
năm Vĩnh lạc thứ năm (1407) đổi huyện Long đàm xưa ra làm Thanh đàm”. Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 viết: “Huyện
Thanh trì xưa gọi là Thanh đàm, đời Lê Trung Hưng vì tránh húy của Thế tôn (là Đàm) cải làm Thanh trì”. Nay là huyện Thanh trì,
tỉnh Hà đông.
2
Phúc đường vì bao gồm Long đàm, tức phải gồm huyện Thanh trì và một số huyện khác, mà trong đó rất có thể nhất là huyện
Thượng phúc ngày nay. Cái tên Phúc đường cho đến thời Trần vẫn còn dùng. Thầy của Tuệ Trung Thượng Sỹ là Tiêu Diêu, quê
quán ở Phúc đường. Thượng sĩ ngữ lục tờ 31b7-32a3 còn chép một bài thơ của Tuệ Trung tả cảnh vật Phúc đường, nhan đề Phúc
đường cảnh vật:
Phúc đường cảnh trí đã sum vầy
Nhờ ngọn gió thiền mát mẻ vây
Lơ thơ dậu đổ măng gầy mọc
Vắng vẻ sân sâu thông dại đầy
Chưa nhằm lúc thới người hiền hiện
Hãy thích rừng sâu thú quý đây
Sớm muộn trời già khai Phật nhật
Mận đào khắp ngõ ánh xuân say.
3
Tức là mẹ của Lý Thánh Tôn. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 viết: “Long Thụy Thái Bình năm thứ nhất (1054) tôn mẹ Mai Thị làm Linh
Cảm thái hậu”. Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh xuất bản, 1966, tr 422 và 432) vì không nhận ra
điều vừa dẫn tưởng lầm Linh Cảm thái hậu là Linh Nhân thái hậu, nên đã hai lần viết “Sư Viên Chiếu cháu Thái hậu Linh Nhân”
hay “Sư Viên Chiếu là con anh thái hậu _ Lan”. Thực ra, Đại Việt sử lược là cuốn sử duy nhất nói thái hậu Linh Cảm là mẹ của Lý
Thánh Tôn. Các cuốn sử khác như Toàn thư B2 tờ 39b1 và Cương mục chính biên 3 tờ 21a1 thì ghi: “Tôn mẹ Mai Thị làm Kim
Thiên hoàng thái hậu”. Đại Việt sử lược là một cuốn sử đời Trần ghi là thái hậu Linh Cảm, thì không biết Toàn thư đã lấy cái tên
Kim Thiên hoàng thái hậu từ đâu?
4
Truyện của Nguyện Học ở tờ 35b7 có nói Học “nhỏ theo học với Viên Trí chùa Mật nghiêm”. Nhưng Viên Trí chùa Mật nghiêm này
tất không phải là vị trưởng lão chùa Mật nghiêm ở đây, bởi vì Nguyện Học mất năm 1175 thì dù Học có sống tới 95 tuổi đi nữa,
Viên Trí bấy giờ mới là người cùng thế hệ với Viên Chiếu mà thôi. Chiếu sinh năm 999 và mất năm 1090. Do thế, vị trưởng lão
chùa Mật nghiêm ở đây rất có thể là thầy của Viên Trí.
5
Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam
ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna). Samatha nguyên nghĩa nó là dừng nghỉ, nghĩa là, làm cho tâm hồn tán loạn, dừng
nghỉ lại một chỗ. Do sự thanh trừng các ý niệm sai lầm và hiểu được sự vọng động của các thức, “trí tuệ thanh tịnh phát sinh,
thân tâm khách trần theo đấy mà mất hẳn, từ đó bên trong cảm thấy tĩnh tịch nhẹ nhàng. Do sự tịch tĩnh đó nên tâm của các Như
Lai ở trong mười phương thế giới được hiện rõ như bóng ở trong gương. Phương tiện đó gọi là sa ma tha”. Samàpatti nguyên
nghĩa là để vào một nơi, tập trung vào một chỗ, nghĩa là “đem cái tâm giác ngộ thanh tịnh, hiểu biết rằng tâm tính và căn trần
đều do huyễn hóa mà dấy lên các huyễn để trừ huyễn, biến ra các huyễn để phơi bày mọi thứ huyễn, nên bên trong phát ra lòng
đại bi nhẹ nhàng. Phương tiện đó gọi là tam ma bát đề”. Dhyàna nguyên nghĩa là suy nghĩ, chiêm nghiệm nghĩa là, “biết rõ rằng
thân tâm đều trở ngại vì không biết sự giác ngộ sáng suốt là không dựa vào các thứ ngăn che, vĩnh viên vượt qua được thế giới
có ngăn che và không ngăn che, phiền não và niết bàn cũng không còn vướng mắc nhau, thì niềm nhẹ nhàng tịch diệt phát ra bên
trong phương tiện đó gọi là thiền na”. Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh ĐKT 842 tờ 917c14 tờ 918a4. 31 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết
1
, sâu rõ ngôn ngữ tam muội
2
, thuyết giảng
lưu loát. Sau đó, Sư đến bên tả kinh thành dựng chùa để ở. Người học qui tụ đông đảo.
Có tăng hỏi: “Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?”
Sư đáp: “Cúc trùng dương dưới dậu
Oanh thục khí đầu cành3

Lại hỏi: “Cảm ơn, nhưng người học này không hiểu xin thầy dạy lại”.
Sư đáp: “Ngày thì ác vàng dọi
Đêm đến thỏ bạc soi”
Tăng lại hỏi: “Chân ý Sư đã rõ,
Máy huyền ấy thế nào?”
Sư đáp: “Bưng chậu nước đầy không cẩn thận
Một phen vấp ngã hối mà chi?”
Vị tăng nói: “Cảm ơn thầy”.
Sư chỉ nói: “Sóng sông chìm chớ tát
[12a1] Gieo mình tự đắm thôi”.
Lại hỏi: “Thiếu Thất, Ma kiệt rất huyền, từ xưa đến nay, ai nối nhau làm chủ?”4
.
Sư đáp: “Sáng tối tượng trời do quạ thỏ
Lõm lồi hình đất nọ núi sông”5
Lại hỏi: “Thế nào là căn nguyên đại đạo thẳng đường đi?”

1 An nam chí nguyên 3 tờ 209 dẫn đoạn này: “Thiền sư Viên Chiếu là vị sư huyện Thanh Đàm thông minh hiếu học, nghiên cứu
Thiền tôn. Một hôm nằm mộng thấy Bồ tát Văn Thù đem dao đến mổ bụng súc ruột dùng thuốc rịt lại. Từ đó những gì đã học
trong lòng trở thành rõ ràng như đã từng biết. Về sau tôn phong của Sư nổi lớn”. Xem thêm Đạo giáo nguyyên lưu quyển thượng
tờ 16a4-5.
2
Ngôn ngữ tam muội này, tức là một tên khác của Phân biệt chư pháp cú tam muội, một trong 108 thứ tam muội do Đại phẩm bát
nhã dẫn ra, mà Đại trí độ luận giải thích thế này: “Chứng được thứ tam muội đó thì có thể phân biệt hết ngôn ngữ văn tự của tất
cả các pháp, giảng thuyết cho chúng sanh không vướng mắc trở ngại”. Xem Đại trí độ luận 17 tờ 400c 28-29.
3 An nam chí lược 15 tờ 147 dẫn đoạn này, rồi bảo là từ Tham đồ hiển quyết. Nó viết: ” Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham
đồ hiển quyết, đại khái nói rằng: “Một hôm đang ngồi trước nhà, bỗng có một vị sư đến hỏi: “Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?”
Chiếu đáp: “Cúc trùng dương dứơi dậu
Oanh thục khí đầu cành.
Sách ấy phần lớn gồm những lời như vậy”.
Cứ vào đâu nói “Sách ấy phần lớn gồm những thứ đó” của Lê Tắc, ta có thể kết luận rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ trong truyện
này đều rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không là toàn bộ Tham đồ hiển quyết, mà các tác giả Thiền uyển tập anh đã chép vào
đây. Chúng tôi nghĩ rằng, nó rất có thể là toàn bộ, bởi vì so với phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, số thoại ngữ dẫn ra đây lên
tới đến 180 câu hỏi đáp, trong khi của Thượng sĩ ngữ lục chỉ tới 96 câu mà thôi, thì cũng đủ thấy nó đã đầy đủ tới mức nào . Dầu
một phần hay toàn bộ, ta có thể nói rằng Tham đồ hiển quyết là tác phẩm văn học và tư tưởng xưa nhất của đời Lý được bảo tồn
dưới một dạng hình trọn vẹn.
4
Bồ Đề Đạt Ma chín năm bích quán trên Thiếu thất. Phật Thích Ca 20 ngày trầm mặc tại Ma Kiệt đà. ở đây muốn nói đến mật chỉ
của Phật và Tổ. Lâm Khê Kỉnh Thoát hoà thượng, nhập đạo thiển thâm tụng:
Thiếu thất dữ Ma kiệt
Đệ đại xưng dương hử
Ngã kim vấn nhữ đồ
Thủy tác tương lai chủ.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454 a21.
5
Càn tượng và Khôn duy là những từ lấy ở Chu Dịch, thiên Hệ từ thượng:”Trời cao đất thấp, định ra càn và khôn. ở trên trời thành
nên tượng, ở dưới đất tạo nên hình, biến hóa mà hiện ra”. Xem Chu dịch 7 tờ 1a3-7. Những từ đấy dùng để chỉ trời đất. Từ Nhạc
Hoài là để chỉ núi sông. Nhạc tức là Ngũ nhạc, tức năm ngọn núi lớn của Trung quốc, đây tượng trưng cho tất cả núi. Hoài tức
sông Hoài, đây chỉ cho tất cả sông. 32 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Gió lộng bờ cao hay cỏ cứng
Nhà tan nước mất biết trung lương”1
.
Lại hỏi: “Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Trăm năm sau sẽ về đâu?”
Sư đáp: “Rùa đui chui vách đá
Trạch què bò núi cao”
Lại hỏi: “Xanh xanh trúc biếc thảy chân như2
. Thế nào là dụng của chân như?”.
Sư đáp: “Tặng anh ngàn dặm xa
Cười mang trà một bình”3
Tăng thưa: ” Đến suông có ích gì là sao?”4
.
Sư đáp: “Ai biết đi Đông a
Nửa đường đầu đã bạc”5
Lại hỏi: “Đã hiên một cửa vắng
Thong thả gõ ai hay”6
Sư đáp: “Kim cốc đìu hiu hoa cỏ rối
Mà nay hôm sớm thả trâu dê”.
Tăng thưa: “Vì sao như vậy?”
Sư đáp: “Giàu sang cùng kiêu thái
Lầu chợ khiến tan hoang”7
Lại hỏi: “Long nữ [12b1] dâng châu thành Phật quả,
Đàn na bố thí phước ra sao?”8
.

1
Ý và tứ rút từ hai câu của Đường Thái Tôn tặng cho Tiêu Vũ:
Tật phong tri kỉnh thảo
Bản đảng thức thành thần.
Xem Tân đường thơ 101 tờ 2a9-10. Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi dịch:
“Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi lành.”
2
Có người hỏi Thiền sư Viên Chiếu: “Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?” Chiếu đáp: “Nhọc người xa đến”. Hỏi: “Thế thì chẳng phải là
một tạng tròn sáng sao?”. Chiếu đáp: “Xin uống một chén trà”. Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367c13-15.
3
Có người hỏi Thiền sư Án Xương: “Khi không chịu bàn bạc thì sao?” Xương đáp: “Thì đến mà làm gì?”. Hỏi “Đến cũng không bàn
bạc”. Đáp: “Đến suông cũng ích gì?” (Không lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363b 15-17.
4
Có người hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Pháp thân và Bát nhã là gì? Hải đáp: “Xanh xanh trúc bíêc đều là pháp thân, dờn dợn
hoa vàng chẳng cái nào là chẳng Bát nhã”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
5 Đông a, nơi ông già hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là bầy tôi nước Hàn. Khi Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung
quốc, Lương muốn báo thù cho nước, nhưng không có cách nào thành công. Môt hôm gặp một ông già trên cầu. Ông đánh rơi
chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm. Lương dầu tức giận, vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho Lương và dặn
Lương sau 13 năm đến gặp ông ở Cốc thành. Bùi Ân chua Cốc thành ở huyện Đông a. Xem Sử ký 55 tờ 2b2-4.
6
Dã Hiên, tên một vị Thiền sư . Những tài liệu Phật giáo và Thiền tôn Trung quốc không ghi một ai có tên như vậy cả. Trong
Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tôn viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục tờ 40a4-5, Trần Nhân Tôn nói rằng trong khi để tang mẹ
mình thì có yêu cầu Tuệ Trung “giảng hai lục Tuyết đậu và Dã hiên”. Tuyết đậu lục là của Thiền sư Trùng Hiển ((980-1052). Còn
Dã hiên lục của ai, thì nay ta không rõ. Rất có thể là tác phẩm của một Thiền sư Việt nam. Nếu Dã Hiên là một Thiền sư Việt nam
thì ông phải sống trước thời Viên Chíêu, tức trước năm 999.
7
Kim Cốc, nơi Thạch Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực kỳ tráng lệ xa hoa và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu
tự tử, hiện ở phía tây bắc huyện Lạc dương, tỉnh Hà nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.
8
Long nữ hiến châu. Điển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội Linh sơn và thành Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên
hoa kinh 12, phẩm Đề Bà Đạt Đa tờ 3a-b. Xem thêm Hoà thượng Đan Hà, Ngoạn châu ngâm:
Long nữ Linh sơn thân hiến Phật
Bần nhi y hạ kỷ ta đà. 33 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Trong trăng quế muôn thuở
Rậm, thưa vẫn một vành”.
Tăng thưa: “Nhọc mà vô ích là sao?”1
.
Sư đáp: “Như gương treo trên trời
Nhân gian soi khắp nơi”.2
Lại hỏi: “Qua sông phải dùng bè
Đến bến hết cần ghe
Khi không qua sông thì sao?”3
.
Sư đáp: “Ao khô cá lên cạn
Sống cả vạn năm xuân”.
Tăng thưa: “Thế nào là “Theo dòng mới đạt được Diệu lý?”4
.
Sư đáp: “Nghe nói bạn Kinh Kha
Một đi không trở lại”5
.
Lại hỏi: “Lẫn lộn quặng vàng cùng một chất
Xin thầy phương tiện luyện tinh ròng”6
.
Sư đáp: “Không phải khách Tề quân
Sao biết biển cá lớn”7
.

Xem Truyền đăng lục 30 tờ 463b25.
Đàn na, phiên âm chữ phạn dàna, nghĩa là bố thí.
1
Lao nhi vô công. Chữ lấy từ thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu: “Cầu chi kỳ bản, kinh tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi
vô công.” (Tìm cái gốc nó thì qua tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô ích). Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 3a8, thành ngữ Lao
nhi vô công cũng thường dùng trong Phật giáo để chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh độ.
2
Có người hỏi Thiền sư Aâu chương:
“Thế nào là: Một vầng trăng treo
Muôn nước đều thấy”
Chương đáp: “Khó nói với kẻ nhắm mắt”. Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.
3
Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim cang:
“Nên biết rằng Ta nói pháp cũng như thí dụ về chiếc thuyền”. Xem Kim cang kinh tờ 749b10. Vĩnh Gia Huyền Giác, Quán tâm thập
môn:
Nhiên độ hải ưng thượng thuyền
Phi thuyền hà năng độ?
(Nhưng qua biển phải lên thuyền,
Không thuyền sao qua được?)
Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19
4
T ùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ:
Tâm tuỳ vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỷ phục vô ưu
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24-25
5 Điển Kinh Kha đi sứ Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và khách khứa tin Kinh Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh
đàn, Kinh Kha tiến mà ca:
“Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi hề không trở về”
Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11
6
Thí dụ vàng quặng của kinh Viên giác: “Thiện nam tử, như luyện quặng vàng, vàng không phải do luyện mà có. Khi đã thành vàng
rồi thì không trở lại làm quặng nữa, trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không hoại mất”. Xem Đại phương quảng viên giác
tu đa la liu nghĩa kinh tờ 915c17-18.
7 Điển của Tề Văn trong Chiến quốc sách và của thiên Thuyết lâm trong Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn xây thành
Tiết. Có nhiều người can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, h ai xin vô để can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin vô để nói ba
tiếng thôi, rồi chết cũng đành. Quách Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba tiếng “Biển cá lớn”, rồi vọt chạy. Quách Quân ngạc 34 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Tăng thưa: “Quách quân nếu không nhận
Can gián chẳng làm chi”.
Sư đáp: “Nếu muốn bưng uống trước
Vẽ rắn khéo hãy thôi”1
.
Lại hỏi: “Rắn chết giữa đường
Xin thầy cứu sống”2
.
Sư đáp: “Ngươi là người phương nào?”.
Tăng đáp: “Vốn người ở núi”.
Sư dạy: “Mau về [13a1] non cũ ẩn
Chớ gặp Hứa Chân Quân”3
.
Lại hỏi: “Hải tạng mênh mông không nên hỏi
Tào khê từng giọt nghĩa ra sao?”4
.
Sư đáp: “Rừng tùng tiếng gió thê lương thổi,
Mưa tạnh bùn nhơ ngập lối đi”.
Tăng thưa: “Không khác với ngày nay, là thế nào?”5
.
Sư đáp: “Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày nắng đầu cành”.
Lại hỏi: “Sờ sờ ở khoảng mắt lòng
Rành rành trong chốn sắc thân
Nhưng lý không thể phân
Tướng không thể thấy
Vì sao không thấy được?”6
.

nhiên cho gọi lại. Người khách mới giải thích ba chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi xây thành Tiết. Xem Chiến quốc sách 8
tờ 1b2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a.
1 Điển của Tề Văn 2 trong Chiến quốc sách. Nước Sở có hai người thi vẽ rắn để uống rượu. Một người vẽ xong trước lại vẽ rắn thêm
chân. Người vẽ xong sau không chịu, cho rằng rắn không có chân, rồi giựt ly rượu mà uống. Xem Chiến quốc sách 9 tờ 2b-3a.
2
Thiền sư Thanh Lâm:
Tử xà dương đại lộ
Khuyết tử mạc đương đầu
(Rắn chết giữa đường lớn
Xin ông chớ đương đầu)
Xem Vạn tùng lão nhân bình xướng Thiên Đồng Giác hoà thượng lụng cổ thung dung am lục 4 tắc 5 tờ 264a26-c6.
3
Hứa Chân Quân, tên tục là Hứa Tốn làm quan lịnh Tinh dương đời Bắc ngụy. Theo truyền thuyết, ông sau theo đạo thần tiên và
bay lên trời, đến đời nhà Triệu Tống thì được phong là Thần công diệu tế chân quân. Cái tên Hứa Chân Quân do thế mà có. Xem
Nguỵ Thư 46 tờ 2b8 và Thái Bình quảng ký, Thần tiên 14.
4
Hải tạng, chỉ đạo Phật trong kinh điển hay tất cả kinh điển đạo Phật. Tào khê, chỉ cho Thiền phái. Phật Quả tham bái Chân Giác
Thắng. Thắng chích cánh tay chảy máu rồi nói: “Đây là một giọt Tào khê”. Xem Tục truyền đăng lục 25 tờ 634a5.
5
Bất dị kim thời, đặc ngữ của Thiền chỉ cho việc sau khi giác ngộ không khác gì lúc chưa giác ngộ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập nhị
thời tụng:
Giả sử tâm thông vô lương thì
Lịch kiếp hà tằng dị kim nhật
(Giả sử lòngthông từ vô thỉ
Nhiều kiếp sao tằng khác hôm nay).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450b16-17.
6
Thiền sư Minh Giác thượng đường, có vị sư hỏi: “Sờ sờ ở khoảng mắt lòng, mà tướng không thể thấy, rành rành trong vòng sắc
trần mà lý không thể phân. Đã ở trong khoảng mắt lòng sao lại không thấy tướng của nó? (Chiêu chiêu ư tâm mục chi gian, nhi
tướng bất khả đổ. Hoảng hoảng tại sắc trần chi nội nhi lý bất khả phân. Ký ư tâm mục chi gian, vi thập ma bất đổ kỳ tướng?)
Xem Minh giáp ngũ lục tờ 760a4. 35 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Trong vườn hoa rực rỡ
Trên bờ cỏ tràn lan”.
Tăng thưa: “Năm lạnh mầm non rụng
Lấy gì để thưởng công”.
Sư đáp: “Mừng cho ông tự rõ
Sung sướng biết chừng nào !”
Tăng thưa: “Hôm nay, may nghe giải
Từ nay hết hoang mang “.
Sư dạy: “Đắm cạn vừa vớt ra
Ngoảnh đầu đầm muôn trượng”.
Lại hỏi: “Trong thành Niết bàn vẫn còn nguy hiểm1

Thế nào là chỗ không nguy hiểm?”.
Sư đáp: “Trên rèm che làm tổ
Cành lau xõa tóc mai”.
Tăng thưa: “Nếu gặp lúc cấp bách
Đôi đường xử lẽ nào ?”.
[13b1] Sư đáp: “Trượng phu theo phóng khoáng
Trăng gió hãy vui chơi”2
.
Lại hỏi: “Hết thảy chúng sanh đều bảo là Phật, lẽ ấy chưa tường, mong thầy chỉ dạy?”.
Sư đáp: “Nông trang hãy gắng khuyên anh thế
Đợi thỏ người kia chớ nhọc theo”3
.
Tăng thưa: “May được thầy chỉ rõ
Trọn chẳng đến ai tìm”.

1
Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm, “hồi cơ”:
Niết bàn thành lý thượng do nguy
Mạch lộ tương phùng một định kỳ
Quyền quải cấu y vân thị Phật
Khước trang trân ngự phục danh thùy
Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ
Thạch nữ thiên minh tải mạo qui
Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt
Tái tam lao lộc nãi ưng tri.
(Niết bàn thành ấy vẫn còn nguy
Đường phố gặp nhau chẳng hẹn kỳ
Giả mặc đồ dơ tên gọi Phật
Nếu mang áo ngự gọi tên gìn
Nữa đêm người gỗ mang giày mất
Vừa sáng gái trơ đội mũ về
Đầm biếc ngàn xưa trăng luống giọi
Ba lần mò mẫm mới hay ri).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c5-8
2
Long Đàm Sùng Tín hỏi Đạo Ngô: “Làm sao để quyết chắc?”
Ngô nói:”Nhiệm tính tiêu diêu
Tuỳ duyên phóng khoáng”
(Tiêu diêu mặc tính
Phóng khoáng tùy duyên)
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 313b21-22.
3 Điển rút từ thiên Ngũ đồ trong Hàn Phi Tử. Nước Tống có người làm nông gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết.
Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau anh ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác. Thỏ khác đã không được,
mà còn bị cả nước Tống cười. Xem Hàn phi tử 19 tờ 1a-b. 36 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư dạy: “Khá thươngmột lần nghẹn
Ngồi đó trót quên ăn”.
Lại hỏi: “Bao năm dồn chứa ngọc trong túi
Tận mặt hôm nay thấy rõ rành1
“.
Sư đáp: “Trăng trung thu chờ mãi
Gặp phải mây mưa xông”2
.
Tăng thưa: “Tuy nghe thầy dạy bảo
Lý đó vẫn chưa thông”.
Sư dạy: “Cười người suông ôm cột
Chết đuối nhắm giữa dòng !”3
.
Tăng hỏi: “Thế nào là một phái?”4
.
Sư đáp: “Vừa thấy xuân gieo và hạ lớn
Gặp ngay thu chín với đông thâu”.
Tăng thưa: “Thành phật nhiều thế là sao?”.
Sư đáp: “Tổ Long thôi nghĩ chạy
Từ Phúc luống đường xa”5
.
Tăng hỏi: “Kiến tính thành Phật, nghĩa ấy thế nào?”.
Sư đáp: “Xuân đến cây khô hoa đua nở
Gió đưa ngàn dặm nức [14a1] hương thần”6
.

1
Nang trung bảo, từ rút ra từ khác phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký của kinh Pháp hoa, nhằm chỉ cho Phật tánh sẵn có trong mọi
người. Thơ của Thiền sư Đỗ Lăng Uùc:
Ngã hữu thần châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao cơ tỏa
Kim triêu trần tịnh quang sanh
Chiếu kiến sơn hà vạn đóa.
(Ta có ngọc thần một quả
Lâu bị bụi phần phủ xoá
Sáng nay bụi sạch sáng ra
Soi thấu sơn hà muôn đóa).
Xem Tục truyền đăng lục 13 tờ 547b8-9
2
Có người hỏi Âu Chương: “Bỗng nhiên không mây, thì trăng trung thu ra sao?”. Chương đáp: “Tốt nhất là không mây”. Xem
Truyền đăng lục 20 tờ 367b 22-23
3 Điển lấy từ thiên Đạo chích của Trang Tử. Vỹ Sinh có hẹn với một đứa con gái dưới cầu. Người con gái ấy không đến. Nước sông
dâng lên. Vỹ Sinh ôm cột cầu mà chết. Xem Trang Tử 9 tờ 21a2-3.
4
Một pháp hay nhất pháp, nếu muốn cho đủ thì phải nói:
“Thật tế lý địa
Bất thọ nhất trần
Phật sự môn trung
Bất xả nhất pháp”.
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 269b 17-18.
5
Tổ Long, một biệt hiệu của Tần Thỉ Hoàng, hâm mộ thuật trường sinh, sai Đạo sĩ Từ Phúc, cũng có tên là Từ Thị, dẫn một ngàn
đồng nhi ra biển đông tìm Bồng lai vào năm 217 trước tây lịch. Bồng lai đâu không thấy, mà bảy năm sau, Tần Thỉ Hoàng chết.
Và họ chẳng bao giờ trở về. Xem Sử ký 6 tờ 14a11 và 21a8.
6
Có người xin Diên Chiểu “Chặt đứt cội gốc”
Chiểu đáp: “Ít gặp khách sâu mũi
Nhiều trạm người khắc thuyền”
Hỏi: “Chính vào lúc đó thì sao?”
Chiểu đáp: “Rùa mù gặp gỗ đầu yên ổn
Cây héo sinh hoa vật ngoại xuân”.
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 303a10-13 37 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Tăng thưa: “Học nhân không hiểu, xin thầy dạy lại”.
Sư đáp: “Muôn năm cây cà ấy,1
Xanh ngát tận chân mây”.
Lại hỏi: “Ma ni cùng các sắc
Chẳng hợp chẳng phân ly”2
.
Sư đáp: “Hoa xuân cùng bươm bướm
Lúc luyến lúc ruồng nhau”.
Tăng hỏi: “Theo người xen lẫn là sao”
Sư đáp: “Chẳng phải mắt Hồ tăng3
Uổng công dâng ngọc Biện”4
.
Lại hỏi: “Thế nào là chạm mắt là Bồ đề?”5
.
Sư đáp: “Cây cong chim mãi sợ
Dưa nguội người thổi hoài”.
Tăng thưa: “Học nhân không hiểu, xin thầy cho ví dụ khác”.
Sư đáp: “Kẻ điếc nghe tiếng đàn
Người mù ngắm bóng trăng”.
Lại hỏi: “Vốn đã có hình thêm có ảnh
Có lúc ảnh cũng lìa hình sao?”.
Sư đáp: “Trăm sông đổ về đông kìa, muôn dòng đua chảy.
Ngàn sao chầu Bắc đẩu kìa, thiên cổ quy tâm”.
Lại hỏi: “Thế nào là một câu tỏ ngộ, vượt muôn ngàn?”6
.

1
Có người hỏi Thiền sư Huệ Thanh: “Xưa Phật chưa ra đời thì như sao?”. Thanh đáp: “Ngàn năm gốc cà ấy” (Thiên niên già tử
căn). Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297c18-19.
2
Thiền sư Văn Ích, Văn ích tụng:
Ma ni bất tuỳ sắc
Sắc lý vật ma ni
Ma ni dự chứng sắc
Bất hiệp bất phân ly
(Ma ni không theo sắc)
Trong sắc chẳng ma ni
Ma ni cùng các sắc
Không hiệp không phân ly)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454b19.
3
Hồ Tăng Nhãn. Bồ Đề Đạt Ma thường được các môn đệ thiền gọi là Bích nhãn hồ tăng, “thầy tu Hổ mắt xanh”. Xem Bích nham lục
5 tắc 47 tờ 183b18-19.
4 Điển rút từ thiên Hoà thị của Hàn phi tử. Biện Hòa người nước Sở được ngọc phác, dâng Lệ Vương, bị chặt hết một chân, vì Lệ
Vương cho là dối, sau lại dâng vua kế vị là Vũ Vương, lại bị chặt một chân nữa cũng cùng lý do. Xem Hàn phi tử 4 tờ 10b5-13.
5
Xúc mục bồ đề, nhìn bất cứ đâu cũng thấy là giác ngộ cả. Thạch Sương Khánh Chư tham kiến Đạo Ngô, hỏi: “Thế nào là xúc mục
bồ đề?”. Đạo Ngô gọi sa di. Sa di đáp: “Dạ”. Đạo Ngô nói: “Thêm nước vào tịnh bình”.
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 320c11 và Minh giáo ngữ lục tờ 675a18.
6
Dẫn Vĩnh Gia Huyền Giác, Chứng đạo ca:
Phần cốt tuỷ thân vị túc thù
Nhất cú liêu nhiên siêu bách ức
(Nát thịt tan xương chưa đủ đền
Một câu rõn được vượt muôn ngàn).
Xem Vĩnh gia chứng đạo ca ĐTK 2014 tờ 316c21. 38 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Xa kẹp Thái sơn qua biển Bắc
Ngửa quăng gậy chống vào cung trăng.”
Lại hỏi: “Chỉ một sự này thật,
[14b1] Còn hai chẳng phải chân1
Thế thì, chân là gì?”.
Sư đáp: “Gió dễ lay đầu gậy
Mưa thành nẩy trên đường”.
Lại hỏi: “Không nhắm Như Lai xin Diệu tạng
Không mong lửa tổ nối đèn chong
Ýchỉ rốt ráo thế nào?”.
Sư đáp: “Trời thu lúa xào xạt
Cảnh tuyết mẫu đơn cười”.
Lại hỏi: “Thế nào là câu tối diệu?”
Sư đáp: “Một người ngoảnh mặt khóc
Cả tiệc uống không vui”2
.
Lại hỏi: “Xưa nay việc lớn xin không hỏi
Điểm lạ Tây lai ý thế nào?”3
.
Sư đáp: “Kẻ khéo lời đẹp mặt
4
Phường đập ngói hong rùa”5
Lại hỏi: “Tâm, pháp đều quên, thì tính tức chân6
Thế nào là chân?”.

1
Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy
nhất là sự thật, hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền biến. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 8a.
2
Nguyên văn: “Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan.”
Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý của hai câu này, chúng ta phải đọc:
“Nhất nhân hướng ngung khấp
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ”.
Và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu:
“Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ”.
Lý Thiện chú thích nó thế này: “Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ giống như một nhà. Nay cả nhà uống rượu, một người
riêng bỗng nhiên ngoảnh mặt khóc thì người trong nhà đều không vui”. (Thuyết uyển viết: Cổ nhân ư thiên hạ nhất chí đường
thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu nhất nhân độc sách thiên hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai bất lạc).
Xem Văn tuyển Lý Thiện chú 18 tờ 17a 2-4. Xem thêm Thuyết uyển 5 tờ 2a 10-17. Chúng tôi dựa vào xuất xứ đây, để đề nghị
cách đọc và dịch trên.
3
Việc lớn hay đại sự tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con
đường để đi vào tri kiến giác ngộ. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 7a21.
Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Đề Đạt Ma.
4
Dẫn chữ từ thiên Học nhi của Luận ngữ: “Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ nhân”. (Kẻ khéo nói, đẹp mặt, thường ít có lòng nhân). Xem
Luận ngữ 1 tờ 1b8 và 17 tờ 6b7.
5
Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ “Toản qui” xuất xứ của nó từ phần Quy sách trong Sử kyù 128 tờ 4a7-8. Theo đó thì
“Bậc vương giả ra quân làm tướng tất phải toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt xấu”. Lời chua của Dương Kinh trong
thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ 10a3 viết: “Toản qui tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa”. Toản qui do thế có nghĩa là
bói rùa. Còn Đả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích của quan làm việc Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di chủ
trương không cho họ dự vào hàng thanh phẩm. Xem Bắc sử 43 tờ 5a10-13. Đả ngoã đây như vậy có nghĩa ăn cướp.
6
Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính trượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện 39 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Đàn Bá Nha gió khua sân trúc1
Lệ Nữ Thần mưa rắc hoa non2
Lại hỏi: “Thế nào là câu tối diệu?”.
Sư đáp: “Yếu hầu còn mắc nghẹn
Yên ở chẳng vui gì”.
Lại hỏi: “Có tu có chứng, khơi bốn bệnh3
Ló đầu sao được thoát hồng trần”.
Sư đáp: “Núi cao chất nhất dung muôn vật
Biển rộng bao la chứa vạn sông”.
Lại hỏi: “Chỉ có Phật với Phật mới biết [15a1] việc đó4
.
Thế thì việc đó là thế nào?”.
Sư đáp: “Đường hẹp chi chít trúc
Gió thổi nhạc tự thành”.
Lại hỏi: “Chẳng cần bình thường, chẳng cần thiên nhiên,
chẳng cần tác dụng, thì nay làm gì đây?”.
Sư đáp: “Cỏ bồng én đậu thấp
Biển rộng ẩn cá lân”.
Lại hỏi: “Tứ đại mang về từ nhiều kiếp
Xin thầy phương tiện thoát luân hồi”.
Sư đáp: “Loài thú trên đời Tê là quý
Nó ăn gai góc mẹp bùn nhơ”
5
.
Lại hỏi: “Mọi thứ thủ, xả đều luân hồi, không thủ không xả thời thế nào?”1

Tâm pháp song vong tánh tức chân.
(Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ còn như vết trên gương
Vết bụi chùi sạch gương mới sáng
Tâm pháp đều quên tính tức chân).
Xem Vĩnh Gia chứng đạo ca ĐTK 2014 tờ 396b22. Xem thêm chú giải của Ngạn Kỳ, Chứng đạo ca chú TcT111 tờ 193b-194a.
1
Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu nói: “Bá Nha đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh
đờn, và ý nghĩ đến Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: “Đánh đờn hay thay ư, cao ngất như núi Thái ư !”. Một chặp chi, Nha lại nghĩ đến
giòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: “Đánh đờn hay thay ư, ồ ạt như dòng nước chảy ư !”. Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha phá đờn, cắt
dây. Suốt đời không còn đánh đờn lại nữa, cho rằng đời không còn ai còn đủ khả năng nghe cho mình đánh đờn lại nữa”. Xem Lã
thị xuân thu 14 tờ 4a7-14.
2
Vũ trích nham hoa, Thiền sư Minh Giác, có người hỏi bản nguyên chư Phật ra sao, đáp: “Màu lạnh ngàn núi”. Lại hỏi: “Nguyên ủy
hướng thượng có có không?”. Sư đáp: “Mưa rơi hoa non” (Vũ trích nham hoa). Xem Tục truyền đăng lục 2 tờ 476a8-9.
3
Bốn bệnh: tức bệnh làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh), bệnh đình chỉ (chỉ bệnh) và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà
người ta gặp phải trên con đường đi tìm sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên giác, định nghĩa bốn bệnh như sau: Bệnh làm ra xảy ra
khi người ta nghĩ rằng “tôi làm ra các hạnh để cầu Viên giác”. Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng: “tôi không có ý đoạn
tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với Niết bàn sinh tử không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận
pháp tính để cầu Viên giác”. Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng “tự tâm tôi, tôi đứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch
diệt để cầu Viên giác”. Bệnh huỷ diệt có được khi người ta nói rằng: “tôi diệt hết tất cả phiền não thân tâm hoàn toàn không,
không có, huống hồ là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác”. Xem Đại phương quảng viên
giác tu đa la liu nghĩa kinh tờ 920b.
4
Chữ lấy từ kinh Pháp hoa: “Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng” (chỉ người giác ngộ với người giác ngộ mới
có thể rõ hết thật tướng thật của tất cả mọi vật). Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 5c.
5
Nội thiên trong Bảo phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: “Tề thông thiên sở dĩ nó có thể chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên
ăn mọi thứ có độc và những thứ cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ có cây mềm dẻo bao giờ”.(Thông thiên tê sở dĩ
năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên thực bách thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng thực nhu, hào chi
thảo mộc). Xem Bảo phác tử 7 tờ 23a4. 40 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Giềng hồng đẹp đẽ xưa nay vậy
Có lá sum sê chẳng có hoa”.
Lại hỏi: “Dứt hết nói năng ý ấy thế nào?”2
.
Sư đáp: “Theo gió tiếng còi luồn bụi trúc
Kèm trăng trái núi quá đầu tường”.
Lại hỏi: “Chư Phật thuyết pháp là để giáo hóa mọi loài,
nếu hiểu được bản ý thì gọi là xuất thế, bản ý là gì?”.
Sư đáp: “Xuân dệt hoa như gấm
Thu sang lá tựa vàng”.
Lại hỏi: “Thế nào là một đường nhắm thẳng?”3
.
Sư [15b1] đáp: “Đông tây xe ngựa ruỗi
Hôm sớm bụi mờ bay”.
Lại hỏi: “Có pháp, có tâm, sinh vọng thức
Làm sao tâm, pháp thảy tiêu vong?”.
Sư đáp: “Ví được lá tùng xanh cao ngất
Sá gì sương tuyết lả tả rơi”.
Lại hỏi: “Ý tổ và ý kinh thế nào?”.
Sư đáp: “Chống trượng lên mây khi thích chí
Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre”.
Lại hỏi: “Tổ tổ truyền nhau là truyền những gì?”.
Sư đáp: “Đói đến tìm thức ăn
Rét thời xin áo mặc”4
.
Lại hỏi: “Thế nhân đều thuê nhà
Người dột ở đâu ta?”.
Sư đáp: “Vầng ô cùng ngọc thố
Tròn khuyết dối nhọc chia”.
Lại hỏi: “Thế nào là con đường duy nhất đến Tào khê?”.

1
Ý rút từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
(Bỏ lòng vọng, lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo).
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 406c5.
2
Ngôn ngữ đạo đoạn. Chữ của luận Đại trí độ: Thế nào là chân lý tuyệt đối?” Đáp: “Tất cả ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt”
(nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt) Xem Đại trí độ luận tờ 61b7. Xem thêm Tín tâm minh:
Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Khư lai phi kim.
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 457b23.
3
Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, có người hỏi: ” Thiền nào là một đường thẳng?”. “Nhắm thẳng vào chỗ cong”. Xem Truyền
đăng lục 13 tờ 303c12. Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền giác: “Trực diệt căn nguyên của Phật sở ấn” Xem Truyền
đăng lục 30 tờ 460a1.
4
Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung quốc sư: “Cô tức nghiết phạn, hàn tức trước y. (Đói thì ăn cơm rét thì mặc áo). Xem Truyền đăng
lục 28 tờ 439a22-23 41 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Khá thương kẻ khắc thuyền1
.
Rốt cuộc ý hoang mang”.
Sư từng soạn Dược sư thập nhị nguyện văn2
. Vua Lý Nhân Tôn lấy bản thảo của Sư, sai sứ đem
sang Triết Tôn3
. Triết Tôn cho mời Pháp sư Cao tòa chùa Tướng quốc đến xem4
. Xem xong liền chắp tay
lạy, mà nói rằng: “Phương Nam có bậc Đại sĩ nhục thân ra đời, ấy là vị Pháp sư khéo giảng kinh điển
vậy. [16a1] Bần đạo đâu có thể dám thêm bớt”. Nhân đó chép lại một bản, rồi giao trả bản cũ. Sứ giả
trở về thuật lại vua nghe, vua rất khen thưởng.
Vào một ngày tháng chín năm Canh ngọ Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng
đến dạy rằng: “Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà
kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:
Thân như tường vách đổ xiêu rồi,
Thiên hạ bồn chồn xót dạ thôi,
Nêu rõ tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện mặc xoay dời.
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ5
. Có để lại tập Tán viên
giác kinh, Thập nhị bồ tát hành tu chứng đạo trường và Tham đồ hiển quyết một quyển6
ngày nay còn
truyền ở đời
7
.

1
Khắc chu khách. Điển lấy từ Thiện thận đại lãm của Lã thị xuân thu. Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm
dấu chỗ rơi trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Xem Lã thị xuân thu 15 tờ 19a9-13. Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó.
Xem Bách dụ kinh ĐKT 209 tờ 545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:
Bảo kiếm bất thất
Hư chu bất khắc
Bất thất bất khắc
Bất tử vi đắc.
Xem Truyền đăng lục 19 tờ 545b 15
2
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn ghi: “Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển Long Đàm Viên Chiếu thiền sư soạn “.Văn tịch chí của
Phan Huy Chú chỉ ghi :”Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển”, mà không ghi tác giả. Đây chắc là một bài văn phát triển 12
nguyện của Phật Dược Sư, trong kinh Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh này.
3 Đây chắc phải là Sứ bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và Phó hiệu uý Đỗ Anh Bối làm chánh và phó sứ dẫn đầu,
bởi vì Triết Tôn lên ngôi 1086 và đến năm 1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi một bộ phái khác sang kết hiếu. Do thế
nếu phái bộ ngoại giao năm 1090 có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn sang Tống để cho các nhà sư Tống ngợi ca, thì ở
nhà Viên Chiếu đã mất, nên Chiếu không thể nào nhận lời khen của Lý Nhân Tôn được. Xem Tục tư tri thông giám thường biên
399 tờ 5b4, Tống sử 17 tờ 4b6 và 9b1, Đại Việt sử lược 2 tờ 18a3-9, vàToàn thư B3 tờ 11b6-7.
4
Pháp sư cao tòa ở đây có thể là Thiền sư Đại Bản .Lâm gian lục quyển hạ tờ 55a5-b2 nói Đại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc
dưới thời Tống Thần Tôn và rất có thể sống ở đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.
5
Về tuổi hạ, xem chú thích(7) truyện Chân Không.
6 An nam chí lược 15 tờ 157: “Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ hiển quyết đại lược nói: “Một hôm khi đang ngồi trước
nhà, bỗng có 1 vị Tăng hỏi: “Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?”. Đáp: “Dưới dậu thu cúc rậm. Đầu cành xuân yến ca”.
Sách ấy phần lớn gồm những thứ như thế đó. Cứ vào dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ dẫn
chứng trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ
của Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là Tham đồ hiển quyết, thì nó là một tác phẩm đời Lý
được giữ lại cho tới ngày nay, một tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết học Phật giáo nước ta.
7
Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:
1. Dược sư thập nhị nguyện văn
2. Tán Viên giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết
Nhưng cứ một câu viết trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở dưới, theo đó, “Viên Chiếu thường có ca thi gởi
tặng Bảo Tính, ngợi ca cái chí hướng cao thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên đây không phiền chép ra”
(Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao chí, cụ tại tập trung, tư bất phiền lục). Ta bắt buộc phải nghĩ rằng Chiếu còn có một
tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên có lẽ là Viên Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập. 42 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ
Chùa Diên linh, núi Long đội
1
, Yên lãng2
, Người Phù đàm, Châu minh3
, họ Đàm. Thuở nhỏ hiếu
học, sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm [16b1] sách than rằng:
“Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có
Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức
ấn chứng cho mới được”. Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm ứng ở Ba sơn thọ Cụ túc với Định Hương
trưởng lão. Ngày cầu đạo, Trưởng lão hỏi: “Thế nào là nghĩa của cứu cánh?”.
Sư đáp: “Chưa”
Sơn nói: “Ta với ngươi là nghĩa của cứu cánh rồi !”.
Sư ngẫm nghĩ.
Sơn nói: “Qua mất rồi”.
Nhờ lời nói đấy, Sư rõ được yếu chỉ. Nhân đó lấy tên Cứu Chỉ. Sau Sư vào chùa Quang minh ở
núi Tiên du, tu khổ hạnh đầu đà4
sáu năm không bước chân xuống núi. Tiếng tăm giáo hóa của sư vang
đến tai vua. Vua Lý Thái Tôn nhiều lần cho mời, Sư không đến, nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy
lời an ủi thăm hỏi. Thái Sư Lương Văn Nhậm5
cũng rất kính trọng.

1 Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 33a2-5 viết: “Núi Long dội ở tại xã Đội sơm huyện Duy tiên, bổ sát xuống dòng sông. Lý Nhân
Tôn dựng bảo tháp Sùng thiện điên linh, văn bia chữ toàn dùng thuyết nhà Phật hoang lạ chưa từng thấy. Cuối đời trần, người
Minh phá hủy tháp đó. Lê Thái Tổ bình định rồi, lại sai dựng lại. Thánh Tôn lên chơi có đề thơ:
Ngàn nhận non cao chỗ Hóa thành
Leo bao bực đá đến am thanh
Chuyện kỳ triều Lý bia trơ đó
Tội ác giặc Minh vết đã rành
Đường vắng chân người rêu phủ biếc
Xuân nhiều mưa núi cảnh phô xanh
Lên cao tầm mắt xa vô tận
Muôn dặm mênh mông cỏ giống cành”
Núi Long dội như vậy ở tại xã Đội sơn phía đông nam huyện Duy tiên, tỉnh Hà nam ngày nay. Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn
thư B3 tờ 21a7 nói: “Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ ba (1122) mùa xuân tháng hai bảo tháp Sùng thiện điện linh ở Đội sơn làm
xong”. Cứu Chỉ mất trong khoảng 1059 – 1065, cho nên chùa Diên linh ở đây đã có từ trước, rồi sau đó đến năm 1122 mới xây
thêm tháp.
2
cái tên Yên Lãng được Thiền uyển tập anh kể tới cả thảy năm lần, kể lần thứ nhất tức ở truyện Cứu Chỉ đây. Lần thứ hai ở trong
truyện của Đạo Hạnh ở tờ 53b3, nói cha của Đạo Hạnh “đến học ở làng Yên lãng, rồi lấy con gái họ Tăng, nhân làm nhà ở đó”.
Lần thứ ba ở truyện Trí Thiền tờ 63b7 nói Thiền ở “am Phù môn núi Cao dã, Yên lãng”. Lần thứ tư ở truyện Y sơn tờ 70b8, nói Y
sơn “về già dời tới trú trì chùa Nam mô làng Yên lãng”. Lần thứ năm ở truyện Hoằng Minh tờ 71b10 nói Minh người làng Yên lãng,
Vĩnh hưng”. Trong năm lần này, làng Yên lãng của Từ Đạo Hạnh chắc chắn là tại Yên lãng thuộc huyện Vĩnh thuận của Bắc thành
địa dư chí tức làng Yên lãng hay làng Láng ở gần phía tây thủ đô Hà nội ngày nay. Còn Yên lãng có núi Cao dã của truyện Trí
Thiền thì chắc phải nằm tại huyện Yên lãng tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Về những bàn cãi xem chú thích tại những truyện liên hệ.
Cuối cùng, Yên lãng của truyện Cửu Chỉ đây chắc phải đồng nhất với làng Yên lãng tại Vĩnh hưng bởi vì nó có núi Long đội hiện
nằm tại huyện Duy tiên mà Vĩnh hưng thì ở tại huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên. Xem chú thích (1) truyện Hoằng Minh. Do thế cứ
vào vị trí núi Long đội nói trên Yên lãng đây phải nằm tại huyện Duy tiên. Địa phận nó thế nào ta hiện không thể xác định. Ta
không hiểu tại sao đời Lý lại có ba địa danh cùng mang tên Yên lãng nằm ở ba nơi khác nhau như vậy.
3
Tức làng Phù đàm huyện Từ sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Định Hương.
4 Đầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho
nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu
này đại khái gồm 12 việc sau: Đấy là mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại , thứ áo đó không quá ba cái, xin mà ăn, chỉ ăn một bữa,
chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi quạnh vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, ở trong đám cỏ,
thường ngồi mà không nằm. Đấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải hoàn thành. Xem Đại thừa nghĩa chương 15.
5
Nguyên văn: Lương Văn Nhiệm. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3 và Toàn thư B2 tờ 16a7 thì “Thiên Thành năm thứ nhất
(1028) lấy Lương Nhiệm Văn làm Thái sư”. Truyện Huệ Sinh tờ 58b4 cũng có Lương NhiệmVăn. Văn Nhiệm ở đây chắc chắn là
một viết ngược của NhiệmVăn. Chúng tôi sửa lại và dịch theo. 43 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Trong khoảng Long Thụy Thái Bình (1054 – 1058) Tể tướng Dương Đạo Gia đem chùa mình, mời
Sư về trụ trì. Sư quyết từ không được, đành phải làm theo. Ngày Sư xuống núi [17a1] bèn nói với mọi
người rằng: “Ta không trở lại đây nữa”. Chim muông trong rừng kêu thương ba tuần không dứt.
ở vừa ba năm,vào một ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 –
1065), khi sắp thị tịch, Sư họp môn đồ dạy rằng:
Tất cả pháp môn
Vốn từ tính ngươi
Tất cả pháp tính
Vốn từ tâm ngươi
Tâm, pháp như một
Vốn chẳng hai pháp
Phiền não trói buộc
Tất cả đều không
Phải quấy, tội phứơc
Tất cả đều huyền
Không đâu chẳng quả, chẳng nhân
ở trong nghiệp không phân biệt
ở trong báo không phân biệt
Nếu có phân biệt đối với nghiệp
Thì không tự tại
Tuy thấy tất cả pháp
Mà không chỗ thấy
Tuy biết tất cả pháp
Mà không chỗ biết
Biết tất cả pháp
Nhân duyên làm gốc
Thấy tất cả pháp
Chính tâm làm tôn
Tuy nhiễm thực tế
Hiểu rõ thế gian
Đều như biến hóa
Thấu rõ chúng sanh
Chỉ là một pháp
Không có hai pháp
Không bỏ nghiệp cảnh
Phương tiện thiện xảo
Đối giới hữu vi
Bày pháp hữu vi
Mà không phân biệt
[17b1] Tướng của vô vi
Vì muốn dứt trừ
Vọng niệm so đo
Của ta ấy vậy.
Rồi nói kệ rằng:
“Rõ biết thân tâm vốn lặng yên,
Thần thông biến hóa hiện mọi tướng
Hữu vi vô vi từ đây hiện
Thế giới hà sa không thể lượng
Tuy dù biến khắp cả hư không
Mỗi mỗi xem ra chẳng hình dạng 44 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Ngàn năm muôn năm khó sánh đó
Xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng1
.
Đúng ngọ hôm ấy, dựng đàn trà tì, đồ chúng thu linh cốt của Sư xây tháp phụng thờ.
11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034)
Chùa Cảm ứng, Ba sơn, phủ Thiên đức. Đều là người Châu minh2
, Bảo Tính họ Nghiêm, Minh
Tâm họ Phạm. Thuở nhỏ cùng sớm xuất gia, là bạn đồng chí.
Lúc đầu, cùng với Thiền sư Viên Chiếu, đều thờ Định Hương thượng nhân, sâu hiểu chỗ cốt tuỷ
của Hương. Về sau mỗi người mang tâm ấn, tuỳ phương giáo hóa, nổi tiếng là bậc thượng thủ của tòng
lâm. Viên Chiếu thường có ca, thơ gởi tặng Bảo Tính ngợi khen cái chí hướng cao thượng của Sư.* {Có
đủ ở tập của Chiếu, ở đây không phiền chép}.
Hai Sư sống chung thường lấy việc trì tụng kinh Pháp hoa làm phận sự. Trải mười lăm năm, chưa
từng trễ nãi tí nào. Mỗi lần tụng đến phẩm Dược Vương3
, [18a1] họ đều rơi nước mắt, bảo nhau: “Nhân
địa của Bồ tát nhiều kiếp huân tu, mà đối với tâm Đại thừa, còn phải phát đại dũng mãnh tinh tấn, không
tiếc thân mạng. Huống gì bọn chúng ta ở trong đời mạt pháp, là người mới phát tâm. Nếu chẳng chí
thành như vậy, thì đối với chân tâm đại bồ đề của Đại thừa làm sao có thể mong thấy được !”.
Đến tháng tư năm Thiên Thành thứ bảy (1034) hai Sư sắp thiêu thân thì được mời vào triều, bèn
mở hội giảng kinh. Họ cùng vào trong tam muội hỏa quang4
. Những hài cốt còn lại đều thành thất bảo.
Có chiếu lưu ở chùa Trường thánh để cúng dường. Lý Thái Tôn cho là linh dị, cải nguyên Thông Thụy5
dựng tháp thờ.

1
Nguyên văn:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan thử huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng”.
Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (514-577):
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ân hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghi
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9.
2 An nam chí nguyên 5 tờ 211 viết: “Hai Thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm là sư huyện Đông ngạn, đứng đầu trong tòng lâm, có lần
dựng hội giảng kinh, cùng vào hỏa quang tam muội. Xương cốt đều hoá thành thất bảo”.
3
Tức phẩm Dược Vương Bồ tát bản sự của kinh Pháp hoa, chép sự tích Bồ Tát Dược Vương tự đốt mình để phụng sự đức Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Xem Diệu pháp liên hoa kinh tờ 53a.
4
Hoả quang tam muội, Phạn tejoprabhàsamàdhi, cũng gọi Hỏa quang định, tức một loại thiền định khiến cho thân thể bốc lửa. Xem
Bản hạnh tập kinh 40 tờ. “Bấy giờ đức Như Lai cũng vào hỏa quang tam muội như thế, thân mình bốc ra ngọn lửa lớn” (Như Lai dĩ
thời diệc nhập như thị hỏa quang tam muội, thân xuất đại hỏa).
5 Toàn thư B2 tờ 22a4-6 và Cương mục chính biên 2 tờ 38b6-39a1 viết: “Thiên Thành năm thứ nhất. Bấy giờ, có hai nhà sư Nghiêm
Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu thân mình tự thành bảy báu. Vua xuống chiếu đem bảy báu đó giữ lại ở chùa Trường thánh để
cúng dường đèn nhang. Vua cho đó là điềm lành, nên cải nguyên là Thông Thụy”. 45 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
13. THIỀN SƯ Quảng Trí
Chùa Quán đảnh, núi Không lộ1
. Người Kinh sư, họ Nhan, anh của Hoàng phi Chương Phụng, đạo
tháo cao khiết, không thích hoa lệ.
Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059), Sư bỏ tục đến tham bái Thiền Lão núi Tiên du. Nhờ
một câu nói, Sư ngộ được yếu chỉ. Từ đó ngày tháng miệt mài, dốc chí tu thiền, không đầy một năm mà
phong độ tiếng tăm truyền xa. Sau đến núi ấy, [18b1] trác tích, thường mặc áo vá, ăn hạt thông, cùng
với sơn tăng Minh Huệ kết bạn phương ngoại. Người ta nói Hàn Sơn, Thập Đắc2
tái thế. Công bộ thượng
thư Đoàn Văn Lim3
tôn kính, thường tặng thơ rằng:
Chống gậy non cao trút sáu trần
Lặng nương mộng huyễn hỏi phù vân
Ân cần khôn ngỏ tham Trừng Thập4
Trói buộc bầy cò lớp áo khăn5
.
Vào ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Quảng Hựu (1085 – 1091), Sư quy tịch. Ông Lim
khóc than thảm thiết, rồi đi viếng bằng bài thơ:
Mán rừng đầu bạc lánh thành đô
Hương ngát non cao áo vẫy mờ
Những muốn khăn sồng hầu chiếu giảng
Bỗng nghe của viện khép dày trơ6
Sân chùa chim vẳng trăng suông dõi
Tháp mộ minh ghi ai viết chừ

1
Cương mục chính biên 13 tờ 34b-5 viết: “Núi Không lộ ở tại huyện Thạch thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn tây, trên núi có chùa Lạc
lâm, xưa đó là chỗ hoá thân của Thiền sư Không Lộ, nên có tên đây”. Nhưng Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, cải chính chú
thích vừa rồi của Cương mục chính biên như sau: “Núi Không lộ, xét bia ký chùa Lạc lâm ở tại núi Phụng hoàng xã Sơn lộ, huyện
An sơn ngày nay thì chùa do người phương bắc dựng vào thời Lý, không thấy nói Không Lộ thoát hoá ở đấy, trong chùa cũng
không có thờ Không Lộ. An nam chí của Cao Hùng Trưng nói ở tại huyện Thạch thất, bởi Thạch thất và Yên sơn xưa là một huyện,
mà tên núi lại nhân theo tên xã, mà vì viết tên Sơn thành Không, nên sợ hoặc có tên như vậy”. Tuy thế, điều chắc chắn là vào
thời Lý vàTrần, núi Không lộ đã có tên Không lộ, như chính Thiền uyển tập anh ở đây đã ghi. Nó ngày nay tức núi Phụng hoàng ở
tại xã Sơn lộ, huyện Thạch thất, tỉnh Hà tây.
2
Hàn Sơn và Thập Đắc là hai nhà thơ thiền tâm giao nổi tiếng đời Đường. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 27 tờ 433c-434a.
3
Truyện Chân Không tờ 66a9 cũng chép một bài thơ truy điệu Không vào năm 1100 và bảo là của ” Công bộ thượng thư Đoàn văn
Khâm”. Hai bài thơ của “Công bộ thượng thư Đoàn văn Lim” ở đây đã được Lê Quí Đôn chép luôn với bài thơ truy điệu vừa nói
dưới cái tên “Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm” trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a6-b6. Theo Đôn như vậy, công bộ thượng thư
Đoàn văn Lim cũng là Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm, và chữ Lim thực ra là một viết sai của chữ Khâm. Kết luận như thế, ta
không biết Đôn quả đã có bản in Thiền uyển tập anh xưa hơn bản in năm 1715 của ta ngày nay và bản in đó đã có Đoàn Văn
Khâm thay vì Đoàn Văn Lim, như bản in 1715 đã có. Hay Đôn đã dựa vào sự suy luận về tự dạng chữ Khâm và chữ Lim rất giống
nhau, để có một kết luận như vậy? Tôi nghĩ rằng rất có thể Đôn có một bản in xưa hơn bản in năm 1715 hiện nay của ta. Dẫu sao
đi nữa, nếu Đoàn Văn Khâm Đoàn Văn Lim là một người, thì ông này đã giữ chức Thượng thư bộ công gần cả đến 15 năm hay
hơn nữa, bởi vì Quảng Trí mất trong khoảng 1085-1091 còn Chân Không mất năm 1100.
4
Trừng tức Phật Đồ Trừng (232-248) danh tăng thần dị Tây vực thời Tấn. Xem tiểu sử trong Cao tăng truyện 9 tờ 383b-387a. Thập
tức Cưu Ma La Thập (?- 409) dịch giả lỗi lạc Tây vực đời Dao tần. Xem tiểu sử Cao tăng truyện 3 tờ 330a-333a.
5 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a7-8:
Trụ tích nguy phong bãi lục trần
Mặc cư huyễn mộng vấn phù vân
Ân cần vô kế tham Trừng Thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
6
Di lý, chiếc dép để lại. Bồ Đề Đạt Ma chết. Sau ba năm, Tống Vân trên đường đi sứ Tây Vực, gặp Sư tại Thông lĩnh, vai quảy một
chiếc dép. Vân về tâu. Vua Hiếu Trang nhà Bắc ngụy (528-530) cho khai tháp khám nghiệm thì trong quan tài của Bồ Đề Đạt Ma
chỉ còn lưu lại một chiếc dép. Về sau, Thiền sư chết thường được nói là “chích lý tây qui” hay “di lý”. Xem Truyền đăng lục 3 tờ
220b5-10. 46 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Bạn đạo thôi đừng buồn vĩnh biệt
Ngoài am non nước đó hình xưa1
.
14. Lý Thái Tôn2
Lúc bấy giờ vua Lý Thái Tôn thường đến thăm vấn thiền chỉ với Thiền Lão3
núi Thiên phúc. Kim
chùy4
vừa giáng thì đầu óc đều thông. Những lúc rảnh rỗi việc nước, vua lấy thiền duyệt làm vui, nhân
đó, cùng với các bậc kỳ túc [19a1] khắp nơi giảng cứu chỗ dị đồng. Vua bảo trước: “Trẫm nghĩ đến
nguồn tâm của Phật tổ, từ xưa Thánh hiền chưa khỏi bị chê bai, huống gì người hậu họ! Nay, Trẫm
muốn cùng các đại đức, sơ tỏ ý mình, mỗi vị thuật một bài kệ, để xem chỗ dụng tâm ra làm sao”. Tất cả
đều bái tạ nhận lệnh.
Trong lúc mọi người đang tìm ý, vua đã làm xong bài kệ rằng:

1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a9-b2: Vãn Quảng Trí Thiền sư thi:
Lâm loan hồi thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh sinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý đả thiền khuyễnh
Trai đình u điểu không đề nguyệt
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
2
Lý Thái Tôn (1001-1054), tên thực là Lý Đức Chính, con của Lý Công Uẩn, nối ngôi Uẩn năm 1028 đến năm1054 thì mất. Xem Đại
Việt sử lược 2, Toàn thư B2.
3
Cứ Lược dẫn thiền phái đồ in vào đầu Thượng sĩ ngữ lục tờ 5b6-7a6 thì thế thứ truyền thừa và vai trò của Lý Thái Tôn như sau:
“Từ thuở đức Đại thánh ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đem Chính pháp nhãn tạng niết bàn diệu tâm trao cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp,
lần lượt truyền thọ phàm 28 đời thì đến Đại sư Đạt Ma. Đạt Ma vào Đông độ, truyền cho Đại sư Thần Quang. Thần Quang truyền
xuống phàm sáu đời thì đến Đại sư Thần Hội. Chính vào lúc đó, chính pháp mới truyền vào đất nước ta. Không biết người nhận
được trước là ai. Hãy ghi từ Thiền sư Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tôn, tiếp đến Trưởng lão Định Hương, Thiền sư Viên
Chiếu, Thiền sư Đạo Huệ tiếp nhau truyền thọ, tên họ ẩn hiện, khó tìm manh mối, phân làm ba tôn:
(a) Tôn môn ta đã liệt ra ở bản đồ, không phiền chép đủ.
(b) Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho Hoà thượng Nhiệm Tạng. Hoà thượng Nhiệm Tạng truyền cho Cư sĩ Nhiệm Túc,
đến nay chìm mất, không rõ thừa kế.
(c) Hoà thượng Nhật Thiển được pháp với ai đó, truyền cho Chân Đạo đại Vương, đến nay tôn này rồi cũng chìm mất. Lại có cư sĩ
Thiên Phong từ Chương tuyền đến, cùng với Ứng Thuận đồng thời, tự xưng thuộc tôn Lâm Tế, truyền cho quốc sư Đại Đăng và
Hoà thượng Nan Tư . Đại Đăng truyền cho hoàng đế Thánh Tôn ta và các ngài Liu Minh quốc sư, Thường Cung, Huyền sách,
Huyền Sách truyền cho Phả Trắc v.v … nay cũng mờ dần không rực rỡ lắm. Ôi, Thiền tôn thạnh suy, há nói xiết sao. Nay lược kể
các phái Thiền để lưu lại về sau, hầu bậc học giả biết Thiền có tôn đáng học, chứ chẳng phải chuyện tự bịa đặt bày ra, ấy vậy”.
Sau lời tự dẫn này mới chính là bản đồ truyền thừa của Thiền phái Trúc lâm, mà người viết lời tự dẫn vừa dịch tự xưng là tôn
mình. Cái gọi là Lược dẫn thiền phái đồ đây chắc chắn là do một tác giả thuộc phái Trúc lâm viết ra, bởi vì nó không những xưng
Trần Thánh Tôn là “Hoàng đế Thánh Tôn ta” và Lý Thái Tôn là Nguyễn Thái Tôn, mà còn vì trong bản đồ của phái Trúc lâm, nó
liệt đến ba người đệ tử của Pháp Loa là hết. Thêm vào đó, thật lục của Trần Nhân Tôn trong Thánh đăng lục tờ 40a2 khi nói đến
những người đệ tử nối dòng của Nhân Tôn, nó viết: “Đệ tử nối pháp đã liệt kê đầy đủ trong Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh
dẫn.” Cái gọi là “Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn” này tức là Lược dẫn thiền phái đồ vừa dịch. Như vậy, bản lược đồ đấy
phải viết sau khi Nhân Tôn mất, tức sau năm 1308, để cho Thật lục có thể dẫn. Nó do ai viết? Chắc phải là một trong những
người đệ tử của Pháp Loa, mà chính bản đồ của Lược dẫn ghi gồm ba người, đấy là Huyền Quang, Cảnh Huy và Quế Đường. Một
trong ba người này hay là thị giả cao đệ của họ đã ghi lại.
Bấy giờ, cứ bản Lược dẫn thiền phái đồ thì thầy của Lý Thái Tôn là Thiền sư Thiền Nguyệt. Thiền uyển tập anh nói vua “tham vấn
thiền chỉ với Thiền Lão”. Thiền Lão như vậy đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt mà vì tôn trọng phải gọi thành Thiền Lão, như
trường hợp Thông Thiền đã gọi thành Thông sư. Ứng Thuận gọi thành Ứng vương, để khỏi phạm húy của thầy. Do đó Thiền Lão
từ đây nó phải là Thiền Nguyệt.
Đọc lời tự dẫn của bản Lược dẫn thiền phái đồ trên, ta có thể chắc chắn nó phải viết ra trước năm 1337 khi tác giả Thiền uyển tập
anh hoàn thành tác phẩm của mình, bởi vì nếu có Thiền uyển tập anh người viết lời tự dẫn đã không phải nói”không biết người
đắc pháp về trước Thiền Nguyệt là ai”. Rất có thể tác giả lời tự dẫn trên đây cũng là tác giả của Thiền uyển tập anh. Xem những
bàn cãi trong phần nghiên cứu.
4
Châm chùy, hoặc nói là kiếm chùy, chỉ cho sự đào luyện khó nhọc của Thiền gia. Phổ Chiếu, Bích nham lục tự: “Bỉnh phanh Phật
đoàn Tổ kiềm chùy, tụng xuất nạp tăng hướng thượng ba tỉ”. Xem Bích nham lục 1 tờ 39a5. 47 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Bát nhã thật không tôn
Nhân không, ngã cũng không
Quá, hiện vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng.1
Mọi người đều phục sự nhanh trí của nhà vua.

1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b9-10 chép y bài kệ ở đây. 48 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Tám (6 ng ư ờ i, thi ế u 3 ng ư ờ i)
15. QUỐC SƯ Thông Biện (? – 1134)
Chùa Phổ ninh, Từ liêm1
. Người Đan phụng2
, họ Ngô, con dòng Phật tử. Bẩm tính thông tuệ, rất
giỏi tam học3
. Ban đầu đến tham bái Thiền Sư Viên Chiếu, chùa Cát tường. Khi rõ được yếu chỉ bèn đến
ở tại Quốc tư ỉ của Thăng kinh4
, tự gọi hiệu là Trí Không.
Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu5
có lần [19b1] đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn
thua ? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước
ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?
Mọi người đều không lên tiếng, Sư bèn đáp rằng: “Thường trụ thế gian, không sanh không diệt
thì gọi là Phật. Hiểu rõ Tâm tôn của Phật, hạnh giải đều hiệp nhau, thì gọi là Tổ6
. Phật và Tổ là một. Bởi
bọn lạm xưng học giả tự dối nói là có hơn thua vậy. Vả Phật nghĩa là giác ngộ,và sự giác ngộ đó xưa nay
vắng lặng thường trú. Hết thảy hàm sinh, đều cùng một nguyên lý đấy. Nhưng bởi bụi lòng che khuất,
theo nghiệp nổi trôi, mà chuyển nên các cõi. Đức Phật vì lòng từ bi,nên thị hiện đản sanh đất Trúc. Bởi vì
nó là nơi được gọi trung tâm của trời đất
7
. Năm 19 tuổi xuất gia, năm 30 thành đạo. ở đời thuyết pháp
49 năm, mở bày các phương tiện, khiến người ngộ nhập đạo đó. Ấy gọi là sự hưng khởi của một [20a1]
thời đại kinh giáo8
. Khi sắp nhập Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên bảo với Văn Thù rằng:
“Suốt 49 năm, ta chưa từng nói một chữ, sao bảo là có điều để nói”. Rồi cầm một cành hoa đưa lên, mọi

1
Tức huyện Từ liêm cũ, nay đấy Hoài đức, tỉnh Hà đông. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.
2
Tức huyện Đan phụng, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, viết: “Huyện Đan phụng ở tại phía đông của phủ 35 dặm, từ đông
sang tây rộng 20 dặm, từ nam xuống bắc rộng 25 dặm, từ huyện lỵ đến phía đông giáp giới với huyện Từ liêm của Hà nội 12
dặm, phía tây đến sông Hát đối ngạn với địa giới huyện An sơn 8 dặm, phía nam đến địa giới huyện Từ liêm, tỉnh hà nội 13 dặm,
phía bắc đến huyện Phúc thọ phủ Quảng oai 12 dặm. Nó là đất cú lậu đời Hán. Đời Trần về trước đặt tên Đan Phụng. Đời Minh cải
làm huyện Đan sơn sáp nhập với châu Từ liêm, sau tinh nhập, vẫn thuộc phủ Giao châu. Đời Lê Quang Thuận phục hồi lại tên cũ,
cải thuộc phủ Quốc oai kiêm lý”. Nay là huyện Đan phụng tỉnh Hà tây.
3
Tam học. Chỉ ba môn học chính của Phật giáo, đấy là học về giới, học về định và học về tuệ, hay thường gọi tắt là giới định tuệ.
Để học về giới, người ta phải dựa vào những bản điều luật Phật giáo, tức là luật tạng. Để học về định, người ta phải suy gẫm về
những lời dạy của Phật Thiùch Ca, tức kinh tạng. Để học về tuệ, người ta nghiên cứu những tác phẩm triết học Phật giáo, tức luận
tạng. Cho nên, nói rằng giỏi về tam học, tức cũng có nghĩa giỏi về toàn bộ kinh điển Phật giáo, tức kinh, luật và luận. Xem Thích
thị yếu lãm quyển trung tờ 292c22-23.
4
Nguyên văn: Thăng kinh Quốc tự. Quốc tự đây nghi là bản in khắc sót chữ Khai, tức chỉ chùa Khai quốc của kinh đô Thăng long,
nơi những cao tăng của triều Đinh Lê đã từng sống. Về chùa Khai quốc, xem chú thích (1) ở truyện Vân Phong.
5
Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu. Nguyên bản viết là Phù Thánh Cảm Linh Nhân hoàng thái hậu. Nhưng chúng tôi cứ theo Đại
Việt sử lược, Toàn thư và Cương mục chính biên để sửa lại là Phù Thánh Linh Nhân. Linh Nhân là mẹ của vua Lý Nhân Tôn. Người
làng Thổ lỗi, mà sau này khi sinh ra Nhân Tôn đã cải lại là Siêu loại, họ Lê được Thánh Tôn nạp vào cung năm 1063 và đặt tên là
_ Lan phu nhân. Năm 1066 sinh Nhân Tôn và được tôn làm Thần phi. Năm 1073 khi mới lên ngôi một năm, Nhân Tôn u sát
Dương thái hậu và tôn mẹ minh lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân mất năm 1117 và được thụy là Phù Thánh Linh
Nhân hoàng thái hậu.
6
Dương Huyền Chi hỏi Bồ Đề Đạt Ma sao gọi là Tổ, Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Kinh Phật tâm tông, hạnh giải tương ưng, danh chi viết
Tổ”. Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a5. Hành giải tức có nghĩa như tri hành hiệp nhất. Hành tức việc làm, và giải có nghĩa sự hiểu
biết.
7
Nguyên văn: “Cố thị sanh Trúc thổ cái vị thiên địa chi chính trung giả”. Tham chiếu Mâu tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ
1c25-26. Sở dĩ sanh Thiên trúc giả, thiên địa chi trung, xử kỳ trung hoà giả.
8
Nhất đại thời hưng giáo. Thuật ngữ của Thiền gia chỉ giáo pháp tam thừa do Phật Thích Ca nói trong suốt 49 năm tại thế, bao
gồm các thứ quyền thiệt, đốn tiệm v.v… ngoại trừ Thiền tôn, một thứ “giáo ngoại biệt truyền”. Từ này tương đương với từ “nhất
đại giáo” của Chỉ quán nghĩa lệ hay “nhất đại thánh giáo” của Thiên thai tứ giáo nghi, mà những người Thiền tôn, đặc biệt là
những người, chuyên về giáo phán, dùng để gọi toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca. Xem Chỉ quán nghĩa lệ và Thiên thai tứ giáo
nghi. 49 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
người đều ngơ ngác, chỉ có Tôn Giả Ca Diếp nở mặt mỉm cười
1
, Phật biết Ca Diếp đã tỏ ngộ, liền đem
Chánh pháp nhãn tạng giao cho, ấy là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là Tâm tôn, truyền riêng ngoài giáo điển.
Về sau, Ma Đằng2 đem kinh pháp truyền vào đất Hán, và Đạt Ma đem tâm chỉ truyền sang
Lương và Nguỵ. Việc truyền kinh pháp đến Thiên thai3
thì thịnh, gọi là Giáo tôn. Được yếu chỉ của Đạt Ma
thì đến Tào khê4
mới sáng, gọi là Thiền tôn. Hai tôn ấy truyền đến nước Việt ta đã nhiều năm. Giáo thì
lấy Mâu Bác5
, Khương Tăng Hội
6
làm đầu. Thiền thì lấy Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm phái trước, Vô Ngôn Thông
làm phái sau. Đó là những vị Tổ của hai phái”.
Hậu nói: “Hãy để Giáo tôn đó đã, còn hai phái Thiền có gì bằng chứng?”.
Sư đáp: “Xét Đàm Thiên pháp sư truyện7
thì vua Tùy Cao [20b1] Tổ gọi Pháp sư nói: “Trẫm
nghĩ đến lời dạy từ bi của đức Điều Ngự, muốn báo đền công đức, không biết làm sao. Trẫm trộm làm
bậc nhân vương, rộng giúp Tam bảo, đã khắp ban di thể xá lợi, đồng thời ở trong nước dựng bảo tháp
phàm 49 cái để làm bến cầu giác ngộ cho đời, còn hơn 150 tự tháp ngoài do các xứ kiến lập mong tạo
phước nhuận thấm tới đến cả thế giới đại thiên. Song xứ Giao Châu kia tuy đã nội thuộc, nhưng còn ky
my, nên phải chọn những sa môn danh đức, đến các xứ của châu ấy để dạy dỗ, hầu khiến cho tất cả đều
giác ngộ”
8
.

1
Truyền thuyết của Thiền tôn về nguyên lai của tôn mình. Vương An Thạch hỏi Sư Huệ Tuyền về xuất xứ của truyền thuyết này.
Tuyền nói trong Đại tạng không thấy chép. Vương bảo, tình cờ ông đọc thấy nó trong Đại phạm thiên vương vấn Phật quyết nghi
kinh (?). Nó gồm có ba quyển, và nội dung nói theo Vương, thì như sau: Phạm vương đến Linh sơn, dâng hoa ba là màu vàng
cúng Phật và cúng thân mình làm giường ngồi, xin Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa giảng, cầm hoa dơ lên,
trời người trăm vạn đều không hiểu ra. Chỉ có đầu đà Kim Sắc rạng mặt mỉm cười. Thếâ Tôn nói: ” Ta có chính pháp nhãn tạng
Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, đem giao cho Ma Ha Ca Diếp”. Vương cũng còn thêm rằng: “Kinh này phần lớn bàn tới
việc đế vương, vì vậy nên bị cất đi trong cung vua và người đời ít nghe tới nó”. Xem Nhân thiên nhãn mục 5 tờ 325b3-13.
2
Tức Ca Diếp Ma Đằng, dịch giả kinh Phật đầu tiên tại Trung quốc theo truyền thuyết. Xem Cao tăng truyện 1 tờ 322c13-323a23.
3
Tức Trí Khải (538-597) vì sống ở núi Thiên thai, nên cũng gọi là Thiên Thai hay Thiên Thai đại sư, người sáng lập nên một trường
phái mang tên Thiên Thai tôn, mà tự nguyên uỷ vì dựa vào kinh Pháp hoa nên gọi là Pháp hoa tôn, và đề xướng ra một phương
pháp tu hành chỉ quán thường được mệnh danh “Thiên thai giáo quán”. Xem Tục cao tăng truyện 17 tờ 564a18-568a15.
4
Tức Huệ Năng (638-713), vì sống ở chùa Nam hoa dựng gần khe Tào, nên cũng gọi là Tào khê. Xem Truyền đăng lục 5 tờ
235b10- 237a12 và Tống cao tăng truyện 8 tờ 754c1 – 755c10.
5
Tức Mâu Tử (165 – ?) tác giả Mâu tử lý hoặc luận, tác phẩm lý luận Phật giáo đầu tiên tại nước ta cũng như của miền đông châu
Á, viết vào khoảng năm 198 sau Tây lịch. Xem Hoằng minh tập 1 tờ 1a26-7a22, Xuất tam tạng ký tập 12 tờ 82c29-83a1, Phật tổ
thông ký 35 tờ 332a27 – b5; Phật tổ lịch đại thông tải 5 tờ 510b17 – 514a9, Thích thị khể cổ lược 1 tờ 769a12-c6.
6
Khương Tăng Hội (? – 280), sản phẩm đầu tiên của nền Phật giáo nước ta, tác dịch giả một số tác phẩm quan trọng, mà đặc biệt
nhất là Lục độ tập kinh, đóng góp rất nhiều tài liệu lịch sử văn học cho công tác nghiên cứu cổ sử của ta. Xem Xuất tam tạng ký
tập 13 tờ 96a29-97a17 và Cao tăng truyện 1 tờ 235a13-236b13 v.v …
7 Đàm Thiên pháp sư truyện ở đây tức là truyện của Pháp sư Đàm Thiên đời Tuỳ trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ 571b12-574 b6,
chứ không phải là của Kinh sư Đàm thiên đời Tề trong Cao tăng truyện 13 tờ 413a18 – 26, như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en
Annam BEFEO XXXII (1932) đã đồng nhất một cách sai lầm. Đàm Thiên đời Tuỳ sinh năm 542 và mất năm 607, thọ 66 tuổi, quả
đã có những quan hệ rất mật thiết với Tùy Cao tổ và đặc biệt về việc cúng dường xá lợi, ông quả đã có một cống hiến đặc biệt.
Xem tiểu sử trong Tục Cao tăng truyện vừa kể.
8
Nguyên văn: “Án Đàm thiên pháp sư truyện, Tùy Cao Tổ vị (chi) pháp (giả hậu) sư vân: Trẫm niệm Điều Ngự từ bi chi giáo, báo
đức vô do, vị thiêm nhân vương, hoằng hộ Tam bảo, dĩ biến thu di thể xá ly, nhưng ư quốc nội, lập thụ bảo tháp, phàm tứ thập
cửu sở, biểu thế tân lương, dư nhất bách ngũ thập tự tháp, ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước nhuận, dĩ cập đại
thiên. Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc, do hệ ky my, nghi tuyển danh đức Sa môn, vãng bỉ chư xứ hoá, già lịnh nhất thiết, cu đắc
bồ đề”.
Trong đoạn này, những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như những din tự do lỗi của người viết hay người
khắc bản, vì vậy đã không được dịch. Còn những chữ in đậm là những chữ chúng tôi thêm vào, cứ trên những dữ kiện lịch sử
ngoại tại khác, để ý nghĩa đoạn văn được chính xác.
Thứ nhất, ở câu “Tuỳ Cao tổ vị (chi) pháp (giả hậu) vân” của nguyên bản, chúng tôi cho rằng những chữ “chi giả hậu” là những
diễn tự của câu đi trước, ở đây ta có “nhị phái chi tổ giả hậu viết”. Sau khi loại những chữ “chi giả hậu” đi rồi, chúng tôi thêm chữ
sư vào, để cho câu văn được gọn nghĩa.
Thứ hai, về loại bỏ chữ Giao châu ở câu “dư nhất bách ngũ thập tự tháp ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước
nhuận”, thì chúng tôi cứ vào chính bản tiểu sử của Đàm Thiên nay trong Tục Cao tăng truyện 18. Ở tờ 537b25-c14, Đạo Tuyên
ghi lại rất rõ những diễn tiến của việc ban bố xá lợi và xây tháp của Tùy CaoTổ. Tháng sáu năm Nhân Thọ thứ nhất (601), Cao Tổ
ra lệnh “chọn 30 chỗ cao sảng thanh tịnh để dựng tháp thờ xá lợi” trong khắp Trung quốc, đồng thời ban cho mỗi nơi một hòm xá 50 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Pháp sư đáp: “Một phương Giao châu, đường thông Thiên trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang
Đông chưa có, mà Luy lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó
có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu Đà La1
, Ma La Kỳ Vực2
, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương,
Mâu Bác tại đó. nay lại có Pháp Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ (21a1) Ni Đa Lưu Chi, truyền tông phái
của tam Tổ, là người trong hàng Bồ tát, đang ở chùa Chúng thiện dạy dỗ học trò. Trong lớp học đó
không dưới 300 người, cùng với Trung quốc không khác. Bệ hạ là cha lành của thiên hạ, muốn bố thí
một cách bình đẳng thì chỉ riêng khiến sứ đưa xá lợi đến, vì nơi ấy đã có người, không cần đến dạy dỗ3
.
Lại bài tựa Truyền pháp của tướng quốc Quyền Đức Dư4 đời Đường, nói: “Sau khi Tào Khê mất
đi, Thiền pháp thịnh hành đều có thừa kế. Chương Kính Uẩn thiền sư5
dùng tâm ấn của Mã Tổ hành hóa
ở Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sĩ đem tôn chỉ của Bách Trượng khai ngộ tại Giao châu”. Đó là những
chứng cứ vậy”.
Thái hậu lại hỏi về thứ tự truyền thọ của hai phái trên.

lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký do VươngThiệu viết trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì chùa Thiền chúng của Giao châu
được chọn làm nơi dựng tháp giữa số 30 chỗ của 30 châu đấy. Sau đợt ban bố thứ nhất này, tháng giêng năm sau, tức năm 602,
Cao Tổ lại ban bố xá lợi đợt hai cho “hơn 50 châu”, mà Khánh xá lợi cảm ứng biểu do Vương Hùng viết trong Quảng hoằng minh
tập 17 tờ 216c7 – 221a7 nói rõ là có 51 châu với một châu được ban lần thứ hai là thành ra 52 châu. Và đợt ban bố xá lợi thứ ba
xẩy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ 4 (604), theo đó “vua ra lệnh xây miếu ở 30 châu, rồi bèn sai dựng linh tháp ở hơn một
trăm chỗ của các châu lớn ở trong nước, để khuyên người tôn sùng điều lành”. Như vậy, rõ ràng dưới thời Tùy Cao Tổ, việc ban
xá lợi cho các châu xảy ra cả thảy ba lần. Lần đầu năm 601 cho 30, lần thứ hai năm sau cho 51 châu và lần thứ ba cho hơn 100
sở ở tại các châu lớn. Do thế, trong đoạn văn trên, ta thấy Tùy Cao Tổ kể đến ba lần ban bố xá lợi này, mà lần thứ nhất nó không
cho biết rõ số châu được ban bố và chỉ viết “biến phân (thu) di thể xá lợi”, nhưng lần thứ hai thì nó ghi rõ là “cho lập bảo tháp
phàm 49 sở ở khắp nước” thì hiển nhiên nó muốn nói tới đợt phân phát xá lợi thứ hai cho 51 châu năm 602. Và lần thứ ba nó viết
“còn hơn 150 tháp do các xứ của mỗi châu kiến lập để mong phước nhuận thấm tới đại thiên” thì rõ ràng nó muốn đề cập tới đợt
phân phát thứ ba năm 604, chứ dứt khoát không thể là “còn hơn 150 chùa tháp của các xứ Giao châu được. Chữ Giao châu trong
câu đó vì vậy phải loại ra coi nó là một diễn tự lấy từ câu tiếp theo, đấy là “Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc”. Chúng tôi do thế đã
thêm chữ Giao châu ấy vào cho câu tiếp theo đấy.
Dựa vào dữ kiện của truyện Đàm Thiên trong Tục Cao tăng truyện hiện nay, để mà sửa sai và chấm câu lại đoạn văn trên, ý nghĩa
cũng như những mẫu tin lịch sử của bây giờ đã trở thành rõ ràng và có lý cứ.
1
Nguyên bản viết Khâu Ni danh. Đây chắc là một viết sai và khắc lộn của cái tên Khâu Đà La, mà Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh
ngữ lục kể ra cùng với Kỳ Vực như hai vị sư “cùng một lúc đến thành Luy lâu, trị sở của Sĩ Vương” vào khoảng cuối triều Hán Linh
Đế. Ở đây, họ được một Ưu bà tắc tên Tu Định mời ở lại. Nhưng Kỳ Vực từ chối và tiếp tục cuộc hành trình của mình, còn Khâu
Đà La thì bằng lòng và cuối cùng đã truyền pháp lại cho A man với sự ra đời của bốn vị thánh Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện. Cổ châu tứ pháp phổ lục cũng nói tới truyện này. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 9b6-9 dưới mục “Sư Ấn độ thời vua
Hùng” đã coi Khâu Đà La như một “nhà sư Ấn độ thời vua Hùng” đã gặp Tu Định và truyền pháp lại cho A Man. Nội dung chuyện
này thì đại khái giống truyện Man Nương của Lĩnh nam trích quái tờ 25-26, nhưng ở đó tên Khâu Đà La đã bị đổi thành Giả La Chà
Lê.
2
Tức Kỳ Vực của Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục và đến Luy lâu cùng một lúc với Khâu Đà La vào cuối thời Hán Linh Đế,
tức khoảng những năm 168-189. Cao tăng truyện 10 tờ 388a16-c5 cũng nói tới một Kỳ Vực đã từng trải qua “miền Giao châu và
Quảng châu và đều có chuyện linh dị”, rồi đến Lạc dương vào khoảng cuối đời Tấn Huệ Đế, tức khoảng những năm 305-306. Như
vậy, Kỳ Vực này đến Giao châu sớm lắm thì cũng khoảng vào những năm trước sau năm 290. Thế thì, hai Kỳ Vực đây phải chăng
là cùng một người?. Cứ trên hành trạng của hai người thì ta bắt buộc phải đồng nhất họ với nhau. Nhưng bằng vào sự sai khác
niên đại, một sự sai khác đến những trăm năm, ta tất yếu phải giả định sự có mặt của hai người khác nhau cùng mang tên Kỳ
Vực, nếu quả thật những sử liệu của Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục là đáng tin cậy.
3
Truyện Pháp sư Đàm thiên ngày nay trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ 571b12-574b6 không có lời đáp này của Đàm Thiên cũng
như câu đề nghị của Tùy Cao Tổ. Nhưng cũng chính Tục Cao tăng truyện 18 tờ 574b5-6 lại ghi thêm rằng “có Sa môn Minh Tắc vì
Thiên mà viết hành trạng, đầu đuôi quán xuyến, kinh sư ưa chuộng”. Thế có nghĩa, trước và ngoài bản Tục Cao tăng truyện, ta
còn có một bản khác mang tên Hành trạng do Minh Tắc viết về Thiên. Phải chăng bản Hành trạng này đã chứa đựng những câu
nói trên của Tùy Cao Tổ và của Đàm Thiên và đamg còn lưu hành ở nước ta vào thời Thông Biện, để cho Biện viện dẫn? Dẫu sao
đi nữa, những gì do hai bản đấy nói không phải không kiểm chứng được với những tài liệu hiện có ngày nay. Cũng cần thêm là,
cứ vào nội dung của câu nói trên, thì cuộc đối thoại giữa Tùy Cao Tổ và Đàm Thiên, xảy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ tư
(604), bởi vì đầu tháng giêng thì Cao Tổ ra lệnh xây hơn một trăm cái tháp, mà chính câu nói đã kê ra, và đến tháng tư thì nhuốm
bệnh và tháng bảy thăng hà.
4
Quyền Đức Dư (757-818) làm Tể tướng dưới thời Đường Hiến Tôn. Bài tựa cho cuốn sách nhan đề Truyền pháp này ngày nay đã
thất lạc. Văn uyển anh hoa, Toàn Đường văn cũng như Toàn Đường văn bổ di không thấy chép một bài tựa nào như thế cả.
5
Tức Thiền sư Hoài Uẩn (? – 818) chùa Chương kính ở Kinh Triệu. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 252b19-c23. 51 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Phái của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tức nay Lâm Huệ Sinh, Vương Chân ấy vậy1
. Kỳ dư chia chẻ
ra bao la không thể kể hết”.
Thái hậu rất vui, bèn phong Sư làm Tăng lục2
, ban cà sa tía3
và hiệu [21b1] Thông Biện đại sư,
cùng thêm hậu thưởng để tỏ lòng yêu chuộng. Không lâu, Hậu triệu Sư vào cung, phong làm Quốc sư4
,
hỏi han yếu chỉ của thiền. Bà sâu hiểu tôn chỉ nó.*{Thái hậu đã từng có bài kệ Ngộ đạo rằng: sắc là
không, không tức sắc, không là sắc, sắc tức không, sắc không đều không bận, mới hiểu được chân
tông}.
Tuổi già, Sư dời đến ở chùa mình, mở pháp hội lớn, mưa cơn mưa pháp. Sư dạy người sửa mình,
thường dùng đến kinh Pháp hoa, cho nên người bấy giờ gọi Sư là Ngộ Pháp Hoa.
Ngày 12 tháng 2 năm Giáp dần Long Chương Bảo Tự thứ hai (1134), Sư cáo bệnh.
16. Đại Sư Mãn Giác (1052 – 1096)
Chùa Giác Nguyên, Cửu liên5
. Người Lũng chiền, làng An cách1
họ Nguyễn tên Trường. Cha là
Hoài Tổ làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang2
. Vua Lý Nhân Tôn, lúc còn làm thái tử, xuống

1
Lâm Huệ Sinh tức Huệ Sinh tăng thống (? – 1064) của thế hệ thứ 13 của giòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thế hệ này theo Thiền uyển tập
anh thì gồm cả thảy sáu người, nhưng nó chỉ ghi lại tiểu sử của bốn người thôi, đấy là Lâm Huệ Sinh, Khương Thiền Nham,
Nguyễn Minh Không, và Nguyễn Bản Tịch, chứ không có người nào mang tên Vương Chân hết. Thế hệ thứ 14 cũng không có ai
mang tên đó cả. Thế hệ thứ 12 cũng vậy, chỉ có tên Vạn Hạnh, Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát và Thuần Chân. Phải chăng Vương
Chân là một viết sai của Thuần Chân hay Chân Không? Mai Viên Chiếu (999 – 1090) và Nhan Quảng Trí (mất khoảng những năm
(1085-1091) thuộc thế hệ thứ 7 của giòng Vô Ngôn Thông. Thế hệ này có bảy người nhưng Thiền uyển tập anh chỉ ghi lại tiểu sử
và tên sáu người thôi, đấy là Mai Viên Chiếu, Đàm Cứu Chỉ, Nghiêm Bảo Tính, Phạm Minh Tâm, Nham Quảng Trí và Lý Thái Tôn,
chứ không ghi ai tên Lôi Hà Trạch cả. Những thế hệ trước và sau thế hệ này cũng không ai mang tên ấy hết. Nhưng ở tiểu sử của
Nguyễn Giác Hải thuộc thế hệ thứ 10 cũng của giòng Vô Ngôn Thông này, ta được bảo: “Hải trước cùng với Không Lộ đều thờ Hà
Trạch làm thầy, sau bỗng chốc trở thành pháp tự của Lộ.” Như vậy, quả có một Thiền sư có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là
thứ 8 mang tên là Hà Trạch, mà cả Giác Hải và Không Lộ thờ làm thầy. Nhưng ở trong bản tiểu sử của Không Lộ thì chỉ nói rằng
Lộ “trong khoảng Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) đã cùng với bạn đạo là Giác Hải đều vân du phương ngoại, tạm đến
chùa Hà trạch nương thân”. Thế thì, Hà trạch là tên một ngôi chùa, chứ không phải là tên người. Tuy nhiên, tên chùa cũng có thể
dùng xưng hô thế cho tên người. Lôi Hà Trạch do vậy là một nhân vật có thật và có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8
của giòng Vô Ngôn Thông, bởi vì Không Lộ là thuộc thế hệ thứ 9 của giòng này. Từ đó, chữ “tức kim” đi trước chữ “Lôi Hà Trạch”
trong nguyên bản, chúng tôi coi như những diễn tự và đã bỏ đi không dịch.
2 Toàn thư 1 tờ 3b6-9 (Thái Bình) năm thứ hai (971) lần đầu tiên định giai phẩm của văn võ và Tăng đạo, lấyTăng thống Ngô Chân
Lưu cho hiệu Khuông Việt thái sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng chính uy nghi”. Tăng lục như
vậy là một chức quan do triều đình đặt ra cho Phật giáo và bắt đầu ở nước ta ngay từ lúc Đinh Tiên Hoàng mới lập quốc, qua nhà
sư tên Trương Ma Ni. Ở Trung quốc, chức này bắt đầu xuất hiện với Đoan Phủ dưới triều vua Đường Văn Tôn (827-840). Chức
năng của chức này có thể thấy qua lời chiếu sau đây viết đầu thời Vũ tôn: “có Phật pháp đến đây, từ xưa tới nay, hưng phế có gì
làm chứng, xin lưỡng nhai Tăng lục cùng các Sư tam học viết ra những sự việc, dâng lên”. Xem Đại Tống tăng sử lược quyển
trung tờ 243c26-28. Chức năng của Tăng lục ngoài việc giữ giấy tờ hộ tịch, như vậy còn có chức năng của một Sử quan Phật giáo,
một chức năng khá thích hợp với Biện.
3
Tục ban áo tía cho các nhà sư bắt đầu tới Võ Tắc Thiên (684-774) ở Trung quốc. Năm 690, nhà sư Pháp Lãng đã tìm một dẫn
chứng trong kinh Đại vân biện minh cho sự lên ngôi của Thiên, nên được Thiên phong làm Huyện công và ban áo cà sa tía. Xem
Đại Tống tăng sử lược quyển hạ tờ 248c3-249a29. Ở nước ta, Thông Biện là người đầu tiên nhận áo tía được biết.
4 Đại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 244b29-c15 nói về lai lịch của chức Quốc sư, bắt đầu với Pháp Thường dưới thời Bắc Tề
(550-577), đã xác định nội dung nó thế này: “Về giáo lý bên trong thì học thông cả ba tạng, gồm thông cả năm món học, cả nước
quy y theo, thế là làm rõ hiệu đó”. Năm món học hay ngũ minh nói tới đây tức là triết học, ngôn ngữ học, luận lý học, y dược học
và kỹ thuật học. Ở nước ta thì Khô Đầu có lẽ là vị sư đầu tiên được biết mà Lý Nhân Tôn phong làm Quốc sư năm Quảng Hựu thứ
tư (1088). Toàn thư quyển 3 tờ 11b9-12a2 còn ghi thêm: “Có nơi nói, vua ban cho Sư tiết việt, cùng với tể thần đứng ngang hàng
trên điện vua để xử đoán việc vàn và kiện tụng của thiên hạ”. Nhìn đó, ta có thể thấy sơ vai trò của Quốc sư trong triều đình và
lịch sử Việt nam.
5
Cửu liên là tên một châu. Đại Việt sử lược 3 tờ 20b7 nói Lý Huệ Tôn “năm Kiến Gia thứ 8 (1218) tháng tư đi chơi châu Cửu liên
xem bắt cá”. Đó cũng là nơi đóng quân của Trần Tự Khánh vào mùa xuân năm 1215, rồi sai các tướng mình lên đóng ở Cửu Cao
và Cửu ông để chống lại Nguyễn Nộn. Toàn thư B4 tờ 29b1-5 nói mùa xuân năm 1216 Lý Huệ Tôn “ban đêm cùng với phu nhân
lén đi đến quân của Tự Khánh, gặp trời sáng, dừng lại nhà của tướng quân Lê Mích ở huyện An diên thì gặp tướng của Tự Khánh
là Vương Lê đem thủy quân đến đón. Vua bèn ở lại châu Cửu liên, gọi Tự Khánh đến chầu”. Đại Việt sử lược 3 tờ 29b8-11 cũng
ghi những sự việc ấy, nhưng không nói rõ lộ trình và nơi trú lại của Huệ Tôn. Điều quan trọng là nó ghi lại ngày tháng xảy ra sự52 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
chiếu mời con em các danh gia vào hầu hai bên. Sư nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích
nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, thường chú tâm vào Thiền học.
Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng Sư, ban cho Sư tên Hoài Tín
Trong khoảng Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 – 1084), Sư dâng biểu xin xuất gia. Khi đã được tâm
ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, (22a1) bèn cầm gậy vân du, khắp tìm bạn đạo, đến đâu học giả
thường vân tập đến đấy. Sư xem Đại tạng kinh, được Vô sư trí3
, là lãnh tụ Giáo hội của một thời vậy.
Vua cùng với Linh Nhân hoàng thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung
Cảnh hưng4
, mời Sư đến ở, để tiện hỏi han. Nói chuyện với Sư, vua chẳng gọi tên mà thường gọi là
Trưởng lão.
Một hôm vua gọi Sư nói: “Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu đời, không hạnh nào chẳng đủ,
không việc gì chẳng làm, không phải chỉ có sức định huệ, mà cũng có công phò tá. Vậy xin kinh bổ
nhiệm ngài”.
Bèn trao Sư chức Giáo nguyên thiền viện Hoài Tín đại sư truyền tổ vô tu vô chứng tâm ấn phụng
chiếu nhập nội đạo tràng tứ tử đại sa môn đồng tam ti công sự. Trong lúc nhận chức này, Sư được lấy
thuế hộ năm mươi người.
Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (1096)5
, Sư cáo bệnh, có kệ dạy chúng rằng:
“Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời qua trước mắt
Già đến trên đầu rồi !

việc đó vào ngày Giáp tuất (nguyên bản viết là Giáp thìn, nhưng nghi thìn là chữ tuất viết lộn) bởi vì 13 ngày sau vào ngày Bính
tuất (nguyên bản viết là Canh tuất, Canh nghi là viết sai của chữ Bính) Đại Việt sử lược 3 tờ 30a2 nói: “Tự Khánh dựng điện cỏ ở
Tây phù liệt, qui mô nó hoàn toàn phỏng theo Đại nội”, mà Toàn thư thì nói Lý Huệ Tôn ở lại Cửu liên và cho gọi Tự Khánh tới
châu ở đó. Thế là, nếu Cửu Liên không là Tây phù liệt, như vậy có thể nằm trong khoảng phần đất hai huyện Thanh oai và Thanh
trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
Truyện của Mãn Giác ở đây nói vua Lý Nhân Tôn cùng “Linh Nhân hoàng thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa
bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời Giác tới để tiện hỏi han”. Đại Việt sử lược 2 tờ 12b6-7 cho biết “Năm Chương Thánh Gia Khánh
thứ 7 (1065) tháng 8 vua đến chơi hành cung Cứu lan, đặt tên cung đó là Cảnh hưng”. Vậy dựng chùa ở cung Cảnh hưng tức
dựng ở hành cung Cứu lan. Cứu lan đây chắc là một viết khác của Cửu liên. Như vậy, chùa Giáo nguyên ở Cửu liên, tức là chùa do
Lý Nhân Tôn dựng bên cạnh cung Cảnh hưng, nghĩa là bên cạnh cung Cứu lan. Nó có lẽ là chùa Cứu lan mà Huyền Quang làm bài
tứ tuyệt “Nhân sự đề Cứu lan tự” do Trích dim thi tập ghi lại và Lê Quí Đôn dẫn ra trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 18a4-6.
1
Hai tên Lũng chiền và An cách này không thấy sử sách nào nói tới. Tuy nhiên, Bắc thành địa dư chí lục 3 trong khi liệt kê các tổng
xã của huyện Duy tiên, có kê hai xã của tổng Hồng khê mang tên Lũng xuyên và Chiền đầu. Chúng tôi nghĩ rằng hai xã Lũng
xuyên và Chiền đầu này vào thời Lý chắc là ấp Lũng chiền thuộc làng An cách của Mãn Giác nói ở đây. Đất của làng An cách đời
Lý như vậy thuộc địa phận huyện Duy tiên tỉnh Hà nam ngày nay. Chúng tôi hiện chưa có dịp làm một cuộc khảo sát hiện địa, nên
chỉ đoán vậy thôi. Truyện Mãn giác ở đây cũng nói làng An cách có chùa Sùng nghiêm. Đây là một điểm chỉ rất tốt cho công tác
điều tra hiện địa của chúng ta, vì ta có thể tìm xem hiện ở hai làng Lũng xuyên và Chiền đầu ngày nay có ngôi chùa nào không?,
và chùa đó có phải trước có tên Sùng nghiêm không?
2
Tức Lý Hoài Tổ làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao qua cáo ai và xin phong năm 1073. Xem Lý Đào, Tục tự thị thông giám trường
biên 243 tờ 5a7.
3
Vô sư trí tức thứ trí tuệ không do thầy truyền dạy, thường dùng để chỉ cho Phật trí hay tự nhiên trí hay nhất thiết trí. Phẩm thí dụ
kinh Pháp hoa có câu: “Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí”. Pháp Tạng giải thích: “Vô sư trí tức là thứ trí tuệ trước vì
không do thầy mà được, nên gọi là vô sư trí”. Xem Diệu pháp liên hoa kinh sớ 6.
4
Do Thánh Tôn dựng vào năm 1065. Đại Việt sử lược 2 tờ 12b6-7 vào năm đó viết: “Tháng 8, ngày Quí mùi, vua đi chơi hành cung
Cứu lan đặt tên cung đó là Cảnh hưng”. Cung này như vậy ở tại núi Cửu liên, làng An cách.
5
Chép năm 1096 này là năm Mãn Giác mất, sợ là một sai lầm, bởi vì đến thế hệ thứ 9 Mãn Giác có một người đệ tử tên Bản Tịnh,
và Thiền uyển tập anh chép Tịnh mất năm 1176 lúc ông 77 tuổi. Như thế Tịnh sinh năm 1100 và do đó làm sao có thể gặp Mãn
Giác được để làm đệ tử? Giả như ta cho con số 77 là một viết sai của 97 đi nữa, thì vào năm Giác mất, Tịnh mới 16 tuổi, nghĩa là
Tịnh đang ở vào cái tuổi chưa thể nhận tâm ấn của Giác một cách dễ dàng. Vì vậy chúng tôi nghĩ, có lẽ Mãn Giác mất vào năm
1100, tức năm Hội Phong thứ 9, bởi chữ ngũ rất dễ lẫn với chữ cửu, và như thế, nếu Tịnh sống tới 97 tuổi, ta có một giải quyết
thoả đáng cho vấn đề liên hệ thầy trò giữa Giác và Tịnh. 53 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một cành mai.”
[22b1]
Tối đó, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Vua tặng hậu lễ, công khanh mỗi
mỗi đến dâng hương, trà tỳ xong, thu xá lợi xây tháp ở chùa Sùng nghiêm, làng An cách. Vua sắc thụy là
Mãn Giác.
17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 – 1088)
Chùa Long ân, Ninh sơn1
, phủ Ứng Thiên2
, người Từ lý, làng Kim bài3
, họ Đàm tên Khí. Mẹ là Cù
Thị, lúc chưa lấy chồng, nhà ở bên cạnh rừng Mộ, thấy người bẫy chim đêm bà buồn bã nói: “Thà chịu
chết làm lành, chứ không chịu sống làm ác”.
Một hôm, bà bắt đầu dệt gấm, có một con khỉ lớn từ trong rừng ra, đến ôm lưng bà, trọn ngày
mới bỏ đi. Cù Thị biết mình có thai. Đến khi sinh con, bà ghét lắm, đem bỏ trong rừng. Có người Chiêm
thành cùng làng là Cụ Sư4
họ Đàm lượm đem về nuôi, nhân đó đặt tên là Khí.
Đến năm 10 tuổi, theo học nghiệp Nho. Học vấn càng ngày càng tiến, rất giỏi chữ Hán và Phạn.
Năm19 tuổi xuất gia, đầy đủ giới định. Đối với nghĩa của hai kinh Viên Giác, Pháp hoa (23a1) Sư nghiên
cứu rất tinh tường. Khi đã được tâm ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, Sư vào thẳng Ninh sơn dựng am
tranh tu hành, gọi là Ngộ Ấn.
Có lần vị tăng hỏi: “Thế nào là đại đạo?”
Sư đáp: “Đường lớn”.
Vị tăng thưa: “Kẻ học đạo này hỏi đại đạo, mà thầy đáp là đường lớn, vậy không hiểu ngày nào
mới đạt được đại đạo?”.

1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: “Núi Ninh ở phía bắc huyện lỵ Chương đức 19 dặm, trông ra sông Hát, triều Lê dựng
hành cung trên núi để làm nơi đến viếng chơi”. Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 31a1-2 nói: “Ninh sơn ở phần trên huyện
Chương đức, trông ra sông Hát, cảnh trí u nhã. Trịnh Hy Tổ thuở trước thường xây dựng làm nơi du hành”. Huyện Chương đức,
theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, thì đông giáp huyện Thanh oai, tây giáp huyện Mỹ lương, tỉnh Sơn tây nam giáp huyện
Hoài an và bắc giáp huyện Yên sơn, tỉnh Sơn tây. Đất huyện Chương đức như vậy tương đương với huyện Chương mỹ, tỉnh Hà
đông hiện nay. Ninh sơn nằm tại huyện đấy.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, khi viết về lai lịch phủ Ứng hòa nói: “Đời Hán thuộc quận Giao chỉ, đời Lý lấy làm phủ Ứng
thiên, sau cải làm huyện Ứng thiên, đời Minh cải làm Ứng bình thuộc châu Oai man lệ, phủ Giao châu. Lê Quang Thuận lại đặt làm
phủ Ứng thiên thuộc Sơn nam, Thừa tuyên, gồm 4 huyện. Năm Cảnh hưng thứ 2 (1741) nó lại thuộc lộ Sơn nam thượng. Đời Tây
sơn nó thuộc trấn Sơn nam thượng. Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. Năm thứ 14 (1815) cải làm phủ Ứng hòa. Năm Minh
Mạng thứ 3 (1823) cải thuộc trấn Sơn nam, đến năm 12 (1831) đổi không thuộc. Năm thứ 13 (1832) trích hai huyện Chương đức
và Thanh oai, đặt làm phân phủ. Năm Tự đức thứ 31 (1878) bỏ phân phủ. Nó vẫn gồm bốn huyện”.
Bốn huyện của phủ Ứng hòa nói đây là Sơn minh, Hoài an, Chương đức và Thanh oai, tức đất những huyện Ứng hòa, Mỹ đức,
Chương mỹ, và Thanh oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Phủ Ứng thiên thời Lý chắc gồm phần lớn đất của bốn huyện này.
3 Thiền uyển tập anh hai lần kể ra tên Kim bài. Một ở đây và một ở truyện Thần Nghi tờ 39b8. Truyện Thần Nghi nói Nghi ở “chùa
Thắng quang, làng Thị trung, Kim bài”. Kim bài này như vậy, chắc chắn chỉ một địa phận lớn hơn đơn vị làng. Nhưng ở đây, ta
được bảo Ngộ Ấn “người Tư lý, làng Kim bài”. Vậy ta có thể giả thiết có làng Kim bài thuộc châu Kim bài hay phủ Kim bài. An nam
chí lược 1 tờ 27 có nói sự tích bãi Kim bài, nhưng không nói rõ nó nằm ở đâu. Cứ Bắc thành địa dư chí lục 3 tờ 12a6 thì tổng Thời
trung của huyện Thanh oai vào thời Gia Long có xã Kim bài. Đất làng Kim bài và châu Kim bài thời Lý như vậy chắc chiếm một
phần đất huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông ngày nay. Ấp Tư lý của Ngộ Ấn ở đây rất có thể là làng Uùc lý, tổng Đông Cứu của
huyện Thanh Oai trong Bắc thành Địa dư chí lục 3. Nếu vậy, địa phận làng Kim bài xưa chắc gom hai tổng Thời trung và Đông
cứu.
4
Cụ Sư nghi là tên người, bởi vì Toàn thư B3 tờ 22b5 và 37a7 có ghi tên hai người Chiêm Thành, mà tên họ bắt đầu bằng chữ Cụ,
đấy là Cụ Ông và Cụ Ban. Về Cụ Ông, Toàn thư viết: “Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1124) người nước Chiêm thành là Cụ Ông và
đồ đệ ba người đến chầu”. Về Cụ Ban, nó viết thêm: “Thiên Thuận năm thứ 5 (1132) mùa thu tháng 7 người nước Chiêm thành là
Cụ Ban v.v…trốn trở lại nước mình, đến Nhật lệ thì bị người trại Nhật lệ bắt gởi về kinh sư”. 54 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Mèo chưa biết bắt chuột?”.
Tăng thưa: “Con mèo có Phật tánh không?”.
Sư đáp: “Không”1
.
Tăng liền hỏi: “Hết thảy hàm linh đều có Phật tính, sao riêng Hoà thượng lại không?”.
Sư đáp: “Không, ta không phải hàm linh”.
Tăng thưa: “Đã không phải hàm linh, vậy có phải Phật không?”
Sư đáp: “Ta không phải Phật, cũng không phải hàm linh”2
.
Có người hỏi: “Phật là gì? Pháp là gì? Thiền là gì?”.
Sư đáp: “Đấng Pháp vương vô thượng, ở thân là Phật, ở miệng là Pháp, ỡ tâm là Thiền. Tuy là
ba phần, nhưng điểm kết là một. Ví như nước của ba con sông kia, tuỳ chỗ đặt tên, tên gọi tuy không
giống, nhưng tính của nước thì không khác”3
.
Ngày 14 tháng 6 năm Quảng hựu thứ 4 (1088) [23b1] khi sắp thị tịch, Sư nói bài kệ sau:
Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu
Rỗng không tâm ngộ có gì đâu
Trên non ngọc đốt màu thường đẹp
Sen nở trên lò ướt chưa khô.
Nói kệ xong, Sư vui vẻ ra đi, thọ 69 tuổi. Môn đồ để tâm tang ba năm.

1
Thiền sư Triệu Châu (778-897).Có vị sư hỏi: “Con chó có Phật tánh không?”. Châu trả lời: “không”. Xem Vô môn quan tờ 292c21.
2
Thiền sư Duy Khoan(735-817). Có vị sư hỏi: “Thế nào là đạo?”. Sư đáp: “Núi đẹp lớn”. Tăng nói: “Kẻ học đạo mà hỏi thầy về đạo,
sao thầy lại nói về núi đẹp?” Sư đáp: “Ngươi chỉ biết có núi đẹp thì làm sao mà đạt đạo”. Tăng hỏi: “Con chó có Phật tính không?”
Sư đáp: “Có”. Tăng hỏi: Hoà thượng có có không?”. Sư đáp: “Ta không có”. Tăng hỏi: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, Hoà
thượng vì sao mà riêng không có?” Sư đáp: “Ta chẳng phải là tất cả chúng sanh”. Tăng hỏi: “Đã chẳng phải là chúng sanh thì là
Phật sao?” Sư đáp: “Chẳng phải Phật”. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a1ù6-22.
3
Thiền sư Duy Khoan. Bạch Cư Dị thường đến hỏi Sư: “Thiền sư lấy gì mà thuyết pháp?”. Sư đáp: “Vô thượng bồ đề, mặc ở thân là
luật, nói ở miệng là pháp, hành ở tâm là thiền. Ứng dụng nó thì có ba, nhưng đích nó là một. Ví như sông Dương tử, sông Hoàng
Hà, sông Hoài, sông Hán tùy theo chỗ mà đặt tên, tên tuy không phải là một, nhưng tính nước không phải là hai. Luật tức là
pháp, pháp tức là thiền, thì làm sao trong đó có thể dối dấy lên sự phân biệt”. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a25-29. 55 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Chín (8 ng ư ờ i, 3 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
18. THIỀN SƯ Đạo Huệ (? – 1073)
Chùa Quang Minh, núi Thiên phúc, Tiên du1
. Người Chân hộ2
, Như nguyệt
3
, họ Âu. Tướng mạo
đoan chánh, tiếng nói rổn rảng. Năm 25 tuổi đến xuất gia với Ngô Pháp Hoa4
, tại chùa Phổ ninh nắm
thấu lẽ huyền , hiểu sâu áo chỉ của Hoa. Sau đến chùa Quang minh trác tích, tu luyện giới luật, tập tành
thiền định, lưng không dính chiếu, ròng rã sáu năm, bèn đạt được “Tam quán tam ma địa”5
. Môn đồ có
hơn nghìn người. Ngày đêm trì kinh, cảm hóa được các loài khỉ vượn trong núi. Chúng tụ họp kéo nhau
đến nghe pháp. Do đó tiếng Sư vang tới kinh đô.
Năm Đại Định thứ 20 (1159), Thụy Minh hoàng cơ đau6
, vua sai sứ triệu Sư đến xem bệnh. Lúc
ra đi (24a1) khỉ vượn buồn kêu như biết lưu luyến. Đến cung, lúc Sư còn đang ở ngoài cửa phòng, thì
bệnh của Hoàng cơ liền bớt. Vua Lý Anh Tôn hết sức vui mừng, mời Sư đến ở chùa Báo thiên7
. Trong

1
Tức núi Tiên du hay núi Phật tích tại xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (1) truyện Thiền Lão.
2
Tức làng Chân hộ, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng này theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 và 3 là nơi quê
hương của số tiến sĩ thời Hậu Lê như Ngô Phúc Tinh khoa năm 1535, Nguyễn Nghiêu Tá và Ngô Khánh Nồng khoa 1556, Nguyễn
Long Bảng khoa 1683. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Đê yến, giữa những cửa cống của sông Nguyệt đức, tức sông
Cầu, có ghi cửa cống làng Chân hộ.
3
Như Nguyệt đây, cứ một câu cuối truyện Đạo Huệ theo đấy sau khi Huệ chết, “môn đồ Quách tăng thống sắm đủ lễ vật, đem về
bản quận làm lễ trà tỳ”, chắc là tên một quận đời Lý. Nó cũng có thể là một gọi tắt của Như nguyệt giang lộ, mà An nam chí lược
1 tờ 19 đã ghi lại. Địa phận nó chắc bao gồm những làng mạc nơi ngã ba làng Như nguyệt hiện nay, trong đó phần đất huyện Yên
phong chắc phải thuộc vào.
4
Tức Thông Biện, Biện họ Ngô mà vì giỏi kinh Pháp hoa, nên cũng gọi là Ngô Pháp Hoa. Ngô Pháp Hoa cũng là Ngộ Pháp Hoa đấy.
Xem truyện Thông Biện trước.
5
Tam quán tam ma địa, tức lối Thiền định dùng ba lối quán tưởng. Có tam quán của tôn Hoa nghiêm. Có tam quán của tôn Duy
thức. Có tam quán của tôn Luật. Có tam quán của tôn Thiên thai. Và có tam quán tam ma địa của kinh Viên Giác. Tam quán tam
ma địa ở đây có thể là tam quán của kinh Viên giác, mà truyện Viên Chiếu đã nói tới và đã giải thích, và nó là một thứ thiền định
thường được ưa chuộng trong Thiền tôn Việt nam. Nhưng bởi Đạo Huệ là đệ tử của Thông Biện, một chuyên viên về kinh Pháp
hoa nổi tiếng đến nỗi có tên là Ngộ Pháp Hoa, tam quán tam ma địa ở đây, do thế, có thể chỉ tam quán của Thiên thai tôn đã
dùng kinh Pháp hoa như một văn kiện nghiên cứu và tu hành cơ bản. Phép tam quán của tôn này gồm có Không quán, Giả quán
và Trung quán. Không quán tức nhìn sự vật bằng bản chất không của chúng, nghĩa là nhìn chúng xuất hiện do điều kiện. Khi nhìn
được thế rồi, ta tiến tới được cái nhìn giả, tức giả quán, nghĩa là ý thức được rằng sự vật nằm trong một sự liên hệ hỗ tương, nên
chúng phải tùy thuộc vào sự liên hệ đó, mà không thể có sự độc lập tuyệt đối được. Sau khi đạt được cái nhìn đó, ta tiến thêm
một bước thứ ba, đấy là cái nhìn trung đạo, tức cái nhìn nhận sự vật trong chân tướng của nó, không còn nhìn nó hoặc như một
xuất hiện hoàn toàn do điều kiện, hoặc hoàn toàn lệ thuộc vào những điều kiện ấy. Nó cũng có một hiện hữu nào đấy trong hệ
thống liên hệ hỗ tương.
6
Nguyên văn: Đại Định nhị thập niên Thụy Minh hoàng cơ đắc tật. Nhưng cứ Toàn thư B4 tờ 10a3 thì “Đại Định năm thứ 12 mùa
đông tháng 10 (1151) Thụy Minh công chúa mất”. Như vậy vào năm 1151 công chúa Thụy Minh tức bà cô của Lý Anh Tôn và là
con của Thần Tôn, đã mất. Do thế, không thể nào đến năm Đại Định thứ hai mươi, tức năm1159, lại còn bị đau. Phải chăng chữ
nhị thập ở đây là một viết ngược của chữ thập nhị? Đây là có thể gần thật nhất, bời vì Thiền uyển tập anh có nhiều điều viết
ngược tương tự, như tên của Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm là một thí dụ. Tuy nhiên, Toàn thư đôi khi có
những sai khác với những sử liệu khác như Đại Việt sử lược, nhất là về một số niên đại của một số nhân vật nên ta không nhất
thiết phải tin hoàn toàn ở Toàn thư. Chẳng hạn, theo Toàn thư B5 tờ 5b7 thì Nguyễn Nộn mất vào năm Kiến Trung thứ 5 (1229),
nhưng theo Đại Việt sử lược 3 tờ 31b3 thì Nộn đã chết trước đó 10 năm, tức năm Kiến Gia thứ 9 (1219).
7 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: “Chùa Báo thiên ở tại thôn Tiên thị, huyện Thọ xương, xưa gọi là phường Báo thiên, do
vua Lý Thánh Tôn dựng. Vua lại xây bảo tháp Đại thắng tư thiên, cao vài chục trượng, hình thức nó gồm 12 tầng. Vua phát đồng
12000 cân để đúc chuông. Đến đời Nhuận Hồ, đỉnh tháp rơi. Quan An phủ sứ đông đô vì không báo tai biến đó, bị biếm chức.
Cuối đời Lê, Ngụy Tây gỡ lấy gạch ngói để dùng việc xây cất khác. Các ngói gạch ấy đều có khắc niên hiệu thời Lý. Nay những
hòn đá xanh còn lại có hình hoa sen là những hòn đá xây bề ngoài của tháp, còn những viên có tám góc là những viên xây bệ
tháp. Chúng đều những vật xưa cả”. Tang thương ngẫu lục quyển hạ viết: “Bảo tháp Đại thắng tư thiên tại chùa Báo thiên dựng
từ thời vua Lý Thánh Tôn. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng. Tương truyền bốn vật lớn của An nam thì tháp này là một.
Khoảng Minh Tuyên Đức, Thái Tổ hoàng đế của tiên triều tiến binh vây Đông đô. Viên tướng giữ thành là Thành sơn hầu Vương
Thông, phá hủy tháp lấy đá chế súng để giữ thành. Tiên triều nhân nền cũ đắp các núi đất phủ lên trên. Sau hồi thay đổi triều 56 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
vòng một tháng, các quan viên và bạn đạo khâm phục phong cách của Sư, kéo đến đông không kể xiết,
Sư liền mở trường dạy dỗ, không trở về núi nữa. Cháu con nối dõi, thịnh thành một phái.
Ngày mồng một tháng tám năm Nhâm thìn Chánh Long Bảo Ứng thứ 10 (1172). Sư thị bệnh
than rằng:
“Loạn lạc tứ tung
Do đâu mà đến?”
Rồi nói kệ:
Đất, nước, gió, lửa, thức.
Nguyên lai tất cả không
Như mây tan rồi hợp,
Trời Phật chiếu vô cùng.
Lại nói:
Sắc không cùng diệu thể,
Chẳng hợp chẳng lìa xa,
Nếu ai muốn rõ biết,
Trong lò một cành hoa.
Vào canh ba đêm đó, Sư lặng lẽ đi luôn. Môn đồ là Quách tăng thống, sắm đủ lễ vật, đem về
quận mình làm lễ trà tỳ. Khi chịu tâm tang xong, bèn xây tháp tại chùa Bảo khám núi Tiên du, rồi rước
xá lợi về tôn trí.
19. THIỀN SƯ Biện tài
Chùa Vạn tuế1
, kinh đô Thăng long. Người Quảng châu, đến nước ta vào thời vua Lý Thánh
[24b1] Tôn2
, là người nối pháp của Quốc sư Thông Biện, vâng lịnh vua biên sửa “Chiếu đối lục”3
.

vua, người ta lại bỏ chùa để làm chợ Báo thiên, dùng các núi đất làm chỗ để xử tử người tội. Năm Giáp dần (1794) lại cho đào lấy
những gạch đá ở nền tháp để tu bổ thành lũy Thăng long. Khi phá nền tháp, thấy có tám pho tượng Kim cương chia đứng bốn
cửa. Ngoài ra còn có những tượng người tiên, chim muông, cả đến những giường ghế, chén bát, các thứ lặt vặt không thể kể xiết,
toàn bằng đá cả. Những hòn gạch hoa, hòn nào cũng thấy khắc những chữ “Lý gia đệ tam để Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”.
Mẩu tin của Tang thương ngẫu lục liên quan đến việc nhà Lê cho đắp nền đất trên nền tháp Báo thiên chắc
chắn là sai, bởi vì cả Toàn thư B11 tờ 10a9-b2 và Cương mục chính biên 16 tờ 11b4 đều ghi việc trùng tu chùa Báo thiên vào năm
1434. Đây là một cuộc trùng tu lớn, như chính Toàn thư thừa nhận với cái mô tả “thợ mộc trọng đại” do nhà nước đảm nhận sáu
năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng khỏi bọn xâm lược Minh. Không những thế, cảToàn thư B12 và Cương mục chính
biên 18 tờ 5b4 đều nói năm 1448 Lê Nhân Tôn cùng mẹ đến chùa Báo thiên để cầu mưa. Như vậy, rõ ràng không phải “Tiên triều
đã nhận nền cũ của chùa để đắp các núi đất phủ lên trên”. Tiên triều đấy có thể chỉ đời Lê Trung Hưng chăng?.
Dẫu sao đi nữa, nền cũ chùa Báo thiên hiện nay nằm trên nền nhà thờ lớn Thiên chúa giáo Hà nội. Cũng cần
thêm là, Đại Việt sử lược và Toàn thư B4 tờ 14b1 nói Chính Long Bảo Ứng năm thứ 10 (1162) thì phải là năm Nhâm thìn, chứ
không phải Ất hợi. Thật ra, trong khoảng Chính Long Bảo Ứng, tức từ năm 1163 đến 1172, không có năm nào là năm Ất hợi hết.
Do thế, Ất hợi là một chép lầm của Nhâm thìn. Tự dạng những chữ đó rất giống nhau.
1 Đại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 viết: “Năm Thuận Thiên thứ hai (1011) dựng chùa Vạn tuế trong thành”. Tây hồ
chí phần Chùa am, nói: “Chùa Vạn niên ở phía tây hồ Tây thuộc địa phận ấp Quán la, xưa tên Vạn tuế, sau đổi Vạn niên. Năm
Giáp dần Thuận Thiên thứ 5 (1014) Hữu nhai tăng thống tâu xin lập giới đàn tại đó cho tăng chúng thọ giới. Vua chuẩn tấu. Thời
đó, những danh tăng như Lâm Huệ Sinh, Lý Thảo Đường kế tiếp trụ trì tại đây. Sau có nhà sư khác thường ở Quảng châu là Biện
Tài đến, viết sửa Chiếu đối lục, còn lưu hành. Chùa nay còn”.
2
Lý Thánh Tôn, cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn, đều viết Hiếu Thánh Tôn. Chúng tôi nghi chữ hiếu là một viết sai của chữ lý. Tự
dạng chúng khá giống nhau. Tài đến nước ta dưới thời Lý Thánh Tôn. Như vậy, Tài rất có thể là một trong những tù binh người
Trung quốc do Lý Thánh Tôn bắt về Hà nội kiểu Thảo Đường trong chiến dịch đánh Chiêm thành năm 1069.
3 Chiếu đối lục. Cứ một câu truyện Thần Nghi tờ 40a9 thì cũng gọi là Chiếu đối bản. Theo câu đấy, thì tác giả của Chiếu đối bản là
Thông Biện, chứ không phải là Biện Tài. Phải chăng Chiếu đối lục và Chiếu đối bản là hai tác phẩm? Ta có thể nói rằng Chiếu đối
bản là một tác phẩm hoàn toàn của Thông Biện, còn Chiếu đối lục là một tác phẩm do Biện Tài phụng sắc vua sửa lại Chiếu đối
bản của Thông Biện mà thành. Dĩ nhiên, những thêm thắt sửa sai của Tài chắc chắn tương đối phải ít, bởi vì Tài là đệ tử nối dòng 57 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
20. THIỀN SƯ Bảo Giám (? – 1173)
Chùa Bảo phúc, Quân chương, Mỹ lương1
. Người làng Trung thụy, họ Kiều tên Phù, là người
trung tín, thành thực, điềm đạm, giản dị. Nhỏ theo Nho nghiệp: Thi, Thư, Lễ, Dịch2
không thứ gì là
không khảo cứu, lại viết đẹp, vẽ khéo, làm quan dưới triều Lý Anh Tôn, chức Cung hầu xá nhân3
.
Năm 30 tuổi Sư từ quan, đến xuất gia với vị chủ chùa Bảo phúc, tại Đa vân. Cả tạng kinh chùa
đó đều tự tay Sư chép ra. Đến khi vị chủ chùa mất, Sư kế chân làm trú trì, tự sống đời đạm bạc, mình
thường mặc áo vải, không dùng tấc lụa, nhiều năm như thế, lòng không thối chí. Thường bảo đồ chúng
rằng: “Bước lên chiếc xe của Phật là nhờ siêng năng, thành tựu Chánh giác của Phật là do trí tuệ. Giống
như mũi tên bắn đi, nó tới được ngoài trăm bước, là nhờ cái lực, nhưng trúng được đích, không phải nhờ
vào lực vậy”4
.
Ngày mồng 7 tháng 5 năm Chánh Long Bảo ứng thứ 11 (1173) khi sắp viên tịch, Sư nói kệ:
Được thành chánh giác ít nhờ tu
Trí tuệ ưu tiên thoát ngục tù
Nhận lẽ ma ni huyền diệu ấy
Như kìa trời rộng tỏa vừng ô.

của Thông Biện, và do đó, dẫu có thêm bớt sửa sai Chiếu đối bản, Tài làm vậy để làm rạng rỡ uy danh của thầy mình. Vì vậy, ta
không có gì đáng ngạc nhiên, khi thấy về sau những người như Thường Chiếu và Quách Thần Nghi chỉ nhắc tên Thông Biện trong
liên hệ với Chiếu đối bản, mà không nhắc gì tới Biện Tài, và cũng từ đó ta có thể nói Chiếu đối lục tức cũng là Chiếu đối bản với
một vài tu chỉnh nào đấy, mà ngày nay ta không biết. Cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã tán thất hiện nay chưa tìm thấy. Tây
hồ chí viết khoảng sau năm 1851 là tác phẩm duy nhất nói tới Chiếu đối lục của Biện Tài.
1
Lời cầu án của Nguyễn Thiên Tích trong Địa dư chí của Nguyễn Trãi kê My lương như một huyện của phủ Quảng oai thuộc Sơn
tây. Nhưng Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Kiến trí diên cách nói: “huyện Mỹ lương vốn là huyện Quảng oai. Đời Trần
về trước nguyên có tên huyện Mỹ lương. Đời Minh nhân theo, lệ nó vào châu Quảng oai. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc phủ
Quảng oai. Khoảng năm Cảnh Hưng, đổi nó thuộc phủ Quốc oai. Triều ta nhân theo. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) bỏ tri huyện, do
phủ kiêm lý, gồm 7 tổng, 49 xã thôn”. Về vị trí huyện này, nó viết: “Ở cách phủ lỵ 18 dặm, đông tây rộng 53 dặm, nam bắc rộng
64 dặm, từ huyện lỵ phía đông đến ranh giới huyện Chương đức tỉnh Hà nội 2 dặm, phía tây đến ranh giới huyện Bất bạt 51 dặm,
phía nam đến ranh giới huyện An hóa, tỉnh Ninh bình 62 dặm, phía bắc đến ranh giới huyện An sơn 2 dặm”. Cứ vào mô tả này, thì
đất huyện Mỹ lương cũ nằm trong địa phận huyện Lương sơn tỉnh Hoà bình ngày nay.
Cũng cần thêm là hai chữ Quân chương, chúng tôi nghi là do chữ quận viết rời và sai mà tạo nên, bởi vì chữ
chương rất có thể là chữ ấp viết sai, một điều khá tự nhiên, và nếu vậy thì chữ “quân ấp” là chữ quận viết rời. Hơn nữa, trong
truyện nói chùa Bảo phúc là thuộc Đa vân, chứ không phải là thuộc Quân chương, dù ta không biết Đa vân là ấp hay là hương. Dĩ
nhiên, Đa vân có thể là tên một ấp, và Quân chương là tên chùa Bảo phúc vì vậy có thể thuộc cả Đa vân lẫn Quân chương. Dẫu
sao đi nữa, bản in đời Lê có Quân chương, mà bản đời Nguyễn khắc thành Quận chương, chúng tôi tiếp tục để nguyên như vậy
để tồn nghi.
2
Truyện này chỉ nói Bảo Giám người làng Trung thụy, nhưng truyện Quảng nghiêm tờ 36a11 nói chùa Tịnh quả của Nghiêm ở tại
“Trung thụy, Trương canh”. Trương canh, cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6, thì “đời Lý Trần đặt quận Trương canh tại Đan phụng”.
Trước đó, ở tờ 1a3-4 nó có viết: “Các huyện Từ liêm và Đan phụng của phủ Quốc oai có nhiều bãi dâu nên chuộng nghề nuôi tằm
dệt vải. Các xã Hạ hội, Thiên mụ, _ la, Trung thụy và Đại phùng giỏi dệt các thứ vải quyến the và sa cùng các loại vải quyến dày,
mà tục gọi là lãnh, bả và lãng”. Trung thụy như vậy là tên một làng thuộc huyện Đan phụng. Do thế, nói rằng Bảo Giám người
Trung thụy, tức cũng nói Bảo Giám quê quán làng Trung thụy huyện Đan phụng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 ghi ” làng
Trung thụy, hạt Đan phụng” là quê của Đàm Đình Phương tiến sĩ khoa 1481. Nay là làng Trung thụy huyện Đan phụng tỉnh Hà
đông.
Đây là tên gọi tắt những bộ sách chính yếu của các nhà Nho. Thi tức Kinh thi hay Thi kinh, sách chép những bài thơ và ca
dao xưa nhất của Trung quốc, tương truyền là do Khổng Khưu san định. Thư tức Kinh thư hay Thư kinh, cũng gọi là Thượng thư,
sách chép về cổ sử Trung quốc. lễ tức lễ ký, bộ sách chép về các lễ nghi và cách cư xử ấn định theo tập tục phong kiến cổ sơ của
Trung quốc. Dịch tức Chu dịch, bộ sách bói khoa, tương truyền là do Cơ Đán viết ra và Khổng Khưu san hộ.
3 An nam chí lược 14 tờ 133 ghi Cung hầu xá nhân như một chức quan văn tương đương với Nội trực điện của bên võ.
4 Động Sơn Lương Giới, Bảo kỉnh tam muội ca:
“Nghệ dĩ xảo lực
Xạ trúng bách bộ
Tiển phong tương trực
Xảo lực hà dự”
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 321b5. 58 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Lại nói:
Người trí như trăng chiếu khắp trời
Sáng trùm mọi cõi chẳng vì ai
Nếu người muốn biết nên phân biệt
Man mác chiều non khói toả khơi.
Lại nói:
“Tâm ý của đức Như Lai, đều không thể hiểu được, chỉ nên dùng Vô lượng trí (mới hiểu nổi thôi).
Cho nên, biết rằng tâm của Như Lai ví như hư không, là nơi nương tựa của tất cả sự vật, thì trí tuệ của
Như Lai cũng như vậy”.
Nói xong, Sư mất. Môn đồ thu xá lợi xây tháp.
21. THIỀN SƯ Không Lộ ( ? – 1119)
Chùa Nghiêm quang, Hải thanh1
. Người Nghiêm quang, Hải thanh, họ Dương. Dòng dõi làm nghề
chài, sau bỏ nghề chài, hướng lòng theo Phật, thường trì tụng đà la ni môn. Trong khoảng Chương
Thánh Gia Khánh (1059 – 1065) cùng bạn đạo là Giác Hải cất bước vân du, tạm đến chùa Hà trạch2
nương thân, mặc áo cỏ, ăn lá cây, đến nỗi quên chính thân mình. Ngoài dứt ruỗi dong, trong tu thiền
định, tâm thần tai mắt ngày một nhẹ nhàng, bèn bay [25b1] lên không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu
rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi
3
.
Sau Sư về quận mình lập chùa. Một hôm, có thị giả thưa rằng: “Từ ngày con đến đây, chưa được
thầy dạy bảo chỗ tâm yếu, nhưng con mạn phép xin trình một bài kệ:
“Rèn luyện thân tâm mới được trong
Sum suê cây thẳng ngó sân không
Có người đến hỏi không vương pháp,4
Aũnh rập hình ngồi cạnh chấn phong”.5

1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, viết: “Chùa Thần quang, xưa là Nghiêm quang, ở tại xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thủy, thể
chế rộng rãi, là chỗ trụ trì của Dương Không Lộ, nay hiển linh, phàm có thiên tai thủy hạn đến cầu liền nghiệm”. Chùa Thần quang
ngày nay như vậy là chùa Nghiêm quang thời Lý. Làng Dũng nhuệ nay gọi là làng Dũng nghĩa thuộc huyện Giao thủy, tỉnh Thái
Bình. Chùa Thần quang thường cũng gọi tắt là chùa Keo, hiện vẫn còn.
Xác định vị trí chùa Nghiêm quang như vậy thì vị trí Hải thanh đương nhiên phải rơi vào địa phận huyện Giao thủy, tỉnh
Thái bình ngày nay.
2
Chùa Hà trạch này chắc là chùa của Lôi Hà Trạch, tên một vị Thiền sư mà Thông Biện nói tới như người đồng thời với Mai Viên
Chiếu và Nhan Quảng Trí. Xem chú thích (22) truyện Thông Biện. Việt sử tiêu án 1 tờ 109b3 ghi lời bàn của Ngô Thời Sỹ thế này:
“Triều Lý sùng Phật, từ Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta ưa theo. Tiếp đến có Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều người Hải
thanh, thờ sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Chân nhân Thông Huyền cũng nổi tiếng phép thuật, nên Nhân Tôn có lời khen: “Giác
Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo lại huyền”. Nhưng kêu rồng xuống làm cọp nép, đấy chẳng phải tài phò nguy định loạn. Đi
trên không, bay giữa trời, đấy chẳng cách trị dân giữ nước …”
3 An nam chí nguyên 3 tờ 211 dẫn đoạn này nói về Không Lộ. Nó viết: “Thiền sư Không Lộ là sư huyện Giao thủy, có thể bay giữa
không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi”.
4
Không Vương pháp, pháp của Không Vương, tức của Phật, đo đạt được bản tính không của vạn hữu mà thiết lập. Xem câu hỏi
trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 13 tờ 303b5:
Bất tằng bác lãm Không Vương giáo
Lược tá huyền cơ thế đạo khan
5
Bài kệ rập theo bài thơ tặng Duy Nghiễm của Lý Cao trong Truyền đăng lục. Cao hỏi Nghiễm: “Thế nào là đạo?”. Nghiễm giơ tay
chỉ trên dưới nói: “Hiểu không?”. Cao đáp: “Không hiểu”. Nghiễm nói: “Mây trên trời, nước trong bình”. Cao bèn mừng rỡ sụp lạy
và viết bài kệ:
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết 59 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư xem xong bảo: “Ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước đến, ta vì ngươi
uống, thì có chỗ nào mà ta lại không cho ngươi tâm yếu?”1
. Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường nói kệ
rằng:
“Chọn chỗ đáng nương, đất rắn rồng,
Tình quê suốt buổi mãi vui rong
Có khi lên thẳng đầu non quạnh
Huýt một hơi dài lạnh cõi không”2
.
Ngày mồng 3 tháng 6 năm Kỷ hợi, Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119), Sư viên tịch. Môn đồ thu
thập xá lợi táng trước cửa chùa.
Sau đó, vua ban chiếu sửa rộng chùa này và đặc cách cho thuế hộ 20 người để trông coi hương
khói.*{Vị Sư này không có niên đại có thể truy cứu, nay dựa theo thứ tự truyền pháp trong Nam tôn đồ
mà mô tả ra đây}3
.

Vân tại thanh thiên thủy tại bình
(Rèn được thân hình giống hạc hình
Dưới tùng ngàn cỗi đôi hòm kinh
Ta đi hỏi đạo không thêm nói
Mây tại trời xanh, nước tại bình)
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 312b13-17.
1
Thiền sư Sùng Tín nói với Thầy mình là Đạo Ngô: Tôi từ thuở tới đây không được thầy chỉ thị tâm yếu? Ngô đáp: “Từ lúc ngươi tới
đây ta chưa từng không chỉ thị tâm yếu cho ngươi”. Tín nói: “Chỉ thị chỗ nào?”. Ngô đáp: “Ngươi mang trà đến ta tiếp cho ngươi,
ngươi mang cơm đến ta nhận cho ngươi. Lúc nào ngươi chào ta, ta liền cúi đầu. Thế thì chỗ nào là ta không chỉ thị tâm yếu?”.
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 313b19-22. Xem thêm truyện Thiền sư Thiện Hội nói với một tiểu thị giả: “Ngươi nấu cơm, ta nhóm
lửa. Ngươi dọn bàn, ta dở bát. Ta phụ rãy ngươi ở chỗ nào đâu?”. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b6.
2
Thiền sư Dược Sơn một đêm kinh hành trên núi, mây vẹt trăng tỏ, bèn cười vang, truyền dài 90 dặm đông tới Phong dương. Thứ
sử Lý Cao nhân đó làm bài thơ tặng:
Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời, trực thượng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 312b22.
3
Bản in đời Nguyễn của An Thiền dưới cái tên Trùng khắc đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng chép về một
truyện sử hoàn toàn khác với truyện sử đây về Không Lộ. Nó chép ở tờ 20a6-22a9: “Trong khoảng Thái Ninh đời vua Lý Nhân
Tôn, có Thiền sư Không Lộ, người Lại trì, huyện Chân định, tỉnh Nam định, họ Nguyễn, thường cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh
kết làm đồng chí. Năm ông 29 tuổi ba người đi qua nước Thiên trúc, theo học với một vị Sa môn. Được lục trí thần thông rồi, bèn
quay trở về quê mình, dựng chùa Diên phúc, chuyên trì chú Đại bi. Bấy giờ Không Lộ muốn tạo cho nước Đại nam bốn món đồ,
chỉ hiềm vì nhà nghèo sức mọn. Một hôm ông nghĩ tới nước Tống đất rộng tất có nhiều đồng tốt có thể dùng cho việc đúc tạo,
bèn liền rút ngắn đường, đi lên phương Bắc, khách trú ở nhà một trưởng giả, rồi xin đất sáu tấc để dựng chùa. Vị trưởng giả cười
nói rằng: “Xưa Lương Thái tử dựng chùa, đất rộng ngàn dặm, vàng ròng khắp đất. Sao bây giờ lại lấy sáu tất đất như thể chỗ
chuồng gà mà làm?”. Đêm đó, bèn tung áo cà sa phủ khắp mười dặm đất. Vị trưởng giả thấy ông có phép làm thần, bèn đem hết
vợ con đến lạy tạ. Từ đó, cả nhà đều qui y Tam bảo.
Ngày hôm sau, ông mặc pháp phục, cầm gậy vào triều, thẳng đứng giữa sân rồng. Vua bấy giờ đang buổi thị triều thính
chính văn võ hai ban, thấy vị Sư già, bèn triệu vào hỏi: “Lão ông là dân người phương nào, tên họ là chi, đến đây có việc gì?” Vị
Sư già thưa: “Tôi là bần tăng của một nước nhỏ, xuất gia đã lâu năm, nay muốn tạo bốn món đồ cho Đại nam, nhưng vì sức
không theo lòng, cho nên tôi không ngại vượt núi băng rừng ngàn dặm đến đây. Ngưỡng mong Thánh đế mở rộng tấm lòng bố
thí cho một ít đồng tốt, để tiện việc tạo đúc”. Vua hỏi: “Đồ đệ bao nhiêu?”. Sư đáp: “Chỉ một mình bần tăng thôi, xin đầy một bao
đồng, tự mình gánh về là đủ”. Vua nói: “Phương Nam đường sá xa xuôi, cho phép Sư tùy sức mà lấy, chẳng cần đếm ghi”. Vị Sư
nghèo đã lấy hết kho đồng rồi, mà vẫn chưa đầy một bao, bèn le lưỡi lắc đầu, vào tâu việc đó. Vua ngạc nhiên hối tiếc, nhưng
nghiệt vì đã hứa cho, nên không thể làm sao được. Vua đem trăm quân tiễn đưa về nước. Vị Sư nghèo từ chối, nói rằng: “Một bao
đồng, tự mình đủ sức mang đi, chẳng nhọc đưa gánh”.
Vị Sư nghèo đi ra ngoài rồi, bèn lấy gậy quảy bao mà đi một cách nhẹ nhàng. Qua sông bèn lấy nón mà chở, rồi trở về.
Trong phút chốc đã tới bến Hoàng giang, bèn tới chùa Quỳnh lâm, huyện Đông triều, tỉnh Hải dương, đúc tượng Phật đại Phật Di
Đà, tháp Báo thiên ở kinh đô một ngọn, chuông lớn chùa Phổ lại một quả, vạc lớn chùa Phổ minh một cái. Số đồng còn lại đem
đúc hồng chung cho chùa ở xã mình, nặng ba ngàn ba trăm cân. Lại đúc cho chùa Diên phúc, huyện Giao thủy một quả hồng
chung nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, bèn làm bài kệ tán rằng:
Cỡi nón vượt biển lớn
Một giây muôn dặm đường
Tổng đồng một bao hết
Tay múa sức ngàn cân. 60 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng

Bấy giờ Hoàng đế Nhân Tôn xây điện Hưng Long năm sau mới xong, cực kỳ tráng lệ. Bỗng nghe trên rường hai con ễnh ương kêu
lớn, tiếng như sấm to. Vua ủ rũ không vui. Lúc ấy, vị chỉ huy sứ tâu: “Chỉ có Không Lộ và Giác Hải mới trừ được loài quái vật đó”.
Chỉ huy sứ tức thì nhận lệnh vào hôm rằm tháng giêng đến trước am sư, Sư hỏi: “Chỉ huy đến sao trễ thế?” Vị chỉ huy trả lời:
“Thầy sao biết trước chức tước của tôi?” Sư đáp: “Ta cỡi trăng đạp mây nhân vào thành vua, nên sớm biết việc đó”. Ngày đó Sư
đến kinh đô. Vua đem một cây đinh lớn đóng vào cột điện, nói rằng: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì làm Pháp chủ”. Không Lộ lấy
tay bật cái đinh ra một cách nhẹ nhàng và mật tụng thần chú thì hai con ễnh ương nghẹn cổ không còn kêu và giây lát rớt xuống
đất. Vua thưởng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang năm trăm mẫu và phong làm Quốc sư.
Bấy giờ vua Thần Tôn tuổi mới 21, bỗng nhiên biến làm một con cọp dữ, xông xáo cắn người, nanh vuốt dễ sợ. Vua phải
dựng một chuồng vàng mà nhốt đi. Thì nghe con nít huyện Chân định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tôn
Triều đình muôn chuyện thông
Muốn yên bệnh thiên hạ
Phải được Nguyễn Minh Không
Vua xuống chiếu cho vị chỉ huy rằng: “Đem thuyền đi đón Sư”. Vị chỉ huy đến am, Sư cười nói: “Phải chăng chẳng là chuyện cứu
con cọp dữ đó sao?”. Vị chỉ huy hỏi: “Thầy làm sao biết sớm vậy?”. Sư đáp: “Ba mươi năm trước đây ta đã biết chuyện này rồi”.
Sư đến, lên trên điện vua ngồi, lớn tiếng nói: “Trăm quan vui lòng đem đỉnh dầu lớn đến đây”. Trong đấy, Sư để thêm
một trăm cái kim, rồi nổi lửa đốt cháy hừng hực. Bên cạnh để cái chuồng giữ vua. Sư lấy tay mò vào trong đỉnh, lấy ra một trăm
cái kim, phóng vào mình vua, quyết rằng: “Làm Thiên tử là quý”. Vua tự nhiên lông đuôi vuốt nanh rớt rụng hết và trở lại làm
thân vua. Vua trả ơn bằng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang một ngàn mẫu, vĩnh viễn làm ruộng chùa không ghi vào sổ
thuế.
Sư ra đời ngày 14 tháng 8 năm Bính thìn, đến ngày 13 tháng 6 năm Giáp tuất thì mất. Hiện nay, trước huyện lỵ Thọ
Xương, tỉnh Hà nội có đền thờ Lý Quốc Sư thờ thần tượng Sư hiện có bia ký. Thị dân đạo Tiên muôn đời đèn nhang phụng sự”.
Trên đây là tiểu sử của Không Lộ theo bản in đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh do Hoà thượng Phúc Điền thực hiện
vào năm 1858 dưới cái tên Trùng khắc Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng. Nó rõ ràng là một hỗn hợp khá lộn
xộn những việc làm khác nhau của ba người khác nhau vào một, đấy là chuyện đi xin đồng của Không Lộ theo truyền thuyết mà
đã nổi tiếng từ thế kỷ thứ 14, như An nam chí lược 15 tờ 147 đã ghi lại chuyện Giác Hải cùng Thông Huyền làm rơi hai con ễnh
ương và chuyện chữa bệnh vua Lý thần Tôn của Minh Không. Chuyện của Giác Hải thì đã ghi trong tiểu sử Giác Hải. Chuyện của
Minh Không cũng thế. Chúng tất do đó, không thể nào xảy ra với Không Lộ được. Tiểu sử dịch trên của Không Lộ như vậy chắc
chắn là một tạo dựng hậu kỳ khá vụng về, tối thiểu là từ bản in đời Lê vào năm 1715 trở đi. Vấn đề bây giờ là ai đã tạo dựng nên
nó? Phải chăng Hoà thượng Phúc Điền, người đứng khắc bản in 1858 trên?
Trong lời tựa viết cho bản in năm đó, mà bộ Phật điển tùng san cho in lại trong Ngự chế thiền điển thống yếu kê đăng lục
tờ 1b4-2a1, Phúc Điền nói: “Về phía nước ta thì xưa có Thiền uyển lục là Thiền uyển, tên là Tập anh, ghi lại nhữngbậc thạc đức
cao tăng của ba triều (Đinh, Lê, Lý) và trình bày sơ cuộc đời họ”. Nhưng trong lổ ngổ không phải một và sai trái thật khó nghe.
Cho nên tôi đã hiệu đính lại, rồi cho chép sạch ra, để in mà công bố, nhằm giữ lại bản xưa, riêng in làm quyển thượng. Viết thế
này, phải chăng Phúc Điền đã khẳng định rằng mình không phải là người đã tạo dựng nên nó?. Vậy phải chăng nó đã đến từ cái
để bản, mà Phúc Điền dùng và gọi là “Cựu bản Tiêu sơn tự” nghĩa là ” bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn?” Đây là một có thể. Nhưng về
“Cựu bản Tiêu sơn tự” này nó in năm nào và do ai? Ta không biết một tí gì hết. Có kẻ sẽ nghĩ rằng “Cựu bản Tiêu sơn tự” này
chính là bản Thiền uyển tập anh in năm 1715 đây. Song, đấy dĩ nhiên chỉ là một cách nghĩ vô căn cứ, nếu không là hoàn toàn sai
lầm, khi ta thấy sự sửa đổi trầm trọng đã xảy ra ở trên trong bản tiểu sử của Không Lộ.
Tính tạo dựng hậu kỳ trên của bản tiểu sử càng bộc lộ rõ rệt với sự đồng nhất của truyện Dương Không Lộ trong Lĩnh
nam trích quái truyện với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh của chúng ta không những về cốt truyện, mà ngay
cả về văn từ. Lĩnh nam trích quái truyện tờ 35: “Hải thanh, Nghiêm quang tự, Không Lộ Thiền sư. Tánh DươngThị, nãi Hải thanh
nhân giả, thế nghiệp điếu ngư, Sư xả kỳ nghiệp nhi tăng yên, cư thường niệm gia trì đà la ni môn kinh. Chương Thánh Gia Khánh
niên gian, dự Giác Hải vi đạo hữu, tiềm chí Hà trạch tự thê thân yên, thảo y mộc thực đãi vong kỳ thân, ngoại tuyệt tha cầu, nội
tu thiền định, tâm thần nhĩ mục, nhật giác sảng nhiên. Tiên năng phi không lý thủy, phục hổ hàng long, vạn quái thiên kỳ, nhân
mạc chi trắc. Hậu tầm quy cố hương, sáng tự cư chi. Nhất nhật hữu thị giả khải vân: “Mỗ tự đáo lai vị mông chỉ thị tâm yếu, cảm
trình kệ vân:
Đoàn luyện thân tâm thỉ đắc thanh
Sum sum trực cán đối hư linh
Hữu thân lai vấn không không pháp
Thân tại bình biên ảnh tập hình.
Sư giác chi, viết: “Nhữ tương kinh lai, nhữ tương kinh lai, ngô vị nhữ thọ, ngô vị nhữ ái, hà xứ bất dự nhữ tâm nguyện?” Nãi kha
kha đại tiếu. Sư thường thuyết kệ vân:
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã hình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Hội tường Đại Khánh thập niên Lý Nhân Tôn niên hiệu Kỷ hợi lục nguyệt sơ tam nhật, thị tịch, môn nhân thu xá lợi hàm táng vu tự
môn. Hữu chiếu quảng kỳ tự, quyên hộ tam thiên dĩ phụng hương hỏa”.
Đọc qua truyện này, có thể thấy nó đồng nhất với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh, trừ một vai sai
khác nhỏ nhặt do việc tam sao thất bổn. Cũng cần thêm là, sự đồng nhất thật đáng ngạc nhiên. Phải chăng cả Thiền uyển tập anh
lẫn Lĩnh nam trích quái truyện đã sao truyện của mình từ một bản gốc chung mà Thiền uyển tập anh cho biết là Nam tôn tự pháp
đồ của Thường Chiếu? Hay chúng hoặc những người hiệu đính chúng đã sao chép lẫn nhau? Đây là một vấn đề khá lôi cuốn cần
phải được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh. 61 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
22. THIỀN SƯ Bản Tịnh (1100 – 1176)
Am Bình dương, núi Chí linh, Kiệt đặc1
. Người Phù Diễn, Vĩnh khương2
, họ Kiều. Sư nhỏ hiếu học,
rõ lẽ sinh tử nhà Phật, theo dấu nhân nghĩa nhà Nho, nhận được ý chỉ nơi Thiền sư Mãn Giác chùa Giác
nguyên. Năm Đại Định thứ 2 (1141), Sư thẳng đến núi đó trác tích. Hữu bật Ngụy Quốc Bảo3
hâm mộ
phẩm cách và đức độ của Sư, nên kính Sư như bậc thầy.
Sau Sư nhận lời mời của Thành Dương công chúa4
, đến trụ trì chùa Càn an, thừơng phát đại
nguyện rằng:
“Đời đời kiếp kiếp
Ý Phật không mê
Tự giác, giác tha,
Không chia đó đây,
Đề huề phương tiện,
Một nẻo cùng về”.
Vào một hôm trong tháng Giêng năm Trịnh Phù thứ 1 (1176), Sư không bệnh, gọi chúng đến
dạy:
Một nẻo, một nẻo5
Mèo đá đuôi vẫy6

1 Lịch triều hiến chương loại chí, 3 tờ18b7-19a4 viết: “Núi Phụng hoàng ở tại xã Kiệt đặc xưa thuộc Phụng nhãn. Đỉnh núi đứng
thẳng khi sườn xoè ra giống hình con phượng múa. Thời Trần có xây điện Lưu quang và cung Tử cực.(…) dưới núi có giếng, đáy
có ngọc châu, đẹp nhuyễn như bùn phơi khô thành châu. Bên núi có hồ Ba ba. Sườn núi có chùa Lệ kỳ. Khoảng đầu đời Trần, đạo
sĩ Huyền Vân ẩn cư để luyện đan, gọi là Huyền vân động. Chu Văn Trinh, đời Trần khi đã giũ áo từ quan, thích phong cảnh của
Chí linh, đến ở đó …” Bắc thành địa dư chí lục 2 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương cũng ghi những điểm tương tự núi Chí
linh ở Kiệt đặc của truyện đây như vậy phải là núi Phụng hoàng vừa mô tả. Xã Kiệt đặc hiện thuộc huyện Chí linh tỉnh hải dương
ngày nay.
Am Bình dương cho đến đời Trần cũng còn. Nó là nơi Trần Nhân Tôn nhân bữa ăn cúng dường cuối cùng do Tuyên Từ
hoàng thái hậu dâng, như Tam tổ thực lục tờ 10b2 và Thánh đăng lục tờ 36b5 ghi lại.
2
Tức làng Phù diễn, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Vĩnh khương là tên thời Lý của huyện Từ liêm, tức đất huyện Hoài
đức. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội mục Thị tứ còn ghi thêm một làng Phù diễn thuộc
huyện Từ liêm ở đây có chợ Phù diễn và cầu Phù diễn. Quê hương của Bản Tịnh chắc tại làng Phù diễn này. Làng Phù diễn ngày
nay thuộc huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông và cầu Phù diễn cũng gọi là cầu Diễn, bắc ngang qua sông Nhuệ, cách cầu Giấy khoảng
10 cây số.
3
Theo Toàn thư B3 tờ 31b1-3 thì năm Thiên Thuận thứ 1 (1128) Ngụy Quốc Bảo từ chức Nội thư gia lên làm Tả ty, rồi liền đó lên
làm Nội thường thị, năm sau lại lên làm Viên ngoại lang, rồi đến năm 1135 lên làm Tả ty lang trung. Sau khi Lý Thần Tôn, tên
Ngụy Quốc Bảo không còn thấy nhắc đến nữa. Không thấy sử liệu nào khác nói Ngụy Quốc Bảo giữ chức Hữu bật.
4
Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết: “Thành Dương công chi thỉnh”. Nhưng chúng tôi nghi rằng chữ chi trong hợp từ đó là
một khắc lộn của chữ chúa, bởi vì tự dạng của chúng gần nhau và bởi vì chữ Thành Dương với lối viết chữ Thành có bộ thổ một
bên thường để viết tên cho những công chúa đời Lý như Kim Thành, Thiên Thành… dẫu hiện tại chúng tôi chưa tìm ra một công
chúa thời Lý nào tên Thành Dương cả.
Còn chùa Càn an có thể là chùa Càn an ở bên cạnh văn miếu tại thủ đô Hà nội, nơi mà vào thế kỷ 14 đã thực hiện nhiều
bản in kinh luận Phật giáo mà nay còn ghi.
5
Nguyên văn: Nhất quỉ. Để xác định thêm nội dung từ này, tham chiếu câu viết sau đây trong bài văn tiến Quảng Ninh của Đào
Khưu Nhất và những người khác ở Ngụy chí: “Tuy xuất xử thù đồ, phủ ngưỡng dị thế, chí ư hưng trị mỹ tục, kỳ quỉ nhất giả”. (Tuy
xuất xử khác đường, như cúi ngửa khác dáng, nhưng đến việc làm thịnh việc chính trị, làm đẹp phong tục thì nẻo đó là một vậy).
Xem Tam quốc chí 11 tờ 21b9-10
6
Ba câu nói đến tục thờ ma mèo trong truyện Độc Cô Đà ở Tuỳ thư. Theo đó thì mẹ vợ của Đà trước thờ ma mèo (miêu quỷ) nhân
thế mà đưa đến nhà Đà. Vua vẳng nghe mà không tin, gặp khi Hiến hoàng hậu và vợ của Dương Tố là Trịnh Thị đều mắc bệnh,
cho mời thầy thuốc đến, họ đều nói: “Đây là bệnh ma mèo”. Vua cho Đà là em khác mẹ của Hoàng hậu và vợ của Đà là em khác
mẹ của Dương Tố nên nghi là do Đà làm, bèn mật sai anh của Đà là Mục lấy tình anh em mà khuyên giải. Vua lại nhờ tả hữu nói
Đà, Đà nói là không có. Vua không bằng lòng đổi thành Thứ sử Thiên châu. Đà bèn ra lời oán giận. Vua bèn sai Tả bộc xạ cao
thích nạp ngôn Tô Uy, Đại lý chính Hoàng Phủ Hiếu Tự và đại lý thừa Dương Vin cùng xét việc đó. Con ở của Đà là Từ A Ni nói
mình vốn theo nhà mẹ Đà đến, thường thờ ma mèo, mỗi đến ngày Tý thì cúng nó vào ban đêm vì Tý là chuột vậy. Ma mèo đó
mỗi khi giết người, của cải của nhà người bị giết lặng lẽ dời đến nhà nuôi ma mèo. Đà thường ở nhà đòi rượu, vợ Đà nói: “Không
có tiền để mua”. Đà do thế bảụo A Ni “co ùthể sai ma mèo đến nhà Việt công, để ta có đủ tiền”. A Ni liền đọc chú. Về vài ngày thì 62 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Xông đến vồ chuột
Hóa ra là quỷ
Nếu tỏ rõ được
Vàng từ lệ thủy1
.
Rồi nói bài kệ sau:
Thân huyễn vốn từ không tịch sinh,
Giống như trong kính hiện ra hình,
Hiểu rành hết thảy đều không huyễn,
Thật tướng phút giây thân huyễn thành2
.
Nói kệ xong, Sư tịch, thọ 77 tuổi.3

ma mèo liền đến nhà Dương Tố, Khai Hoàng năm thứ 11 (590) vừa từ Tinh châu trở về. Đà ở trong vườn gọi A Ni bảo, có thể sai
ma mèo đến nhà Hoàng hậu khiến bà ban cho ta nhiều vật”. A Ni lại đọc chú, ma bèn vào trong cung. Dương Viễn bèn sai A Ni
gọi ma mèo ở Môn hạ ngoại tỉnh. Trong đêm đó A Ni đặt nhang vào một bát cháo, cầm thìa gõ mà gọi rằng: “Mèo ta có thể đến,
đừng ở trong cung nữa”. Một lát mặt A Ni xanh lè, như bị ai trói kéo, nói rằng: “Ma mèo đã đến”. Vua đem việc đó giao cho công
khanh bàn nghị. Kỳ chương công Ngưu Hoằng nói: “Yêu dị là do người tạo nên, giết người đi thì có thể làm đứt nó…”. Xem Tùy
thư 79 tờ 2b12-3a9.
1
Kim sinh lệ thủy, chữ và ý rút ra từ thiên Đảo ngôn trong Hàn phi tử, theo đây thì trong sông Lệ của đất Kinh nam có vàng. Có
lệnh cấm đãi vàng, mà nếu phạm tội thì phải tội phanh thây ở chợ. Nhưng người ta vẫn tiếp tục đãi trộm vàng, vì biết rằng mình
có thể không bị bắt. Cho nên Hàn phi tử kết luận: “Vì không bắt hết được, thì tuy có hình phạt phanh thây, chuyện ăn trộm vàng
vẫn không chấm dứt”. Xem Hàn phi tử 9 tờ 9a4-11.
2
Nguyên văn:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kỉnh trung (nội tâm) xuất hình tượng
Giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều chép như vậy. Chúng tôi tham chiếu bài kệ thị pháp của Phật Tỳ bà Thi trong Truyền đăng
lục 1 tờ 204c22-23, theo đó:
Thân tùng vô tướng trung sanh thọ
Do như huyễn xuất chư hình tượng
Huyễn nhân tâm thức bản lai vô
Tội phúc giai không vô sở tru.
Và đề nghị tái thiết lại bài kệ thị tịch của Bản Tịnh như sau:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kỉnh trung xuất hình tượng
Giác liễu tâm nội nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
3
Cứ đây thì Bản Tịnh mất năm 1176 và thọ 77 tuổi. Do đó Tịnh sinh năm 1100. Nếu thế làm sao có thể nói “Tịnh nhận được ý chỉ
nơi Thiền sư Mãn Giác của Giác Nguyên?” Bởi vì Mãn Giác mất năm 1096 lúc ông 45 tuổi, nghĩa là mất lúc Tịnh chưa ra đời. Vậy
hoặc năm mất của Giác chép sai, hoặc tuổi thọ của Tịnh ghi lộn. Chúng tôi nghĩ rằng cả hai trường hợp đều có thể. Tuổi thọ của
Tịnh có thể đúng ra là 97, nhưng vì chữ Hán viết chữ cửu dễ lộn với chữ thất, nên đã chép lộn thành 77. Nếu Tịnh quả sống đến
97 tuổi thì ông phải sinh vào năm 1080, nghĩa là sinh ra 16 năm trước khi Giác mất. Nhưng với tuổi 16 này, dù lịch sử phái thiền
cũng có ghi một số vị đắc pháp với số tuổi đó hay ít hơn như trường hợp Đạo Tín, chúng tôi vẫn nghĩ nó còn ít quá để cho một
người đắc pháp. Vì thế, năm mất của Mãn Giác có thể bị chép sai. Xem chú thích (6) truyện Mãn Giác ở trên. 63 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Mười (G ồ m 12 ng ư ờ i, 2 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
23. THIỀN SƯ Minh Trí (? – 1196) (Trước tên Thiền Trí)
Chùa Phúc thánh, Điển lãnh1
. Người làng Phù cầm2
, họ Tô. Sư bẩm tính thông tuệ, đọc khắp các
sách. Đến tuổi 20, gặp Đạo Huệ thượng sĩ, bèn bỏ tục xuất gia, gõ trúng bảng huyền. Hiểu rõ tôn chỉ các
kinh Viên giác, Nhân Vương3
, Pháp hoa và sách Truyền đăng. Sư giảng dạy đồ chúng không biết mệt
mỏi, nên được ban hiệu Minh Trí.
Một hôm, Sư cắt cỏ, có một vị Tăng khoanh tay đứng bên trái. Sư ném chiếc liềm đến trước mặt
vị Tăng, cắt đứt một gốc cỏ.
Vị tăng thưa: “Cổ nhân dạy Hoà thượng chỉ cắt được một cái đó sao?”
Sư cầm chiếc liềm đưa lên, vị Tăng nhận lấy, bèn đứng thế cắt cỏ.
Sư nói: “Lại nhớ được câu sau đó chăng? Ngươi chỉ cắt được cái đấy, mà không cắt được cái kia
sao?”4
Vị tăng nghĩ rồi bỏ đi.
Sư nói chuyện một vị Tăng, bên cạnh có một vị Tăng khác nói: “Nói hết sức tức là Văn Thù, im
lặng hết sức tức là Duy Ma”5
Sư bảo: “Không nói [27a1] không im lặng, chẳng phải là ông sao?”.
Vị Tăng gật đầu.
Sư bảo: “Sao chẳng hiện thần thông?”
Vị Tăng thưa: “Chẳng từ chối việc hiện thần thông, chỉ sợ hoà thượng thâu vào giáo”.
Sư bảo: “Ngươi chưa phải là con mắt ở ngoài giáo điển6
. Bèn nói kệ:
“Ngoài giáo khá riêng truyền
Cao sâu vực Tổ Phật

1
Làng Điển lãnh tức làng Khương tự, nơi có chùa thờ Phật Pháp vân, chùa Phúc Thánh, cứ Toàn thư B4 tờ 6b4, do Lý Anh Tôn lập
vào năm 1184.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, giữa những bến đò của sông Nguyệt đức tức sông Cầu ngày nay, có ghi bến đò Phù cầm.
Bến đò này nằm giữa hai bến Phù yên và Đẩu hàn. Đẩu hàn là quê hương của Đỗ An Vĩnh tiến sĩ khoa 1499, còn Phù yên là của
Lê Doãn Chấp tiến sĩ khoa 1505, cả hai làng ấy Đại Việt lịch triều đăng khoa lục ghi là thuộc “hạt Yên phong” tức thuộc huyện Yên
phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đó. làng Phù cầm đời Lý như vậy cũng là Phù cầm huyện
Yên Phong tỉnh Bắc ninh ngày nay.
3
Tức Phật thuyết nhân vương bát nhã ba la mật kinh. Cưu Ma La Thập dịch, 2 quyển ĐTK 245, giả thiết rằng bản dịch này là bản
lưu hành nhất vào thời Lý, bởi vì có một bản dịch thứ hai do Bất Không thực hiện khoảng năm 765 cũng có tên Phật thuyết Nhân
vương hộ quốc bát nhã ba la mật kinh, 2 quyển, ĐTK 246.
4
Thiền sư Ẩn Phong(…), một hôm, trong khi Thạch Đầu cắt cỏ, Sư khoanh tay đứng một bên. Thạch Đầu liệng cái liềm đến trước
mặt Sư, làm đứt một cọng cỏ. Sư nói: “Hoà thượng cắt được cái này, không cắt được cái kia”. Thạch Đầu đưa cái liềm lên. Sư đón
bắt được, làm thế cắt cỏ. Thạch Đầu nói: “Ngươi cắt được cái kia, không cắt được cái này”. Xem Truyền đăng lục 8 tờ 259b11.
5
Văn Thù, Duy Ma Cật và 32 vị bồ tát thảo luận về pháp bất nhị. Các vị kia, mỗi vị, tuỳ trường hợp, đều nói, lìa đối đãi là bất nhị.
Văn Thù nói: “Vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vượt ngoài đối đáp là bất nhị”. Rồi hỏi Duy Ma Cật. Duy Ma im lặng. Nhân
đóVăn Thù tán thán. Xem Duy Ma Cật sở thuyết kinh quyển trung, phẩm Bất nhị pháp môn tờ 550b28-551c27.
6
Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch trong lúc đang nói chuyện với một vị tăng; một vị tăng khác đứng bên cạnh, nói: “Nói là Văn Thù,
im lặng là Duy Ma”. Sư nói: “Không nói không im lặng, há không phải là ông sao?”. Vị Tăng im lặng. Sư nói: “Sao không hiện thần
thông?” Tăng nói: “Không từ chối gì sự hiện thần thông, chỉ sợ Hoà thượng thâu vào giáo điển”. Sư nói: “Xét chỗ ngươi đến, thì
chưa có con mắt ở ngoài giáo điển”. Xem Truyền đăng lục 11 tờ 283b9-c3. 64 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Nếu ngươi muốn rõ đích,
Tìm khói giữa diệm dương.”1
Một ngày tháng nào đó của năm Bính thìn Thiên Tư Gia Thụy thứ 11 (1196), lúc sắp tịch, Sư nói
kệ sau:
“Gió tùng trăng nước tỏ,
Không ảnh cũng không hình
Sắc thân là cái đó,
Không không tiếng vọng tìm”.
Nói kệ xong, Sư yên lặng mà mất.
24. THIỀN SƯ Tín Học (? – 1200)
Chùa Quán đỉnh, núi Không Lộ. Người châu Minh, phủ Thiên đức, họ Tô. Đời đời chuyên nghề
khắc kinh. Nhỏ thờ Thanh giới, không giao du bừa bãi.
Năm 32 tuổi, theo Du thiền sư đến núi Tiên du, thế phát với Đạo Huệ. ở hầu hạ ba năm. Sư sâu
hiểu tôn chỉ, nhân đó một mình chống gậy du phương, đến ở chùa Quán đỉnh.
Có lần ở trước tượng Phật [27b1], Sư đốt ngón tay và phát nguyện rộng lớn rằng: “Trần lao
nhiều kiếp, dứt không vướng lại”. Sư chuyên tu pháp tam quán trong kinh Viên giác. Mỗi ngày chỉ ăn một
bữa, hình dung khô gầy. Nhiều năm như thế, hoàn toàn không có vẻ gì chán nản, nên sau đạt phép Tam
quán chính thọ.
2
Công khanh sĩ thứ, rất ngưỡng mộ phong thái cao nhã của Sư, đua nhau theo hầu. Sư thường
dạy:
Có lợi tất có nhiễm
Có nhiễm tất có lợi
Có lợi có nhiễm
Bồ tát không làm
Không lợi không nhiễm
Bồ tát mới làm.
Ngày 9 tháng giêng năm Canh thân3
, Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200), Sư cáo bệnh, gọi chúng
đến đọc bài kệ.
“Núi rừng cọp beo
Vằn vện lẫn lộn
Nếu muốn phân biệt
Con kêu mẹ mổ”
4
.

1
Nguyên văn: Dương diệm mích cầu yên. Dương diệm tức là thứ ánh nắng mùa xuân có trộn lẫn với bụi mờ giữa nội. Những con
nai khát nước nhìn thấy ánh nắng đó tưởng là nước, rồi cứ đuổi theo cho đến lúc chết. Xem Lăng già kinh 2.
2
Chính thọ là một dịch nghĩa của chữ tam muội (samàdhì). Quán kinh huyền nghĩa phần nói: “Gọi là chính thọ, khi tưởng và tâm
đều dứt, duyên và lự đều quên, tương ứng với tam muội, thì gọi là chính thọ”.
Xem thêm Đại thừa nghĩa chương 13.
3
Nguyên văn: Thiên Tư Gia Thụy ngũ niên Canh thân. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 tất
phải nhằm năm Canh tuất, chứ không phải năm Canh thân. Nếu là năm Canh thân, thì nó phải là năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 15
(1200). Ở đây, chúng tôi nghĩ rằng vì chữ tuất khó viết lộn thành chữ thân nên cho rằng nguyên văn có lẽ thiếu chữ thập trước
chữ ngũ, nên đề nghị đọc lại thành Thiên Tư Gia Thụy thập ngũ niên, và dịch theo đó.
4
Nguyên văn: Tử tối mẫu trác. Đại sư Hương Nghiêm tập Đăng. Trí Nhàn tụng, “Độc cước”:
Tử tối mẫu trúc
Tử giác vô xác 65 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Nói xong Sư tịch.
25. THIỀN SƯ Tịnh Không (1091 – 1170)
Chùa Khai quốc, phủ Thiên đức. Vốn người Phúc xuyên1
, họ Ngô. Ban đầu xuất gia và thọ giới Cụ
túc ở viện Sùng phúc tại châu minh.
Năm 30 tuổi, Sư đi hành cước phương Nam, đến chùa Khai quốc. Trải 5, 6 năm, tu hạnh đầu đà,
mỗi ngày chỉ dùng một hạt gạo, hạt mè, ngồi hoài không ngủ, Mỗi lần nhập định, thường trải nhiều ngày
[28a1] mới dậy. Đàn tín bốn phương đến cúng, chất cao như núi. Hoặc có kẻ đến rình ăn trộm, Sư tất
bảo lấy những vật Sư hiện có.
Bấy giờ Nam Khương công chúa, ý muốn xuất trần, riêng đến xin Sư thụ giới. Sư bằng lòng thế
độ. Triều đình hay được, xuống chiếu bắt Sư. Khi Sư tới khuyết, thần sắc thản nhiên, vua càng thêm
kính, phong làm thạc đức danh tăng. Sư cố từ không được. Một hôm Sư thượng đường, có một vị Tăng
cầm gậy đến hỏi: “Thế nào là pháp thân?”.
Sư đáp: “Pháp thân vốn vô hình?”
Lại hỏi: “Thế nào là pháp nhãn?”.
Sư đáp: “Pháp nhãn vốn không mờ”. Rồi tiếp: “Trước mắt không pháp, ý ở trước mắt. Pháp
chẳng là chỗ của tai mắt”.
Vị tăng bật cười ha hả. Sư hỏi: “Cười điều chi?”
Vị Tăng đáp: “Hoà thượng là bậc xuất thế số một, nhưng chưa có tôn chỉ, phải đến tham vấn
Đạo Huệ mới được!”
Sư hỏi: “Đến hỏi thầy kia thì được việc gì?”
Vị Tăng bảo: “Trên không ngói lợp; dưới không cắm dùi”.
Sư bèn thay áo, thẳng đến Đạo Huệ ở núi Tiên Du2
.

Mẫu tử câu vong
Ứng duyên bất thác
Đồng đạo xướng hỏa
Diệu vân độc cước
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 452b16-18. Xem thêm Bích nham lục 16 tờ 156a21-24 về cái công án “kêu mỗ”: Có vị sư hỏi Kỉnh
Thanh: “Học nhân kêu, xin sư mỗ”. Thanh đáp: “Có sống lại được không?” Vị sư đáp: “Nếu không sống thì gặp người là chuyện
lạ” Thanh nói: “Ấy là tên giữa đám cỏ”.
1
Phúc Xuyên, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Phúc Xuyên, quê hương của Phan Nhuệ, tiến sĩ khoa 1748,
nhưng lại ghi làng Phúc xuyên ở hạt Tiên phong. Song Tiên phong là tên một huyện ở Sơn tây. Điều chắc chắn là nó phải nằm ở
phía bắc phủ Thiên đức, bởi vì trước khi đến ở tại chùa Khai quốc phủ Thiên đức, Tịnh Không đã phải “hành cước nam phương”.
Bây giờ, truyện của Không cũng nói rằng Không “ban đầu xuất gia ở viện Sùng phúc châu mình. Nếu viện Sùng phúc ở đây là
chùa Sùng phúc dựng tại làng Siêu loại vào năm 1115, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 21a2-3 ghi lại, thì làng Siêu loại như vậy thuộc
vào Phúc xuyên. Và Phúc xuyên tên một châu đời Lý mà địa phận có thể gồm huyện Siêu loại, tức huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc
ngày nay, với một số huyện khác chưa thể xác định được. Có lẽ Sùng phúc nguyên trước là một viện nhỏ. Đến năm 1115 nó được
Linh Nhân thái hậu xây dựng lại và đổi thành chùa. Chắc vào năm này Không đã rời Sùng Phúc để hành cước xuống chùa Khai
quốc ở phía nam, bởi vì ta biết Không mất vào năm 1170, lúc ông hơn 80 tuổi, mà ông bắt đầu hành cước lúc ông 30 tuổi.
2
Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: “Một hôm Đạo Ngô cầm gậy đến gặp Sư thượng đường, Tăng hỏi: “Như hà thị pháp thân?”, Sư viết:
“Pháp thân vô tướng”. Viết: “Như hà thị pháp nhãn?”. Sư viết: “Pháp nhãn vô hà”. Sư hựu viết: “Mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền.
Bất thị mục tiền pháp, phi nhĩ mục sở đáo”. Đạo Ngô nãi tiếu. Sư nãi sinh nghi, vấn Ngô: “Hà tiếu?”. Ngô viết: “Hoà thượng nhất
đẳng xuất thế, vị hữu sư, khả vãng Chế trung, Hoa đình huyện, tham Thuyền Tử Hoà thượng khứ”. Sư viết: “Phỏng đắc hoạch
phủ?”. Đạo Ngô viết: “Bỉ Sư, thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa”. Sư toại dịch phục trực nghệ Hoa đình….Xem
Truyền đăng lục 15 tờ 323c25-324a7. 66 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Huệ nói: “- đây không phải không có tôn chỉ, nhưng thầy quyết chắc bằng cách nào?.”Sư ngẫm
nghĩ.
[28b1] Huệ hét: “Ngay mặt quá đà rồi !”
Sư lãnh hội yếu chỉ, nhân đó ở lại nâng khăn, xách guốc cho Đạo Huệ 3 năm. Sau Sư trở về chùa
cũ, thâu nhận đồ chúng. Một hôm Sư hội họp đồ chúng nói kệ:
“Trên không mảnh ngói lợp
Dưới không chỗ cắm dùi.1
Hoặc đổi áo thẳng đến
Hoặc xách trượng ra đi.
Động chuyển chuyển nhằm chỗ
Tợ rồng nhảy đớp mồi”.
Vị Tăng hỏi: “Từ trước “trực chỉ” là nói cái gì?”2
Sư đáp: “Ngày ngày đi gặt lúa
Giờ giờ kho lẫm không”
Tăng thưa: “Con chẳng hiểu”
Sư dạy: “Trời trăng luôn sáng,
Mây nổi khuất che”.
Rồi sư đọc kệ:
Người trí không ngộ đạo
Ngộ đạo tức kẻ đần
Nằm dài chân khách duỗi
Sao biết ngụy cùng chân”3
Lại hỏi: “Thế nào là Phật?”
Sư đáp: “Nhật nguyệt sáng ngời muôn vạn cõi
Ai hay mây móc phủ non sông”.
Sư đáp: “Mục đồng chỉ giỏi cưỡi lưng trâu
Sĩ có anh hùng vượt được y”
Lại hỏi: “Ý tổ và ý kinh giống hay khác?”
Sư đáp: “Muôn dặm thuyền tàu, đều chầu cửa khuyết”.
Lại hỏi: “Hoà [29a1] thượng có việc kỳ đặc, sao không nói cho học nhân biết?”

1
Giáp Sơn Thiện Hội. Đạo Ngô viết: “Bỉ sư thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa”. Xem Truyền đăng lục 15 tờ
324a1.
2
Tùng thượng trực chỉ, vi thập ma thuyết? Giáp Sơn Thiện Hội tăng vấn: “Tùng thượng lập Tổ ý, Giáo ý, Hoà thượng thử gian vi
thập ma ngôn vô?” Sư viết: “Tam niên bất thực phạn, mục tiền vô cơ nhân”. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a20-21.
3
Nguyên văn:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách,
Hề thức ngụy kiêm chân.
So sánh Giáp Sơn Thiện Hội : Sư có bài tụng:
Minh minh vô ngộ pháp
Ngộ pháp khước mê nhân
Trường thư lưỡng cước thụy
Vô ngụy diệc vô chân. 67 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Ông thổi lửa, tôi vo gạo, ông khất thực, tôi cầm bát, ai phụ ông đâu?”1
Vị Tăng liền tỏ ngộ.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Chính Long Bảo Ứng thứ 8 (1170), khi sắp thị tịch, Sư từ
giã chúng, dặn dò: “Các con hãy khéo giữ mình như khi ta còn sống, chớ có đắm trước mà sinh ra quyến
luyến buồn rầu”.2
Nửa đêm hôm ấy, Sư ngồi kiết già mà tịch, thọ trên 80 tuổi.*{Cơ duyên thoại ngữ của truyện
này cùng với chuyện của Hoà thượng Giáp Sơn trong Truyền đăng 3
rất hợp, song xét Liệt tổ yếu ngữ4
của Huệ Nhật thì đều đã chép đủ, không dám cải chính}.
26. THIỀN SƯ Đại Xả (1120 – 1180)
Chùa Báo đức, núi Vũ Ninh5
. Người phường Đông tác6
họ Hứa. Nhỏ xuất gia theo Đạo Huệ, núi
Tiên du, tập tành Thiền học, biết sơ nét chính của nó.
Sư thường ngồi trì tụng thần chú Diệu môn Phổ Hiền trong kinh Hoa nghiêm7
làm công việc hàng
ngày. Có lúc Sư xỏa tóc, bỏ ăn, cư trú không nơi nhất định. Các Vương công đua nhau đến hầu hạ Sư.

1
Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: Một tiểu sư hầu hạ lâu năm, sau đó bỏ đi tham phương nhưng không có chỗ dụng tâm. Tiểu sư
nghe đồn mọi người đang đổ xô về Thiện Hội học thiền, bèn trở về nói với Thiện Hội: “Hoà thượng có sự kỳ đặc như vậy, sao
không sớm nói cho con biết?”. Sư đáp: “Oâng nấu cơm, tôi thổi lửa, ông khất thực, tôi cầm bát, thì chỗ nào là chỗ cô phụ ông?”.
Vị tiểu do đó mà ngộ nhập. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b2-7.
2
Giáp Sơn Thiện Hội: “Ngày 7 tháng 11 năm Tân sửu Đường Trung Hoà thứ nhất (881), Sư mời chủ sự tới nói: “Ta cùng với chúng
tăng nói đạo nhiều năm, ý chỉ sâu sắc của Phật pháp, mỗi một người phải tự biết lấy, ta nay thân huyễn hết thời tức phải đi. Các
ngươi nên khéo giữ gìn, như khi ta còn sống, chớ có ùa theo người đời mà sinh ra buồn bã. Nói xong, đên nửa đêm Sư lặng lẽ
mất”.
3
Tức truyện của Hoà thượng (mà Nguyên văn ở đây viết là hòa cái) Thiện Hội ở Giáp sơn, Phong châu, trong Truyền đăng lục 15 tờ
323c20-324b28 ngày nay. Hội họ Liêu, người Kiến đình, Quảng châu, đệ tử của Đức Thành. Hội sinh năm 805 và mất năm 881
thọ 77 tuổi. Với những dẫn chứng trên, rõ ràng cơ duyên thoại ngữ, tức những đối thoại giữa hai thầy trò Thiền sư nhằm tạo một
cơ duyên cho sự giác ngộ, cho đến câu nói cuối cùng trước khi mất của Tịnh Không đều phần lớn lấy ra từ truyện của Thiện Hội.
4 Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, Thiền uyển tập anh dẫn hai lần, một ở đây và một ở truyện Nguyện Học. Cứ vào hai dẫn chứng này
thì có thể nói đa số, nếu không tất cả những cơ duyên thoại ngữ của Thiền uyển tập anh đều lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Bởi vì ngay
cả trong cả hai trường hợp dẫn đây, mặc dù cơ duyên thoại ngữ của Tịnh Không cũng như của Nguyện Học hầu như hoàn toàn
đồng nhất với cơ duyên thoại ngữ của Giáp Sơn Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục, tác giả vẫn không thể loại bỏ, với lý
do là: “chúng đã chép đủ trong Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật”. Huệ Nhật này là ai và sống vào khoảng nào, ngày nay ta hiện
chưa biết. Về nội dung của Liệt tổ yếu ngữ , ta đã biết một phần nào.
5
Tức Trâu Sơn, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, viết: “Trâu sơn, một tên là núi Vũ ninh ở phía đông huyện lỵ Quế dương 12
dặm, hình núi liên tiếp, trên núi có Việt tính. Tương truyền đời Hùng Vương, vua nhà Aân đến xâm lăng, đóng quân ở dưới núi,
Đổng thần vương đánh phá, vua Ân chết tại núi đó, thổ nhân lập đền thờ, lâu năm đền bỏ hoang. Đến đời Tần, Thôi Lượng lại
sửa sang miếu thờ. Ân Vương cảm bội, khiến tiên Ma Cô trao cho Lượng một món thuốc tiên, trị được bệnh ngọc kinh xà lũ. Bên
núi có đền thờ tiên Ma Cô, lại có đền thờ Triệu Vũ Đế và Triệu Việt Vương”. An nam chí nói: “Núi Vũ ninh ở tại châu Vũ ninh, núi
có Tỉnh cương, có rắn đá tên Ngọc kinh tử, có mộ Việt vương”. Sử ngoại ký nói: “Triệu Đà lấy núi Vũ ninh để cùng với An Dương
Vương giảng hòa, tức là ở đây”. Núi Vũ ninh như vậy là núi Trâu ở tại huyện Quế dương tỉnh Bắc ninh hiện nay.
Về chùa Báo đức, Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 viết: “Năm Long Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) mùa xuân tháng ba, vua đi săn
ở sông Nam bình tại Lạng châu, nhân đó đến thăm nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên, dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ
ninh”. Chùa Báo đức như vậy gọi cho đủ phải là Sùng nghiêm báo đức và do Lý Thánh Tôn dựng vào năm 1059. Hiện không biết
có còn vết tích gì của chùa này tại Trâu sơn hay không?
6
Bắc thành địa dư chí lục 1 có chép tên phường Đông tác giữa những phố phường của thành phố Hà nội đầu thời Gia Long. Trong
bốn tổng của huyện Thọ xương, đây là những tổng Hữu túc, Hậu túc, Tiền nghiêm và Tả nghiêm, nó đều ghi là phường Đông tác.
Phường này như vậy có thể là một đường dài ăn thông qua bốn tổng, hay cũng có thể là nó ở vào nơi bốn tổng ấy giáp giới nhau.
Vì thiếu bản đồ, chúng tôi chưa thể xác định được. Nhưng cứ Phương đình dư địa chí 2 thì phường Đông tác ở vào tổng Hữu túc.
Mấy tổng khác không thấy ghi.
7
Hoa nghiêm diệu môn Phổ Hiền thần chú, tức Tốc tật mãn Phổ Hiền hạnh nguyện đà la ni, có lẽ do Bất Không thêm vào trong lời
nguyện của Phổ Hiền trong bản dịch kinh Hoa nghiêm 40 ĐTK293 tờ 847a2-848b9 của ông và sau này đã trích thành một bản văn
riêng rẽ, mà người ta gọi là Phổ Hiền bồ tát hạnh nguyện tán ĐTK297 tờ 880a1-882c17. Nó đọc: “Nẵng ma tát để rị giả địa vỹ ca
nam đát tha nghiệt đa nam. Án a mậu phạ ra vĩ nghì dĩ sa phạ ha”. 68 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Kiến Ninh Vương1
và Thiên Cực công chúa2
cũng hết lòng tôn kính. Sư thường ở Hổ nham tại Tuyên
minh3
, lập chùa giáo hóa [28b1], học trò đến học rất đông. Có vị Sư nước Tống hiệu Nham ông, nghe
tiếng cảm mộ, bèn đốt một ngón tay để cúng dường. Người ta nghi Sư có yêu thuật, nên trong khoảng
Thiên Cảm Chí Bảo (1174 – 1175), Thái uý Đỗ Anh Vũ4
ra lệnh bắt vào trong cấm, hết lời nghiêm trách.
Sư vẫn không có vẻ gì là sợ hãi. Thiên Cực tâu xin thả ra, nên Sư được khỏi.
Một hôm, vua Lý Anh Tông cho mời Sư vào hỏi: “Trẫm nhiều phiền hoặc, có phép thuật gì trị
chăng?”
Sư tâu: “Phép 12 Nhân duyên là căn bản của sự tiếp nối sinh tử, nếu dùng nó để trị, thì đó là
phương thuốc vậy”.
Vua lại hỏi về yếu chỉ của nó.
Sư tâu: “Vô minh nhân duyên hành, cho đến lo, buồn, khổ, não. Muốn cầu quả Bích Chi Phật nên
nói đến 12 nhân duyên5
, để trị thân này thì không còn nghiệp phiền não nữa”. Vua nói: “Thế thì Trẫm
phải tĩnh tâm tu tập”.

1 Đại Việt sử lược 3 tờ 11a6-8 viết: “Năm Trinh Phù thứ 10 (1185) mùa xuân, Kiến Ninh Vương Long Ích đem quân 12 ngàn người
hơn, đi đánh Lào núi ở Linh sách để trả thù trận La sách. Quân đến thôn Đỗ gia, bèn sai người đi chiêu dụ. Thủ quân Đinh Vũ,
quan lang Đinh Sáng v.v … đều hàng. Long Ích bắt hết …”
Kiến Ninh Vương như vậy là tước của Lý Long Ích, con của Lý Anh Tôn. Về sự việc đó, Toàn thư B4 tờ 21a8 viết: “Trinh
Phù năm thứ 10 mùa thu tháng 7, sai Kiến Khương Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn mọi Viêm sách, bình định được”.
Thế thì Kiến Ninh Vương và Kiến Khương Vương là một người. Ta không hiểu tại sao Toàn thư lạicó Kiến Khương Vương. Có lẽ bị
người đời Lê Trung Hưng cải chữ Ninh thành chữ Khương để tránh húy của Lê Trang Tôn chăng?.
2 Đại Việt sử lược 3 tờ 7b2-3 viết: “năm Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) gả Thiên Cực công chúa cho châu mục Lạng châu Hoài
Trung Hầu”. Đến năm Trị Bình Long ứng thứ năm (1209) nó lại viết ở tờ 19b4-7: “Vua sai Phạm Du đến Hồng lộ huấn luyện quân
sĩ, ý muốn đánh người Thuận lưu. Khi người Hồng Lộ tới đón đã đúng hẹn, thì Du đang còn cùng Thiên Cực công chúa thông
dâm, không biết hẹn đã quá lúc, bèn cùng với người Hồng Lộ mất nhau”. Du bèn lên thuyền do đường sông mà đi, tới bến Cổ
châu lên bộ đi tới xã A cảo ở Ma lãng thì bị người Bắc giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nãi bắt, đưa tới vương tử Sám giết”. Không
những Phạm Du đã chết trong tay cô công chúa này, mà một tay kiệt hiệt khác cùng số người khác cũng sắp mất, đây là Tô Trung
Tự, Đại Việt sử lược 3 tờ 22a7-8 viết: “Năm Kiến Gia thứ nhất (1211) tháng 6 Tô Trung Tự đêm đến nhà ở Gia lâm cùng Thiên
Cực công chúa thông dâm, bị chồng nàng là quan nội hầu Vương Thượng giết”. Năm sau, nhà cô ở Lạng châu bị nghĩa quân Đinh
Cỗi lấy của cải. Đến năm 1214, Lý Huệ Tôn cùng mẹ đến ẩn ở nhà cô. Đấy là những gì ta hiện biết về cô công chúa khá đào hoa
này của triều Lý.
3
Nguyên văn: Tuyên minh hổ nham. Có người dịch là “hang Tuyên minh hổ”, nhưng Tuyên minh vốn là tên một trại, mà Toàn thư
B4 tờ 2a5 nói tới khi kể ra việc tham dự trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi của chủ đô trại Tuyên minh là Trần Thiềm, còn Hổ
nham thì Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, dẫn Thiên hạ quân quốc lợi bệnh, nói: “Năm Minh Vĩnh lạc thứ 5 (1407) mới đặt
phủ Giao châu thì châu Tuyên giang lãnh ba huyện Tây lan, Đông lan và Hổ nham. Năm Vĩnh lạc thứ 13 (1415) sáp nhập huyện
Hổ nham vào châu Tuyên Giang”. Vậy Hổ nham là tên một huyện thời thuộc Minh, và cứ truyện Đại Xả ở đây thì nó có thể là tên
huyện thời Lý, Trần nữa.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Từ quán, còn chép một ngôi chùa tên Hổ nham. Nó viết: “Chùa Hổ nham ở tại
sơn phần xã Vân nham huyện Hùng quan, trên vách đá có đề ba chữ lớn “Hổ nham cương”, gần phía đông có núi Mãn, phía tây
có sông Lô và ngọn núi Am chạy bên cạnh, là thắng cảnh của một phương. Khoảng năm Lê Hồng Đức, thổ dân dựng lầu ở trên
động, mỗi năm ngày mồng năm tháng giêng, sĩ nữ đều hội lại để đi xem chơi. Khoảng năm Đại Chính đời Nhuận Mạc, trùng tu lại,
mới đổi tên là Hổ nham, có đủ bia ký”.
Như thế, Hổ nham không những là tên huyện Hổ nham và từ đó chắc có làng Hổ nham, mà còn có gò Hổ nham, hay Hổ
nham cương tại phần núi của xã Vân nham, huyện Hùng quan tỉnh Sơn tây thời Nguyễn, tức phần đất phía nửa đông bắc tại
huyện Đoan hùng tỉnh Vĩnh phú hiện nay tại tả ngạn sông Lô và sông Cháy. Xã Vân nham hiện ở phía nam chỗ hợp lưu của hai
con sông đấy. Dù Đại nam nhất thống chí có nói cái tên chùa Hổ nham đến thời Mạc mới có tên, ta vẫn có thể giả thiết nó rất có
thể dựng từ thời Lý và chắc bắt đầu với nhà sư Đại Xả nói tới ở đây. Một cuộc nghiên cứu hiện địa tương lai sẽ giải đáp vấn đề đó
cho ta.
4 Toàn thư B4 tờ 14a4 nói: “Đại Định năm thứ 19 (1158) mùa thu tháng 8 Đỗ Anh Vũ chết”. Nếu vậy, làm gì có truyện “trong
khoảng Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) Thái úy Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt Đại Xả vào cung cấm và hết lời nghiêm trách” nói tới ở
đây. Phải chăng Toàn thư chép sai năm mất của Anh Vũ? Đây là một có thể, cứ vào một số trường hợp sai khác đã xảy ra.
5
Phép mười hai nhân duyên hay đạo lý 12 nhân duyên là một phạm trù cơ bản của tư tưởng Phật giáo nhằm giải thích sự sống
chết của con người. Khởi hành từ cái thực tin già chết, ta hỏi nguyên nhân tại sao, thì câu trả lời là vì có sự sinh ra. Hỏi tại sao có
sự sinh ra, ta trả lời vì sự có thai. Hỏi tại sao có thai, ta trả lời là vì có sự giao cấu. Hỏi tại sao có sự giao cấu, ta trả lời là vì có sự
thương yêu. Hỏi tại sao có yêu thương, trả lời vì có cảm giác. Hỏi sao lại có cảm giác, ta trả lời là vì có va chạm. Tại sao có va
chạm, ta trả lời là vì có sáu giác quan. Tại sao có sáu giác quan, ta trả lời là vì có những điều kiện tâm lý và vật lý. Hỏi tại sao có
những điều kiện tâm lý và vật lý, ta trả lời vì có thức. Hỏi tại sao có thức, ta trả lời vì có hành động liên tục. Hỏi tại sao có hành 69 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư tâu: “Khi giữ được nghiệp thức an tịnh, tức là thanh trừng được phiền não, chớ không còn có
phép nào khác đáng tu tập cả. Ngày xưa Lương Vũ Đế1
thường đem việc đó hỏi Thiền sư Bảo Chí2
, Bảo
Chí cũng đáp như thế. Nay tôi cũng xin trộm trình với [30a1] bệ hạ điều y hệt như vậy3
.
Đến ngày mồng 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5 (1180) Sư dặn dò đệ tử rồi nói kệ:
“Bốn rắn cùng lồng4
vốn trống trơn,
Núi cao năm uẩn5
chẳng bà con,
Linh minh chân tính không ngăn ngại
Sinh tử Niết bàn nỡ vấn vương”.
Lại nói:
“Trơ trơ răng ngựa đá6
Tháng ngày kêu ăn mạ
Trên đường ai cũng qua
Không đi người trên ngựa.
Đến canh 5, Sư uống thuốc độc rồi mất, thọ 61 tuổi.

động, ta trả lời vì vô minh. Đây là một dây chuyền 12 khâu kết nối với nhau, mà từ ngữ Phật học Trung quốc thường gọi là vô
minh, hành , thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Sự liên hệ giữa 12 khâu này, từ Phật học Trung quốc
thường diễn tả bằng chữ duyên. Do thế, khi nói vô minh duyên hành, có nghĩa vô minh làm điều kiện cho hành động xuất hiện.
Hay nói, hành duyên thức, tức cũng nói, hành làm điều kiện cho thức ra đời cho đến sự ra đời của lo buồn, khổ não tức bắt nguồn
từ sự sinh ra. Vì có một liên hệ nhân quả liên tục như thế, nghĩa là một sự liên hệ trong đó nhân trở thành quả và quả trở thành
nhân nên 12 khâu trên được gọi là 12 nhân duyên.
Kinh sách Phật giáo khẳng định rằng đạo lý 12 nhân duyên vừa mô tả có thể được khám phá trong những lúc và tại
những nơi không có tư tưởng hay kinh sách Phật giáo. Những người khám phá ra đạo lý đó không dựa hay nhờ Phật giáo thì Phật
giáo gọi họ là những Bích Chi Phật, tức những người giác ngộ nhờ vào chính mình và chỉ một mình mình mà thôi. Bích Chi Phật là
một phiên âm chữ Phạn Pratyekabuddha, mà từ Phật học Trung quốc dịch là “Độc giác”.
1
Lương Vũ Đế hay vua Vũ Đế nhà Lương, tên thật là Tiêu Din, người đã lật đổ nhà Tề tại miền Nam Trung quốc và lập nên nhà
Lương vào năm 502. Đến năm 549, Hầu Cảnh khởi nghĩa và bức tử tại Đài thành. Lương Vũ Đế thường được coi là vị vua sùng
thượng Phật giáo nhất trong lịch sử các vua chúa Trung quốc. Xem Lương thư 1-2
2
Bảo Chí (419 ?- 515), một nhà sư có những hành tung tương tự như của Đại Xả ở đây, có những liên hệ sấm ngữ với Lương Vũ
Đế. Về cuộc đời ông xem Truyền đăng lục 27 tờ 429c18-430a23.
3 Đoạn đối thoại giữa Lý Anh Tôn và Đại Xả ở đây hoàn toàn lấy ra từ truyện của Bảo Chí trong Truyền đăng lục 27 tờ 430a6-11,
theo đấy (Lương Vũ) Đế một hôm hỏi Bảo Chí rằng: “Đệ tử phiền hoặc, lấy gì mà chữa?” Sư đáp: “Lấy 12. Kể hiểu biết cho rằng
12 nhân duyên là thuốc trị phiền hoặc”. Lại hỏi về ý chỉ của 12. Sư đáp: “Ý chỉ ở tại trong 12 chữ viết chỉ thì giờ của đồng hồ. Kẻ
hiểu biết cho rằng nó được viết vào trong 12 giờ khắc.” Lại hỏi: “Đệ tử lúc nào thì được tĩnh tâm mà tu hành?” Sư đáp: “An lạc
tâm. Kẻ hiểu biết cho rằng tu hành những giới cấm là để làm đừng nghỉ, nghĩa là đến lúc tới được cho sung sướng thì mới thôi”.
4
Hình ảnh lấy từ phẩm Quang minh biến chiếu cao quý đức vương Bồ tát của kinh Đại bát niết bàn, theo đấy có một ông vua đem
bốn con rắn độc đựng chung vào một cái lồng, bảo người thị thần nuôi dưỡng. Nếu để cho chúng không vừa lòng thì người đó bị
xử tử. Người đó bỏ chạy, vua cho năm người chiên đà la đuổi bắt lại. Đuổi không kịp, bèn sai một người giả bộ hiền lành đi dụ dỗ,
thì người kia đi đến một làng trống vắng. Vừa tới, người kia nghe nói đêm đó sẽ có sáu tên cướp đến cướp. Bèn sợ hãi, chạy đến
gặp một con sông cuồn cuộn nước. Bèn quyết ý vượt qua, bất giờ mới giải thoát thảnh thơi. Bốn con rắn độc ấy, kinh này nói là
dụ cho bốn nhân tố vật chất tạo nên con người, đấy là đất, nước, gió, lửa. Từ Phật học Trung quốc gọi là tứ đại. Xem Đại bát niết
bàn kinh 23.
5
Hình ảnh lấy từ phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát của kinh Đại bát niết bàn, ở đấy, sự sinh, già, bệnh , chết của con người được ví với bốn
ngọn núi lớn “từ bốn phương đến muốn hại nhân dân”. Xem Đại bát niết bàn kinh 29. Ngũ ấm, tức năm nhân tố tâmvật lý tạo nên
con người, đấy là vật chất, cảm giác, tưởng tượng, ý chí, và tri giác hay nhận thức. Từ Phật học Trung quốc thường gọi sắc, thọ,
tưởng, hành, thức.
6
Ngựa đá, trâu đất, Thiền gia thường dùng để chỉ cho công vị của thiền. Thiền sư Thúy Nham, Công huấn vấn đáp:
“Nê ngưu ẩm tận trừng đàm nguyệt
Thạch mã gia tiên bất chuyển đầu”.
(Trâu đất uống hết trăng đầm lặng
Ngựa đá roi quất chẳng ngoanh đầu).
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 316b5-6 70 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
27. THIỀN SƯ Tịnh Lực (1112 – 1175)
Am Việt vương trì, Tỉnh Cương, Vũ ninh1
người Cát lăng, Vũ bình2
họ Ngô, tên Trạm. Thuở nhỏ
Sư thông minh, biện tài, sở trướng nghề văn, thể chữ càng giỏi. Trong khi du học, được gặp Đạo Huệ,
núi Tiên du, bèn quyến luyến nhau, như cây kim hạt cải, nên gửi lòng đất Phatả, mặc áo cỏ, ăn cây lá,
phước huệ cùng tu, trải mấy tinh sương, lòng càng bền chặt. Đạo Huệ thường bảo: “Tâm ấn Chư Phật,
người đã có sẵn, không cần theo ai mà được.”
Sư thưa: “Đã được thầy chỉ dạy, nhưng nay nên trụ nơi nào?”
Đạo Huệ bảo: “Chẳng cần đi đâu xa, ở tại Vũ ninh là tốt” (30b1). Sư thẳng lên núi, cất am cỏ, ở
tu. Trong 12 thời, Sư lễ Phật sám hối, thâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội
3
nên âm thanh
trong trẻo như tiếng Phạm thiên. Thường giảng kinh Viên giác, nghĩa lý nếu có chỗ nào chưa ổn, Sư đích
thân cải chính. Người bấy giờ bảo trong miệng Sư hùng hoàng4
.

1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên, trong khi viết về Trâu sơn, nói: “Trâu sơn, một tên là núi Vũ ninh”, rồi dẫn
An nam chí rằng: “Núi Vũ ninh ở châu Vũ ninh, có Tỉnh cương và có Thạch xà gọi là Ngọc kinh tử, lại có mộ của Việt Vương.
Tỉnh cương như vậy là một cái gò trên núi Trâu hiện nay. Cái gò này vì có một cái giếng, nên gọi là gò Giếng hay Tỉnh
cương. Bên cạnh gò có lẽ có một cái đầm và vì nó gần mộ của Việt Vương, nên gọi là Việt Vương trì hay Vương trì. Còn Vũ ninh,
cái tên đặt ra từ thời Tôn Ngô, đến thời Lý vẫn còn dùng để gọi một châu. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: “Năm Long Thụy Thái
Bình thứ 6 (1059) vua dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh” Đất châu này ngày nay thuộc địa phận hai huyện Quế
dương và Vũ Giang tỉnh Bắc ninh.
2
Theo Cương mục tiền biên 3 tờ15a1-4 thì “Vũ bình vốn đất huyện Phong khê, khoảng đầu đời Ngô đặt ra, gồm có 7 huyện. Đời
Tùy bỏ quận, đổi làm huyện Long bình, đời Đường đổi làm huyện Vũ bình, sau đó lại đặt làm Đằng châu. Đời Đinh và Lê lấy làm
hai phủ Tiên hưng và Khoái châu, nay là đất tỉnh Hưng yên vậy”.
Đại nam nhất thống chí tỉnh Hưng Yên, mục phần dã cũng có một ý kiến tương tợ, đấy là đặt Đằng châu và Khoái châu
làm tên cho quậnVũ bình đời Lương, rồi chú chép là “chép trong sử Lý Cao Tôn”. Toàn thư B4 tờ 25a8 có ghi “Năm Trị Bình Long
Ứng thứ 5 (1209) mùa xuân tháng giêng Phạm Bỉnh Di đem người Đằng châu và Khoái châu đi đánh Phạm Du”. Nhưng không nói
gì đến chuyện đặt tên Đằng châu và Khoái châu cho Vũ Bình hết. Mà truyện Tịnh Lực ở đây xác nhận là cái tên Vũ bình cho tới
thời Lý vẫn đang còn dùng.
Các sử sách Trung quốc thì Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 12b4-9 nói “huyện Vũ bình, từ huyện lỵ đến phủ lỵ
(Giáo châu) phía tây nam 19 dặm, vốn là đất thành bọn mọi Phù nghiêm. Năm Kiến Hoạch thứ 3 (271) đời Qui Mạng Hầu nhà Ngô
đánh tan bọn mọi Phù nghiêm đặt quận Vũ bình, năm Khai Hoàng thứ 10 (590) bỏ quận, lập huyện Sùng bình thuộc Giao châu.
Năm Vũ Đức thứ 4 (621) đổi tên là Vũ bình”. Huyện Vũ Bình như vậy ở vào phía đông bắc của phủ trị Giao châu, mà vào thời Lý
Cát Phủ viết Nguyên hoà quận huyện đồ chí, tức những năm 806-820, thì đã ở tại phần đất của thủ đô Hà nội ngày nay. Cứ vào
mô tả đó thì huyện Vũ bình có thể ở vào địa phận tỉnh Hưng yên lắm.
Thái bình hoàn vũ ký 17tờ 8b9-9a3 cũng có những mô tả tương tự. Nó viết: “Huyện Vũ bình, nhà Ngô đặt quận Vũ bình,
nhà Tùy đổi thành huyện. Nó vốn là huyện Phong Khê thời Hán. Khoảng đầu năm Kiến Vũ, người con gái huyện Mê linh tên Trưng
Trắc làm phản, đánh hãm Giao chỉ. Mã Viện đem quân tới đánh, ba năm mới bình. Vũ đế bèn đặt thêm hai huyện Vọng hải và
Phong khê. Phong khê tức huyện này. Đời Tuỳ gọi nó là Long bình. Đường Vũ Đức năm thứ 4 (621) đổi nó làm huyện Vũ bình”.
Những mẫu tin của Nhạc sử ở đây đều chép lại Nguyên văn của phần địa lý về huyện Vũ bình trong Cựu đường thư 41 tờ 43a8-
11, Tân Đường thư 43 thượng tờ 10a1 cũng không có một điểm gì mới lạ.
Chúng tôi nghĩ rằng, cứ vào những tài liệu Trung quốc vừa dẫn thì huyện Vũ bình đời Đường cho đến đời Lý vẫn là một
địa phận với những thêm bớt cắt xén nào đó. Vũ bình thời nhà Lý rất có thể là tên một quận hay một châu, và nó nằm tại phần
đất tỉnh Hưng yên ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 3 tờ 18b2 và 19a2 có kê một tổng xã tên Cát dương thuộc huyện Phù dung
và một tổng xã tên Cát lăng thuộc huyện Tiên lữ, phủ Khoái châu. Cát lăng quê hương của Tịnh Lực ở đây có thể gồm địa phận
các tổng Cát dương và Cát lăng vừa nói.
3
Niệm Phật tam muội, Phạn: Buddhànusmrti-samàdhi. phương pháp Thiền định bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này
hoặc bằng một lòng quán tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của pháp thân Phật thì gọi là quán tưởng niệm
Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật thì gọi là danh xưng niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến khi vào
thiền định mà thấy được chính Phật hiện ra trước mắt hay thấy được pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của việc niệm Phật tam
muội. Xem Quán vô lượng thọ kinh ĐTK 365 và Niệm phật tam muội kinh 7 ĐTK 1996.
4
Hùng hoàng theo Thần nông bản thảo kinh là một loại đá có thể làm cho người ta “nhẹ người thần tiên” và chống lại được bệnh
do tà ma quỉ quái tạo ra. Ngô Phổ giải thích nó là thứ hùng của các loại đan nên gọi là hùng hoàng. Xem Thần nông bản thảo kinh
2 tờ 2b1-11 và Bản thảo cương mục 9 tờ 21b9-28b1. Đặc biệt đây là chất người Trung quốc thường dùng để bôi xoá những chữ
viết sai. Cho nên về sau nói người nào có hùng hoàng trong miệng là muốn nói người đó giỏi biện luận, có thể sửa sai người khác. 71 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Vào một tháng nào đó của năm Thiên Cảm thứ 2 (1175)1
, Sư cáo bệnh gọi môn đồ đến dạy:
“Các ngươi hết thảy đều là kẻ học đạo. Lòng siêng cúng dường Phật, không ngoài việc chỉ nhằm khiến
dứt trừ các ác nghiệp. Tâm và miệng niệm tụng phải tin, hiểu, nghe, biết. ở chỗ vắng vẻ yên lặng, gần
gũi thiện tri thức, mở lời hoà vui, nói năng đúng lúc, trong không sợ khiếp, hiểu rõ nghĩa lý, xa lìa ngu
mê, an trụ bất động, xem hết mọi pháp vô thường vô ngã, vô tác vô vi, ở chỗ lìa phân biệt. Đó là người
học đạo. Ta nay hoá duyên đã xong”.
Rồi Sư nói bài kệ sau:
“Trước tuy nói cát sau nói hung
Từ đấy theo xưa huý chẳng tùng
Vì gặp thấy rồng làm con Phật
2
Chợt trông chuột hiện lặng vô cùng”.3
Nói xong Sư ngồi ngay ngắn [31a1] thị tịch, thọ 64 tuổi.
28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? – 1190)
Chùa Thanh tước, núi Du hý, làng Cát lợi hy4
, Thường lạc. Người Ô diên5
Vĩnh Khương, họ
Nguyễn, nguyên là cậu của Thái úy Tô Hiến Thành6
, triều vua Anh Tôn nhà Lý. Bỏ tục xuất gia, ở tại
chùa núi đó, thường mặc áo rách, ăn gạo lứt, 10 năm chưa thay một chiếc áo, ba ngày không nấu một
nồi cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô gầy. Thấy một kẻ nghèo thì vòng tay tránh đường, gặp một sa
môn thì quỳ gối lễ bái. Siêng tu thiền định, đến 6 năm thì đạo thành, bèn chống gậy xuống núi, hoặc sửa
cầu đường, hoặc dựng chùa tháp, tuỳ duyên khuyến khích mọi người, không màng lợi dưỡng.
Có lần, có vị Tăng hỏi: “Sanh từ đâu lại, chết sẽ về đâu?”.

1
Thừa Tiên là tự của Lâu Huyền đời Tôn Ngô và của Thái Hựu đời Bắc chu. Họ đều là những trung và công thần của hai triều đại
ấy. Xem Ngô chí 20 tờ 2a2-3a1 và Chu thư 27 tờ 2b13-4b6.
2
Nguyên văn: Vị ngộ hiện long vi Phật tử. Hiện long là một từ lấy từ quẻ càn của Chu dịch: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”.
(Rồng ra ở ruộng, lợi thấy đại nhân). Khổng tử giải thích: Đức rồng ở chính trung thì lời nói thường mà tin, việc làm thường mà
cẩn thận, tránh điều tà mà giữ lòng thành, giỏi việc đời mà không khoe khoang, đức hạnh rộng để giáo hoá. Dịch nói: “Rồng ra ở
ruộng, nên thấy đại nhân, đó là đức của vua vậy.” Xem Chu dịch 1 tờ 2b7-10.
3
Nguyên văn: Hốt tào thử xuất tịch vô cùng. Chuột trong câu này là chỉ bọn bầy tôi phá hoại quốc dân, một từ lấy ra ở thiên Chính
lý của Thuyết uyển: “Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: “Nước có nạn gì?” Quản Trọng đáp: “Nạn là nạn chuột xã. Hoàn Công hỏi:
“Sao gọi thế? Quản Trọng đáp: cái xã là do bó cây mà trét đất lên. Chuột nhân đó đến ở gá vào. Đốt chúng đi thì sợ cháy cây. Tạt
chúng đi thì sợ lở đất. Chúng do đó không thể giết được là vì ngôi xã. Nước cũng có loại chuột xã, tức là kẻ hầu hạ hai bên vua
vậy. Bên trong thì chúng bưng bít việc thiện ác đối với vua. Bên ngoài thì chúng mua bán quyền hành đối với dân. không diệt
chúng thì nước loạn, mà giết chúng thì bị vua xét hỏi. Nên chúng cứ chiếm lấy vua mà sống. Đấy tức là bọn chuột xã của nước
vậy”. Xem Thuyết uyển 7 tờ 11a1-7.
4
Những tư liệu thời Lý , Trần hiện còn thì hoặc có tên Cát lợi, hoặc có tên Lợi hy, chứ chưa thấy tài liệu nào có tên Cát lợi hy. Về
tên Cát lợi, Đại Việt sử lược 3 tờ 24a2, ghi lại sự việc “năm Kiến Gia thứ 2 (1212) tháng 2 Nguyễn Tự tấn công người cát lợi là Ngô
Thưởng ở Vũ cao, bị tên độc trúng, bèn trở về xóm Tây dương, tuần hơn lỡ giao cấu với đàn bà, khí độc phát lại mà chết”. Còn
tên Lợi hy, văn bia của chùa Báo ân tại xã Tháp miếu, huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phú dựng năm Trị bình Long Ứng thứ 5 (1210)
triều Lý Cao Tôn thì ghi nó như một tên xã. Về vị trí nó, xem chú thích (2) truyện Khuông Việt.
5
Cương mục tiền biên 4 tờ 12a4-6 viết: “ô Diên là đất Giao chỉ xưa, năm Đường Vũ Đức thứ 4 (621) đặt huyện Ô Diên cùng với Từ
liêm và Vũ lập là ba huyện đều thuộc Giao chỉ, Sử cũ chua Ô diên là xã Hạ mỗ ở Từ liêm. Xã ấy có đền thờ Bát lang thần, “đó tức
là đền thờ Nhã Lang vậy”. Sử cũ mà Cương mục dẫn ra đây tức là Toàn thư N4 tờ 20a1. Kiến văn tiểu lục 6 tờ 1b5-7 cũng lập lại
những gì Toàn thư đã nói, như Cương mục đã dẫn. Nó viết: “Xã Hạ Mỗ, sử nói tức là thành Ô diên, nơi ở của Triệu Việt Vương”.
Xã đó có đền thờ Bát lang thần, tức là Lý Nhã Lang, rể của Triệu Việt Vương. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội , mục Từ miếu
cũng ghi thế. Quê hương của Trí Bảo như vậy phải là làng Hạ mỗ, huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây ngày nay.
6
Tô Hiến Thành (? – 1179). Cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì trong trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi vào năm 1139
(Toàn thư ghi vào năm 1141) Tô Hiến Thành mang chức Thái phó. Đến năm 1159, Toàn thư B4 tờ 14a 7 nói: “Vua phong Tô Hiến
Thành làm Thái uý”. 72 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư trầm ngâm suy nghĩ, thì vị tăng ấy bảo: “Trong lúc ngẫm nghĩ thì mây trắng đã bay xa ngàn
dặm”.
Sư không đáp được. Vị Tăng ấy liền quát: “Chùa tốt mà không có Phật”.1
Nói rồi bèn bỏ đi. Sư tự than rằng: “Ta tuy có tâm xuất [31b1] gia, nhưng chưa đạt được yếu
chỉ của người xuất gia. Như kẻ đào giếng, dù đào đến chín nhẫn mà không tới mạch, còn phải bỏ giếng,
huống là tu thân mà chẳng ngộ đạo thì phỏng có ích gì?”. Từ đó, Sư đi khắp bốn phương, tìm hỏi các
hàng tri thức. Nghe Đạo Huệ đang giáo hoá ở núi Tiên du, bèn đến bái kiến hỏi rằng: “Sinh từ đâu đến,
chết rồi lại đi đâu?”.
Huệ đáp: “Sinh không từ đâu lại, chết cũng chẳng về đâu”.
Sư thưa: “Thế chẳng lẽ rơi vào chỗ hư vô sao?”
Huệ bảo: “Chân tính tròn đầy mầu nhiệm, bản thể vốn không tịch, vận dụng tự tại không đồng
với sinh tử. Vì lẽ đó mà sinh không từ đâu đến, chết cũng chẳng về đâu”.
Sư nghe lời bèn tỉnh ngộ, rồi nói:
“Chẳng nhân gió cuốn mây bay sạch,
Sao thấy trời xanh muôn dặm thu?”2
Đạo Huệ hỏi: “ông thấy được gì?”
Sư thưa: “Quen nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người !”3
Rồi từ tạ trở về núi.
Từ đấy, Sư nói ngang, nói dọc như chọi đá nháng lửa. Một hôm Sư thăng đường, Tăng tục đông
nghẹt, có người hỏi: “Thế nào là tri túc?”
Sư đáp: “Người xuất gia [32a1] tại gia đều dừng lại ở tri túc. Nếu tri túc thì ngoài chẳng lấn
người, ttrong không tổn mình. Vật nhỏ nhặt như lá rau ngọn cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy.
Huống gì những vật khác thuộc của người. Hãy dấy lên cái ý tưởng đó là vật của người thì mình rút cuộc
không vì chúng mà sinh lòng trộm cắp. Cho đến thê thiếp của người, hãy dấy lên cái ý tưởng đó là thê
thiếp của người, thì mình cũng không vì thế mà sinh lòng dâm.
Các người nghe ta nói kệ:

1
Ý và chữ lấy từ câu nhận xét về Vô Nghiệp của Đạo Nhất. Khi Nhất lần đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao lớn. Tiếng
nói như chuông, Nhất bảo: “Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có Phật” (nguy nguy Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền
đăng lục 8, tờ 257a8-9. Xem thêm chuyện Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến học với Bách Trượng rồi trở về, thầy
Tán hỏi: “Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ có được sự nghiệp gì không?” Tán đáp: “Không có sự nghiệp gì ráo”, nên bị thầy sai hầu hạ.
Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói: “Điện Phật đẹp mà Phật không thiêng”. (Hảo sở Phật điện, nhi Phật
bất thánh). Xem Truyền đăng lục 9 tờ 168a10-14.
2
Có người hỏi Tôn Triệt: “Tính địa nhiều u tối làm sao hiểu rõ?” Triệt đáp: “Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong”. Xem Truyền
đăng lục 12 tờ 293a 22-23.
3
Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: “Hoà thượng có thấy rõ ràng chỗ thấy không ?” Bị đáp: “Biết nhau khắp thiên hạ” (Tương thức
mãn thiên hạ). Xem Truyền đăng lục 18 tờ 347a13-14. Xem thêm Viên Ngộ Phật Quả thiền sư ngữ lục 1 tờ 715b24. Thiền sư Kế
Bằng thượng đường, chấp tay hỏi:
“Biết nhau khắp thiên hạ,
Tri âm được mấy người”.
(Tưởng thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 476b 20-21.
Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 12 tờ 302a24-25
Can mộc phụng Văn hầu
Tri âm hữu kỷ nhân. 73 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
“Bồ tát của mình biết đủ thôi,
Của người chẳng muốn chỉ thương yêu .
Lá rau không biếu, ta không lấy,
Không tưởng của người, đức ngọc treo,
Bồ tát vợ mình biết đủ thôi.
Sao còn ham muốn vợ con người,
Thiếp thê ai nấy lo gìn giữ,
Sao nỡ lòng mình nghĩ lả lơi”.1
Đến ngày 14 tháng 4 năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), triều vua Lý Cao Tôn, Sư cáo bệnh
rồi mất. Đệ tử làm lễ hoả táng, thu linh cốt, xây tháp thờ tại cửa núi.
29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 – 1165)
Chùa Sóc Thiên vương, núi Vệ linh, chợ Bình lỗ2 [32b1]. Người Trường nguyên, Tiên du3
, họ
Phan, giòng dõi Thích tử.
Lúc đầu xuất gia, được Đạo Huệ chùa Quang minh ấn khả, bèn đi thẳng vào núi đó ẩn tu. Mặc
áo cỏ, ăn hạt dẻ. Sư suốt ngày làm bạn với suối đá, khỉ, vượn. Trong 12 thời, Sư tôi luyện thân tâm,
thuần nhất một mảnh, dùng để trì kinh. Trải 5, 6 năm, người ta chưa từng nom được bóng dáng. Vua Lý
Anh Tôn nghe danh, ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư, muốn gặp mà không thể được. Vua bèn sai bạn cũ
của Sư là Phiên thần Lê Hối, đi dụ Sư về kinh đô, khi tới kinh, để Sư ở chùa Hương sát.
Sư tự hối hận, trốn trở về, gọi môn đồ đến dạy rằng: “Hạng người thân khô lòng nguội, không
phải để cho thế gian trá ngụy làm vật. Bởi vì chí hạnh của ta chưa được thuần phục, nên suýt nữa bị các
thứ bẫy lồng vây khốn. Hãy nghe kệ ta đây:
“Rừng xanh con nhỏ vượn ôm về4
Hiền thánh ngàn xưa chẳng thể ghi,
Oanh hót xuân về hoa nở rộ,
Cúc cười thu đến dáng hình chi”.
Lại thường bảo mọi người: “Lạ thay ! Lạ thay ! Các chúng sinh đây, sao có đầy đủ trí tuệ của
Như Lai mà ngu [33a1] si, mê hoặc chẳng thấy, chẳng biết, ta thường đem đạo lý dạy dỗ khiến cho họ
vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng chấp trước để trong tự thân, mà thấy được trí tuệ rộng lớn của Như Lai, lợi
ích an lạc”.

1
Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương Ly cấu của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: “Bồ tát ư tự tư tài,
thường tri chỉ túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm.
Nãi trí thảo diệp, bất dự bất thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư tự thê tri túc, bất cần tha thê. Ư tha
thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc môi định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhim chi tâm, hà huống tùng sự, huống ư
phi đạo”. (Bồ tát đối với của cải mình, biết vừa đủ, đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật thuộc
của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không
cho, mình không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết đủ đối với vợ mình, mà không vợ người. Đối với
thê thiếp của người, con gái do người bảo hộ, mình còn không móng lòng tham nhim, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa
là nơi phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 35 tờ 185a25-b2.
2
Về Bình Lỗ và núi Vệ linh, xem chú thích (5) truyện Khuông Việt
3
Về Tiên du, xem chú thích (2) truyện Vô Ngôn Thông.
4
Thiện Hội ở Giáp sơn, có người hỏi về cảnh Giáp sơn, đáp:
Viên bảo tử quy thanh chướng lý
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền
(Vượn bồng con về trong núi xanh
Chim ngậm hoa rơi trước hang biếc)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b20-21. 74 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Đến ngày mồng 7 tháng 6 năm Chính Long Bảo Ứng thứ 3 (1165), Sư nhuốm bệnh, nói kệ rằng:
“Tại quang tại trần1
,
Thường lìa quang trần,
Lòng dạ trong vắt,
Cùng vật không thân
Thể ở tự nhiên,
Ứng vật vô ngần,
Lưỡng nghi trời đất,
Đãi bỏ nhân luân
Nuôi nấng vạn vật,2
Cùng vật vui xuân,
Làm múa gái sắt,
Khuya trống mộc nhân”3
Nói kệ xong, Sư hóa, thọ 56 tuổi.
30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? – 1207)
Chùa Quốc thanh, núi Bí linh4
, phủ Nghệ an {Có chỗ chép chùa Quốc thanh, phủ Trường an5
}.
Người Mão hương, Ngung giang, Lô hải
6
, họ Chu, tên Hải Ngung.

1
Những từ chủ yếu trong 4 câu đều lấy từ chương 56 của Đạo đức kinh: “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế kỳ môn,
toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng, cố bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả
đắc nhi lợi, bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị thiên hạ vi” (Người biết không nói, người nói không
biết, ngậm miệng lưỡi, bịt tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng cho nên
không thể được mà thân, không thể được mà sơ, không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà sang,
không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 12a13-b6.
2
Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51 của Đạo đức kinh, “Đạo sinh chi, đức súc chi … trưởng chi, dụ chi, đình
chi, dưỡng chi, phú chi…” (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, …, lớn đó, nắn đó, đúc đó, dưỡng đó, che đó). Xem Đạo đức kinh hạ thiên
tờ 9b6-10a6. Xem thêm Biện mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ 7b13- 8a8: “Rằng sinh hết muôn vật
thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là tự nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình vậy …, sinh ra,
không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ …” (Phù thông sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự nhiên, tự
nhiên giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên …., sinh chi, vô đình độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí).
3
Gai sắt, người gỗ, Thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của Thiền. Thiền sư Đông An Sát, Thập huyền đàm:
“Mộc nhân dạ bán xuyên ngọa khứ
Thạch nữ thiên minh đái mạo quy”
(Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi
Sáng mai gái đá đội nón về)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c6-7. Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn đáp:
“Mộc nhân tuy bất ngữ
Thạch nữ dẫn hồi đầu”.
(Người gỗ tuy không nói
Gái đá hết ngoảnh đầu)
Xem Nhân thiên nhãn mục 1 tờ 305c5-6.
4
Trong mấy chục ngọn núi của hai tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh ghi trong Đại nam nhất thống chí 13-15, tỉnh Hà tĩnh và tỉnh Nghệ an,
không thấy ghi ngọn núi nào tên Bí linh cả. Phải chăng nó đã bị đổi tên? Trong tình trạng hiểu biết và tư liệu hiện tại, chúng tôi
chưa thể trả lời được.
5
Cương mục chính biên 2 tờ 11a2 nói: “Phủ Trường an, đời Lý là phủ, đời Trần và Lê nhân theo, nay là phủ Yên khánh, tỉnh Ninh
bình vậy”. Phủ Yên khánh, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục phần dã thì đời Nguyễn gồm bốn huyện, đây là Yên
khánh, Gia vin, Yên mô và Kim sơn. Nó như vậy tương đương với phần đất của những huyện Yên khánh, Gia khánh, Gia viên và
Yên mô, tỉnh Ninh bình hiện nay. Phủ Trường yên là do Lý Công Uẩn đổi thành Hoa lư, kinh đô của nhà Đinh và Lê, vào năm 1010
mà ra.
6
Lô Hải đây chắc phải nằm trong địa phận những huyện Hoằng hoá và Hậu lộc tỉnh Thanh hóa ngày nay, bởi vì, Đại nam nhất
thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Sơn xuyên, tờ 43a4-6 có kể tên một con sông tên Ngung Giang, Nó viết: “Ngu giang ở tại ranh
giới của ba huyện Hoằng hoá, Mỹ hóa, và Hậu lộc, một tên là Ngung giang. Nguồn nó bắt đầu từ hai sông Mã và Lương mà tới, 75 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Xuất thân hàn vi, nhưng tính tình thuần hậu. Lúc nhỏ theo học chữ Nho. Đến năm 26 tuổi Sư
mang bệnh mộng thấy thiên thần cho thuốc, tỉnh giấc bệnh lành ngay. Sư bèn quyết chí xuất gia, đến ở
với [33b1] một vị kỳ túc trong làng, dần thọ được giới Cụ túc, chuyên thực hành giới luật. Nghe nói
Lãng sơn1
thanh vắng, có thể ở được, Sư xách gậy đi về phương Đông. Trải 7 năm tham học, Sư gặp
Bảo Giác chùa Viên minh2
qua một câu nói, Sư liền khai ngộ. Tháng 10 năm Quý tỵ Chánh Long Bảo Ứng
(1173), lúc Bảo Giác sắp tịch, gọi Sư đến dạy: “Sanh, già, bệnh, chết, đời thường là thế, há ta riêng
khỏi?”
Sư hỏi: “Hôm nay Tôn đức thế nào?”
Bảo Giác gật đầu mỉm cười, nói bài kệ rằng:
“Muôn pháp về không chẳng chỗ vin
Chân như vắng lặng trước mắt duyên,

đến cửa An phái thì phân dòng mà chảy qua những huyện Hoằng hoá và Mỹ hóa, rồi ngoặt qua Hậu Lộc thì có nước Khe trà,
…một tên Bào giang chảy vào, rồi đổ vào cửa _ bích. Cái gọi là sông Nhị, sông Cát, sông Bút, sông Bích đều là những tên khác
của sông này. Sử nhà Lê nói trong khoảng Thiên Hựu (1557) Mạc Kính Sử đánh bị thua, về giữ sông Bút cương, tức nơi đây”.
Ngu giang ở đây chắc là Ngung giang của chúng ta, bởi vì cả chữ Ngu lẫn chữ Ngung đều có âm phù ngu, âm phù đó
cũng đọc ngung, cho nên trị sở của Quảng châu thời Hán đúng ra cũng phải đọc Phiên ngu, nhưng chúng ta cũng thường đọc là
Phiên ngung. Chúng tôi do đó coi Ngung giang cũng là Ngu giang. Vào thời Lý, việc lấy tên sông mà đặt tên cho một địa phận
cũng thườngxảy ra, đặc biệt là tại vùng Thanh hoá. An nam chí lược 1 tờ 21 nói: “Phủ lộ Thanh Hoá là quận Cửu chân đời Tây
Hán, Ái châu đời Tuỳ Đường. Những thuộc ấp của nó ngày nay gọi là giang, trường, giáp, xã”.
Về vị trí thực sự của Lô hải, cũng như của Ngung giang, chúng tôi nghĩ rằng nó nằm vào khoảng vào tổng Lỗ hương, mà
trước năm 1839 thuộc huyện Hoằng hoá mà sau đó thì bị cắt làm huyện Mỹ hoá cùng những tổng khác, rồi đến năm 1850 lại
thuộc huyện Hoằng hoá. Từ tổng Lỗ hương đó đi ra phía đông đến biển và cửa Ý bích có thể là địa phận của Lô Hải xưa thời Lý.
Nói khác đi nó bao gồm phần lớn đất do Ngu giang chảy qua. Ngu giang ngày nay là sông Lạch trường. Cửa _ bích là cửa Lạch
trường. Nên Lô hải là Ngung giang nằm tại vùng lạch trường đó.
Những địa danh như Mão hương, Ngung giang, và Lô hải bàn cãi ở đây, chúng tôi chưa thấy một sách sử nào nói tới. Do
thế không cần phải nói là những bàn cãi trên có tính chất tạm thời và giả thiết.
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 209 thì “Thiền sư Tịnh Giới là vị Sư huyện Đông quan, tu hạnh đầu đà, cảm hoá như thần,
Giao châu có hạn, họ Lý sai sứ đi đón về. Nửađêm Sư đứng giữa sân đốt hương. Mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý khen, tặng làm thầy
Mưa”. Nói là gốc huyện Đông quan, bởi vì Giới về ở chùa Báo thiên, Hà nội, chứ thật sự không phải.
1
Lãng Sơn đây nghi là Lãng sơn ở huyện Lập thạch, tỉnh Sơn tây thời Nguyễn tức nay là huyện Lập thạch, tỉnh Vĩnh phú. Dù chữ
Lãng trước viết với bộ thủy và Lãng sau viết với bộ nguyệt. Thiền uyển tập anh thường có cái tật thay chữ đồng âm này với một
chữ đồng âm khác, mà không sợ đổi nghĩa, nhất là trong những tường hợp danh từ riêng. Ví dụ ở tờ 4b1 chữ hoài của Bách
Trượng Hoài Hải thì bị viết thành hoài.
Về Lãng sơn Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b8 nói: “Núi Lịch ở tại xã An lịch, huyện Sơn dương, bắt từ núi Sư khổng của
huyện Đương đạo chạy xuống đến xã đây thì giữa đất bằng nổi lên năm sáu ngọn núi đất, rồi rẽ ngang thành một nhánh chạy
xuống huyện. Lập thạch thành Lãng sơn. Trên Lãng sơn – tục gọi là núi Lạng – cũng có đền thờ vua Thuấn. Trước núi lại nổi lên
một ngọn núi đất hơi thấp. Trên đỉnh nó, như hình cây giao nhau bên trong rộng ước độ vài sào, có thể trồng loại tiêm nha 100
bông – 1 bông 40 bó, 100 bông 4000 bó – tục truyền đó là chỗ vua Thuấn trồng, nhân đó gọi là núi Bách bông”. Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn uyên, cũng dẫn đoạn vừa viết của Kiến văn tiểu lục, khi nói về Lịch sơn.
Lãng sơn như vậy là chi nhánh của núi Lịch ở tại huyện Lập thạch. Ngày nay huyện Lập thạch tỉnh Vĩnh phú còn có Lãng
sơn, mà người ta thường gọi là núi Hạng. Ta hiện chưa biết núi Hạng này còn có một ngôi chùa nào chăng? Truyện Tịnh Giới ở
đây nói khi Giới đã xách gậy đông du, tức từ Thanh hóa đi ra miền bắc, để đến tại Lãng sơn thì “trải bảy năm tham học, Giới gặp
Bảo Giác chùa Viên minh” Thế thì phải chăng Giới đã gặp Bảo Giác tại Lãng sơn? Phải chăng chùa Viên minh ở tại núi đó? Chúng
tôi hiện chưa rõ.
2
Tiểu sử của Viên Thông thuộc đời thứ 18 của phái Pháp vân nói: “Cha của Viên Thông là Huệ Dục, làm quan dưới triều Lý Nhân
Tôn đến chức tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác”. Phải chăng Bảo Giác chùa Viên minh nói ở đây là cha của Viên Thông?
Thật khó mà trả lời. Viên Thông mất năm 1151 lúc đã 72 tuổi. Cha của Viên Thông do thế không thể sống quá năm 1151 này, có
quá lắm thì sống sau đó khoảng năm hay mười năm là cùng, nghĩa là tới khoảng năm 1161. Nhưng Bảo Giác chùa Viên minh ở
đây lại mất vào năm 1173, như vậy khó có thể làm cha Viên Thông.
Thế thì phải chăng Bảo Giác chùa Viên minh đây là một viết lộn cái tên của Bảo Giác chùa Bảo phúc tại Đa vân thuộc thế
hệ thầy của Tịnh Giới? Đây là một có thể, bởi vì tiểu sử của Bảo Giám nói Giám mất vào năm 1173 cùng năm với Bảo Giác chùa
Viên minh, chỉ khác tháng mà thôi. Một bên mất vào tháng 10, một bên mất vào tháng 5. Nhưng không quan trọng cho lắm, bởi vì
chữ ngũ có thể viết lộn thành chữ thập và ngược lại. Có khác chăng là khác chùa, một bên chùa Bảo phúc, một bên chùa Viên
minh, nhưng cũng không thiết yếu lắm với sự dời đổi thường xuyên của phần lớn những vị Thiền sư .
Dầu sao, cuối tiểu sử của Tịnh Giới ở đây, người viết đã chú thích là “truyện của Giới đại khái so với Quốc sử và văn bia
không giống, nay xin khảo chính lại”, thì cũng đủ thấy, ngay từ thời Thiền uyển tập anh ra đời, cuộc đời của Giới cũng đưa ra khá
nhiều vấn đề, đến nỗi cần phải khảo chính lại. Vì thế, Tịnh Giới cuối cùng có thể là đệ tử của Bảo Giác, cha của Viên Thông. 76 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Lòng viên ngộ được không cần chỉ
Nước lặng trăng lòng dứt mọi xen”.1
Nói kệ xong, Bảo Giác truyền Pháp cụ cho Sư. Từ đấy, Sư tùy phương giáo hóa, dần dần đến
chùa Quốc thanh, dừng lại ở đó cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, nên hàng long phục hổ, cảm hóa như
thần. Châu mục Phạm Từ nghe Sư danh đức, càng thêm lễ chuộng, xin Sư cho đúc một quả hồng chung
để trấn cửa núi.
Mùa hè năm Trinh Phù thứ 2 (1177), gặp hạn, vua ban chiếu cho danh tăng khắp thiên hạ cầu
mưa, nhưng không ứng nghiệm. Vua Lý Cao Tôn, lâu nghe danh Sư, sai sư đón về [34a1] chùa Báo
thiên2 ở kinh đô. Nửa đêm, Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống. Vua rất khen sủng,
thường gọi là Thầy mưa3
. Nhân đó triệu vào tiện điện, hỏi các pháp yếu, ban thưởng rất hậu. {Tục

1
Nguyên văn:
Vạn pháp quy không vô sở y
Quy tịch chơn như mục tiền ky
Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ
Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi.
Câu 2 theo luật thơ phải là “Chân như quy tịch mục tiền ky”. Còn chữ “nghi” trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa
cũng đọc là nghi. Xem thiên Tứ sử, phần Xuân quan của Chu lễ 19 tờ 6b 12-13 và nghi cũng có nghĩa là “hướng đến”. Xem Ngoại
thích truyện của Tiền hán thơ 97 thượng tờ 18b 13 – 19a1. Nên “mẫn tâm nghi” chúng tôi dịch là “đứt mọi xen”, tức dứt mọi thú
hướng của tâm.
Tư tưởng “vạn pháp qui không” là một tư tưởng lớn và căn bản của những trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ
không đó có nghĩa gì thì mọi trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền. Xem Truyền đăng lục 8 tờ
262c5. Phúc Khê có người hỏi: “Duyên tán qui không, không qui hà sở?”. Sư đáp: “Ta”. “Mục tiền ky” là cơ duyên trước mắt, thuật
ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục 8 tờ 263a12-13.
Khốc thanh sư dĩ hiểu
Dĩ hiểu phục thùy tri
Đương thì Ma kiệt quốc
Kỷ táng mục tiền ky
2
Về chùa Báo thiên, xem chú thích (6) truyện Đạo Huệ.
3
Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy
dưới thời Lý Anh Tôn. Truyện đó viết: “Lý Anh Tôn, nhân có hạn, sai Thiền sư Tịnh Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát
thấm người. Vua mừng đến xem, bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh quần đỏ, mũ đỏ
mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì họ đáp: “Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm
mưa”. Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội,
dựng đền Vũ sư để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ lai, vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân”.
Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi
một lần hạn nào cả cho đến 1188. Năm đấy, Toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói: “Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5
hạn, vua thân hành đến chùa Pháp vân ở Luy bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. L.M Thát chú) cầu mưa, nhân đó nghênh tượng
Phật Pháp vân về chùa Báo thiên. Như vậy, phải chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tôn? Chúng
tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9 thì “năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền
Trinh Linh phu nhân ở ngoài cầu Tây dương.” Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do
Lý Anh Tôn phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở “ngoài cầu Tây dương”, nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới
thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ sư. Nói khác đi, phải có hạn trước
năm 1172.
Cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì dưới triều Lý Anh Tôn ta có những năm hạn sau đây:
1140 “Từ xuân đến hạ không mưa, vua mới cầu mưa”
1142 “Từ xuân đến hạ hạn, vua thân hành cầu, tháng 6 Đinh sửu mới mưa.
1146 “Mùa hạ tháng 4 trâu bò bị dịch chết, hạn, cầu thì mưa”.
1150 “Mùa xuân tháng 3 hạn. Mùa thu tháng 7 hạn”
1148 “Mùa hạ hạn, cầu thì mưa”
1165 “Mùa hạ tháng 6 đại hạn, dân chúng bị bệnh dịch lớn, trâu, bò chết phần lớn, giá gạo nhảy vọt”.
Như thế, trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tôn, năm lần hạn đã xảy ra, khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn
này lại kéo dài thường từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc “vua ban chiếu cho danh tăng khắp trong
thiên hạ cầu mưa” như truyện Tịnh Giới đã ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham gia việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện đã
viết, là để hợp thức hoá số thuế của Giới, mà “người chị Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế”. Với một mục đích đấy,
Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tôn, như
Việt điện u linh tập đã có.
Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu
hạnh đầu đà ở chùa Quốc thanh. Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất trên 40 tuổi. Mà Giới lại
mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90 tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ những năm 77 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
truyền Sư xuất gia lúc tuổi Đinh tráng, thiếu thuế nạp quan. Bà chị Chu Thị hàng năm thay Sư nạp thuế.
Sư mỗi khi nghĩ tới, vẫn không có cách miễn được. Lúc nghe triều đình xuống chiếu cầu mưa, bèn lén về
nhà chị, bí mật khiến đào một cái ao trong vườn sâu sau nhà. Đêm đến, đốt hương đứng cầu. Chốc lát,
mưa xuống chỉ ở trong vườn đó. Quan sở tại đem chuyện kinh lạ tâu về triều đình. Vua rất vui, sai sứ
đón về chùa Báo thiên ở kinh sư. Đúng trong đêm đó, quả mưa xối xả. Bèn được độ làm Sư, lại được làm
hợp lệ sổ thuế cho cả họ} Năm Trinh Phù thứ 4 (1174), chùa Chân giáo, núi Vạn bảo làm thành1
, vua
cho mời các bậc kỳ túc, đến làm lễ khánh tán. Sư vâng chiếu vào triều, ngụ tại gác Lâm tiêu. Bây giờ trời
bắt đầu mưa ròng rã, đường sá lầy lội, phương hại đến việc lễ hội, Sư khấn, liền tạnh. Hội xong 7 ngày
thì trời lại mưa như xưa. Sau Sư trở về làng cũ trùng tu chùa Quảng thánh và quyên tiền đúc chuông.
Trong khi đốt lò thì mây kéo đến muốn mưa, Sư đứng giữa sân, dộng gậy trừng mắt giây lát, trời lại
quang tạnh. Sau này, trải bao binh lửa, nhưng chuông Sư đúc đến nay vẫn còn. Rồi Sư trở về chùa cũ
[34b1] dạy dỗ học trò.
Có vị Tăng hỏi Sư về Phật lý, Sư đáp: “Chính ta và ngươi “.
Lại thường nói: “Tâm là tính nên nói Như Lai tạng, tâm tức tính nên tự tính tâm là thanh tịnh”.
Ngày mồng 7 tháng 7 năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3 (1207), lúc sắp thị tịch, Sư nói kệ sau:
“Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm
Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm
Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm”.
Lại nói:
“Ngực áo thu về khí lạnh xâm
Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm
Cười bấy khách thiền ai dại dột
Sao đem lời lẽ để truyền tâm”.2
Nói xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này đại khái cùng Quốc sử và Bia văn không giống,
nay xin khảo chính lại}3
.

1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô
căn cứ.
1 Đại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10 viết: “Năm Trinh Phù thứ 4 (1179) tháng 5 sửa thêm chùa Chân giáo, xuống chiếu lấy chùa đó làm
nơi hành hương vào ngày kỵ của Anh Tôn”. Việc này, Toàn thư và các sử khác không ghi.
Về chùa Chân giáo tại núi Vạn bảo, Tây hồ chí, phần Tự am tập viết: “Chùa Chân giáo xưa tại đỉnh ngọn Phục tượng của
núi Vạn bảo trong thành Đại la. Chùa dựng vào mùa thu năm Thuận Thiên thứ 15 (1024) để làm nơi vua ngự xem tụng kinh. Nay
chùa chỉ còn một gian, biển cũ cũng mất, vì vậy ít người biết gốc tích. Tục chỉ gọi chùa Tượng sơn. Núi và chùa nay ở tại trại cần
bảo huyện Vĩnh Thuận, phía tây ngoài thành. Lại xét chỗ đất trũng trước chùa có nước đọng, thời xưa là ao Ngoạn Thiềm, triều
Trần bắc cầu Lâm ba trên nó, nay di tích không còn.
Về núi Vạn bảo, Tây hồ chí, mục Sơn xuyên, viết: “Núi Vạn bảo gồm 15 ngọn ở về phía nam của hồ, nay thuộc tổng Vĩnh
thuận nội, các ngọn chia thuộc 16, 17 trại, điếm. Những cung điện, chùa miếu của ba triều Lý, Trần , Lê, nền cũ phần nhiều còn
đó. Có nói rõ trong Thăng long chí. Ba ngọn Phục tượng, Phục hổ và Thần bút là chi nhánh núi Vạn bảo”.
2 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b6-8 chép:
Thu lai lương khí giáp khâm trung
Bat đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm.
Những chữ in đậm là đọc khác với bản của Thiền uyển tập anh.
3
Nguyên văn: Thử truyện lược dự quốc sử cập bi văn bất đồng, kim phục khảo chính. Quốc sử đây chắc phải là Đại Việt sử lược
của Trần Chu Phổ còn văn bia của Tịnh Giới hiện ta chưa tìm lại được. Vì Quốc sử là của Phổ, cho nên qua những bàn cãi trên, ta
thấy những sự việc ghi trong truyện Tịnh Giới không thấy nói tới trong Toàn thư . Ngược lại, một trong những việc ấy lại do Đại
Việt sử lược, một tác phẩm sử học đời Trần hiện còn chép. 78 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
31. THIỀN SƯ Giác Hải
Chùa Diên phúc, Hải thanh, người Hải thanh, họ Nguyễn1
. Nhỏ thích đánh cá đi câu, thường
dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh khắp sông biển. Năm 25 tuổi, Sư bỏ nghề, xuống
tóc làm Tăng.
Ban đầu, Sư và Không Lộ cùng thờ Hà Trạch. Sau Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ.
Đời vua Lý Nhân Tông, Sư thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát Liên
[35a1] manh hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó
đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo “Đang còn một
con, để đó cho Sa Môn”. Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài
thơ khen:
“Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông cùng biến hóa
Một Phật, một thần tiên”2
Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, Tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như
bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải thanh, vua tất đến chùa Sư trước. Một hôm, vua hỏi Sư: “Phép
ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng? Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư
không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho
Sư một kiệu vai, để ra vào cửa khuyết.
Đến đời Thần Tôn, nhiều lần triệu vào, nhưng Sư từ chối, viện cớ già bệnh mà không tới.
Có vị Tăng hỏi:
“Phật và chúng sanh ai khách, ai chủ?”.
Sư dùng bài kệ đáp:
“Gái tơ chỏm tóc bạc3
Báo ngươi tác giả biết
[35b1] Nếu hỏi cảnh giới Phật
Long môn gặp điểm trán”.4

1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, nhân viết về đền Nguyễn Giác Hải, có nói: “Đền đời Nguyễn Giác hải ở tại
xã Yên vệ, huyện Yên khánh. Thần họ Nguyễn tên Quốc Y, hiệu Giác Hải người Giao thủy, Hải nam – nay là tỉnh Nam định – sinh
khoảng thời Lý Thái Tôn. Nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên vệ, cùng với Nguyễn Minh Không kết bạn,
đi Tây Trúc cầu đạo. Được đạo rồi, bèn trở về Giao thủy, trụ trì chùa Nghiêm quang”.
Nói như thế, phải chăng chùa Diên phúc là chùa Nghiêm quang ở đây? chắc chắn là không phải, bởi vì chùa Nghiêm
quang tức chùa Thần quang hay chùa Keo ngày nay, và chùa chưa bao giờ có tên Diên phúc. Chúng tôi chưa có dịp nghiên cứu
hiện địa vùng Giao thủy, nên chưa thể trả lời dứt khoát chùa Diên phúc là chùa nào và nằm tại đâu hiện nay. Kiến văn tiểu lục 4
tờ 2b4 có ghi tên một chùa tên Diên phúc. Ở thôn Cồ việt, ở đó có tấm bia do Nguyễn Công Diệm soạn vào năm 1113. Nhưng
Khảo bắc thành địa dư chí lục, chúng tôi không thấy thôn Cồ việt ở đâu cả, nên cũng chưa xác định hẳn vị trí chùa Diên phúc
được.
2
Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục ” Tăng đạo thần thông” chép y chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài
thơ.
3
A giác nữ đầu bạch người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. Thiền sư Đầu Tứ Đại Đồng được hỏi:”Hoà thượng sống ở đây có
cảnh giới gì?”, Sư đáp: “A giác nữ bạch đầu ty” (Người con gái còn để hai chỏm tóc, nhưng đầu đã bạc như tơ), Xem Truyền đăng
lục15 tờ 319c13.
4
Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về.
Linh Thứu Nhàn thiền sư , có Hoà thượng Minh Thủy hỏi: “Thế nào là mau được pháp thân?”. Sư đáp:
“Nhất thấu Long môn vân ngoại vọng
Mạc tác Hoàng hà điểm ngạch ngư”.
(Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
Thì chớ làm cá sông Hoàng hà bị chấm trên trán) 79 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng đến dạy kệ.
“Xuân đến bướm hoa khéo biết thì,
Cần nhau hoa bướm biết nhau khi
Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn
Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi”.
Đêm ấy có ngôi sao lớn rớt ngay góc Đông nam phương trượng của Sư. Nói xong, Sư ngồi ngay
ngắn mà mất
1
. Vua xuống chiếu cho thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho hai người con của Sư làm
quan để tỏ lòng khen thưởng.2
32. THIỀN SƯ Nguyện Học3
(?- 1181)
Chùa Quảng báo, làng Chân hộ, Như nguyệt
4
. Người Phù cẩm5
, họ Nguyễn. Thuở nhỏ Sư thọ
pháp với Viên Trí chùa Mật nghiêm6
.Khi được yếu chỉ, trước tiên Sư đến ẩn ở núi Vệ linh7
chuyên tu
phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền quán đến 3 ngày mới dậy. Sư thường trì Hương hải đại bi đà
la ni, nên việc cầu mưa, trị bệnh, không việc gì là không hiệu nghiệm tức khắc.
Vua Lý Anh Tôn, thấy các điều thần hiệu của Sư, ban chiếu cho vào ra cung cấm, để dùng chú
chữa bệnh.

Xem Truyền đăng lục 10 tờ 278b18-19
Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ xuyên ở Trung quốc, ở đấy có cái vực rất to ăn thông với sông Dương tử. Tương
truyền ở đó có cái ao tên Vũ môn. Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy qua cửa đáy. Con
nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ
13b4-7 thì Long môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc châu, ở đấy “có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn
lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8 tháng 4, các bày cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ các chép một hai con thì có thể được. Giao
châu ký nói: có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn lên đó thì hoá thành rồng”.
1 An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: “Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị
tịch, có sao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất”. Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b8.
2
Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một
vài sai lầm chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục do “Đạo nhân Quán
tam thanh” thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ 48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, song cũng
không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An
nam chí lược 15 tờ 147 về “hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại quốc xin đồng về đúc chuông” hai cái để tại chùa núi
Phổ lại, và việc “Giác Hải giỏi lặn dưới nước” cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định niên đại những truyền thuyết thần kỳ về
những vị sư này.
3 An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: “Thiền sư Nguyện Học là sư châu Vũ ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta
đều quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng
dường”. Nhưng rõ ràng đấy là văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b1 cũng chép Pháp
Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ 16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: “Thiền sư Nguyện Học là Sư
châu Vũ ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất”. Do thế,
những gì viết về Nguyện Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc chép nhảy hàng gây ra, bởi vì
cả Học lẫn Hiền đều nói là “sư châu Vũ ninh”, nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả về Học,
nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.
4
Tức làng Chân hộ huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Đạo Huệ.
5
Tức làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Minh Trí.
6
Chùa này ở tại Long đàm, Phúc đường, tức khoảng vùng huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Viên
Chiếu.
7
Tức núi Sóc, huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay. Xem chú thích (5) truyện Khuông Việt. 80 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sau Sư cáo lão về trụ trì chùa Quảng Báo. Môn đồ không dưới 100 người (36a1). Đến ngày 11
tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175)1
, lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy:
Đạo không hình tượng
Trước mắt chẳng xa,
Xoay lại tìm kiếm,
Chớ cầu người ta
Dẫu cho cầu được2
Được chẳng thật đâu,
Ví có được thật
Thật đó vật nào?
Vì thế chư Phật ba đời
Lịch đại sư tổ
Ấn thọ tâm truyền
Cũng nói thế cả.
Hãy nghe ta nói kệ:
“Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ khơi
Linh thông biến hoá, hiện thật tướng
Ngồi, nằm, đi, đứng riêng siêu nhiên
Ứng hiện hoá thân chẳng thể lượng.
Hư không đầy dẫy tuy lấp khắp,
Xem qua chẳng thấy như có bóng
Thế gian không vật hay kịp sánh
Mãi hiện ảnh thiêng sáng rạch ròi
Thời thường dạy dỗ bất tư nghị
Không được một câu đáng làm lời”1

1
Nguyên văn: Thiên Cảm Chí Bảo bát niên. Nhưng theo Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo chỉ gồm
có hai năm, đấy là năm 1174 và 1175 thôi. Như thế, chữ bát chắc chắn là một viết sai của chữ nhị chúng tôi đề nghị sửa và dịch
theo cách hiểu đây.
2
Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư.
Đạo nguyên bất viễn
Tánh hải phi diêu
Đản hướng kỷ cầu
Mạc tùng tha mích
Mích tức bất đắc
Đắc diệt phi chân.
(Nguồn đạo không ngái
Bể tính chẳng xa
Chỉ nhắm mình tìm
Chớ tìm ở người
Tìm tức không được
Được cũng chẳng chân)
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b2-4 81 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này với truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng 2
đại khái giống nhau. Nay cứ vào những gì do Liệt tổ yếu nghĩa của Huệ Nhật chép}.

1
Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Án hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc toạ thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất biến vi trần tướng
Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9
2
Tức truyện của Huệ trong Truyền đăng lục 27 tờ 431a14-c8. Tư sinh năm 514 và mất năm 577, thọ 64 tuổi, người Vũ tân, họ Lý.
Cái mà tác giả Thiền uyển tập anh gọi là “truyện của Học với truyện Huệ Tư đại khái giống nhau” rõ ràng nằm trong những bài kệ
Thị chúng dẫn trên. 82 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Mười Một (9 ng ư ờ i, 8 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 – 1190)
Chùa Tịnh quả, Trung thụy, Trương canh1
. Người Đan phụng, họ Nguyễn (36b1). Sớm mất cha
mẹ, Sư theo người cậu là Bảo Nhạc thọ nghiệp, đấy là bước đầu phát tâm. Nghe Trí Thiền2
giáo hóa ở
chùa Phúc thánh tại Điển lãnh. Sư liền đến đó tham vấn.
Một hôm, nghe Thiền giảng Tuyết đậu ngữ lục3 đến chuyện hai vị tôn túc Đạo Ngô và Tiệm
Nguyên, tới nhà người chết hỏi việc sống chết
4
, Sư như có điều tỏ ngộ, liền hỏi: “Một câu thoại đầu ấy,
cổ nhân nói, nhân trong sống chết còn có lý không?”.
Thiền đáp: “Người thể nhận được lý do đó chăng?”
Sư thưa: “Thế nào là lý không sinh tử?”
Thiền đáp: “Chỉ ở trong sinh tử, mới khéo hiểu được nó”
Sư thưa: “Thế là đã vô sinh rồi”
Thiền bảo: “Tức cũng tự mình hiểu lấy”
Nghe xong, Sư hoàn toàn được giải đáp, bèn hỏi: “Làm cách nào để quyết chắc?”
Thiền đáp: “Rõ rồi cũng giống như chưa rõ”.
Sư sụp lạy, Từ đấy, tiếng tăm Sư vang khắp Thiền lâm.
Lúc đầu Sư đến chùa Khánh ân tại Siêu loại trác tích. Binh bộ Thượng thư Bằng Giáng Tường
nghe danh kính mộ, thỉnh Sư về trụ trì chùa Tịnh quả. Sư nêu cao tôn chỉ, Thiền (37a1) lữ đến học đều
không đến suông5
.
Một hôm có đệ tử nhập thất là Thường Chiếu, nêu kinh Kim cang ra hỏi:
“Pháp mà Như Lai đạt được, pháp đó không thật, không hư vậy nó là pháp gì?”6
Sư đáp : “Người đừng có chê khéo đức Như Lai”
Chiếu đáp: “Hoà thượng đừng có chê khéo lời kinh”.
Sư hỏi: “Kinh đó do ai nói?”
Chiếu đáp: “Hoà thượng đừng có đùa lâu với con, há chẳng phải Phật nói sao?”

1
Xem chú thích (2) truyện Bảo Giám
2
Nguyên văn chép Trí Thiền. Nhưng truyện Minh Trí ở trên nói “tên trước của Trí là Thiền Trí”. Vậy Trí Thiền chắc là một chép lộn
của Thiền Trí hay ngược lại.
3
Tức Minh Giác Thiền sư ngữ lục, 6 quyển, ĐTK 1996 tờ 669-711, của Thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết đậu ở Minh châu,
sau khi mất, được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác.
4 Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đi điếu tang. Nguyên vỗ quan tài nói: “Sống ư? Chết ư?”. Ngô nói: “Sống, không nói. Chết không nói”.
Nguyên hỏi: “Vì sao không nói?”. Nguyên đáp: “Không nói là không nói”. Xem Bích nham lục 6, tắc 55 tờ 198a.
5
Nguyên văn: Hư vãng, Trang tử “Đức sung phù”: “Lập bất giác, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thật nhi quy”. Xem Trang tử 2 tờ 16a3-
4.
6
Kim cang kinh: “Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư”
Xem Kim cang kinh tờ 750b29 83 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh lại bảo: “Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết pháp, tức là
huỷ báng Như Lai”1
Chiếu không nói được.
Có vị Tăng đến hỏi: “Pháp thân là gì?”
Sư đáp: “Pháp thân vốn không tướng”.
Lại hỏi: “Thế nào là Bát nhã?”
Sư đáp: “Bát nhã không hình”
Hỏi: “Thế nào là cảnh Tịnh quả?”.
Sư đáp: “Cây thông, cây thu bên bãi tha ma xưa”.
Hỏi: “Thế nào là người trong cảnh?”
Đáp: “Một mình ngồi bít miệng bình”.
Lại thưa: “Chợt gặp tri âm, làm sao tiếp đây?”
Sư đáp: “Tuỳ duyên nhướng đôi mày”.
Lại thưa: “Làm sao mới là con cháu Kiến sơ và dòng dõi Âu công?”2
Sư đáp: “Người Ngu nước Sở”.
Vị Tăng không đáp được.
Đến ngày rằm tháng 2 năm Canh Tuất Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), lúc sắp tịch, Sư nói bài
kệ sau:
“Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt
Được vô sinh sau nói vô sinh
Làm trai có chí xông trời ấy
Chở hướng Như Lai hành xứ hành”3
.
Nói kệ xong, Sư chấp tay ngay ngắn mà mất, thọ 69 tuổi. Bằng công làm lễ hỏa táng, dựng tháp thờ.

1 Đại Châu Huệ Hải hỏi một giảng sư kinh Kim cang: “Kinh đó là ai nói?” Vị sư lên tiếng đáp: “Hoà thượng nói giỡn sao: Há không
biết Phật nói sao?. Sư nói: “Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người đó không biết nghĩa ta nói …”
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-5.
2
Kiến sơ chỉ cho Vô Ngôn Thông, thiền phái của Thông cũng gọi là phái Kiến sơ. Âu công chỉ cho Đạo Huệ, Đạo Huệ họ Aâu.
3
Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm:
“Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai hành xứ hành”.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b16-17. 84 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Mười Hai (Có 7 ng ư ờ i, 6 ng ư ờ i khuy ế t
l ụ c)
23. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? – 1203)
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức1
. Người làng Phù ninh2
, họ Phạm. Triều Lý Cao Tôn,
Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng từ3
. Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa
Tịnh quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông
mạc4 để giảng diễn giáo chỉ. Sau đó dời sang chùa Lục tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông. Có vị Tăng
hỏi: “Khi vật và ta duyên nhau thì làm thế nào?”
Sư đáp:
“Ta vật (38a1) đều quên,
Tâm tính vô thường
Dễ sinh dễ diệt
Giây phú không ngừng,
Ai kẻ vin bắt?

1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan, nói: “Chùa Lục tổ tức là chùa Trường liêu. Sử ký nói: “Sư Vạn Hạnh trú trì
chùa đó, sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm tự dinh, quanh năm cúng thờ”.Nhưng Lịch
triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a5-6 viết: “Tiêu sơn ở xã Tiêu sơn, huyện Yên Phong, trên có chùa Trường liêu, triều Lý dựng theo
chỗ tu trì của Tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ đầu thai ở đó”.
Như vậy, một mặt chùa Trường liêu ở tại Tiêu sơn, huyện Yên phong. Mặt khác, truyện Thường Chiếu ở đây nói chùa Lục
tổ ở tại làng Dịch bảng phủ Thiên đức, tức làng Đình bảng, huyện Từ Sơn hiện nay. Do đó, chùa Trường liêu dứt khoát không phải
là chùa Lục tổ, bởi vì hai chùa ấy ở tại hai huyện khác nhau. Chúng tôi không hiểu tại sao Đại nam nhất thống chí đã có một sự
đồng nhất trên. Cương mục chính biên 2 tờ 7b1-2 ghi: “Chùa Tiêu sơn là chùa Trường liêu tại xã Tiêu sơn, huyện Yên phong tỉnh
Bắc ninh”. Cương mục viết như vậy hợp lý hơn. Và chùa Lục tổ từ đó phải ở vị trí làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện
nay.
2
Làng Phù ninh đây chắc chắn không phải là thuộc huyện Phù ninh, tỉnh Sơn tây đời Nguyễn, tức Vĩnh phú ngày nay, bởi vì những
truyện La Quý tờ 48a7 và Thiền ông tờ 51a8 nói rõ ra là phủ Thiên đức có làng Phù ninh với ngôi chùa Song lâm nổi tiếng. Đại
Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 cũng ghi một làng tên Phù ninh là quê hương hay trú quán của một số tiến sĩ nước ta dưới thời
Lê như Phạm Ngữ khoa năm 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa 1691 v.v…và nói
làng Phù ninh ấy thuộc hạt Đông ngạn. Ngày nay huyện Từ sơn tỉnh Hà bắc đang có một làng tên Phù ninh nằm tại phía nam làng
Đình bảng và phía bắc làng Phù đổng. Làng Phù ninh của Thường Chiếu tức làng đó.
3 Đại Việt sử lược 3 tờ 3b6 nói: “Đại Định năm thứ 4 (1143) dựng cung Quảng từ cho thái hậu ở”. Toàn thư B4 tờ 5b3 chép việc này
vào năm Đại định thứ 6 (1145), rồi ghi tiếp ở tờ 6b3 là “năm Đại Định thứ 9 (1148) mùa đông tháng 10 khánh thành cung Quảng
từ”. Đến năm Đại Định thứ 10 (1149) Đại Việt sử lược 3 tờ 5a2 viết: “Mùa thu tháng 8 vua đến chơi cung Quảng từ xem đua
thuyền”. Việc này Toàn thư B4 tờ 10a2 chép vào năm Đại Định thứ 12 (1151).
Sự so le hai năm về niên đại này, Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr. 444-445 cho là đến từ việc Toàn thư đã bỏ
sót năm Quý sửu (1133) không chép, nên đề mục của năm đó trở thành đề mục của năm sau tức năm Giáp dần (1134), do thế
mà chép việc chậm đi một năm. Còn Đại Việt sử lược thì lại chép việc sớm hơn một năm, không biết vì lý do gì. Do một bên chép
sớm một năm, một bên chép chậm một năm, nên có sự so le vừa thấy.
Như vậy đúng ra cung Quảng từ bắt đầu làm năm 1144, khánh thành năm 1147 và Lý Anh Tôn đến chơi năm 1150. Việt
sử tiêu án tờ 113b2-3 nói việc xây cung Quảng từ để cho mẹ của Anh Tôn là Lê thái hậu thông dâm với Đỗ Anh Vũ. Nó viết: “Anh
Vũ mặt mày đẹp đẽ, múa giỏi hát hay, triều Thần Tôn đem vào hầu dưới trướng. Lê thái hậu ưa tiếng nói và sắc đẹp của Vũ,
muốn tư thông với Vũ đã lâu. Đến lúc ấy, mới dựng cung Quảng từ cực kỳ lộng lẫy xa hoa, ngày đêm cùng với Anh Vũ làm nơi
ngủ ngày, mà vua không biết”.
Về chức Lịnh đô tào, An nam chí lược 14 tờ 113 có ghi Đô Tào như một chức quan văn, nhưng không thấy ghi Lịnh đô
tào.
4
Tức Ô Đông mác thủ đô Hà nội ngày nay. Trong bản điều trần dâng cho Mạc Mậu Hợp vào ngày 2 tháng 8 năm Quang Hưng thứ
9 (1586) do Lê Quý Đôn ghi lại trong Đại Việt thông sử tờ 113a3, Giáp Trưng đề nghị “Thành Đại la từ cửa nam Ông mạc đến
Nhật chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm và những con hào nên vét sâu thêm”. Cửa nam Ông mạc hay Ông mạc nam môn, ta
có thể hiểu là cửa nam ở phường Ông mạc. Cái tên ở phường Ông mạc như vậy còn dùng từ thời Lý cho đến đời Mạc. 85 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sinh thì vật sinh
Diệt thì vật diệt
Pháp kia có được
Thường không sinh diệt”
Vị Tăng thưa: “Người học chưa hiểu, xin thầy dạy lại”. Sư bảo: “Rõ tâm tình mà tu đạo, thì ít sức
mà dễ thành; không rõ tâm mình mà tu đạo, thì chỉ phí công vô ích mà thôi”.
Lại hỏi: “Pháp thân biến khắp mọi nơi là thế nào?”
Sư đáp: “Như một lỗ chân lông, biến khắp cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế.
Nên biết không có một chút nào mà không có thân Phật. Vì cớ sao? Vì pháp thân ứng hóa thành Đẳng
chánh giác, không chỗ nào không đến. Phải biết như vầy: Đức Như Lai dùng sức tự tại của tâm, không
khởi, không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ pháp nói
đoạn nên không đoạn, mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp đều lìa biên kiến. Lìa cõi Dục và cõi Phi
Dục mà chuyển pháp luân, vì vào cõi hư không của tất cả các pháp (38b1). Không có ngôn thuyết mà
chuyển pháp luân, vì biết tất cả các pháp đều không thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì
biết rõ tất cả các pháp là tính Niết bàn1
. Ấy gọi là không có tính tướng, không có tính tận, không có tính
sinh, không có tính diệt, không có tính ngã, không có tính phi ngã, không có tính chúng sinh, không có
tính phi chúng sinh, không có tính Bồ tát, không có tính pháp giới, không có tính hư không cũng không
có tính thành Đẳng chánh giác2
.
Bèn nói tiếp bài kệ sau:
“Tại thế làm thân người
Tâm là tạng Như Lai
Chiếu ngời khắp mọi cõi
Vắng bóng lúc tìm tòi”.
Đến ngày 24 tháng 9 năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư tỏ ra đau tim, nhóm chúng nói kệ
rằng:
” Đạo vốn không nhan sắc

1
Câu nói này lược dẫn một đoạn trong phẩm Như Lai xuất hiện của kinh Hoa Nghiêm do Thật Xoa Nan Đà dịch Đại phương quảng
Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: “Phật từ bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu
nhất thiết chúng sanh số đẳng chư Phật thân, hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác thân, cứu cánh vô sanh diệt cố. Như nhất mao
khổng biến pháp giới, nhất thiết mao khổng, tất diệc như thị. Đương trí vô hữu thiểu xứ hứa, không vô Phật thân, Hà dĩ cố? Như
Lai thành chánh giác, vô xứ bất chí cố. (Tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo tràng bồ đề thọ hạ sư tử tòa thượng, dĩ chủng
chủng thân, thành đẳng chánh giác…Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng vân hà tri Như Lai ứng chánh đẳng giác chuyển pháp luân?
Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng như thị tri Như Lai dĩ tâm tự tại lực, vô khỉ vô chuyển, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp,
hằng vô khỉ cố, dĩ tam chủng chuyển, đoạn sở ưng đoạn, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, ly biên kiên cố, ly dục tế phi
tế, nhi chuyển pháp luân. Nhập thất thiết pháp, hư không tế cố, vô hữu ngôn thuyết, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp,
bất khả thuyết cố, cứu cánh tịch diệt, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, niết bàn tính cố, nhất thiết văn tự, nhất thiết
ngôn ngữ, nhi chuyển pháp luân. Như Lai âm thanh, vô xứ bất chí cố, tri thanh như hưởng, nhi chuyển pháp luân…” Xem Đại
phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275b17-276a6.
Chúng tôi đã dựa vào xuất xứ này sửa sai một số văn cú của câu nói để dịch cho đúng đắn và dễ hiểu hơn. Chẳng hạn
câu: “Đương tri vô hữu thiểu hứa xứ, không vô Phật thân” của kinh Hoa nghiêm, cả hai bản đời Lê và đời Nguyễn của Thiền uyển
tập anh đều viết: “Đương tri vô hữu thiểu hứa tâm, không vô Phật thân”. Chữ tâm của câu sau đương nhiên là một chép sai của
chữ xứ câu trước, nhất là khi chữ xứ viết tắt thì tự dạng của nó rất gần với chữ tâm. Chúng tôi do thế đề nghị sửa chữ tâm thành
chữ xứ.
2
Câu này cũng là lược dẫn một đoạn khác của phẩm Như Lai xuất hiện trong kinh Hoa nghiêm. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm
kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: “Phật tử, Như Lai thành Chánh giác thời, ư kỳ nhân trung, phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập
niết bàn, giai đồng nhất tánh, sở vị vô tánh. Vô hà đẳng tánh?. Sở vị vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh tánh, vô diệt tánh, vô
ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô phi chúng sanh tánh, vô bồ đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh, diệc
phục vô hữu thành chánh giác tánh. (tri nhất thiết pháp, giai vô tánh cố, đắc nhất thiết trí, đại bi, tương tục cứu độ chúng
sanh…Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275a19-26. 86 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Ngày ngày mới mới khoe
Ngoài đại thiên sa giới
Nơi đâu chẳng phải nhà”.
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. Đệ tử Thần Nghi làm lễ trà tỳ, thu thập xá lợi, dựng tháp
phụng thờ. Sư thường soạn Nam tôn tự pháp đồ 1 quyển1
, còn lưu hành ở đời.

1 Nam tôn tự pháp đồ, Thiền uyển tập anh dẫn nó hai lần, một ở cuối bản tiểu sử của Ma Ha và gọi bằng tên tắt Nam tôn đồ, và
một ở cuối bản tiểu sử của Định Huệ. Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn ghi nó là do Thường Chiếu soạn. Văn
tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Nam tôn pháp đồ 1 quyển nhưng lại thêm một chi tiết khá
lôi cuốn là nó có bài tựa của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vinh đậu trạng nguyên năm 1463. Vậy cuốn Nam tôn tự pháp đồ do
Vinh đề tựa chắc chắn là bản in do Vinh hay người thời Vinh đứng in. Thế thì, phải chăng nó đã lưu hành cho tới thời Phan Huy
Chú? Cứ vào một câu viết của Thiền uyển tập anh ở bản tiểu sử của Thần Nghi, theo đó “Chiếu…đem Chiếu đối bản của Thông
Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân tôn tự pháp” (Chiếu …toại trừu xuất Thông Biện Đối chiếu bản cập
ký kỳ tôn phái điều, vi phân tôn, tự pháp đồ…), thì nội dung của Nam tôn tự pháp đồ, mặc dầu văn bản nó ngày nay hiện vẫn
thất lạc, có thể nó gồm hai phần. Phần thứ nhất là ghi những điều cần biết về các tôn phái thiền tại Việt nam như nguyên lai, thế
thứ truyền thừa, và rất có thể niên đại cùng một số những chi tiết khác, cần thiết cho việc thiết lập những đồ biểu về các tôn phái
đó. Còn phần sau là gồm những đồ biểu. Về số tôn phái, Thường Chiếu đã đi theo Thông Biện và chỉ thừa nhận có phái Tỳ Ni Đa
Lưu Chi và phái Vô Ngôn Thông, còn phái của Nguyễn Đại Điên cũng như của Nguyễn Bát Nhã cùng những chi phái khác, mà
Thông Biện nói là “chia chẽ ra bao la không thể kể xiết”, thì chắc chắn đã không được nói tới, như câu hỏi của Thần Nghi với
Thường Chiếu đã xác nhận. Và cũng cứ vào câu trên thì cũng rõ ràng là, Nam tôn tự pháp đồ không phải đồng nhất hay hoàn
toàn mô phỏng theo Chiếu đối lục.
Ngoài ra, cũng cần thêm là, cả Văn nghệ chí của Lê Quý Đôn lẫn Kinh tịch chí của Phan Huy Chú đều liệt kê một tác
phẩm khác nữa của Thường Chiếu nhan đề Thích đạo khoa giáo 1 quyển, mà Thiền uyển tập anh không biết tới. Phải chăng,
Thích đạo khoa giáo vẫn còn lưu hành vào thời Lê Quý Đôn hay Phan Huy Chú? Và đây chắc hẳn là một cuốn sách dạy học trò đi
thi về những khoa Phật giáo tổ chức dưới triều Lý và Trần. 87 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
(39a1)
Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 ng ư ờ i, 3 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
35. CƯ SĨ Thông Sư1
(? – 1228)
Ốc hương, An la2
. Người Ốc hương, họ Đặng. Ban đầu Sư cùng Quách Thần Nghi, chùa Thắng
quang, thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy.
Một hôm Sư vào thất, hỏi thỉnh ích3
rằng: “Làm thế nào để hiểu rõ Phật pháp?”
Thường Chiếu đáp: “Phật pháp không thể hiểu được. Rõ được điều đó thì cần gì hiểu Phật pháp.
Chư Phật như vậy tu hành. tất cả các pháp vốn là bất khả đắc”.
Sư nhờ câu nói ấy mà lĩnh hội yếu chỉ.
Sau đó Sư trở về làng mình giảng pháp. Học giả theo học rất đông. Phàm có ai hỏi, Sư đều lấy
tâm ấn mà ấn truyền.
Hoặc có kẻ hỏi: “Thế nào là người xuất thế?”
Sư đáp: “Há không thấy người xưa nói: Chỉ xem ngũ uẩn đều không, tứ đại vô ngã, chân tâm
không tướng, không đi không lại, khi sinh tánh không đến, khi chết tánh không đi, tròn đầy vắng lặng,
tâm cảnh như một. Chỉ cần trực nhận tức khắc như thế thì không còn bị ba đời ràng buộc. Đó là bậc xuất
thế, dứt khoát không được có chút gì (39b1) nhắm tới nữa”.
Lại hỏi: “Nghĩa vô sinh là gì?”
Sư đáp: “Phân biệt các uẩn đây
Tính nó vốn vắng trơn
Trống không, nên không diệt
Đấy là nghĩa vô sinh”.
Lại hỏi: “Thế nào là lý vô sinh?”

1
Tức Cư sĩ Thông Thiền trong truyện của Tức Lự. Gọi Thông Sư có lẽ để tỏ lòng tôn kính với Thiền. Và Thông Thiền đây chắc
không phải là Ngô Thông Thiền môn đồ của Viên Học, bởi vì không những Thông Thiền đây họ Đặng, và Thông Thiền kia họ Ngô,
mà còn vì Đặng Thông Thiền chết năm 1228, trong khi Ngô Thông Thiền thì đã lớn khôn để đưa đám thầy mình vào năm 1136.
Ngô Thông Thiền do thế khó mà sống được tới năm 1228.
2
Cái tên An la được Thiền uyển tập anh kể ra hai lần, một ở đây, và một ở tờ 72a4 nói rằng: “Thiền sư Phạm Âm làng Thanh oai,
An la”. Toàn thư B4 tờ 25a1-2 nói: “Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) mùa đông tháng 10 mọi núi Tản viên, châu Quốc oai đi
ăn trộm, cướp bóc làng Thanh oai, chúng quá mạnh, không thể chế ngự được”. Làng Thanh oai này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh
Hà nội, mục Kiến trí diên cách nói: “Nó xưa là đất Đỗ động, cái tên Thanh oai mới thấy ở thời Lý – Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3
(1207) của Cao Tôn gọi làng Thanh oai, sau đổi làm huyện. Đời thuộc Minh đem gồm vào châu Oai man thuộc phủ Giao châu. Lê
Quang Thuận cải thuộc thống hạt phủ Ứng hòa. Sau đổi chữ Thanh bộ thủy làm chữ Thanh không bộ thủy. Triều ta nhân theo”.
Huyện Thanh oai đời Nguyễn, tức huyện Thanh oai tỉnh Hà đông bây giờ như vậy là xuất phát từ làng Thanh oai đời Lý. Mà làng
Thanh oai đời Lý, cứ dẫn chứng trên, lại thuộc An la. An la đây do đó có thể là tên một châu hay một quận thời Lý. Địa phận nó
chắc chắn gồm phần lớn đất đai huyện Thanh oai ngày nay, hay hơn nữa. Từ xác định ấy, Ốc hương của Thông Thiền chắc chắn
phải nằm trong vùng đất Thanh oai đây hay cùng lắm thì lan ra một vài xã của những huyện kế cận. Chúng tôi coi lại bảng liệt kê
những tổng xã thôn trại của phủ Ứng hoà trong Bắc thành địa dư chí lục, nhưng không tìm thấy một tên đất nào có thể giúp đoán
định vị trí thật sự của Ốc hương cả. Một cuộc nghiên cứu hiện địa nay mai sẽ giúp giải quyết vấn đề vừa nêu.
3
Thỉnh ích, theo Phần Dương “thì thiền tôn có cả thảy 18 lối hỏi, mà Phần dương thập bát vấn kê ra như sau: Thỉnh ích, trình giải,
sát biện, đầu cơ, thiên tị, tâm hành, thám bạt, bất hội, kinh đảm, trí, cố, tá, thật, giả, thẩm, trưng, minh và mặc. Trong số này trừ
lối cuối cùng tức lối hỏi bằng im lặng, mà Dương cho là “khó xác định vì phải biết ý người đến hỏi”, những lối còn lại thì tùy theo
cơ hội, và Dương cho một số thí dụ về những lối hỏi này. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 307c3-308a25. 88 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư đáp: “Điều phục được các uẩn
Mới tỏ được tánh không
Tánh không, không thể diệt
Đấy là lẽ vô sinh”
Tăng hỏi: “Phật là?”
Sư đáp: “Bản tâm là Phật, cho nên Đường tam tạng Huyền Trang1
nói:
“Chỉ rõ tâm địa
Nên gọi Tổng trì
Hiểu pháp vô sinh
Tên gọi Diệu Giác”.
Sau đó, vào tháng 7 năm Mậu tý Kiến Trung thứ 4 (1228) của Hoàng triều2
, Sư viên tịch.
36. THIỀN SƯ Thần Nghi (? – 1216)
Chùa Thắng quang, làng Thị trung, Kim bài3
. Người Ngoại trại
4
, họ Quách, con nhà đời đời phạm
hạnh. Lúc mới xuống tóc, Sư thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy. Đến khi Chiếu sắp tịch, Sư hỏi:
“Người ta tới giờ phút đây, làm sao lại chết theo lối thế tục?”.
Chiếu đáp: “Ngươi nhớ được mấy người, mà không chết theo lối thế tục?”.
Sư thưa: “Chỉ có Đạt Ma (40a1), một người.”
Chiếu hỏi: “Ngài có cái gì lạ lùng đâu?”
Sư thưa: “Một mình thong dong về Tây”.
Chiếu hỏi: “Thế Hùng nhĩ là cái gì?”1

1
Huyền Tráng (604-664) một dịch giả nổi tiếng của Phật giáo Trung Quốc, và người đã có công thiết lập trường phái Duy thức của
Trung quốc với người học trò của mình là Khuy Cơ. Về cuộc đời, Xem Đại từ ân tự tam tạng pháp sư truyện, 10 quyển, ĐTK 2053,
về câu nói dẫn ở đây, chúng tôi hiện chưa tìm thấy xuất xứ của nó, nhưng về nội dung thì đương nhiên là nằm trong quỹ đạo của
tư tưởng Duy thức của Huyền Tráng.
2
Hoàng triều đây chỉ triều Trần, bởi Thiền uyển tập anh viết dưới thời ấy.
3
Tức làng Thời trung huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông ngày nay. Về bàn cãi, xem chú thích (3) truyện Ngộ Ấn
4 Đại Việt sử lược 3 hai lần nhắc đến địa doanh Ngoại trại. Một ở tờ 29b7 nói: “Năm Kiến gia thứ 6 (1216) tháng năm Mậu thìn
(nguyên bản viết ngọ) vua đi chơi Ngoại trại”. Một ở tờ 32b3-4 viết: “Năm Kiến Gia thứ 14 (1224) mùa đông tháng 12, núi Phật
tích ở Ngoại trại nứt dài 30 trượng”.
Về việc đầu, ta biết Lý Huệ Tôn theo Đại Việt sử lược đã cho thị triều ở Thảo điện vào tháng giêng. Tháng ba, sai người đi
bắt bọn cướp ở xóm Cơ Xá, bị Đỗ Ất chống lại. Tháng năm, bị Đỗ Nhuế tấn công. Ngày Mậu thìn tháng đó, Lý Huệ Tôn mới đi
Ngoại trại, “nhân đó sai người đi xin quân ở Tự Khánh để đánh Nhuế”. Hôm sau tức ngày Kỷ tị, đày Nhuế làm khoa giáp. Sáu
ngày sau tức ngày Giáp Tuất (nguyên bản viết thìn, nhưng nghi sai) Huệ Tôn cùng vợ đi về Thuận lưu (Nam định). Mà Thảo điện
của Huệ Tôn nguyên là ở tại xóm Chi tác của cầu Tây dương. Như vậy cứ hành trình vừa kể của Huệ Tôn, Ngoại trại chắc phải là
một tên đất tại vùng Sơn tây.
Kết luận này càng tỏ ra đúng đắn, khi ta bàn đến sự việc thứ hai, đây là chuyện núi Phật tích ở Ngoại trại nứt. Núi Phật
tích này đương nhiên không phải là núi Lạn kha ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Nó phải là núi Phật tích mà An nam
chí lược 1 tờ 22 nói: “vì trên đá có dấu chân, nên có tên đó”. Và núi đó theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn
xuyên, không gì hơn là Sài sơn hay núi Thầy, hiện ở hai xã Thụy khê và Thiên phúc, huyện Quốc oai tỉnh Hà tây ngày nay. Đất
Ngoại trại của Thần Nghi như vậy phải rơi vào vùng huyện Quốc oai này, nếu không phải là giới hạn vào hai xã Thụy Khê và Thiên
phúc, nơi đấy hiện đang có núi Phật tích. Toàn thư B10 tờ 22a3 cũng kê Ngoại trại như một trận địa giao tranh giữa quân ta và
bọn xâm lược Minh vào hôm 6-11-1426, và nó chắc nằm sát Cổ sở, tức làng Yên sở, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Có
người không hiểu Ngoại trại ở đây của Toàn thư là một địa danh, bèn dịch thành “doanh trại ngoại vi”. 89 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Sư thưa: “Là chỗ chôn quan tài của chiếc giày”.
Chiếu nói: “Gạt kiếm lời là Thần Nghi”
Sư thưa: “Chớ bảo Tống Vân truyền nhảm, đến khi Trang Đế quật mồ thì sao?”2
.
Chiếu quát lớn: “Đó là chuyện chó sủa suông”3
Sư thưa: “Hoà thượng cũng theo thế tục sao?”
Chiếu nói: “Theo thế tục”.
Sư thưa: “Vì sao như thế?”
Chiếu nói: “Để cho giống với mọi người”.
Sư hốt nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy thưa: “Con đã hiểu lầm rồi”.
Chiếu liền hét.
Sư lại thưa: “Con hầu Hoà thượng đã nhiều năm, mà không biết người truyền đạo này đầu tiên
là ai, cúi xin chỉ dạy thứ lớp truyền pháp, khiến cho người học biết được nguồn gốc”.
Chiếu khen Sư có lòng tha thiết thành khẩn, bèn đem Chiếu đối bản4
của Thông Biện ra và ghi lại
những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân Tôn tự pháp, đưa cho Sư xem.
Sư xem xong, liền hỏi: “Sao không thấy nói đến hai phái Nguyễn Đại Điên và Nguyễn Bát Nhã?”5
(40b1) Chiếu nói: “Ắt Thông Biện có một ức ý nào đó”.
Ngày 18 tháng 2 năm Bính tý Kiến Gia thứ 6 (1216), Sư đem Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối
bản do Thường Chiếu trao6
mà dặn lại đệ tử là Ẩn Không rằng: “Ngày nay tuy loạn lạc, nhưng ngươi
khéo giữ gìn chúng, cẩn thận chớ để cho binh hỏa thiêu hủy, thì Tổ phong ta mới không bị suy sụp vậy”.
Nói xong Sư vĩnh viễn ra đi, *{Ẩn Không trước ở tại huyện Na ngạn7
của Lạng châu, nên thời bấy
giờ gọi là Na Ngạn Đại sư}.

1
Bồ Đề Đạt Ma chết chôn trên núi Hùng nhĩ, tháp được dựng tại chùa Định lâm. Xem Truyền đăng lục 3.
2
Nhà Bắc Ngụy, Hiếu Trang Đế, năm Vĩnh An thứ 3 (530), Tống Vân đi sứ Tây vực, gặp Đạt Ma tại Thông lĩnh. Trang Đế nghe sự lạ
bèn quật mồ, chỉ thấy còn lưu lại một chiếc dép. Do đó có thiền thoại “chích lý tây quy”. Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a-b.
3
Tục ngữ thường được dùng trong thiền: nhất khuyển phê hư hoặc cũng nói là nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật. Xem truyện
Diên Chiểu trong Truyền đăng lục 13 tờ 303a28-29, truyện Chân giác 18 tờ 82 352b2 và truyện Thủ Trừng quyển 20 tờ 368a21-
23. Nguyên xuất xứ nó là trong Thiên Hiền nạn của Tiềm phu luận: “Nhất khuyết phệ hình, bách khuyến phệ thanh…” Xem Tiềm
phu luận 1 tờ 23a5.
4
Về Chiếu đối bản, xem chú thích (3) truyện Biện tài.
5
Nguyễn Đại Điên (? – 1110) chắc chắn là sư Đại Điên đánh chết cha của Đạo Hạnh, để rồi bị Hạnh đánh chết lại trong truyện Đạo
Hạnh. Xem chú thích (8) truyện Đạo Hạnh.
Còn Nguyễn Bát Nhã tức Thiền sư Bát Nhã chùa Từ quang phúc thánh ở làng Dịch vương, Trương Canh, tức huyện Hoài
đức, tỉnh Hà tây ngày nay. Sư là đệ tử của Thảo Đường. Xem Thiền uyển tập anh tờ 71b6.
6
Nguyên văn: Sư dĩ chiếu sở thọ đồ bản. Hai chữ đồ bản trong đó, chúng tôi hiểu là Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối bản.
7
Tức huyện Lục ngạn, tỉnh Bắc giang ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Phần dã, viết: “Huyện Lục ngạn, đời
Trần hồi trước gọi là Na ngạn. Thuở đầu, thời thuộc Minh chia làm hai huyện Na ngạn và Lục ngạn (đúng ra là Lục na), sau gồm
vào Lục ngạn. Triều ta nhân theo”.
Về Aăn Không, nay ta không biết một tí gì hết ngoài những điều đã ghi ở đây. 90 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Mười Bốn ( G ồ m 5 ng ư ờ i, 3 ng ư ờ i khuy ế t
l ụ c )
37. THIỀN SƯ Tức Lự (Một tên là Tĩnh Lự)
Chùa Thông thánh, làng Chu Minh1
, phủ Thiên đức, người làng Chu minh. Lúc nhỏ thông minh,
đọc khắp sách đời. Một hôm Sư bỏ sở học của mình đến thờ cư sĩ Thông Thiền làm thầy, học hỏi chỗ
huyền yếu. Thường vào ngày giải hạ, Sư đặt bẫy bắt được con chim Mãi quỷ2 đem vào dâng thầy.
Thiền kinh ngạc hỏi: “Ngươi đã làm thầy tu, sao lại phạm sát? Quả báo ngày sau thời sao?”.
Sư thưa: “Chính khi ấy con chẳng thấy có con vật đó, cũng chẳng thấy có thân con và cũng
chẳng biết có quả báo sát sinh, cho nên mới làm như thế”.
(41a1) Thiền biết Sư là pháp khí, bèn cho vào hàng nhập thất, mật truyền tâm ấn rằng: “Ông
nếu dùng đến chỗ đất ấy, thì dù có tạo tội ngũ nghịch, thất già cũng được thành Phật”3
Có vị Tăng bên cạnh trộm nghe lời này, bèn kêu to lên rằng: “Khổ thay ! Dẫu có việc như thế tôi
cũng không thể tin được !”.
Thiền lên tiếng quát: “Đồ giặc ! Đồ giặc ! Đâu để cho loài phi nhân4 được sự tiện lợi của nó?”
Sư nghe câu nói ấy liền giác ngộ. Sau Sư trở về chùa mình, nghiên giảng tôn chỉ Thiền để dạy
học trò. Cư sĩ Ứng Thuận là kẻ kế thừa Sư vậy.
38. THIỀN SƯ Huyền Quang (? – 1221)
Núi Yên Tử5
, người Kinh sư, họ Lê, tên Thuần. Là người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ,
mồ côi từ bé trải nhiều gian khổ.
Năm vừa 11 tuổi, Thường Chiếu chùa Lục tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử. Sư học vấn thông
tuệ, mỗi ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông Tam học. Nhưng tôn chỉ môn thiền Sư
chưa kịp suy cứu thì Thường Chiếu đã qui tịch. Về sau, cùng người biện luận (41b1) tâm yếu tất bị bắt
bẻ. Sư thường tự trách mình rằng: “Ta đây ví như con nhà giàu, lúc cha mẹ còn sống, ăn chơi lêu lổng,

1
Tức khoảng địa phận quanh làng Phù cầm, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Về bàn cãi xem chú thích (3) truyện Định Hương.
2
Mãi quỷ, một tên khác của chim đỗ nguyên hay chim cuốc.
3
Tội ngũ nghịch tức năm tội trọng, đấy là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, gây đỗ máu nơi thân Phật, phá hoại sự hòa hợp của
chúng tăng.
Tội thất già tức bảy trọng tội không cho phép của một người được thọ giới Bồ tát, đấy là: “Gây đổ máu nơi thân Phật, giết
cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma chuyển pháp luân, giết thánh nhân”. Xem Phạm võng kinh quyển hạ tờ
1008.
4
Phi nhân: tức loài quỷ thần thông không phải là loài người.
5
Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: “Núi Yên tử ở tại xã Nam mẫu huyện Đông triều, một tên là Tượng sơn. Long mạch chi tả bổ
xuống làm tổ các núi ở Hải dương. Cứ Đồ kinh thì núi ở hương Cấn. Mạch Quyết nói: “Nó nở như sen, nó bay như diều, hai cái
không đều, sinh nhiều ngỗ nghịch”. Hải nhạc danh sơn đồ đời Tống cho núi này là một trong bốn đất phúc. Xưa, An Kỳ Sinh đời
Hán tu luyện ở đấy. Trên núi (Tiên) có chùa gọi Hoa yên, gọi Tử tiêu, lại có khe tên Giải oan, tên Long hàm, khéo léo thanh vắng,
thật là một bồng đảo của thiên nhiên…”. Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục sơn xuyên. 91 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
đến khi cha mẹ chết thì mờ mịt ngu muội, không biết châu báu trong nhà nằm ở đâu, đến nỗi cuối cùng
thành nghèo thiếu”.1
Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, tham học các hàng tri thức, gặp Trí Thông chùa Thánh quả dạy
cho một câu, Sư chợt rõ tâm địa của mình, bèn ở lại đấy hầu hạ Thông. Sau vì nhân sự cúng dường của
công chúa Hoa Dương2
mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong. Sư nghe được, nói: “Phàm được người
thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị hủy nhục. Nay ta là như thế sao? Vả, con đường Bồ tát thì
rộng lớn, còn pháp Phật thì vô lượng, kẻ sĩ giữ đạo trung dung còn nhiều khi phải buồn tẻ khóc thầm3
.
Nếu như không dõng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy việc tinh tấn làm khí giới, thì làm
sao tránh được ma quân, phá được phiền não, cầu được giác ngộ vô thượng?”
Rồi Sư vào thẳng trong núi Uyên trừng, phủ Nghệ an, theo Thiền sư Pháp Giới thọ giới Cụ túc.
Một hôm, Sư thấy thị giả dâng cơm, sẩy tay làm đổ xuống đất. Sợ quá, thị giả lấy tay hốt cơm lộn đất
(42a1), Sư tự hối nói: “Ta sống vô ích cho người, chỉ nhọc cho họ cúng cấp để đến nỗi như thế kia”.
Từ đấy bèn mặc áo lá, thôi nhận lương, trải hơn 10 năm. Lúc sắp tìm chỗ riêng để an dưỡng tuổi
già, Sư bèn vào sâu trong núi ấy, kết cỏ làm am mà ở. Mỗi khi xuống núi kinh hành, Sư tất dùng gậy
quảy một đẫy vải
4
. Đến ngồi nằm nơi nào, thú rừng trông thấy không con nào là không thuần phục.
Lý Huệ Tôn khâm phục đời sống cao thượng của Sư, đã nhiều lần lần sắp lễ đi đón. Sư lánh mặt,
sai thị giả bảo lại với sứ giả rằng: “Bần đạo sinh trên đất vua, ăn lộc vua, ở trong núi thờ Phật trải đã
nhiều năm, mà công đức chưa thành, rất lấy làm thẹn. Nay nếu về thăm vua thì không những không có
ích gì cho việc trị an, mà lại bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật pháp đang thịnh hành, Sư
trưởng trong đạo đã nhóm cấm túc ở gác điện Vũ nghi5
thì sao phải chiếu cố một ông thầy tu thô hèn
gởi mình trong núi đến thế?”. Từ đó, Sư quyết không xuống núi nữa.
Có vị Tăng hỏi: “Hoà thượng ở trong núi bấy lâu làm được những việc gì” (42b1)
Sư đáp: “Dùng đức Hứa Do6 ấy
Sao biết đời mấy xuân
Vô vi sống đồng rộng
Tự tại người thênh thang”
Mùa xuân năm Tân tỵ Kiến Gia thứ 11 (1221), khi sắp thị tịch, Sư ngồi trên một tảng đá nói kệ:
Pháp huyễn đều là huyễn,
Tu huyễn cũng là huyễn,

1
Chuyện người cùng tử trong kinh Pháp hoa, sau một thời gian trôi giạt gặp bất ngờ cha mình trong cảnh giàu sang tột bực, nhưng
không nhận ra đó là cha, mà chỉ bằng lòng nhận thân phận nô dịch. Xem Diệu pháp liên hoan kinh tờ 16b25.
2 Đại Việt sử lược 3 tờ 10a11: “Trinh Phù năm thứ 5 (1180) mùa đông cho thủ lãnh châu Vị long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa
Dương”. Công chúa Hoa Dương như vậy là con của Lý Anh Tôn.
3
Nguyên văn: Khấp kỳ. Từ lấy ra ở thiên Nghi tợ của Lã thị xuân thu 22 tờ 21b12-13 về việc “Mặc tử thấy đường rẽ mà khóc”.
Thiên Thuyết lâm của Hoài nam tử 17 tờ 13b13-14 giải rõ hơn: “Dương tử thấy đường rẽ mà khóc vì nó có thể đi về nam hay
bắc”.
4
Bố Đại hòa thượng (…) thường dùng một cây gậy quảy một túi vải trên vai, viên tịch đời Lương, niên hiệu Trinh Minh thứ hai
(916). Xem Truyền đăng lục 27 tờ 434a19.
5
Các sư tăng có lệ cấm túc, giới hạn trong một khu vực, trong một thời gian không ra khỏi giới hạn đó. Cuộc cấm túc này có lẽ xảy
ra vào năm 1212, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 24a10 ghi lại việc Lý Huệ Tôn cùng thái hậu đến trước Phật thệ rằng: “Trẫm đem sức
mọn mà trộm nối ngôi quí, đến nỗi phải gặp loạn ly, sắp đổ sự nghiệp trước, thậm chí cung giá phải dời đổi nhiều lần. Nay muốn
lãnh ngôi trời để nhường cho người hiền đức” nói xong, vua lấy dao muốn cắt tóc thì (Trần) Tự Khánh đốt sạch cung điện như Đại
Việt sử lược 3 tờ 26b4 ghi. Điện Vũ nghi không thấy tên trong sử.
6
Hứa Do là tên nhà cao sĩ đời thượng cổ Trung quốc, trước ở ẩn tại Bãi trạch, vua Nghiêu đem thiên hạ nhường cho, bèn không
nhận, rồi trốn đến dưới núi Cơ ở Dĩnh thuỷ cày ruộng. Vua Nghiêu lại mời làm Cửu chân trưởng. Hứa Do không muốn nghe, bèn
đến bên sông Dĩnh lấy nước rửa lỗ tai mình. 92 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Chẳng là hai huyễn ấy
Tức trừ được mọi huyễn”.
Nói xong, Sư an nhiên mà tịch. Môn đồ Đại Viên sắm đủ lễ an táng Sư trong hang núi. {Lại Tự
ngu tập1
nói Sư mất, không biết ở đâu}

1
Tự ngu tập này nghi có thể là tác phẩm của Ngu Ông, một trong những đệ tử của Tiêu Diêu. 93 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Thượng
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (Có 7 ng ư ờ i, ở đ ây ch ỉ có 1
n g ư ờ i )
39. CƯ SĨ Ứng Vương1
.
Người phường Hoa thị
2
, kinh đô Thăng long, họ Đỗ, tên Văn, tính tình giản dị, khoáng đạt, không
bôn chôn theo việc đời. Ban đầu làm quan dưới triều Chiêu Lăng ta3
, chức đến Trung phẩm phụng ngự.
Những khi rảnh việc quan, ông dốc chí học Thiền, tay không rời sách, tìm hết ý tổ, hiểu rõ Tâm tông. Ở
cửa trường của Tức Lự chùa Thông thánh, ông thấu hết bí quyết của Lự. Do đó, Sư gió thiền không
nghẽn, mắt đạo càng cao.
(43a1) Khi được truyền tâm ấn rồi, ông là người tai mắt của tòng lâm, như những vị quốc sư
Nhất Tôn, Thiền sư Tiêu Diêu4
, Giới Minh và Giới Viên ấy vậy.

1
Truyện của Tức Lự nói: “Ứng Thuận cư sĩ, ấy là pháp tự của Lự”. Nhưng không hiểu sao đây gọi Ứng Vương, hoặc chữ Vương là
một khắc sai của chữ Thuận. Hoặc là cách gọi để tỏ lòng tôn kính như trường hợp Thông Sư.
2
Phường Hoa thị này không biết thuộc phường nào của thủ đô Hà nội.
3
Tức triều Trần Thái Tôn (1225-1257). Khi Thái Tôn mất vào năm 1277 và đem táng vào lăng thì lăng của Thái Tôn gọi là Chiêu
lăng. Xem Toàn thư B5 tờ 36a5
4
Cứ Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 7b thì Tiêu Diêu là đệ tử của Ứng Thuận và là thầy của Tuệ Trung. Ngoài
Tiêu Diêu ra, nó còn cho biết Quốc Nhất, Đạo Sư, Quế Thâm và Chân Giám là những đệ tử khác của Thuận. Và ngoài Tuệ Trung
ra, thì Thạch Đậu Vị Hải, Đạo Tiềm, Thân Tán, Lại Tản, Thạch Lâu, Thôn Tăng, Thủ Nhân, Ngu Ông và Vô Sở là đệ tử của Tiêu
Diêu.
Thượng sĩ hành trạng trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 38a8-b1 nói: “(Tuệ Trung) lúc còn để chỏm, rất chuộng cửa Không, đến
học Thiền sư Tiêu Diêu ở Phước Đường, hiểu được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy”. Còn bài tựa do Huệ Nguyên viết năm 1763
trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 3b1-3 nói: “Thượng tổ Tiêu Diêu… vừa đến nước ta, đã thoát thế vô y, cầm câu không lưỡi mà vào
kinh thành”. Như thế Diêu chưa hẳn là người nước ta. Lời tựa đây cũng nói Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm của Tiêu Diêu.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ Tiêu Diêu chắc quê quán Phước đường tại vùng Thanh từ ngày nay. 94 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thi ề n Uy ể n T ậ p Anh Ng ữ L ụ c
Quyển Hạ
[44a1]
Dòng Pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi – Chùa Pháp
Vân
40. THIỀN SƯ Tỳ Ni Đa Lưu Chi1
Chùa Pháp vân, làng Cổ châu, Long biên2
. Người nước Nam Thiên trúc1
, dòng Bà la môn. Nhỏ đã
mang chí xuất tục, đi khắp Tây trúc, cầu tâm ấn Phật. Nhân duyên đạo chưa gặp, bèn cầm gậy sang
Đông Nam.

1 Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc: (vinitaruci)
(a) Lịch đại tam bảo ký 10 tờ 102c3-9: “Tam tạng tháp sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi nước Ô trượng, Bắc Thiên trúc. Tùy dịch là
“Diệt hỷ”. Khi đã nghe đức Hoàng đế ta phục hưng Tam bảo, nên có thể không cho 500 do tuần là xa, bèn chống gậy nhắm
phương đến xem sự thạnh hóa đến mức nào. Bèn được mời vào, sai dịch kinh, tức ở nơi chùa Đại hưng thiện dịch ra (kinh Tượng
đầu tinh xá và Đại thừa phương quảng tổng trì). Cấp sự Lý Đạo Bảo và thứ tử của Bát Nhã Lưu Chi là Đàm Bì, hai người truyền
dịch. Sa môn chùa Đại hưng thiện là Thích Pháp Toản từ Trường an bút thọ thành chữ Hán, cùng chỉnh đốn so sánh văn nghĩa, Sa
môn Ngạn Tôn viết tựa cho cả hai”.
(b) Đại Đường nội điển lục 5 tờ 275a14-19 chép như (a)
(c) Tục Cao tăng truyện 2 tờ 433b2-5 chép y như (b)
(d) Khai nguyên Thích giáo lục 7 tờ 547c8-14 đại cương chép như (a) nhưng thêm chi tiết là các kinh kể trên “dịch vào
năm Khai Hoàng thứ 2 (582) Nhâm dần đời Văn Đế”, và thêm đính chính rằng “Trường Phòng tức (a) nói phiên dịch tại chùa Đại
hưng thiện là sai”.
(e) Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục 10 tờ 646a8-14 chép như (đ). So sánh các tư liệu Trung Quốc vừa dẫn với
nhau, ta thấy ngay một điểm bất thường nổi bật ngay, đấy là việc Khai nguyên Thích giáo lục nói Lịch đại tam bảo ký ghi Tỳ Ni Đa
Lưu Chi dịch những kinh của ông tại chùa Đại hưng thiện là sai, nhưng không nói rõ nếu đúng thì dịch chúng ở đâu. Lịch đại tam
bảo ký do Phí Trường Phòng viết xong năm 597, còn Khai nguyên Thích giáo lục do Trí Thăng soạn năm 730. Việc Thăng phản đối
Phòng về nơi dịch Kinh của Tỳ Ni Đa Lưu Chi rõ ràng muốn nói rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi không bao giờ dịch kinh tại chùa Đại hưng
thiện cả. Ngược lại, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch chúng ở những nơi khác. Nhưng nới khác đây là nơi đâu, Thăng không nói. Do thế,
Thiền uyển tập anh không phải là không có lý, khi nói Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Tượng đầu ở Quảng Châu và kinh Tổng trì ở
nước ta, dầu rằng nó có xuất hiện hậu kỳ. Từ kết luận đây, những chi tiết khác liên quan đến Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Phòng ghi lại vị
tất là có thể đáng tin hoàn toàn. Sự thực, nếu Tỳ Ni Đa Lưu Chi không dịch kinh tại chùa Đại hưng thiện, thì việc “mời vào khiến
dịch kinh” khó có thể tin được.
2 Cương mục chính biên 3 tờ 32a1-3 nói: “Chùa Pháp vân ở tại thôn Văn giáp huyện Thượng phúc tỉnh Hà nội. Tương truyền một
hôm mây mưa sấm chớp nổi lớn, cây si ngã xuống, người trong thôn lấy gỗ nó khắc tượng dựng chùa thờ, nên có tên đó”. Xác
định chùa Pháp vân như vậy, các tác giả Cương mục đã sử dụng tài liệu của Bắc thành địa dư chí lục 3, theo đó “chùa Đại Pháp
vân, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện ở làng Văn giáp, huyện Thượng phúc”. Nhưng đương nhiên chùa Pháp vân nói tới đây không
phải là chùa Pháp vân làng Cổ châu, Long biên, mà thực ra chùa Pháp vũ hay chùa Thành đạo hay chùa Đậu, nơi thờ Pháp vũ.
Vậy chùa Pháp vân làng Cổ châu là chùa nào?.
Làng Cổ châu, Long Biên, nay gồm đất làng Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh. Tại làng này hiện có một chùa
tên Diên ứng và một cây tháp tên Hoà phong.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan viết: “Chùa Diên ứng ở xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn tượng
Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rõ có linh tích. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín
nhịp, di chỉ nay còn. Xét Pháp vân Phật truyện thì lúc Sĩ Nhiếp làm Thái thú cai trị thành Luy lâu, sư Khâu Đà La ở tại núi xanh
phía tây của thành. Có người con gái của Tu Định là A Man bị Sư đụng đến, mà có thai sinh một đứa bé gái. Sư đem bỏ vào trong
một cây lớn ở rừng sâu. Sau gió mưa nổi lớn, cây trốc gốc, trôi nổi trong sông, trôi đến bến Luy lâu. Người ta lấy làm lạ, vớt lên
bờ, sai thợ đẽo bốn pho tượng Phật, dựng chùa gọi là chùa Thiền định…tức nay chùa Diên ứng…, đặt bốn pho tượng Phật phụng
thờ. Sau mỗi lần cầu mưa đều có linh ứng, người ta đặt tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi. Thập Di ký của Lý Tế
Xuyên nói người Cổ châu mỗi năm đến ngày mừng Phật đản thì hội họp tại chùa Thiền định. Trần Nghệ Tôn có ban mỹ hiệu. Sử
nhà Lê chép: Năm Thái Hòa thứ 6 đời Nhân Tôn sai Lê thái úy đến Cổ châu rước Phật Pháp vân về đến chùa Báo thiên ở kinh 95 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Đời trần Đại Kiến thứ 6 (574), năm Giáp ngọ2
, Sư mới đến Trường an. Gặp lúc Chu Võ Đế phá
diệt Phật pháp3
, Sư muốn sang đất Nghiệp4
. Bấy giờ đệ tam tổ Tăng Xán vì tị nạn, nên mang y bát ở ẩn
trong núi Tư không5
. Sư đến gặp Tổ, thấy cử chỉ phi phàm, trong lòng phát niềm kính mộ, bèn đến
trước, chấp tay đứng ba lần. Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư suy nghĩ giây lát, bỗng nhiên lòng như có sở
đắc, liền sụp lạy ba lạy. Tổ gật đầu ba cái mà thôi. Sư lùi ba bước, thưa rằng: “Đệ tử bấy lâu không gặp
thuận tiện, nay nhờ Hoà thượng đại từ bi, cúi xin cho con theo hầu hạ hai bên”.
Tổ dạy “Ngươi nên mau qua phương Nam (44b1) giáo hóa, không nên ở đây lâu”.
Sư từ biệt ra đi, đến Quảng châu trác tích chùa Chế chỉ. Trải qua 6 năm, Sư dịch được kinh
Tượng đầu6
báo nghiệp sai biệt
7
. Đến tháng 3 năm Canh tý đời Chu Đại Tường thứ 2 (580), Sư đến nước
ta ở tại chùa đó, lại dịch ra kinh Tổng tri, 1 quyển (8).
Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền dạy rằng:
“Tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
không thiếu không dư8
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh

thành để cầu mưa”.
Chùa Pháp vân ở Cổ châu, Long Biên tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu tại xã Khương tự huyện Thuận thành tỉnh Bắc ninh
ngày nay.
1
Tức nam Ấn. Nhưng các tư liệu Trung Quốc, đã dẫn đều nói người bắc Thiên trúc, tức bắc Ấn
2
Nguyên bản viết “Nhâm ngọ” là sai, Trần Đại Kiến thứ 6 năm Giáp ngọ.
3
Phật tổ lịch đại thông tải 10 tờ 557a: Năm Giáp ngọ, Chu Vũ Đế, niên hiệu Kiến Đức thứ 3 (574), tháng 5, ngày 17, xuống chiếu
hủy Phật.
4
Nghiệp, bây giờ là kinh đô nhà Bắc Tề.
5
Tổ Tăng Xán, sau khi được truyền pháp, đến ẩn cư trong núi Hoàn công, Thư châu. Gặp lúc Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, ngài
lánh sang núi Tư không, huyện Thái hồ sống không nhất định một nơi nào, trải qua 10 năm…Đến Tùy Khai Hoàng 12 (592),
truyền pháp cho Đạo Tín. Xem Truyền đăng lục 3, ĐTK 2078, tr. 221c.
6
Các tư liệu Trung Quốc, xem chú thích (1) trên đều ghi như nhau. Sư dịch 2 tác phẩm:
(a) Tượng đầu tinh xá kinh 1 quyển (xem ĐTK.466). Chú thích của Trường Phòng (sđd. 102c1): “Năm Khai Hoàng thứ 2
(502), tháng 2 dịch. Bản dịch lần thứ 2, cùng nguyên bản với kinh Già da sơn đỉnh (xem ĐTK.465)”.
(b) Đại phương quảng tổng trì kinh, 1 quyển (xem ĐTK.275). Ghi chú của Trường phòng (sđd): “Khai Hoàng, năm thứ 2,
tháng 7, dịch”.
7
Nghiệp báo sai biệt kinh, 1 quyển; gọi đủ là: Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh, đời Tùy, Cù Đàm Pháp Trí dịch
(xem ĐTK.80) Ghi chú của Trường Phòng: “Khai Hoàng năm thứ 2, tháng 2, dịch…” Bản dịch của Tỳ Ni Đa Lưu Chi phải chăng đã
mất và chắc chắn nội dung không phải thuộc loại kinh này. Bởi vì học lý của Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuyên qua hai bản dịch trên, không
thể nào để cho ông dịch một tác phẩm với một học lý, như nó thể hiện trong bản dịch Nghiệp báo sai biệt kinh ngày nay.
8
Tăng Xán, Tín tâm minh tờ 376b 22-23:
Viên đồng thái hư
Vô khuyết vô dư
Lương do thủ xả
Sở dĩ bất như.
Cũng xem Truyền đăng lục 30 tờ 457a 21-22. 96 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên.
Nên giả đặt tên
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Ngươi cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tình
Cũng dùng như thế mà được
Vả, Tổ ta Xán công
Khi ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa
Không nên (45a1) ở lại đây lâu
Từng trải nhiều nơi
Mới đến được đây
Nay gặp phải ngươi
Quả hợp huyền ký
Ngươi khéo giữ gìn
Giờ đi ta đến.
Nói xong, Sư chấp tay mà mất. Pháp Hiền làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ. Khi ấy
là năm Giáp dần, đời Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).
Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán:
“Mở lối sang nước Nam
Nghe ông giỏi tập Thiền
Mở bày niềm tin Phật
Xa hợp một nguồn tim
Trăng Lăng già vằng vặc
Sen Bát nhã ngát thơm
Bao giờ được gặp mặt
Cùng nhau bàn đạo huyền1

1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a1-3 chép:
Phi Tích lai Nam quốc 97 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Và tặng phong.

Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hiệp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng già nguyệt
Phần phần bát nhã liên
Hà thời tái đắc kiến
Tương dự thoại trùng huyền.
Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản in 1715 ở đây. 98 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Nhất (1 ng ư ờ i )
41. THIỀN SƯ Pháp Hiền (? – 626)
Chùa Chúng thiện, núi Thiên phúc1
, Tiên du, người Châu diên2
, họ Đỗ. Thân cao 7 thước 3 tấc.
Ban đầu, Sư đến thọ giới cụ túc với Đại sư Quán Duyên, chùa Pháp vân. Hàng ngày cùng với Tăng chúng
nghe giảng về yếu chỉ của Thiền. Khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi (45b1) từ Quảng châu đến ở chùa đó, thấy Sư,
nhìn kỹ vào mặt hỏi: “Ngươi họ gì?”
Sư hỏi lại: “Hoà thượng họ gì?”
Lưu Chi lại hỏi: Ngươi không có họ sao?”
Sư đáp: “Họ thì không phải không có, nhưng làm sao Hoà thượng biết?”
Tỳ Ni Đa Lưu Chi quát: “Biết để làm gì?”3
Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp lạy, bèn được Thiền chỉ. Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy, tu
tập thiền định, hình như cây khô, vật, ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người
đương thời nghe tiếng đến học, không thể đếm xiết. Nhân đó, Sư lập chùa, dạy dỗ học trò, Tăng chúng
đến ở thường hơn 300. Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh.
Thứ sử Lưu Phương nhà Tùy đem tâu vua Cao Tổ rằng:
“Phương này bấy lâu sùng kính Phật giáo, mà lại trọng Sư đức độ tiếng tăm”.
Vua Tùy sai sứ ban cho 5 hòm xá lợi của Phật cùng điệp sắc, sai Sư dựng tháp cúng dường4
. Sư
xây tháp tại chùa Pháp vân ở Luy lâu1
và những chùa danh tiếng ở các châu Phong2
, Hoan3
, Trường4
, Ái5
.

1
Tức núi Tiên du ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Xem chú thích (1) truyện Thiền Lão.
2
Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: “Huyện Chu diên, đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê ở
phủ Tam đái, nay tức đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây”.
Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thư 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất Vũ bình thời trước. Ngoài ra,
Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam của trị phủ
Giao châu, mà sau này Độc sử phương dự kỷ yếu 112 tờ 8a3 chép lại, nghĩa là Chu diên ở về phía đông nam của thủ đô Hà Nội
ngày nay. Phần đất của nó như vậy bao gồm trong tỉnh Hưng yên. Kết luận này tỏ ra hợp lý, bởi vì đất Quận Bình, chúng ta đã
đồng nhất với đất những huyện Tiên lữ, Ân thi, Khoái châu, Kim động, Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực.
Hơn nữa truyện Đạo Lâm tờ 66b3 nói Lâm, người Cửu cao, Chu diên. Cứ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 thì Cửu cao là
tên một ngôi làng thuộc “hạt Gia lâm”, nơi xuất thân của những tiến sĩ Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm
1514 v.v…, và khoảng đến năm 1706 thì đổi thành làng Thượng tốn, khi có Đỗ Công Đỉnh đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Như thế, địa phận của Chu diên đời Lý phải gồm luôn tối thiểu phần đất phía đông nam của huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh ngày
nay.
Từ đó, quê của Pháp Hiền tất phải nằm khoảng huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh cho đến những huyện phía bắc tỉnh Hưng
yên.
3
Tham chiếu Truyền đăng lục về cuộc đối thoại đầu tiên giữa Đạo Tín và Hoằng Nhẫn: “Một hôm Tín đến huyện Hoàng mai, giữa
đường gặp một đứa trẻ cốt tướng kỳ vĩ, khác với trẻ thường. Sư hỏi: “Con họ gì?” Trẻ đáp: “Là họ Phật.” Sư hỏi: “Ngươi không có
họ sao?” Trẻ đáp: “Tánh không vậy”. Sư lặng biết nó là một bậc tài giỏi của đạo, liền sai người hầu đến nhà nó gặp cha mẹ, xin
cho nó xuất gia. Cha mẹ cho là có duyên xưa, nên không có chút vẻ làm khó khăn, liền cho đi làm đệ tử, có tên gọi Hoằng Nhẫn”.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 222b10-16.
4 Tục Cao tăng truyện 18 tờ 573b25-c14 trong truyện của Đàm Thiên ghi rõ là vua Tùy Cao Tổ ban xá lợi gồm cả thảy ba lần. Lần
đầu cho 30 châu chỗ ở hơn ba mươi châu vào tháng 6, năm Nhân Thọ thứ nhất (601). Lần thứ hai cho 51 châu khác vào tháng
giêng năm sau. Và lần thứ ba vào tháng giêng năm Nhân Thọ thứ 4 (604), ra lệnh các châu lớn xây thêm hơn một trăm bảo tháp,
để nhận thêm xá lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì lần ban xá lợi thứ nhất, chùa Thiền
chúng của Giao châu được chọn làm một trong 30 chỗ xây tháp của Cao Tổ. Nhưng năm đó, cứ Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư 4
tờ 23a1-8 và Tùy thư 2 tờ 10a6-7, nước ta hiện đang là một nước độc lập dưới quyền lãnh đạo của Lý Phật Tử, thì làm sao Cao
Tổ có thể ban xá lợi qua được. Hơn nữa, nếu việc dẫn Pháp sư Đàm Thiên truyện ở trên của Thông Biện có thể tin được, thì hai
năm sau, tức 504, khi mà chính quyền dân tộc của Lý Phật Tử đã bị Lưu Phương đánh dẹp, và khi mà Cao Tổ có những báo cáo 99 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
{Việc này nói rõ trong truyện của Thiền sư Thông Biện} Về sau, năm Bính tuất Đường Vũ Đức
thứ 9 (626) (46a1), Sư thị tịch.

rõ ràng về tình hình Giao châu, Cao Tổ đang còn lo cho việc Giao châu được giáo hóa theo Phật giáo. Nếu vậy, Giao châu làm gì
mà được chọn làm một chỗ thanh tịnh giữa 30 mươi chỗ khác của Trung Quốc? Cho nên, chắc phải sau năm 602 khi Lưu Phương
đã dụ hàng thành công Lý Sư Lợi, người con nối nghiệp của Lý Phật Tử, thì mới có chuyện ban xá lợi cho Giao châu. Việc ban năm
hòm xá lợi cùng một lần do thế là một có thể, và việc Pháp Hiền chọn chùa Pháp vân, chứ không phải chùa Thiền chúng của Xá
lợi cảm ứng ký làm nơi xây bảo tháp là một sự thực.
1
Xá lợi cảm ứng ký của Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 nói xây tháp tại chùa Thiền chúng để cúng dường xá lợi ở Giao châu.
Nhưng đây nói là “xây ở chùa Pháp vân của Luy lâu”, thì tỏ ra đúng sự thực hơn. Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 6a5-7 thì vào năm 1034
“các nhà sư Pháp vân ở Cổ châu dâng thư nói rằng trong chùa phóng ánh sáng ra vài luồng, theo ánh sáng đó mà đào lên thì
được hòm đá một hòm, trong hòm có hòm bạc, trong hòm bạc có hòm vàng, trong hòm vàng có bình lưu ly, trong bình có xá lợi”.
Cái hòm nói đến đến đây dĩ nhiên là cái hòm xá lợi mà Tùy Cao Tổ đã ban, bởi vì theo Xá lợi cảm ứng ký của Quảng Hoằng minh
tập 17 tờ 213a18-22 đã mô tả với một sai khác không quan trọng là, thay vì bình bạc, nó có bình đồng bên trong bình đá.
2 Cương mục tiền biên 1 tờ 1b7-2a3 viết: “Phong châu, sử cũ chua là Bạch hạc. Địa lý chí đời Đường nói Phong châu gồm năm
huyện. Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc sử chép quận Thừa hóa của Phong châu tức nước Văn lang xưa. Thế thì, Phong châu tức
nay thuộc địa hạt cả phủ Vĩnh Tường và Lâm thao, tỉnh Sơn tây.
3 Cương mục tiền biên 4 tờ 15b2-6 viết: “Hoan châu xưa là bộ Hoài hoan đời Hùng Vương, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán
thuộc quận Nhật Nam, đời Lương đổi Đức châu. Đời Tùy Khai Hoàng đổi Hoan châu, khoảng Đại Nghiệp đổi Nhật nam, Đời Đường
Trinh Quán lại đặt Hoan châu. Đời Đinh Lê nhân theo. Đời Lý đổi làm châu Nghệ an. Đời Trần cải trấn Lâm Giang. Đời thuộc Minh
là các phủ Nghệ An và Diễn Châu. Đời Lê Quang Thuận đặt Nghệ An Thừa tuyên. Nay là tỉnh Nghệ An”. Đất Hoan châu hiện nay
thuộc tỉnh Nghệ tĩnh.
4 Cương mục tiền biên 4 tờ 20b1-2 nói: “Trường châu, xưa là bộ Vũ định, nay là tỉnh Tuyên quang”. Nhưng Cựu Đường thư 41 tờ
42a11-12 nói Trường châu ở phía Tây nam của giao châu, còn Ái châu ở phía tây của châu đó. Ngoài ra, ở tờ 44b8-9 nó viết:
“Trường châu, thổ tục nó giống với Cửu chân. Đời Đường đặt Trường châu. Năm tháng bắt đầu nó nay đã mất. Năm Thiên bảo
thứ nhất (742) đổi làm quận Văn dương. Năm Càn Nguyên thứ nhất (758) lại đặt Trường châu, gồm bốn huyện Văn dương, Đồng
thái, Trường Sơn và Kỳ thường, đều cùng đặt với châu một lần”.
Cứ vào báo cáo đó của Cựu Đường thơ thì Trường châu rõ ràng phải rơi vào địa phận những tỉnh Ninh bình, Nam định
ngày nay, chứ có thể nào lại ở tại tỉnh Tuyên quang, như Cương mục đã có. Bởi vì không những thổ tục ở Trường châu giống Ái
châu, mà ngay cả vị trí của chúng cũng liên tiếp nhau, đây là Trường châu ở phía tây nam tị phủ Giao châu, trong khi Ái châu ở
phía tây.
5
Cựu Đường thư 41 tờ 43b8 nói: “Ái châu, đời Tùy là quận Cửu chân. Năm Vũ Đức thứ 5 (622) đặt Ái châu, gồm bốn huyện Cửu
chân, Tùng nguyên, Dương sơn và An Định”. Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách nói: “Tỉnh Thanh
hóa, xưa thời Hùng Vương là quận Cửu chân, Đời Lưỡng Hán nhân theo tên quận cũ thuộc Giao chỉ. Đời Ngô năm Nguyên Hưng
thứ 1 (264) phân một huyện của quận Cửu chân, mà đặt quận Cửu đức. Đời Tấn và Tống nhân theo. Đời Nam Tề lúc đầu ở quận
Cửu chân đặt thêm Cao an, Quân an và Đô lung mà làm thành 10 huyện. Vua Vũ Đế lấy quận Cửu chân làm Ái châu, và tên Ái
châu bắt đầu từ đây. Đời Tùy lúc đầu thì gọi Ái châu, sau đổi tên gọi là quận Cửu chân gồm 7 huyện. Đời Đường gọi Ái châu gồm
huyện Cửu chân 6 huyện. Đời Minh phân làm đạo. Đời Lê đổi làm lộ. Đời Lý năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đổi làm trại, sau cải
làm phủ Thanh hóa…Xem việc ghi thời Lý Nhân Tôn, tên Thanh hóa bắt đầu từ đây. Đời Trần năm Thiên Ứng Chính Bình 11
(1242) định làm lộ Thanh hóa. Năm Nguyên Phong thứ 3 (1253) đổi làm trại. Trong khoảng Thiệu Long lại làm lộ gồm sở thuộc ba
lộ Thanh hóa, Cửu chân và Ái châu, sau gọi là trấn…Đời thuộc Minh gọi là phủ Thanh hóa. Lê Quang Thuận năm thứ 1 (1460)
thuộc đạo Hải tây. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Thanh hóa thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) cải làm Thanh hóa thừa
tuyên… Gia Long năm thứ nhất (1808) triều ta gọi là trấn Thanh hóa… Năm Thiệu Trị thứ 1 (1840) cải làm tỉnh Thanh hóa …”
Nay là đất tỉnh Thanh hóa. 100 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Hai (1 ng ư ờ i)
Thế Hệ Thứ Ba (1 ng ư ờ i)
Thế Hệ Thứ Tư (1 ng ư ờ i)
42. THIỀN SƯ Thanh Biện (? – 686)
Chùa Kiến dương, làng Hoa lâm, phủ Thiên đức1
. Người Cổ giao2
, họ Đỗ. Năm 12 tuổi theo Pháp
Đăng chùa Phổ Quang3
tu học. Khi Đăng sắp tịch, Sư hỏi:
“Sau khi Hoà thượng đi, con sẽ nương tựa vào đâu?”
Đăng dạy: “Con chỉ Sùng nghiệp mà thôi”.
Sư hoang mang không hiểu. Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim cang làm sự nghiệp.
Một hôm có Thiền khách đến viếng hỏi:
“Kinh này là mẹ của ba đời các Đức Phật. Vậy thì nghĩa của mẹ Phật là thế nào?”
Sư đáp: “Lâu nay tôi trì tụng nhưng chưa hiểu được ý kinh”.
Thiền khách hỏi: “Thầy trì kinh đã bao lâu?”
Sư đáp: “Đã tám năm”
Thiền khách hỏi: “(46b1) Thầy trì kinh đã tám năm mà ý một cuốn kinh không hiểu, thì dầu trì
mãi đến trăm năm nào có ích gì?”
Sư bèn đảnh lễ, lại hỏi về chỗ tiến ích.
Người khách bảo nên đến Huệ Nghiêm ở chùa Sùng nghiệp để được giải quyết. Sư sực tỉnh nói:
“Ta nay mới biết lời nói của Pháp Đăng, quả thật phù hợp”. Bèn liền làm theo.
Vừa đến chùa, Huệ Nghiêm hỏi: “Ngươi đến đây có việc gì?”
Sư thưa: “Con trong tâm có chỗ chưa ổn”.

1 Toàn thư B5 tờ 7b6-9 nhân nói về Trần Thủ Độ chôn sống tôn thất nhà Lý vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 1 (1232) viết: “Mùa
đông năm đó nhân khi họ đến bái yết Tiên hậu ở Thái đường Hoa lâm. Thủ Độ ngầm đào một hầm sâu dựng nhà ở trên, đợi khi
các người họ Lý uống rượu say, bèn liền giựt máy, chôn sống hết”. Cương mục chính biên 6 tờ 13a2 chú rằng: “Hoa lâm là tên xã.
Thái đường là tên thôn, đều thuộc huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Hoa lâm
hạt Đông ngạn, quê hương của Trịnh Xuân Chú tiến sĩ khoa 1743. Làng Hoa lâm, phủ Thiên đức đây như vậy chắc chắn là làng
này. Nếu vậy, làng Hoa lâm ngày nay phải nằm tại huyện Từ sơn tỉnh Bắc ninh. Làng Hoa lâm của Trịnh Xuân Chú hiện gọi là
Danh lâm, tên gọi đời Nguyễn. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, phần Tục biên, có ghi Trịnh Xuân Thưởng tiến sĩ khoa 1847 là
người làng Danh lâm, huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh.
2
Cái tên Cổ giao được Thiền uyển tập anh kể tới ba lần. Một ở đây. Một ở truyện Khánh Hỷ tờ 61a3 và một ở truyện Tịnh Thiền tờ
68a3. Hai lần nhắc sau đều ghi “làng Cổ giao, Long Biên”. Cứ vào đấy thì làng Cổ giao phải nằm tại một làng nào đó chung quanh
làng Cổ châu, tức những làng Khương tự và Đại tự huyện Thuận Thành hiện nay, bởi vì chùa Pháp vân làng Cổ châu ở Long biên,
mà ta đã xác định được vị trí của làng Cổ châu, nghĩa là vị trí thực sự của một thành phần Long Biên, là ở tại Khương tự và Đại tự.
Chúng tôi hiện chưa có dịp điều tra hiện địa vùng này, nên không thể xác nhận rõ làng Cổ giao phải là làng nào hiện nay tại tỉnh
Hà bắc. Có người đồng nhất làng Cổ giao với Cổ điển thuộc huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông, nhưng không biết dựa vào đâu. Xem
Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt nam tr.190 và Gaspardone, Bibliographie Annamite, BEFEO XXXIV (1934) 215.
3
Chùa Phổ Quang này rất có thể là chùa Phổ quang tại làng Nghĩa trú huyện Văn giang, mà Tam tổ thực lục tờ 26a4 nói tới như là
chỗ ở của Trùng Chiếu người chủ trì việc đúc 1000 tượng Phật vào năm 1322. 101 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Nghiêm hỏi: “Ngươi chưa ổn cái gì?”
Sư liền đem việc trước thuật lại. Nghiêm bèn than rằng:
“Ngươi tự quên mất rồi. Không nhớ trong kinh nói: “Ba đời các Đức Phật cùng giáo pháp A nậu
đa la tam miệu tam bồ đề của các đức Phật, đều từ kinh ấy ra”.1
Há đó chẳng phải là ý nghĩa của mẹ
Phật sao?”
Sư thưa: “Phải, phải, đó là chỗ con đã mê muội vậy”.
Nghiêm lại hỏi: “Kinh đó là người nào nói?”
Sư đáp: “Há không phải Như Lai nói sao?”
Nghiêm hỏi: “Trong kinh nói: Nếu ai nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người
ấy không (47a1) thể hiểu nghĩa ta nói. Ngươi nên khéo suy nghĩ, nếu bảo kinh này không phải là Phật
nói tức là hủy báng Phật; nếu bảo nó do Phật nói tức là hủy báng kinh. Ngươi phải làm sao? Nói mau !
Nói mau !”2
Sư sắp mở miệng, Nghiêm cầm cái phất trần đánh ngay vào miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn
sụp xuống lạy. Sau Sư đến chùa Kiến dương, dạy dỗ đồ chúng.
Hoá duyên hoàn tất, Sư tịch vào năm Bính tuất, đời Đường Thùy Củng thứ 2 (686).

1
Dẫn kinh Kim cang: “Nhất thiết chư Phật cập chư Phật a nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử kim xuất”. (Tất cả các
đức Phật và giáo pháp giác ngộ không gì hơn của các Đức Phật đó đều từ kinh đấy mà ra). Xem Kim cang bát nhã ba la mật kinh
tờ 74b23.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Phạn: Anuttara-samyak-sambodhi, nghĩa là sự giác ngộ đúng đắn không gì hơn.
2 Đại Châu Huệ hỏi một vị tăng giảng kinh Kim cang: “Kinh đó là do ai nói?. Tăng lên tiếng nói: “Thiền sư sắp đùa rồi đấy. Há không
biết là Phật nói sao?”. Sư đáp: “Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp là hủy báng Phật, người đó không hiểu ý nghĩa những điều
do ta nói. Nếu bảo kinh đó không phải là do Phật nói tức là hủy báng kinh. Xin Đại đức trả lời xem”. Vị Tăng không trả lời được.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-6. 102 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Năm (1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
Thế Hệ Thứ Sáu (1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
Thế Hệ Thứ Bảy (1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
Thế Hệ Thứ Tám (3 ng ư ờ i, 2 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
43. THIỀN SƯ Định Không (? – 808)
Chùa Thiền chúng1
, làng Dịch bảng, phủ Thiên Đức. Người Cổ pháp2
, họ Nguyễn, mấy đời là
vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc (47b1). Người trong làng tôn thờ, đều
gọi là trưởng lão.
Về già, Sư đến Pháp hội của Nam dương ở Long tuyền nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó Sư
phát tâm theo Phật.
Trong khoảng Đường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Quỳnh lâm ở làng mình. Khi mới đào
đất đắp nền, gặp một lư hương và 10 cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi,
đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ, chữ thủy, chữ khứ
hợp thành chữ pháp, chữ thổ chỉ chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ
pháp {Tên cũ là Diên Uẩn}. Sư lại làm bài tụng rằng:
“Đất bày pháp khí
Một món đồ ròng
Để Phật pháp được hưng long
Đặt tên làng là Cổ pháp”.
Sư lại nói:
Hiện ra pháp khí
Mười hai chuông đồng

1 Cảm ứng xá lợi ký do Vương Thiệu viết vào cuối năm 601 dẫn trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 có ghi chùa Thiền chúng
như là nơi dựng tháp rước xá lợi vào năm đó tại Giao châu. Thiền uyển tập anh nói dựng tháp nơi chùa Pháp vân, có lẽ hợp lý
hơn. Xem chú thích (5) truyện Pháp Hiền. Làng Dịch bảng nay là làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Ở làng này nay còn
có chùa nào tên Thiền chúng hay không, chúng tôi hiện chưa biết.
2 Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 nói: “Cổ pháp, tên châu, đời Đinh về trước là châu Cổ lãm, đời Lê đổi Cổ pháp , đời Lý thăng
làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Đông ngạn. Đời Hậu Lê nhân theo. Nay là huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh”. Nhưng
truyện đây nói Định Không “đổi tên làng mình thành Cổ pháp rồi chua thêm “tên cũ là Diên uẩn”. Như vậy, Cổ pháp nguyên là tên
một làng từ thời Định Không, sau đó tới thời Lê mới trở thành tên châu. Thực tế, ta không hiểu tại sao nếu Không đã đổi Diên uẩn
thành Cổ pháp thì tại sao cho đến thời Lý Công Uẩn vẫn còn có tên Diên Uẩn. Viết về việc sét đánh thành sấm báo hiệu sự lên
ngôi của Uẩn, Toàn thư B1 tờ 31a7-8 nói: “Nguyên trước cây bông gạo làng Diên uẩn, Cổ pháp bị sét đánh”, trong khi đó Đại Việt
sử lược 2 tờ 1a9 chép: “Trong làng vua ở có cây bông gạo bị sét đánh”. Rõ ràng làng của Lý Công Uẩn ở có tên Diên uẩn, và đây
là vào thời Lý. Thế sao, ở đấy truyện bảo Không đổi tên Diên uẩn, thành Cổ pháp?. Dầu sao đi nữa Diên Uẩn cũng là Cổ pháp, và
Cổ pháp là làng Đình bảng hay làng Dịch bảng sau này.
Cương mục chính biên 2 tờ 7b2, nhân chú về chùa làng Cổ pháp, nói “chùa Cổ pháp ở tại xã Đình bảng, huyện Đông
ngạn, tỉnh Bắc ninh”. Làng Cổ pháp của Định Không do đó là làng Đình bảng, huyện Từ sơn hiện nay.
Trong cả bản in đời Lê lẫn đời Nguyễn chỉ ghi “Định Không cổ nhân”, nhưng chúng tôi ở đây đã thêm chữ pháp thành
“người Cổ pháp”, bởi vì truyện Định Không đây rõ ràng nói Không người Cổ pháp. 103 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Họ Lý làm vua
Ba phẩm thành công”.
Sư lại nói:
“Mười cái xuống nước đất
Cổ pháp đấy tên làng
Gà sau tháng chuột ở1
Chính lúc Tam bảo hưng”.
Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng:
“Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa (48a1), chắc có kẻ lạ đến phá hoại
đất nước ta. {Sau Cao Biền của nhà Đường đến trấn yếm. Quả đúng} Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp
này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy”.
Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu tý Đường Nguyên Hòa thứ 3
(808)2
. Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục tổ3
và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn dấu đi.

1
Nguyên văn: Kê cư loan nguyệt hậu. “Loan nguyệt” nghi là một viết sai của chữ thử nguyệt, mà sau này La Quý dùng trong một
câu tương tự: “Thố kê thử nguyệt nội”, để nói tới việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 11, tức tháng con chuột, tức thử nguyệt
của năm con gà, tức năm Kỷ dậu Cảnh Thụy thứ 2 (1009). Chúng tôi dựa vào cách hiểu đây và dịch là “tháng chuột”. Chữ loan và
chữ thử, tự dạng chúng khá giống nhau.
2
Nguyên văn: Đường Nguyên Hòa tam niên bính tý. Nhưng Đường Nguyên Hoà năm thứ 3, cứ Cựu Đường thư thì phải là năm Mậu
tý, chứ không phải Bính tý. Chữ Bính chắc chắn là một viết lộn của chữ Mậu.
3
Chùa Lục tổ đây tức cũng ở làng Dịch bảng. Xem chú thích (1) truyện Thường Chiếu. 104 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Chín (3 ng ư ờ i, đ ề u khuy ế t l ụ c)
Thế Hệ Thứ Mười (4 ng ư ờ i, 1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c )
44. TRƯỞNG LÃO La Quý
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, Phủ Thiên đức1
. Người An chân2
, họ Đinh. Thuở nhỏ vân du các
phương, khắp hỏi các bậc thiền. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại
pháp hội của Thông Thiện ở chùa Thiền chúng nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ
làm thầy.
Khi Thiền sắp tịch, gọi Sư đến dạy: “Xưa thầy ta là Định Công, căn dặn ta rằng: con khéo giữ
pháp của ta, gặp người họ Đinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay (48a1) đi vậy”.
Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào tất là phù
sấm. Sư có lần ở chùa Lục tổ, đúc tượng Lục tổ bằng vàng, sau sợ trộm cướp nên đem chôn ở cửa chùa
và dặn: “Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối thì dấu”.
Khi sắp tịch, Sư dạy đệ tử là Thiền Ông rằng: “Xưa kia, Cao Biền3
xây thành bên sông Tô lịch,
biết đất Cổ pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm4
và những ao Phù chẩn5
v.v…
đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa ở chùa Châu minh6
ta
có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ dứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Chánh
pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ
cho người thấy”.
Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi.

1
Tức làng Phù ninh huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thường Chiếu.
2
Bắc thành địa dư chí lục 4 có liệt ra hai xã mang tên An chân thuộc trấn Sơn nam hạ. Một thuộc tổng Đông hối huyện Thanh
quan, phủ Tiên hưng. Và một tổng Đông Chân, huyện Quỳnh côi, phủ Thái bình. Hai huyện này ngày nay đều thuộc tỉnh Thái
bình. Huyện Thanh quan nay là huyện Thái bình, còn huyện Quỳnh côi nay vẫn giữ tên cũ. Chúng tôi hiện chưa biết làng An chân
nào là quê quán của La Quý.
Ngoài ra cũng cần thêm là, chữ “An chân” có thể là một viết sai của An trinh. Chữ chân với chữ trinh, tự dạng chúng rất
giống nhau. Thực ra nếu La Quý là người An trinh, thì nó hợp lý hơn. Bởi vì cứ truyện Định Huệ tờ 53a9 thì làng An trinh thuộc
phủ Thiên đức, còn truyện La Quý ở đây để cho thấy La Quý hình như có quê quán tại Cổ pháp với những câu nói như “đất Cổ
pháp ta” hay những việc làm như trồng cây bông gạo tại chùa Châu minh.
3
Cao Biền (? – 887) bắt đầu xây thành khoảng vào tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866). Thành đây là thành Đại la, nằm tại địa
phận thủ đô Hà nội ngày nay. Xem Đại Việt sử lược 1 tờ 12b2 và Toàn thư B5 tờ 14b-15a. Về sông Tô lịch, xem chú thích (9)
truyện Đạo Hạnh.
4
Sông Điềm hay là Điềm Giang, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một tài liệu nào khác nói tới, nhưng nghi nó có thể chỉ sông Đuống,
tức sông Thiên đức cũ. Tuy nhiên, sông Thiên đức chưa từng có tên sông Điềm, như tài liệu hiện tại cho biết. Có thể sông Điềm là
sông Thiên đức hay một nhánh nó chảy qua làng Vân điềm huyện Từ Sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục
có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ làng Vân điềm, hạt Đông ngạn như Nguyễn Quán khoa 1595, Nguyễn Nghi khoa 1619 …
5
Ao Phù chẩn chắc nằm tại làng Phù chẩn huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc ngày nay. Bởi vì Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 có ghi
một số người đậu các khoa tiến sĩ đến từ làng Phù chẩn, huyện Đông ngạn như Trần Cô trạng nguyên khoa 1266, Nguyễn Thì
Phùng tiến sĩ khoa 1508, Nguyễn Niệm và Nguyễn Hiên khoa 1588, Nguyễn Xuân Chỉ khoa 1637, Nguyễn Đình Bảng khoa 1670
v.v… Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Từ miếu, có ghi miếu vua Lê Uy Mục ở xã Phù chẩn, huyện Đông ngạn.
Những ao khác đào tại vùng xung quanh Phù chẩn này, ngày nay ta không biết và chắc không bao giờ ta biết, vì truyện
nói “La Quý khuyên Khúc Lãm lấp chúng lại như xưa”.
6
Cây bông gạo chùa Châu minh này chắc là cây bông gạo làng Diên uẩn, nơi đã bị sét đánh thành bài sấm tuyên truyền cho sự lên
ngôi của Lý Công Uẩn, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 1a-b và Toàn thư B1 tờ 31a-32 đã chép lại… Xem chú thích (8) truyện Vạn Hạnh. 105 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Lại kể rằng, vào năm Bính thân đời Đường Thanh Thái thứ 3 (936). Sư trồng cây bông gạo,
thường có làm bài thơ kệ rằng:
(49a1) “Đại sơn đầu rồng ngững
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên”. (49a1).1
45. THIỀN SƯ Pháp Thuận (925-990)
Chùa Cổ sơn, làng Thừ, quận Aũi
2
. Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài
giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long thọ làm thầy. Sau khi đắc
pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.
Đang vào lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi
thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không
gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư3
.

1
Nguyên văn:
“Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh”.
Đây là một bài thơ tuyên truyền cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Và nhà Lý quả ra đời vào tháng 10 năm Đinh
dậu Cảnh Thụy thứ hai (1009). Bài này do thế có thể sáng tác trước lúc Lý Công Uẩn lên ngôi không bao xa.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có ghi một ngọn núi tên Cổ sơn, và nói “nó nằm tại phía đông huyện Tam
dương, cách huyện lỵ 6 dặm”. Rồi sau đó lại ghi thêm một ngọn núi khác tên Lộng sơn và cũng chua “tục gọi là núi Trống”. Núi
này cũng “ở phía đông của huyện tại xã Tam lộng, trên có miếu Long sơn thần”. Cổ sơn với Lộng sơn như vậy là một. Thế thì,
phải chăng chùa Cổ sơn của Pháp Thuận nằm tại núi này? Đó là một có thể.
Nhưng Hồng Đức bản đồ tr.78-79 trong Thiên nam tứ chí lộ đồ thư có ghi tên một chợ gọi là chợ Aũi, rồi chua thêm “có
núi Tượng bốn bên như rồng bao bọc không hở”. Khảo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Phố thị, không thấy nói chợ
nào tên chợ Aũi cả. Nhưng về núi Tượng, nó viết ở quyển 16 tờ 40a1 rằng “núi Tượng ở tại xã Bất quần phía tây huyện Quảng
xương, giữa đồng ruộng bỗng nổi lên một ngọn núi đá. Núi nhỏ mà cao, sắc xanh mà lạ, dáng giống như voi phục. Trạng nguyên
Trịnh Huệ đời Lê dựng am đọc sách dưới chân núi đó”. Cổ sơn của Pháp Thuận chẳng qua là núi Tượng này? Và Ái quận phải
chăng là chợ Ái đây? Chúng tôi hiện chưa trả lời được và chỉ xin nêu ra ý kiến kêu gọi sự đóng góp của những người hiểu biết
khác.
3
Nguyên văn: _ dĩ văn hàn chi nhiệm. Số văn thư đầu triều Lê Đại Hành do Pháp Thuận thảo ra, ngày nay đã thất lạc hết. Chỉ còn
một lá thư xin cho Đinh truyền do Giang Cự Hoàng và Vương Thiệu Tộ mang sang triều đình nhà Tống vào năm 980, mà Toàn thư
B1 12a8-b2 và Tống hội yếu 197 tờ 7724a-b đã chép lại. Văn cú của hai bản chép này khác nhau, nên chúng tôi chép ra cả hai, để
cho thấy một phần nào văn tài của Pháp Thuận.
Toàn thư chép: “Thần phụ mỗ huyễnh mỗ, câu hà quốc ân, thiêm phân môn ký, cẩn bảo phong giới, cảm hữu bối vi, hản
mã lao vị thi, triêu lộ chi bi dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quản nội quân dân tướng sứ, phiên duệ kỳ diệt
đẳng, cọng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân thống chi sự. Thần khẩn từ số tứ, thỉnh bức dủ kiên. Tương truyền tấu trần,
hựu lự khể tuy sơn dã khoáng ác chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ tình, khủng hoặc sinh dị biến. Thần cẩn dĩ
nhiếp tiết độ hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng, giả dĩ chân mạng, lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần tân trung chi
tâm, cử thánh đại diên”.
Tổng hội yếu chép: “Thần thế triều tưởng, tị xử x chế ư man tựu, tu chức cống ư tế lữ, thuộc tư môn chi bạc hựu, trỉ tuấn
mảng cảm khể ư trợ tế, mao thổ thế cập vị dự ư thủ phiên. Thần phụ Tiên xử Lin, câu hà quốc ân, thiêm phân khổn ký, cẩn bảo
phong lược, võng cảm đải hoàng, hản mã chi lao vị thi, lộ triều chi bỉ dĩ cập. Thần đường cấu tương hoại, ai thường vị trừ, quảng
nội tướng lại quân dân, phương duệ kỳ diệt đẳng, cộng nghệ triêm khôi chi thủ, đắc quyền quân lữ chi sự, Thần khẩn từ sổ tứ,
thỉnh bức dủ kiên. Tỷ sỹ tấu trần, hựu lự khể tuy. Sơn thành ngoan khoáng chi tục, động hác giảo hoạt chi dân, thảng bất tuẩn kỳ106 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Năm Thiên Phúc thứ 7 (987) người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm kẻ lái
đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng:
“Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó ven trời”.
Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp:
“Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng (49b1) bơi”
Giác do đó thán phục1
Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh”
Năm Hưng Thống thứ 2 (990) sư tịch, thọ 76 tuổi. Sư thường viết Bồ tát hiệu sám hối văn 1
quyển, lưu hành ở đời.

tình, khủng nhân nhi sinh biến. Thần cẩn dĩ nhiếp tiết x hành quân tư mã quyền lĩnh châu quân sự. Phục vọng tích dĩ chân mạng,
lịnh bị liệt phiên, ủy vi thần trung tẩn chi tâm, x thưởng diên chi điển, khắc thiệu di nghiệp, nhân phủ vin di, đồng trụ chi hư già
tuyên ngự hải chi lực tượng khuyết, x hiệu hiến thâm chi thành”. Những chữ x là tượng trưng cho những chữ bị thiếu trong bản
chép.
1
Tham chiếu Toàn thư B1 tờ 18a5-8: “Thiên Phúc năm thứ 8 (987) nhà Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ vua sai Pháp
sư tên Thuận giả làm người lái đò, đi đón. Giác rất giỏi bàn luận văn chương. Gặp lúc có hai con nga bơi trên mặt nước, Giác vui
ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng?
Ngửa mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, tiếp vận theo rằng:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng làm lạ, làm thơ gửi cho Sư rằng:
May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợt sứ Giao châu
Đông đô đôi biệt lòng thêm luyến
Nam Việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biêc thả dòng đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm thấy trăng thu.
Thuận đem thơ dâng vua cho triệu Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt thưa: “Bài thơ này có ý tôn bệ hạ cùng với chúa nó
không khác”. Vua khen ý ấy, ban thưởng rất hậu”.
Bài thơ đôi con ngỗng trên dĩ nhiên không tượng trưng gì hơn một giai thoại ngoại giao, chứng tỏ niềm tự tín và sự lớn
mạnh về văn hóa của một dân tộc vừa mới lập quốc chưa đầy 90 năm. Bởi vì nó chỉ là một nhuận sắc khác tinh tế cái bài thơ Vịnh
nga, mà Lạc Tân Vương làm khi mới hơn 10 tuổi và Toàn Đường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép như:
Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba. 107 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
46. THIỀN SƯ Ma Ha (Tên cũ là Ma Ha Ma Gia)
Chùa Quan ái, làng Đào gia, Cổ miệt
1
. Tổ tiên là giống người Chiêm thành, sau mạo tánh họ
Dương. Cha tên Bối Đà, rành về sách bối, làm quan dưới triều Lê với chức Bối {Xưa gọi là Đà Phan}2
. Lớn
lên, Sư là người có hiểu biết thấu đáo mọi việc, học thông cả hai ngôn ngữ Hán và Phạn.
Năm 24 tuổi, Sư nối nghiệp cha, tiếp tục trụ trì ngôi chùa cũ. Thường vào những lúc diễn tập
kinh bối, Sư thấy Hộ pháp, Thiện thần quở rằng: “Sao dùng cái học bên ngoài đó3
, chắc chắn không hiểu
được nghĩa lý”. Sư do đó bị mù, rất tự hối lỗi. Khi sắp gieo mình xuống vực sâu mà chết thì gặp Viễn Biệt
chùa Đông lâm(50a1) ngăn rằng: “Đừng ! Đừng !”. Sư nghe lời đó liền tỉnh ngộ.
Về sau, Sư đến chùa Cổ sơn thọ giáo với Đỗ Pháp Thuận. Sư chuyên việc sám hối và trì tụng Đại
bi tâm chú4
, trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ bèn được Bồ tát Quan Âm lấy nước sạch cành
dương rưới lên đầu mặt, mắt bỗng nhiên sáng lại và lòng càng thêm thanh tịnh.
Năm Thuận Thiên thứ 5 (1014), Sư dời về ở núi Đạt vân5
tại Trường an, ngày ngày siêng năng tu
tập, đạt được Tổng trì tam muội và các ảo thuật, người đời không lường nổi.
Hoàng đế Lê Đại Hành1
ba lần mời Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ chấp tay cúi đầu mà thôi. Bắt
đến lần thứ ba, Sư mới đáp: “Cuồng tăng ở chùa Quan ái”. Vua cả giận, sai giam Sư ở chùa Vạn tuế

1 Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi hai xã mang tên Cổ miệt thuộc tổng Hương đại, huyện Thanh hà, trấn Hải dương tức nay huyện
Thanh hà, huyện Hải dương. Dưới mỗi tên, người viết còn chua thêm hai thôn, đấy là thôn Tràng liệt và thôn Khánh mậu, thì như
vậy, Cổ miệt trước chắc địa phận rộng hơn những xã cũng có tên đây. Nhưng tại tổng Hương đại cũng như trong toàn huyện
Thanh hà, chúng tôi không thấy ghi một xã thôn nào có tên Đào gia cả. Điểm chắc chắn là Cổ miệt phải ở vùng huyện Thanh hà,
huyện Hải dương, bởi vì tỉnh này vốn là đất Hồng lộ thời Lý Trần, như Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên
cách nói: Mà ta biết vào thời Lý có một làng Cổ miệt thuộc Hồng lộ. Đại Việt sử lược 3 tờ 18b1-4 viết: “Trị Bình Long Ứng năm thứ
4 (1208) trộm cướp nhân đó nổi lên như ong… vua sai Thượng phẩm phụng ngụ Phạm Bỉnh Di đem người Đằng châu đi chống,
mà Phạm Du thì lại về làng Cổ miệt cùng với người Hồng lộ là Đoàn Thượng và Đoàn Chủ gặp nhau đánh Đằng châu. Người Đằng
châu xin Bỉnh Di đánh Du, không dẹp được bèn trở về”.
2
Bối thông thường là một phiên âm tiêu chuẩn của chữ Phạn Bhanna tiếng phạn và Bhanna tiếng ba lị. Xem Thập luật tụng 37 tờ
269c18-19: Phật ngôn: “Thính nhữ tác thanh bối”. So sánh với Cullavagga.v. 3: Bhagavato etam attham ârocesum: anujânâmi
bhikkhave sarabhannam ti. Nó thông thường cũng là một gọi tắt của chữ Bối nặc. Xem Tứ phần luật 3 tờ 587 b21-23 và Sa di tắc
bộ hoà ê ngũ phần luật. Và Bối nặc đúng ra là phiên âm tiêu chuẩn của Bhannaka hay Bhãnnaka. Vậy Bối và Bối nặc là gì? Cứ
những tư liệu vừa dẫn Bối hay Bhanna là một lối đọc kinh Phật giáo với những nốt nhạc, nên nó cũng thường được gọi là Thanh
bối hay Svarabhanna tiếng phạn và Sarabhanna tiếng ba lị. Nó khác với lối đọc kinh theo lối ca hát với giọng dài của những người
theo Vệ đà, mà Thập tụng luật cho là có tác dụng chính yếu là “làm cho mình và người khác tham trước”, trong khi tác dụng của
nó là làm cho người đọc và người nghe khỏi mệt mỏi và giữ được sự trong sáng và âm điệu của ngôn ngữ. Còn Bối nặc hay
Bhannaka có nghĩa người đọc tụng theo nốt nhạc, có thể nói đó là người hát lễ nhạc Phật giáo. Vậy nếu Bối Đa giữ chức Bối trong
triều đình nhà tiền Lê, thì Bối đây chắc hẳn là chức quan coi về lễ nhạc Phật giáo. Sau này, ta thấy Ma Ha cũng nối nghiệp cha
tiếp tục hát bối ở chùa mình, thì cũng đủ rõ bối đây tượng trưng cho lễ nhạc Phật giáo. Cũng cần thêm là, sau chữ bối, Thiền uyển
tập anh còn chú thêm rằng, “Xưa gọi là Đà phan”. Chữ Đà có lẽ là một khắc sai của chữ Xà. Và “Xà phan” quả là một phiên âm
khá trung thực chữ Sarabhanna tiếng ba lị hay Svarabhanna tiếng Phạn.
3
Tán Bối vẫn là một thứ ngoại học, một cái học bên ngoài, tối thiểu là cứ theo luật tạng. Xem Thập tụng luật 37 tờ 269c6-21.
4 Đại Bi tâm chú, gọi đủ là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Aâm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, Đại bi chú
v.v…Đây là bài chú rút ra từ kinh Thiên thủ. Nó gồm cả thảy 82 câu chữ phạn do Già Phạm Đạt Ma phiên âm trong kinh Thiên thủ
thiên nhãn Quán Thế Aâm bồ tát quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni hiện nay trong ĐTK 1060 tờ 107b 25-26. Ngoài
bản dịch của Già Phạm Đạt Ma ra, mà ngày nay đã trở thành bản văn chính thức dùng trong hầu hết các chùa chiền Việt nam và
Trung Quốc, nó còn có những bản dịch khác của Bất Không, Trí Thông v.v…Cứ vào sự thông dụng ngày nay, chúng tôi giả thiết
nó chắc cũng thông dụng thời Lý.
5
Tức núi Long triều tại xã Trường yên hạ, huyện Gia vin, tỉnh Ninh bình ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, huyện
Sơn xuyên, nói: “Núi Long triều ở cách huyện Gia viễn 10 dặm, một là tên núi Đại vân, có miếu vua Đinh, vua Lê ở dưới chân núi”.
Mục Từ hiếu nói: “Miếu vua Đinh Tiên Hoàng ở phía dưới huyện Gia viễn tại chân núi Long triều xã Trường yên hạ”… Miếu vua Lê
Đại Hành ở dưới chân núi Đại vân xã Trường yên hạ”.
Đây là ngọn núi, mà Lê Đại Hành đã cho dựng điện Bách bảo thiên tuế vào năm 984 để làm nơi thị triều, phía đông dựng
điện Phong lưu, phía tây dựng điện Tử hoa, bên trái điện Bồng lai, bên phải điện Cực lạc, lại dựng lầu Đại Vân liền với điện
Trường Xuân là nơi vua ngủ, như Đại Việt sử lược 1 và Toàn thư tờ 16b ghi lại. Đại Việt sử lược 1 tờ 19b7 viết Đại vân thành Hỏa
vân. 108 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
trong Đại nội, cho người khóa cửa canh gác. Đến sáng thì đã thấy Sư ở ngoài phòng Tăng mà cửa vẫn
khóa kín như cũ. Vua rất ngạc nhiên, bèn cho phép Sư đi đâu thì đi.
Sư đi về phía Nam đến Ái châu, ở trấn Sa đảng2
. Phong tục trấn đấy ưa thờ cúng quỷ thần, lại
chuyên nghề sát sinh.
Sư khuyên họ ăn chay, họ đều nói: “(50b1) Thiên thần của chúng tôi, họa phước không dám
trái”.
Sư bảo: “Các ngươi nếu có thể bỏ ác làm lành, giả như có quỷ thần xúc hại, lão tăng sẽ tự chịu
thế cho”.
Dân làng thưa: “Gần đây có người bệnh lâu sắp chết, thầy thuốc, đồng bóng đều bó tay. Nếu
ông chữa được bệnh này, chúng tôi sẽ theo lời khuyên”.
Sư bèn lấy nước đọc chú rồi phun vào, người bệnh tức khắc bớt ngay. Họ tuy cảm phục nhưng
thói cũ ăn sâu, chưa thể chóng đổi.
Có hương hào họ Ngô, nhân uống rượu say, đem rượu thịt đến trước mặt ép Sư: “Hoà thượng có
thể theo được cuộc vui này thì chúng tôi sẽ tuân theo lời ngài dạy”.
Sư bảo: “Đã mời thì chẳng dám từ, chỉ sợ đau bụng đấy thôi”.
Họ Ngô mừng thưa: “Có đau thì Ngô tôi tự thay cho”.
Sư nhận lời làm theo rồi bỗng giả bộ làm bụng sình to, trong bụng tiếng sôi như sấm, hơi thở
hào hễn, van to: “Ông Ngô đâu chịu thay cho ta”. Họ Ngô xanh mặt, chẳng biết làm gì.
Sư tự chấp tay niệm: “Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng3
, cứu con với”. Giây lát, bèn
mửa ra thịt thì biến thành thú chạy, cá thì thành cá nhảy, rượu thì hóa ra nước đồng. Mọi người rất kinh
hãi.
Sư bảo: “Thân các ngươi bị bệnh, theo (51a1) ta thì lành ngay. Đến khi ta đau bụng, các ngươi
không thay thế ta được. Các ngươi nay chịu theo lời dạy của ta chưa?” Tất cả dân làng đều bái tạ xin
vâng.
Năm Thiên Thành thứ 2 (1029), Đô úy Nguyễn Quang Lỵ4
thỉnh Sư trụ trì chùa Khai thiên ở phủ
Thái bình5
. Được sáu năm, Sư lại từ chức lui về Hoan châu. Sau không biết Sư mất ở đâu {Nam tôn đồ
nói pháp tự của Nam dương, ấy làm lầm{.

1
Hoàng đế Lê Đại Hành, nghi là một chép sai, bởi vì trước đó đã nói là đến năm 1014 Ma Ha mới về tu tại núi Đại vân, thì sự việc
tiếp theo phải xảy ra với Lý Thái Tổ mới hợp lý. Hơn nữa, ta biết chùa Vạn tuế ở trong Đại nội là do Lý Thái Tổ dựng vào năm
1011, như Đại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 đã ghi. Do thế, việc giam Ma Ha “tại chùa Vạn tuế trong Đại nội” phải
xảy ra sau năm 1011 ấy. Ngoài ra, núi Đại vân vào thời Lê Đại Hành là nơi Lê Đại Hành xây dựng cung điện, như đã thấy, thì làm
sao Ma Ha có thể “dời về ở núi Đại vân tại Trường an ngày ngày siêng năng tu tập” được? Từ đó, Lê Đại Hành chắc là một chép
lầm của Lý Thái Tổ.
2
Ái châu tức tỉnh Thanh hóa ngày nay. Xem chú thích (9) truyện Pháp hiền, trấn Sa đảng, Đại Việt sử lược 2 tờ 12a1 có ghi động
tên Sa đảng. Nó viết: “năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) động Sa đảng phản, vua thân chinh dẹp được”. Trấn Sa đảng
chắc đây là một. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Thanh hóa, mục Kiến trí diên cách, có ghi một động tên Sa lung trước thuộc huyện
Cẩm thủy, đến 1904 cắt thuộc châu Quan hóa. Chúng tôi đoán đất Sa đảng thời Lý chắc nằm tại huyện Cẩm thủy và Quan hóa,
tỉnh Thanh hóa ngày nay.
3
Nam mô Phật, Phạn: namo buddhàya, nghĩa là kính lễ các Đức Phật.
Nam mô Pháp, Phạn: namo dharmàya, nghĩa là kính lễ giáo pháp.
Nam mô Tăng, Phạn: namo sanghàya, tức kính lễ đoàn thể hòa hợp.
4 Toàn thư B2 tờ 1363 viết: Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) lấy Nguyễn Quang Lỵ làm Thái úy. Đây là đô úy Nguyễn Quang Lỵ,
chữ đô có lẽ là một cách viết sai của chữ thái.
5
Cứ Toàn thư B1 tờ 27c7-8 và truyện Khai thiên trấn quốc trung phụ tá dực đại vương trong Việt điện u linh tập tờ 48 khi Lê Ngọa
Triều “đã được ngôi, thăng Đằng châu làm phủ Thái bình”. Phủ Thái bình ở truyện Ma Ha đây chắc phải là đất Đằng châu, chứ
không phải là đất phủ Thái bình thời Nguyễn, tức không phải đất những huyện Quỳnh côi, Phụ dực, Đông quan và Thụy anh tỉnh
Thái bình ngày nay. Mà Đằng châu, theo Cương mục tiền biên 5 tờ 30b5-7, là đất Khoái lộ đời Trần, Khoái châu đời Lê. Nay huyện
Kim động, tỉnh Hưng yên còn có xã tên Đằng châu. Làng Đằng châu thời Lê Ngoạ Triều mà Việt điện u linh tập nói tới, và làng 109 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Một (4 ng ư ờ i, 2 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c )
47. THIỀN ÔNG Đạo Giả (902-979)
Chùa Song lâm, làng Phù ninh, phủ Thiên đức1
. Người Cổ pháp2
, họ Lữ. Nhỏ học đòi việc đời, sau
theo Đinh Trưởng Lão3
xuất gia. Khi đã đắc pháp thì Sư tịch vào năm Kỷ mão Đinh Thái Bình thứ 10
(979), thọ 78 tuổi.
48. THIỀN SƯ Sùng Phạm (1004-1087)
Chùa Pháp vân4
, làng Cổ châu, Long biên, họ Mâu. Vóc dáng khôi ngô, tai dài đến vai.
Lúc mới xuất gia, ban đầu Sư đến tham vấn với Vô Ngại ở Hương thành5
. Khi đã được tâm ấn,
bèn dạo khắp Thiên trúc để cầu học rộng. Trải qua 9 năm, Sư trở về nước gồm (51b1) hiểu giới, định.
Về sau, Sư ở chùa Pháp vân giảng pháp học giả quy tụ rất đông. Hoàng đế Lê Đại Hành nhiều
lần thỉnh Sư vào cung6 để thưa hỏi Thiền chỉ, đãi ngộ rất hậu.
Năm Đinh mão Lý Quảng Hựu thứ 3 (1087) Sư viên tịch, thọ 84 tuổi.
Vua Lý Nhân Tông thường có kệ truy tặng Sư:
“Sùng Phạm ở nước Nam
Lòng vắng, đỗ đạt về7
Tai dài hiện tướng tốt
Pháp pháp thảy ly vy.1

Thái bình thời Lý, mà Toàn thư B3 tờ 36b9, và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, mục Kiến trí diên cách, ghi chắc là xã Đằng
châu đó. Phủ Thái bình đời Lý như vậy không phải là phủ Thái bình thời Hậu Lê, ngược lại nó nằm trong địa phận Đằng châu, tức
tương đương với tỉnh Hưng yên ngày nay. Chùa Khai thiên, nay không thấy sách nào nói tới.
Đại Việt sử lược 1 tờ 22a2 nói khi Ngoạ Triều “đánh Nghị Man Vương Bình rồi, cải Phong châu làm phủ Thái bình”. Chữ
Phong đây chắc là một viết sai của chữ Đằng. Tuy về lý, việc đổi Phong châu làm phủ Thái bình không phải là phi lý.
1
Tức nay làng Phù ninh, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc. Xem chú thích (2) truyện Thường Chiếu.
2
Tức làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Định Không.
3 Đinh trưởng lão, tức trưởng lão La Quý, bởi vì La Quý họ Đinh.
4
Tức chùa Diên ứng hay chùa Dâu làng Khươn g tự, huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc hiện nay. Xem chú thích (2) truyện Tỳ Ni Đa
Lưu Chi.
5
Vô Ngại chùa Hương thành, đây chắc chắn không phải chùa Tĩnh cứ, núi Cửu chân ở thế kỷ thứ VIII và nhà sư Vô Ngại thế kỷ thứ
IX trong Man thư của Phàn Xước. Vô ngại ở Hương thành như vậy chắc chắn thuộc thế hệ thứ 10 của dòng Thiền Pháp vân.
6
Lê Đại Hành nghi là một khắc sai của Lý Thái Tôn, bởi Phạm mất năm 1087 và thọ 84 tuổi thì tất không thể nào gặp Lê Đại Hành
được. Chữ Lê Đại Hành, nếu gặp phải một bản chữ mờ thì rất dễ đọc lộn thành Lý Thái Tôn.
7
Bàng Uẩn tham bái Mã Tổ, hỏi: “Ai là kẻ không cùng vạn pháp làm bạn lữ?” Tổ nói: “Đợi ngươi uống một hớp, hết trọn cả nước
sông Tây, thì ta sẽ nói”. Uẩn tỉnh ngộ, làm bài tụng:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ quy.
Xem Bích nham lục 5 tờ 179c3-6 110 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Hai (7 ng ư ờ i, 2 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c )
49. THIỀN SƯ Vạn Hạnh (?-1025)
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức. Người Cổ pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ
Phật.
Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận2
, xem thường công danh.
Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ,
Sư học tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa3
, lấy đó làm việc riêng
mình. Bấy giờ Sư nói ra (52a1) lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn
kính Sư.
Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng
quân tại Cương giáp, Lãng sơn4
. Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp:
“Trong vòng 3, 7 ngày giặc phải lui”. Sau quả nhiên như thế.
Đến khi vua muốn đánh Chiêm thành, việc bàn định chưa dứt khoát5
, Sư tâu: “Xin mau cất binh,
nếu không, ắt mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.
Thường có kẻ gian là Đỗ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y
một bài thơ:
“Cây đất sinh nhau bạc với vàng6
Cớ sao thù địch mãi cưu mang
Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt
1

1
Ly vy là một từ lấy từ phẩm Ly vy thể tịnh của Bảo tạng luận và nó được định nghĩa thế này: “Sở dĩ nói là Ly, vì bản thể chẳng
phải hợp nhất với sự vật, cũng chẳng tách rời sự vật. Ví như gương sáng soi ảnh của mọi vật, nhưng gương sáng ấy không hiệp
nhất với ảnh cũng không tách rời nó. Lại như hư không hiệp nhập hết thảy, nhưng không bị ô nhim. Năm sắc không thể làm nhớp
năm âm không thể làm loạn, muôn vật không thể buộc vào, phong phú không thể làm lộn. Cho nên gọi là Ly. Sở dĩ nó là vy, vì
bản thể mầu nhiệm, không hình, không sắc, không tướng, ứng dụng muôn ngõ mà không thể thấy, lắng không thể nghe, nhưng
có hằng sa muôn đức, không thường, không đoạn, không rời, không tan, cho nên gọi là vy. Vì thế, hai chữ ly vy bao trùm hết yếu
lý của đạo xem Bảo tạng luận tờ 146a7-15.
2
Ba học là giới, định, tuệ của giáo dục Phật giáo. Trăm luận chỉ các tác phẩm của Bách gia chư tử trong nền giáo dục truyền thống
của nước ta.
3
Tổng trì tam ta địa, cũng gọi đà la ni tam muội, Phạn: Dhàrani-samàdhi, một lối thiền định thực hiện bằng cách đọc các khẩu
quyết Phạn ngữ. Kinh Đại phẩm bát nhã viết: “Sao gọi là đà la ni tam muội? Vì trụ trong tam muội đó thì có thể giữ hết những
tam muội, nên gọi đà la ni tam muội”. Luận Đại trí độ viết: “Đàụ la ni tam muội vì được sức của tam muội đó thì các đà la ni văn
và trì đều tự nhiên mà được”. Xem Đại trí độ luận 40 tờ 398b24 và 401c27-28.
4 Đại Việt sử lược 1 tờ 19a8-9: Thiên phúc năm thứ nhất, mùa xuân tháng ba, quân Hầu Nhân Bảo đến Lãng sơn, Trần Khâm Tộ
đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch đằng giang”. Toàn thư B1 tờ 14a1-3: “Thiên Phúc năm thứ 2 mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân
Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến Bạch Đằng Giang”.
5 Đại Việt sử lược 1 tờ 19b1-3: “Thiên phúc năm thứ 2, vua sai Từ Mục v.v…đi sứ Chiêm thành, bị Chiêm thành bắt. Vua nổi giận, tự
làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu vua Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận, xẻo tai không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm
vài trăm người, dời trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm”. Toàn thư B1 tờ 16a2-
6: “Thiên Phúc năm thứ 3, vua thân chinh Chiêm thành, thắng. Trước đó, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm thành, bị
Chiêm thành bắt, vua nổi giận, đóng chiến thuyền, đúc khí giới, tự làm tướng đem quân đi đánh, chém đầu Bề Mi Thuế tại trận,
Chiêm thành đại bại, bắt giết sĩ tốt không thể kể xiết, bắt kỹ nữ trong cung Chiêm trăm người và thầy tu Ấn độ một người, dời
trọng khí của Chiêm, thu lấy vàng bạc và đồ quý tới số muôn, phá tan thành trì Chiêm”.
6
Nguyên văn: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Đọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ Đỗ. Nguyên câu này chỉ Đỗ Ngân. Đỗ
Ngân này là ai, không thấy sách sử nào nói tới cả. 111 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thật đến về sau chẳng hận lòng”.
Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế.
Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên
ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điều tốt xấu đều xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm toại
chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp, có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ “Thiên tử”
2
. Sét đánh
vào cây bông gạo (52b1) để lại dấu chữ3
. Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc

1
Nguyên văn: Đương thời ngụ khẩu thu tâm tuyệt. Đọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là “ta”, thu với tâm là chữ sầu. Bồ
Đề Đạt Ma tiên đoán cho Thái thú Dương Huyền về sự mình bị đầu độc sau này với những câu:
Giang tra phần ngọc lãng
Quản cự khai kim toả
Ngũ khẩu tương cọng thành
Cửu thập vô bỉ ngã.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 220a.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b5-7: “Nguyên trước đó chùa Ứng thiên làng Cổ pháp sinh một con chó trắng, trên lưng mọc lông đen
thành chữ “Thiên tử”, đến lúc ấy vua sinh nhằm năm Giáp tuất”. Toàn thư B2 tờ 1b 6-2a1: “Nguyên trước đó viện Cảm tuyển chùa
Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp sinh một con chó trắng có lông đen viền thành hai chữ “Thiên tử”. Người biết việc nói rằng bởi đó là
cái điềm của người sinh nhằm năm Tuất. Đến lúc ấy Vua sinh nhằm năm Giáp tuất mà làm Thiên tử, nên điều ấy quả đúng”. Việt
sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 nói chuyện này xảy ra tại chùa Thiên tâm.
3 Đại Việt sử lược 2 tờ 1a9-b3: “Trong làng vua ở có một cây bông gạo bị sét đánh, dấu để lại thành văn rằng:
Gốc cây nhiều công
Cơn lá xanh xanh
Hòa đao mộc rụng
Thập bát tử thành
Cung chấn trời hiện
Cung đoài sao chênh
Trong sáu bảy ngày
Thiên hạ thái bình
Vạn Hạnh bèn gọi vua bảo: “Tôi gần đây thấy sự lạ của sấm, biết nhà Lê đương mất, nhà Nguyễn đương lên. Họ Nguyễn không ai
là có sự nhân từ, khoan thứ rất được lòng người như ông. Tôi tuổi 70 hơn rồi, chỉ sợ không kịp thay sự thịnh trị mà lấy làm hận”.
Toàn thư , tờ 31a7-32a5: “Trước đó, cây bông gạo làng Diên uẩn, châu Cổ pháp bị sét đánh. Người trong làng thấy rõ
dấu sét có văn rằng:
Gốc cây thăm thẳm
Cơn lá xanh xanh
Hoà đao mộc rụng
Thập bát tử thành
Đông a vào đất
Cây khác tái sanh
Cung chấn trời hiện
Cung đoài sao chênh
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình.
Thầy Vạn Hạnh riêng tự mình bình rằng: “Gốc cây thăm thẳm, gốc là cái cội thì giống như vua vậy. Diểu là âm đồng với chữ yểu,
nên viết chữ yểu. Một biểu thanh thanh, biểu là ngọn mà ngọn thì giống như bề tôi, còn thanh và thiên, âm chúng gần nhau, nên
viết chữ thiên có nghĩa là thịnh vượng. Hòa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý. Đông a là họ Trần. Vào đất là người
phương bắc vào ăn cướp. Cây khác tái sinh là họ Lê lại sinh ra. Cung chấn trời hiện, chấn chỉ phương đông, hiện là ra, trời tức là
thiên tử vậy. Cung đoài sao chênh, đoài chỉ phương tây, chênh cũng như mất đi, sao thì giống như dân thường. Cả bài trên muốn
nói vua yểu, tôi thịnh, Lê rụng, Lý thành, phương đông Thiên tử ra đời, phương tây thứ dân chìm mất đi, trải khoảng sáu bảy năm
thiên hạ thái bình vậy”. Bèn gọi Lý Công Uẩn nói rằng: “Gần đây, tôi thấy sự lạ của phù sấm, biết họ Lý tráng thịnh thì việc dấy
nghiệp là một chắc chắn vậy. Nay xem thiên hạ họ Lý rất nhiều nhưng không có ai khoan từ nhân thứ, rất được lòng người mà tay
nắm binh quyền như Thân vệ. Làm tôn chủ muôn dân, mà bỏ Thân vệ thì ai sẽ cáng đáng cho. Tôi nay tuổi hơn 70, mong sao cho
đừng mau chết, để thấy được sự đức hóa ra sao thì thật là sự may ngàn năm một lần vậy”.
Việt sử tiêu án 1 tờ 75a-76b cũng chép sự việc và bài thơ như Toàn thư nhưng rút ngắn lời bàn của Vạn Hạnh lại thành:
“Gần đây, tôi xét phù sấm, thì họ Lý đang lên, mà không có ai như Thân vệ cả”. Song lại thêm một lời bàn khá dài nói: “Xét một
cơn sét đánh thành văn chỉ bốn chục chữ, mà trong khoảng 1100 năm, sự phế hưng của các đời, tên họ đều bao gồm gần hết.
Trời có nói gì đâu. Đó là bởi Vạn Hạnh giỏi việc xét bói, nhân sét đánh cây bông gạo, thác văn vào đó để tỏ ra thần dị, Lý Nhân
Tôn tặng thơ nói:
Thật hiệp sấm trời xưa
Quê hương tên Cổ pháp
Chống gậy trấn kinh vua
Xem mấy câu bình văn trên cây ở trước, biện bạch rõ ràng không sai việc. Hạnh bình luận cả bài cho tới câu”Dị mộc tái sinh” thì
sự biện luận đó rõ ràng không sai. Từ câu “Chấn cung… ” trở xuống, lời văn hàm hồ, riêng có ý sâu huyền diệu, không chịu tỏ112 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
tụng1
. Cây đa chùa Song lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ “Quốc”2
. Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ
tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ
lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua3
rằng:
“Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số
ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
“Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam4
Bốn phương gươm giáo dẹp
Tám cõi mừng bình an”.
Hai vương nghe nói rất sợ sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.
Đến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025)5
, Sư không bệnh, nói kệ bài:
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu héo hon
Tùy vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương”.6
Rồi Sư dạy đệ tử rằng: “Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không (53a1)
nương vào chỗ không trụ để trụ”.

hết. Gần đây, có kẻ hiếu sự, riêng đem ý mình suy din, mê hoặc trí người, đến nỗi thứ gian phu dối toan làm việc phi phận, binh
loạn không thôi. Cái hại của sấm cũng thật mãnh liệt thay”.
1
Mộ Hiển Khánh đại vương tức mộ của cha Lý Công Uẩn. Khi lên ngôi, Uẩn truy phong cho cha mình là Hiển Khánh Vương. Xem
Đại Việt sử lược 2 tờ 2a1 và Toàn thư B1 tờ 34a6. Về những tiếng đọc tụng xung quanh mộ này, xem nguyên chú ở cuối truyện
đây.
2
Chùa Song lâm đây tức là chùa Song lâm, làng Phù ninh phủ Thiên đức, nơi ở chính thức của Thiền ông, thầy của Vạn Hạnh
3 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b3 nói: “Tháng 11 nguyên niên (1009) vua lên ngôi… lấy anh vua Mỗ làm Vũ Uy Vương, em vua là Dực
Thánh Vương”. Toàn thư B1 tờ 34b5-6 viết: “… lấy Hoàng huyễnh làm Vũ Uy Vương, Hoàng thúc làm Vũ Đạo Vương, con của Vũ
Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con của Dực Thánh Vương là Phó làm Tổng quản”. Cương mục chính biên 2 tờ 8a4-7 chép
lại Toàn thư thấy rõ Dực Thánh Vương không biết là ai, mà con cũng được phong làm Tổng quản, nên đã chua thêm là: “Thiên
nam trung nghĩa lục của Phạm Phi Hiển nói Dực Thánh Vương là con thứ của Thái Tổ”. Nhưng rõ ràng theo Đại Việt sử lược thì
Dực Thánh Vương là em của Lý Công Uẩn.
Cứ vào truyện Vạn Hạnh đây thì Lý Công Uẩn còn có chú và bác, và đều được phong vương. Bằng vào những dẫn chứng
trên, thì chỉ Toàn thư và những sử chép theo nó mới ghi phong hiệu của người chú của Uẩn, đây là Vũ Đạo Vương, còn trong đây
thì không thấy nói. Đoạn sử khoảng này của nhà Lý có nhiều ám muội chưa rõ.
4
Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý.
5
Cả hai bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều ghi Vạn Hạnh mất vào ngày 15 tháng 5 năm Thiên Ứng thứ 9, tức năm 1002. Nhưng
đây dĩ nhiên là một khắc sai, bởi vì với một cuộc đời như vừa đọc, Vạn Hạnh tất không thể chết, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi
vào năm 1010 được. Do thế, một số tác giả như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII (1932) 239 và Lược
truyện các tác giả Việt Nam, nhà xuất bản Sử học, Hà nội, 1962, tr. 183) đã sửa Ứng Thiên thứ 9 thành năm Thuận Thiên thứ 9
và nói Vạn Hạnh mất vào năm 1018. Song sửa như thế là chưa chính xác cho lắm, bởi vì năm mất của Vạn Hạnh các bộ sử khác
ghi rất kỹ và nó nhất định không phải năm Thuận Thiên thứ 9. Trái lại, cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 4a7 và Toàn thư B2 tờ 10a3-4 thì
“năm Thuận Thiên thứ 16 thầy Vạn Hạnh hóa thân”. Như vậy, Vạn Hạnh mất năm 1025, chứ không phải năm 1018, như từ trước
tới nay thường chép. Từ đó, Ứng Thiên cửu niên là một chép sai của Thuận Thiên thập lục niên. Chữ thuận bị đoán lộn thành chữ
ứng, còn chữ thập lục bị đọc rút thành cửu.
6 Việt sử tiêu án 1 tờ 83a7-b1, nhân ghi “thầy Vạn Hạnh chết”, viết: “Vạn Hạnh không bệnh mà chết. Người bây giờ gọi đó là hóa
thân. Vạn Hạnh thường có thơ.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Tùy vận thạnh suy hưu bố ủy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Vua thân hành đến điếu viếng, lập đàn siêu độ”. (Những chữ in đậm là khác với bản ở đây). 113 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông
thường có bài kệ truy tặng rằng:
“Vạn Hạnh dung ba cõi
Thật hiệp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ pháp
Chống gậy trấn kinh đô”1
Về chuyện mộ Đại vương Hiền Khánh thì ban đêm thường vào lúc Sư thiền định bố phía mộ đều có
tiếng:
Tiếng phía đông nói:
Khánh vạn Tường nham với Quế phong
Ruột dê, rồng thế, phụ nhau vờn
Triều tôn, Đông liệt ba trăm thế
Sáu tuất tới đây nhắm Thiên bồng2
.
Tiếng phía nam nói:
Nam hướng Phù ninh thần giữ nhà
Đời tươi trai gái lắm người ra
Thiên đức giàu sang đầy nhà cửa

1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a4-5 và Việt sử tiêu án 1 tờ 76b2-3 chép nguyên bài thơ. Tam tế, mà đây dịch là “ba cõi”, tức chỉ cho quá
khứ, hiện tại và vị lai. Xem Kiến văn tiểu lục 9 tờ 12a6-7 về chữ Tam tế. Vạn Hạnh dung tam tế, có nghĩa Vạn Hạnh thấu suốt tất
cả sự việc của quá khứ, thời hiện tại và thời vị lai.
2
Nguyên văn:
“Khánh vạn tường nham dự Quế Phong
Dương trường long thế dực tương tùng
Đông liệt triều tôn thế tam bách
Lục tuất (thiếu hai chữ) đối thiên bồng”.
Khánh vạn, Tường nham và Quế phong, chúng tôi nghi là ba tên đất. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Khánh
duệ thuộc huyện Tiên du, quê hương của Nguyễn Đán, tiến sĩ khoa 1580. Khánh vạn từ đó rất có thể là Khánh duệ đấy, nhưng
chúng tôi chưa có bằng chứng gì đích xác. Còn Tường nham và Quế phong thì chưa thể khảo được. Đông liệt và Triều tôn, chúng
tôi cũng nghĩ là những tên đất, song chưa tìm thấy tài liệu chứng thực. Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Đăng Thục,
quê Bắc ninh, bảo tỉnh Bắc ninh hiện có làng tên Đông liệt. Với những tên đất như thế, thì rõ ràng đây là một bài thơ nói về mạch
đất của các nhà địa lý thời xưa với những từ địa lý rõ rệt như dương trường (chúng tôi nghi chữ dương, đúng ra phải đọc là ngưu)
long thể. Thực thể, nếu câu thứ hai đọc “Ngưu trường long thể dực tương tùng”, thì ý nghĩa địa lý của bài thơ trên khá phù hợp
với quẻ tả huyệt thứ 6 trong Tả Ao chân truyền địa lý tờ 7b:
Điều điều phát tổ khỉ căn nguyên
Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền.
Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu
Bàn vu cục thế tợ ngưu niên
Đương khai nội ngoại giai kỳ huyệt
Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên
Xa xa phát tổ nỗi căn nguyên
Uyển chuyển quanh co mạch khúc huyền
Hữu kiên đến trái mà rẽ phải
Nằm vào thế cục trâu lim dim
Trong ngoài nên mở đều huyệt thiệt
Núi soi sao lắm phước liên miên.
Qua bài thơ này, ta có thể thấy bài thơ trên là một thứ bói quẻ đất. Việt sử tiêu án 1 tờ 128b1, trong khi bình luận về việc nhà Lý
mất ngôi,có dẫn viết: “Lại Cổ pháp địa quyết chép: Ngôi truyền tám lá, lá rụng âm sinh. Thì sự hưng vong cũng có do đất”. Như
thế, cái gọi là Cổ pháp địa quyết đấy phải chăng gồm những bài thơ loại thơ mộ Hiển Khánh đại vương ở truyện Vạn Hạnh đây?
Phải chăng Cổ pháp địa quyết là một tác phẩm của Vạn Hạnh? Và bốn bài thơ ở mộ Hiển Khánh đại vương đây là rút ra từ nó?
Chúng tôi nghĩ đấy là những có thể. Điều chắc chắn là bài thơ trên cùng với ba bài thơ tiếp theo là những bài địa quyết do Vạn
Hạnh sáng tác. 114 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Tám phương gặp Nữ thường xuất vua1
.
Tiếng phía tây nói:
Trông tây xa ngắm ngó Thiên trụ
Trai gái đời cao thượng tướng thủ
Thiên đức giàu sang cùng Viễn thế
Thọ mạng quân vương chín chín đủ2
.
Tiếng phía bắc nói:
Chính bắc Phù cấm đối Bạch hổ
Yên vui trai gái thường không khổ
Sống lâu Thiên đức sướng đời đời

1
Nguyên văn:
Chính nam phù ninh hộ trạch thần
Vinh thế nam nữ đa xuất nhân
Thiên đức phú quý mãn ốc thành
Bát vạn hội nữ thường xuất quân.
Phù ninh như đã thấy là một tên làng. Truyện Thường Chiếu tờ 37b7 nói Chiếu “người làng Phù ninh”. Rồi đến truyện của La Quý
tờ 48a7 và truyện Thiền Ông tờ 51a8 thì chúng xác định rõ ràng là làng Phù ninh đấy là “làng Phù ninh, phủ Thiên đức”. Đại Việt
lịch triều đăng khoa lục cũng ghi một làng tên Phù ninh thuộc hạt Đông ngạn là quê hương hay trú quán của một số người đậu
trạng tiến sĩ dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa
1691 v.v…Ngày nay, tỉnh Bắc ninh hiện đang có một làng mang tên Phù ninh và ở đúng chính phía nam của làng Đình bảng, tức
đất Cổ pháp xưa. Vĩnh thế, chúng tôi nghi cũng là một tên làng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một làng tên Vĩnh thế
thuộc hạt Siêu loại, quê hương của Nguyễn văn Hiển tiến sĩ khoa 1502, Nguyễn Bỉnh Khuê tiến sĩ khoa 1526, Nguyễn Địch Khanh
khoa 1532, Nguyễn Thừa Hựu khoa 1535, Nguyễn Đình khoa1580 v.v…Vĩnh thế, nghi là Vinh thế đổi ra, nhưng chúng tôi hiện
chưa có bằng chứng gì rõ rệt. Làng này rất có thể là quê hương của Đào Cam Mộc hay một trong những khai quốc công thần của
triều Lý Thế Tổ. Thiên đức trong câu thứ ba và Bát vạn trong câu thứ 4 thì cả bản in đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết là Đại
đức và Bát phương. Chúng tôi sửa Đại đức thành Thiên đức, không những bởi vì hai bài thơ tiếp theo đến câu thứ 3 thì bắt đầu
bằng chữ Thiên đức, mà còn vì sau đó vài dòng thì có câu “đổi Cổ pháp là Đại đức”, nhưng ai cũng biết rằng Lý Công Uẩn đổi Cổ
pháp làm Thiên đức, chứ không phải Đại đức. Đại đức trong câu ấy và Đại đức trong bài thơ trên do thế là những chép sai của
Thiên đức như vậy rõ ràng là một tên đất, và nó cũng rõ ràng “phú quý mãn ốc thành”, như bài thơ nói, với sự lên ngôi của Lý
Công Uẩn. Và chữ bát vạn, mà những bản in đời Lê và đời Nguyễn đều viết là Bát phương, chúng tôi sửa chữ phương thành chữ
vạn, không những vì chữ vạn viết tắt rất dễ biến thành chữ phương, nếu người ta bất cẩn thêm trên đầu nó một chấm, mà còn vì
tại huyện Siêu loại trước đây, tức huyện Thuận thành ngày nay, có núi tên Bát vạn. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục
Sơn xuyên nói: “Núi Bát vạn ở phía Đông nam huyện Tiên du hai dặm, tương truyền Cao Biền đời Đường dựng tháp Bát vạn, để
yểm nó nên có tên đó”. Chúng tôi hiện chưa biết có phải Lê Thánh Tôn đi cầu tự tại núi Bát vạn này, mà gặp _ Lan trên đường đi
không” Nhưng với văn ý của câu thứ 4 thì đó là một có thể. Dẫu sao chăng nữa, chúng tôi nghĩ chữ bát vạn hợp nghĩa hơn chữ
bát phương.
2
Nguyên văn:
Tây vọng viễn vọng khán Thiên Trụ
Dao thế nam nữ thượng tướng thủ
Thiên đức phú quý dự vin thế
Quân vương thọ mạng cửu thập cửu.
Thiên trụ là một từ của khoa địa lý bói huyệt đất. Sự liên hệ của Thiên trụ với việc sống lâu, mà bài thơ đây nói đến, Thiên địa tạo
sơn thủy phú trong Tả Ao chân truyện địa lý tờ 27a10-b1 nói:
“Càn sơn cao như Thiên trụ, thọ tỷ Thương nham
Tốn thủy tụ tợ uyên minh, lộc hữu đỉnh nãi.
(Núi càn cao như Thiên Trụ, sống lâu như núi Thương
Sông Tốn họp tợ uyên minh, lộc vua có đỉnh chung)
Trong một cuộc nói chuyện riêng, cụ Nguyễn Đăng Thục nói núi Tiên du có một tên Thiên trụ. Như thế, một mặt Thiên trụ chỉ cho
sự sống lâu, và mặt khác nó lại chỉ một ngọn núi của Tiên du. Chỉ có vấn đề là, nếu Thiên trụ quả ở núi Tiên du, mà trên thực tế
núi Tiên du ở về phía đông của làng Đình bảng hiện nay, thì làm sao đứng ở Đình bảng ngó về phía tây, ta lại thấy được núi Tiên
du? Phải chăng Thiên trụ muốn chỉ một ngọn khác ở phía tây làng Đình bảng, nơi chúng tôi giả thiết có mộ của Hiển Khánh đại
vương? Chúng tôi nghĩ, Thiên trụ có thể chỉ là một gò đất hay ngọn núi ở phía tây, nhưng hiện chưa có những bằng chứng rõ rệt.
Cao thế và Viễn thế trong hai câu 2 và 3 chắc chỉ những tên đất, những làng xóm, song chúng tôi chưa truy cứu được. Thượng
tướng là tên ngôi sao thứ nhất trong cung Văn xương thuộc Trung cung thiên văn học cổ đại Trung Quốc. Xem chẳng hạn Sử kyù
27 tờ 3a13. Nó nhằm chỉ uy vũ. 115 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế thế quân vương cầu Lục tổ1
.
Sư sai người chép lấy chúng và ghi lại mốc giới của ngôi mộ để Sư đến xem. Bèn nói bài kệ rằng:
Đông có Vũ long xóm
Nam có Vũ long bờ
Tây có quán Rừng hạc
Bắc có Trấn hải hồ2
Chặng lâu sư lại nói:
Chỉ trong ba tháng thôi
Thân vệ lên ngôi xã tắc
Lạc trà ấn có chữ Quốc
Mười khẩu xuống nước đất
3
Gặp thánh gọi Thiên đức.
Sai vua cải Cổ pháp làm Thiên đức4 ấy bởi đúng lời Sư vậy. Còn những chuyện xảy ra ở các chùa thì đều
lấy ra từ Quốc sử, nên đây không chép chúng.5

1
Nguyên văn:
Chính bắc Phù cầm đương bạch hổ
An lạc nam nữ thường vô khổ
Đại đại Thiên đức trường thọ lạc
Thế thế quân vương kỳ Lục tổ.
Phù cầm là một tên làng, mà chính Thiền uyển tập anh xác nhận trong truyện Minh Trí và truyện Nguyện Học, khi nó bảo cả hai
người này đều quê quán làng Phù cầm. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tân lương, cũng có ghi một bến đò tên Phù
cầm trong 17 bến đò của sông Nguyệt Đức, nằm giữa hai bến đò Phù yên và Đấu hàn. Đấu hàn là quê quán của Đỗ An Vĩnh tiến
sĩ 1499 và Phù yên là quê quán của Lê Doãn Chấp tiến sĩ 1505, như Đại Việt lịch triều đăng khoa lục đã ghi lại. Và cả hai làng đó
đều thuộc hạt Yên phong” nghĩa là thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện
đấy.
Còn chữ Bạch hổ nó có thể là tên riêng chỉ một cây cầu hay bến đò hay ngọn núi nào đấy. Nhưng nó cũng có thể là một
từ thuần túy địa lý bói huyệt. Về trường hợp trước, chúng tôi hiện chưa tìm thấy một địa danh Bạch hổ nào xung quanh Phù cầm,
nên không thể trả lời được. Về trường hợp sau, thì trong cách bói huyệt thứ 13, Tả Ao chân truyền địa lý tờ 14b2-4 có viết:
Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên
Sơn cao huyền vũ thủy chi huyền
Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội
Thử địa vinh hoa phú quý tuyền.
Rồi nó chú tiếp thế này “Mạch bắt đầu từ cung Rồng, rồi chuyển đến cung phải lại đến cung trái mới vào huyệt. Cung rồng là án
chầu phía trước. Cát bạch hổ trùng điệp, núi Huyền Vũ dốc cao, sông Minh đường nước đọng, nếu soi sáng vào trong huyệt thì
con gái sinh nhiều phú quý. Đây là một quý cách”. Nếu hiểu từ “bạch hổ” theo lối đây, thì dĩ nhiên mặt đất của Phù cầm có những
ngôi mộ làm sinh ra những người con gái có nhiều phú quí. Nếu vậy, phải chăng mẹ của Lý Công Uẩn là người Phù cầm? Sử
không ghi rõ nên ta không biết được.
Cuối cùng, về chữ Lục tổ, đấy là đọc theo bản đời Lê, còn bản đời Nguyễn viết thành Đại tổ. Nó hiển nhiên nhằm chỉ chùa
Lục tổ, nơi Vạn Hạnh sống và dạy dỗ Lý Công Uẩn, và là nơi Uẩn trưởng thành.
2
Bốn câu thơ này để xác định ngôi mộ của Hiển Khánh đại vương. Nhưng vị trí nó ngày nay ta chưa thể khảo được, bởi vì những
tên đất đến tên ao như: Vũ long, Hạc lâm, và Trấùn hải, ta hiện chưa phát ra vị trí của chúng. Riêng về Hạc lâm, nó có thể là
chùa Hạc lâm của Pháp Thông, người đã cùng Huệ Sinh thờ Định Huệ làm thầy, như truyện Huệ Sinh tờ 57b11 đã ghi.
3
Nguyên văn: Thập khẩu thủy thổ khứ. Đây là nhắc lại việc Định Không làm chùa Quỳnh lâm tại làng Đình bảng, đào gặp 10 cái
khánh, mà khi đem đi rửa chìm mất một cái xuống sông. Từ đó Không đề nghị đổi làng mình thành làng Cổ pháp. Chữ cổ là do
chữ thập và khẩu ghép lại, mà hai chữ đó có nghĩa “mười cái”. Chữ Pháp là do chữ thủy và chữ khứ ghép lại, và chúng có nghĩa
“chìm xuống nước”. Xem truyện Định Không ở trên.
4 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 3a3 viết: “Năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) cải Cổ pháp làm phủ Thiên đức”. Việt sử
tiêu án 1 tờ 79b8 và Cương mục chính biên 2 tờ 11a1 cũng chép vậy.
5
Quốc sử chắc chỉ Đại Việt sử ký của Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu. Đại Việt sử lược và Toàn thư hiện tại chỉ ghi lại trong hai ba
việc, mà tác giả Thiền uyển tập anh giả thuyết Quốc sử phải ghi đủ, đấy là chuyện chó chùa Thiên ứng tâm có lông thành chữ116 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
50. THIỀN SƯ Định Huệ
Chùa Quang hưng, làng An trinh, phủ Thiên đức1
. Người Cảm điền, Phong châu2
, họ Khúc. Ban
đầu cùng với Vạn Hạnh thờ Thiền Ông làm thầy, rồi nhận được tâm ấn.
Đến khi tịch, bèn truyền pháp mình cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.{Cứ Nam tôn tự pháp đồ thì nói là
pháp tự của Vạn Hạnh. Sợ e sai. Nay theo y bản truyện} (33b1)
51. THIỀN SƯ Đạo Hạnh (? – 1117)
Chùa Thiên phúc3
, núi Phật tích4
, họ Từ, tên Lộ. Cha là Vinh, làm quan tới chức Tăng quan đô
án, thường đi học tại làng An lãng1
. Lấy một người con gái họ Tăng rồi theo quê vợ. Sư là con nàng Tăng
Thị vậy.

“Thiên tử” và chuyện sét đánh thành văn thôi. Còn chuyện sâu ăn cây đa chùa Song lâm thì bây giờ không thấy cuốn sử nào ghi
tới. Nó chắc đã bị các tác giả sau Lê Văn Hưu tước bỏ.
1
Làng An trinh, phủ Thiên đức này chúng tôi hiện chưa khảo được đích xác là làng nào thuộc huyện nào của tỉnh Bắc ninh ngày
nay. Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi một làng tên An trinh thuộc tổng Văn thai, huyện Cẩm giàng, trấn Hải dương. Chúng tôi
chắc làng An trinh này không phải là làng An trinh của Định Huệ ở đây, nhưng cứ ghi ra, bởi vì huyện Cẩm giàng theo Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách thì huyện Cẩm giàng “đời thuộc Minh thuộc vào châu Thượng hồng, phủ
Lạng giang”.
2
Tức thuộc phần đất tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Xem chú thích (6) truyện Pháp Hiền. Về Cẩm điền, bảng danh sách các tổng xã của
hai tỉnh Sơn tây và Vĩnh yên trong Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục khảo, không có tổng xã nào tên Cẩm điền cả.
Nhưng một số làng hai huyện Tam dương và Yên lạc có những tên bắt đầu bằng chữ “cẩm” hay chữ “điền”, hay kết thúc bằng
chữ “điền”. Đấy là xã Điền trù của tổng Bình hòa, xã Cẩm trạch của tổng Đạo tú và xã Đại điền của tổng Quan ngoại thuộc huyện
Tam dương, và những xã Cẩm la, Cẩm trạch và Cẩm viên của tổng Nhật chiếu thuộc huyện Yên lạc. Chúng tôi nghĩ Cẩm điền có lẽ
gồm phần đất của hai tổng Đạo tú và Quan ngoại vừa thấy.
3 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tự quan, viết: “Chùa Thiên phúc tại xã Sài tây, huyện Yên sơn, xưa gọi là am Hương
giang (nên đọc hải, Lê Mạnh Thát chú) lại gọi là viện Phổ đà. Chùa bên trái thờ Từ thiền sư bên phải thờ tượng Lý Thần Tôn, ở
giữa thờ tượng Phật. Thiền sư họ Từ tên Lộ, tự Đạo Hạnh, người An lãng huyện Vĩnh thuận, tỉnh Hà nội, là bậc cao tăng của thời
đó đến trác tích ở đây. Lý Nhân Tôn tuổi đã cao mà chưa có con nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con, cùng với
Đạo Hạnh nói việc cầu tự. Đạo Hạnh hẹn ngày kia khi phu nhân sắp sanh thì nên báo trước cho biết. Sau đó, khi phu nhân sắp
sinh, bèn đi báo. Đạo Hạnh tức khắc thay quần áo tắm rửa, vào trong động mà thi giải. Phu nhân liền sinh một người con trai ấy
là Thần Tôn. Người làng cho đó là điều lạ, đem thây bỏ vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3, tục truyền đó là
ngày kỵ của Sư, sĩ nữ tụ họp đông đảo, làm thành một chỗ du ngoạn đẹp đẽ của địa phương. Văn nhân danh sĩ phần nhiều có
làm thơ vịnh. Thâycủa Sư đến khoảng Minh Vĩnh Lạc thì bị người Minh đốt cháy. Người làng lại đúc tượng Sư mà thờ. Trong
khoảng Lê Quang Thuận, cha của Hoàng hậu Trường Lạc là Nguyễn Đức Trung đi cầu tự cho hậu ở trong động chùa đó thì có một
mảnh đá bay tới. Bèn cầm về tạc thành một tượng Phật mà thờ. Khi đã làm vậy, thì sau đó hậu mộng thấy rồng vàng vào sườn
bên trái, bèn sinh ra Hiến Tôn. Trong khoảng Cảnh Thống, bàn lập bia am Hiển thụy khắc vào đá nay còn. Triều ta phong thần Từ
Đạo Hạnh đại thiền sư “.
4 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 8a6b1 viết: “Núi (Nguyên văn viết chùa, Lê Mạnh Thát sửa) Phật tích ở xã Thủy khê, huyện
Yên sơn, một tên là Sài sơn, lại gọi là Cổ sài. Cảnh núi đẹp đẽ trông ngang xuống mặt hồ trên núi có hang sâu là chỗ Từ Đạo
Hạnh thi giải. Vách hang đang còn có dấu đầu và dấu chân. Trên đó có am Hương hải và viện Phổ đà đều do Từ Công dựng nên,
nay là chùa Thiên phúc”.
Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a7-3a1 viết: “Sài sơn của huyện Yên sơn, đời Lý gọi là núi Phổ đà lạc, đời Trần gọi là núi Phật tích.
Trên núi có chùa và tiên động các nơi. Trong động có tám chỗ lõm, như dấu đầu người va vào, lại có dấu chân như của người
khổng lồ. Dưới núi có chùa Thiên phúc, trước có hồ lớn, sau có lầu chuông, có chuông do Thiền sư Vạn Hạnh đúc thành, vào năm
Long Phù Nguyên Hoá thứ 9 (1109) triều Lý, đệ tử Huệ Hưng soạn ký, trước tác lang Nghiêm Thường khắc chữ. Trên chuông có
khắc hình cây bồ lao, dùng dây sắt mà treo. Đấy là vật xưa 700 năm đến nay. Dưới lời ký có khắc sắc chỉ của Vua Trần Anh Tôn
cấp ruộng thờ cúngvào năm Hưng Long thứ 12 (1304). Bên cạnh có Hiển thụy dựng trong khoảng Cảnh Thống, có bia ký do
Thượng thư Nguyễn Bảo soạn. Xét An nam chí có nói rằng: Núi Phật tích có một tảng đá, trên có dấu chân người khổng lồ. Dưới
chân núi có hồ, chu vi hơn ba dặm. Hai bên hồ và núi có dựng nhà thủy tạ. Tháng 5 tháng 6 hoa sen nở đầy hồ, mùi thơm sặc cả
người. Trên núi có chùa Thiên phúc, sơn phết rực rỡ, thực là danh thắng một phương, chỉ nói trên núi Phật tích có chùa Tư phúc,
có am Biện tài và am Cực lạc. Người của châu và những con em của phường du lịch thường mỗi năm vào tháng 3 đến dạo chơi
xem l, đèn nhang chất đống, xe ngựa dập dìu, văn nhân danh sĩ phần nhiều đều có đề thơ vịnh cảnh. Tức là núi đó”.
Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên và mục phụ khảo về núi. 117 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Lúc nhỏ, Sư ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, lại có hành động nói năng người đời không
thể lường được. Sư thường kết bạn với nhà nho Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa2
và nghệ sĩ phường chèo
Vi Ất. Đêm, Sư khổ công đọc sách, ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Thân phụ thường
trách Sư biếng nhác.
Một hôm, ông lén vào phòng ngủ của Sư để rình xem, thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống,
Sư đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, tàn đèn rơi đầy mặt bàn.
Từ đấy ông cụ không lo nữa.
Sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ khoa Bạch liên3
. Chẳng bao lâu cha Sư là Vinh dùng tà
thuật làm mất lòng Diên Thành Hầu4
. Hầu nhờ pháp sư Đại Điên5
dùng phép đánh chết (54a1), ném xác

1
Làng Yên lãng đây tức là làng Yên lãng thuộc huyện Vĩnh thuận của Bắc thành địa dư chí lục 1 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh
Sơn tây, mục Từ miếu và Tự quán, tức làng Láng ở gần phía tây Thủ đô Hà nội ngày nay. Làng này hiện có chùa thờ Đạo Hạnh,
tục gọi là chùa Láng. Bắc thành địa dư chí lục 1 chép chuyện đấy vào thế kỷ 19 như sau: “Chùa Yên lãng tại trại Yên lãng, huyện
Vĩnh thuận, thế truyền là chỗ tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh triều Lý. Thiền sư là kẻ có thù với Thiền sư Đại Điên xã Dịch
vọng. Đạo Hạnh sau đó đi Tây vực học đạo, trở về giết Đại Điên, nên lệ chùa Yên lãng mỗi năm vào tháng 3 phải rước thần qua
chùa hai xã Yên quyết và Dịch vọng, đốt pháo múa gậy, giống như có việc đánh nhau, để diễn lại chuyện đó. Nay chùa Yên lãng
có một hòm gỗ trong đựng một miếng đồng có chữ phạn viết bằng son. Đó là di tích của Sư. Sau Đạo Hạnh đến tu đạo tại Sài
sơn, tỉnh Sơn tây, rồi đầu thai làm Lý Thần Tôn”.
Đây như vậy chỉ nói tên cha và trú quán, nhưng không nói tên mẹ và nguyên quán của Từ Đạo Hạnh. Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Sơn tây, mục từ miếu, nhân viết về đến Từ Đạo Hạnh Thiền sư ở chân núi Sài sơn huyện Yên sơn, nói: Xét trong
đền thì bên trái thờ tượng Từ Đạo Hạnh, bên phải thờ tượng Lý Thần Tôn, ở giữa thờ tượng Phật. Một thuyết nói rằng Đạo Hạnh
là người thôn Đồng bụt, huyện Yên sơn, cha là Từ Vinh mẹ là Tăng thị Loan. Nay tương truyền ở Đồng bụt có nền cũ nhà họ Từ,
trước chùa có 70 mẫu ruộng là ruộng họ Từ, nay đem làm tự điền cho thôn ấy”.
Cứ đây thì nguyên quán của Đạo Hạnh là thôn Đồng bụt, huyện Yên sơn tỉnh Sơn tây. Truyện Đạo Hạnh ở đây nói rõ Yên
lãng là trú quán của Hạnh, nên ta khỏi phải đặt nghi vấn về chuyện đâu là quê quán của Hạnh, như Đại nam nhất thống chí đã
làm.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 16a10 viết: “Năm Quảng Hựu thứ 7 (1091) kiến quan Lê Toàn Nghĩa dâng rùa năm sắc”. Toàn thư B3 tờ
12a9 cũng ghi chuyện này, nhưng không ghi chức quan của Nghĩa.
3
Truyện Từ Đạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 28-31 chép hoàn toàn giống truyện Từ Đạo Hạnh ở đây, nhưng sau câu
“hậu ứng tăng quan ngự thí trúng”, nó lại thêm 7 chữ “Bạch liên khoa, vị cơ phụ Vinh”, trước khi viết tiếp “dĩ tà thuật ngỗ Diên
Thành Hầu”. Truyện Đạo Hạnh ở đây, sau câu “hậu ứng tăng quan ngự thí trúng”, lại bỏ trống một đoạn đúng chỗ cho 7 chữ, rồi
viết tiếp “dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu”. Chúng tôi nghĩ rằng khoảng trống 7 chữ đây đúng là chỗ của 7 chữ hiện còn chép
trong Lĩnh nam trích quái mà để bản của bản in Thiền uyển tập anh năm 1715 đã bị rách hay mọt ăn mất, nên người hiệu đính
cho bản in đây đã để trống đúng 7 chỗ cho những chữ mất đó. Đây là một ưu điểm lớn của bản in năm 1715 giữa những ưu điểm
khác của nó. Bản in đời Nguyễn không để một khoảng trống nào cả, nên dù có bản của Lĩnh nam trích quái chăng nữa, ta cũng
không thể nào nhận ra khoảng đấy thiếu mấy chữ. Chúng tôi do thế đề nghị thêm 7 chữ trên vào chỗ trống ở tờ 53b10 của Thiền
uyển tập anh, để cho ý nghĩa của câu “hậu ứng tăng quan ngự thí trúng… ” và câu “dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu” ở trước và
sau khoảng trống đấy được rõ hơn. Nếu chấp nhận, hai câu ấy bây giờ đọc: “Hậu ứng tăng quan thí trúng Bạch liên khoa. Vị cơ
phụ Vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu”, mà ta có thể dịch thành: “Sau đó Sư ứng thi điện thí tăng quan, trúng khoa Bạch liên.
Chẳng bao lâu, cha Sư là Vinh dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu …”
Khoa Bạch liên là khoa gì vào thời Lý, chúng tôi hiện chưa thể khảo được.
4
Diên thành hầu (? – 1117) là con của Lý Thánh Tôn và em của Nhân Tôn. Tính tình của vị hầu này chắc nóng nảy lắm. Đại Việt sử
lược 2 tờ 20a3 ghi lại một chứng sau: “Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 4 (1104), mùa thu tháng 9 ngày mồng một. Diên Thành
Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu ở điện Thiên an”. Trung Nghĩa Hầu (? – 1117) cũng là con của Thánh Tôn và chắc là em của
Diên Thành, và điện Thiên an là nơi thị triều của vua. Thế mà, giữa mặt bá quan văn võ, Diên Thành đã lấy hốt đánh Trung
Nghĩa.
5
Tức Nguyễn Đại Điên, mà truyện Thần Nghi tờ 40a11 nói tới như đại biểu cho một Thiền phái thứ 4 của thời Lý. Cứ vào truyện
Đạo Hạnh ở đây, ta có thể đoán Đại Điên bị Đạo Hạnh đánh chết vào khoảng năm 1110 bởi vì cuối truyện có chua câu: “Giác
Hoàng, hoặc có người nói là Đại Điên ấy vậy”. Mà Giác Hoàng theo Đại Việt sử lược 2 tờ 21a4, thì vào năm Hội Tường Đại Khánh
thứ 3 (1112) là đã 3 tuổi rồi. Vậy Hoàng phải sinh năm 1110. Bấy giờ, nếu bảo Giác Hoàng là Đại Điên thì đương nhiên Điên phải
chết vào năm Hoàng sinh, tức năm 1110 ấy, mới đầu thai thành Hoàng được, tối thiểu là bằng vào sự tin tưởng huyền thuật
đương thời. Cho nên, việc liên hệ Đại Điên với sự sinh của Giác Hoàng phải giả thiết rằng Điên chết vào năm Hoàng sinh.
Về nguyên quán của Điên, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi một vị sư tên Nguyễn Đạo Hạnh
và nói: “Sư người huyện Tiên phong là miêu duệ của Thiền sư Thái Điên, bình sanh cùng sư Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh
làm bạn, học thuật tu luyện, sau hóa thân ở xã Chiêu nhân thổ nhân bèn lập đền thờ”. Thái Điên đây, chúng tôi nghi cũng là Đại
Điên, bởi vì Việt sử tiêu án 1 tờ 108b9 dẫn Ngoại truyện nói: “Cha Đạo Hạnh là Từ Vinh vì pháp thuật bị sư Thái Điên đánh giết”.
Như vậy quê hương của Đại Điên là vùng đất huyện Tiên phong, tức huyện Quảng oai, tỉnh Sơn tây bây giờ. Kiến văn tiểu lục 9 tờ
16a1 17a2 viết rất là dài về cuộc đời nhà sư Nguyễn Đạo Hạnh đây và nói: “Ông người xã Vịnh phệ, huyện Tiên phong”. Nếu vậy
Điên là người xã Vịnh phệ. 118 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
xuống sông Tô lịch1
. Xác trôi đến cầu Quyết
2
là chỗ nhà Hầu, bỗng đứng thẳng lên mà chỉ tay vào nhà,
suốt ngày không đi. Hầu sợ, đi báo cho Đại Điên. Đại Điên đến nơi, đọc một câu kệ: ” Tăng giận không
cách đêm”. Đọc xong, xác đáp lại trôi đi.
Sư nghĩ cách phục thù cho cha, nhưng tìm kế không ra. Một hôm, Sư rình Điên đi khỏi nhà,
muốn đánh lén, chợt nghe trên không có tiếng la: “Đừng, đừng! Sư sợ hãi vứt cây mà chạy. Sư muốn
sang Ấn độ, tìm học phép linh dị để chống lại Đại Điên. Đi đến xứ Mọi răng vàng3
, đường xá hiểm trở, Sư
bèn trở về ẩn tại núi ấy, hằng ngày chuyên tụng chú Đại bi tâm đà la ni đủ 10 vạn 8 ngàn biến. Một hôm
Sư thấy thần nhân đến trước mặt mình nói: “Đệ tử là Tứ trấn Thiên vương4
, cảm công đức trì xứ của Sư,
nên đến đây xin hầu để Sư sai bảo”. Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới
đến bến Quyết, cầm gậy, thử ném xuống dòng nước chảy xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng, đến
cầu Tây dương5
dừng lại. Sư mừng (54b1) nói: “Pháp ta thắng rồi”. Bèn đến thẳng chỗ Đại Điên. Điên
thấy nói:

Cuối cùng, về ngôi chùa trú trì của Điên, Bắc thành địa dư chí lục 1 nhân viết về chùa Yên lãng dẫn trước nói “Đạo Hạnh
có thù với Thiền sư Đại Điên xã Dịch vọng”. Như thế, vào thế kỷ thứ 19 người ta coi Điên sống ở xã Dịch vọng. Làng Dịch vọng
này, Toàn thư B3 tờ 3a3-8 nói là nơi có chùa Thánh chúa. Ở đây đã có vị sư dạy Nguyễn Bông cái thuật đầu thai thành Lý Nhân
Tôn. Dã sử về thần tích của _ Lan nói rõ ra vị sư chùa Thánh chúa, đấy không ai khác hơn là Đại Điên. Từ đó, ngôi chùa Đại Điên
ở chắc không chùa nào khác hơn là Thánh chúa, làng Dịch vọng, huyện Từ liêm ngày trước, tức huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông
ngày nay. Sự việc Nguyễn Bông xảy ra vào năm 1063. Thế thì, Điên sống tại chùa đấy vào khoảng từ năm đó.
1 Bắc thành địa dư chí lục 1 viết: “Sông Tô lịch ở phía đông của thành (Hà nội) phân lưu từ sông Nhị, theo thành từ phía Bắc mà
chảy qua phía tây gặp sông Hà liu và sông Nhuệ, hai sông cùng chảy đổ vào. Sông này, mùa đông và xuân thì khô cạn, mùa thu
và hạ thì thuyền đi được… Quốc sử của Ngô Sĩ Liên nói: “Sông này hễ khi có mưa lớn thì nước đầy ứ mà chảy ngược. Họ Ngô nói:
“Sông Tô lịch chảy đi ra từ sông Nhị bắt đầu từ phường Hà khẩu chảy qua Tây hồ, Thụy Chương, Yên hoa và Yên quyết thì cạn
thuyền đi không được, vì dân ở hai bên sông cứ để ngói đá lấp đầy, khi mưa to nước ứ lại không chảy được, nên phải chảy ngược
lại thì không có gì là lạ”.
2 An nam chí lược 1 tờ 24 viết: “Sông Tô lịch chảy quanh La thành. Sông có năm cầu đều rất đẹp”. Nhưng nó không cho biết năm
cầu đó. Ta ngày nay có thể truy nhận tối thiểu tên của ba cầu, đấy là cầu Tây dương, cầu Yên quyết và cầu Nhân mục. Toàn thư
B10 tờ 21b 2-5 trong khi mô tả diễn tiến của chiến dịch Tốt động, Chúc động, đã viết về những hướng xuất quân của Vương
Thông từ thành Đông quan như sau: “Ngày mồng 6, Vương Thông v.v…. của nhà Minh đem lính cũ lính mới 10 vạn người phân
làm ba đạo quân đánh ta. Vương Thông do ngã Khâu ôn qua cầu tây dương đến đóng ở bến Cổ sở, dựng cầu nổi cho quân đi.
Phương Chính xuất quân từ cầu Yên Quyết, đóng ở cầu Sa đôi. Sơn Thọ và Mã Kỳ đi ra từ cầu Nhân mục, đóng ở cầu Thanh oai.
Chúng dựng doanh trại vài chục dặm, cờ xí rợp đồng, giáp trượng sáng trời, tự bảo rằng chúng chỉ một lần đánh là bắt hết nghĩa
quân”.
Cầu Nhân mục, tên nôm gọi là cống Mọc, ngày nay thuộc làng Nhân chính, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông, và vết tích của
nó hiện còn là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại làng đấy.
Còn cầu Yên Quyết, tên nôm nó gọi là cống Cót, ngày nay là chiếc cầu bắc ngang sông Tô lịch tại địa phận làng Yên
quyết huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông. Vì cầu Yên quyết có tên nôm là cống Cót, cho nên chữ Quyết kiều ở đây đúng ra phải dịch là
cống Cót, nhưng vì không chắc chữ Cót phát âm như thế nào vào thời Lý, nên chúng tôi vẫn để nguyên và dịch là: “cầu Quyết”.
Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr.499 vì chấm câu lộn, nên đã đọc thành cầu Vu quyết. Về cầu Tây dương thì cứ trên
đường hành quân của Vương Thông, nó phải là cầu Giấy, bởi vì để đi từ Đông quan tới Cổ sở, người ta phải đi qua cầu Giấy ở
sông Tô lịch, rồi qua cầu Din hay Phù diễn ở sông Nhuệ thì tới bến Cổ sở trên sông Đáy thuộc làng Yên sở ngày nay. Như vậy, cầu
Tây dương không gì khác hơn là cầu Thượng yên quyết, mà Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hànội, mục Tân lương, nói là “tục gọi
cầu Giấy, cầu dài ba trượng, có lợp ngói ở về huyện Từ liêm”.
3
Mọi răng vàng hay Kim xỉ man là tên một dân tộc ít người, vào thời Đường thì đang còn ở phần đất thuộc Vương quốc Pyu, nhưng
đến đời Nguyễn và cho tới nay thì phần đất ấy thuộc tỉnh Vân nam của Trung Quốc. Xem Nguyên sử 16 tờ 8a4.
Gọi là mọi răng vàng dân tộc ấy dùng vàng lá mà trang sức răng mình, “khi ăn thì lấy ra”. Họ có nhiều giống, mà Tân
đường thư 222 hạ tờ 15b-16a liệt ra như giống Tú cước, giống Tú diện, giống Điêu đề, giống Xuyên tỷ. An nam chí lược 1 tờ 19
nói: “Đà Giang Lộ tiếp giáp với Kim xỉ”. Kim xỉ đây đương nhiên là Kim xỉ man. Và nếu như vậy, thì Đạo Hạnh vừa mới vượt khỏi
biên giới nước ta thôi.
4
Tức Tứ Thiên Vương, đấy là Trì Quốc ở phía đông, Tăng Trưởng ở phía nam, Quảng mục ở phía tây, và Tỳ Sa Môn ở phía bắc của
tầng thứ tư núi Tu di, quản thủ bọn Dạ xoa và La sát. Chúng có nhiệm vụ bảo vệ thế giới, theo vũ trụ quan thần thoại của một số
trường phái Phật giáo. Xem chú thích (7) truyện Khuông Việt, và Khỉ thế nhân bản kinh 6 tờ 394c.
5
Chú thích (10) trên cứ vào đường hành quân của Vương Thông do Toàn thư ghi lại, đã đồng nhất cầu Tây dương với cầu Giấy. Mà
cầu Giấy theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tân lương là tên nôm của cầu Thượng yên quyết. Làng Yên quyết thực ra
có hai, đấy là làng Thượng yên quyết và Hạ yên quyết. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục có ghi một số tiến sĩ xuất thân từ hai làng
đó như Đặng Công Toản khoa 1520, Nguyễn Sằn khoa 1554, Nguyễn Dụng Ngãi khoa 1574, của làng Thượng yên quyết, Hoàng
Quản Chí khoa 1393, Nguyễn Như Uyên khoa 1409, Nguyễn Khiêm Quang khoa 1523, Nguyễn Nhật Tráng khoa 1595, Nguyễn
Dụng Triêm khoa 1602 v.v… của làng Hạ yên quyết. Vậy thì, cầu Quyết hay cầu Yên quyết của truyện đây là cầu Hạ yên quyết,
còn cầu Tây dương hay cầu Giấy là cầu Thượng yên quyết. Bến Quyết cũng ở làng Hạ yên quyết. Xác định như thế, bây giờ nó trở119 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
“Ngươi không nhớ việc ngày trước sao?”.
Sư ngửa mặt lên nhìn trời, lặng lẽ không thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Đại Điên phát bệnh chết.
Từ đấy oán xưa rửa sạch, niệm tục tiêu tan. Sư dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều
Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình1
, Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ:
“Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng
Chẳng hay đâu chốn, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện
Thấy trọn như như khỏi nhọc tìm”.
Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ:
“Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu
Ở trong tỏ rõ ý thiền nao
Bồ-đề đạo đó hà sa cõi
Muốn tới còn xa mấy vạn sào”.
Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp vân hỏi: “Thế nào là chân tâm?”.
Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?”.
Sư tỉnh ngộ, nói: “Làm thế nào bảo đảm?”.
Phạm đáp: “Đói ăn, khát uống”.2
Sư lễ tạ, từ giã ra đi. Từ đấy (55a1) pháp lực có thêm, duyên thiền càng thục, có thể sai rắn núi,
thú rừng, họp nhau đến chịu thần phục, Sư đốt ngón tay cầu mưa, đọc chú dùng nước chữa bệnh, không
gì là không tức khắc ứng nghiệm3
.
Có vị Tăng hỏi: “Đi, đứng, nằm, ngồi đều là tâm Phật, thế nào là tâm Phật?”.
Sư dạy bài kệ:
“Tạo có, mảy may có

thành rõ ràng là Đại Điên trụ trì chùa Thánh chúa làng Dịch vọng ở sát làng Thượng yên quyết, thì khi đánh chết Từ Vinh, xác
Vinh tất ném xuống sông Tô lịch từ khoảng cầu Tây dương, trôi xuôi cho đến cống Cót, nơi có nhà Diên Thành Hầu rồi dừng lại.
Tới khi Đạo Hạnh ném gậy mình từ bến Cót, nếu trôi ngược nó tất nhiên phải lên đến cầu tây dương hay cầu Thượng yên quyết,
chứ không thể cầu nào khác.
Cầu Tây dương gọi là cầu Giấy tối thiểu bắt đầu từ thời Lý, bởi vì gần cầu đó có xóm chuyên chế tạo giấy, tên là xóm Chỉ
tác hay xóm làm Giấy. Xem Đại Việt sử lược 3 tờ 29a11.
1
Thái bình đây chắc là phủ Thái bình, nơi có chùa Khai thiên do Nguyễn Quang Lỵ dựng, và Ma Ha trụ trì. Xem chú thích (10)
truyện Ma Ha. Tuy nhiên, trong vùng Hưng yên, đất của phủ Thái Bình cũ, không thấy có làng nào thờ Đạo Hạnh cả. Trái lại, theo
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định mới có một số làng thờ Đạo Hạnh thuộc huyện Nam chân như làng Chân nguyên, làng Vân
chàng, làng Kinh lủng… rồi nó viết tiếp: “Hạnh thuở nhỏ ưa đi chơi đến xã Chân nguyên, dựng chùa Đại bi, ở đấy trú trì, sau dân
làng tôn làm Tổ sư. Thế thì, vùng Thái bình do Kiều Trí Huyền giáo hóa phải chăng nằm tại đất tỉnh Nam định? Đây là một có thể.
Về Kiều Trí Huyền, nay ta không biết gì hết về tông tích tôn phái của ông.
2
Cơ xan khát ẩm, cách ngữ của Thiền gia chỉ đạo lý thiền không ở đâu xa, mà ở ngay trong chính những công tác thường nhật
nhất. Sư Nguyên Tân đến hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: “Hòa thượng tu đạo có dụng công không?”. Hải đáp: “Dụng công”. Hỏi
“Dụng công ra sao?”. Đáp: “đói đến thì ăn cơm mệt lại thì đi ngủ”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c 1-3.
3 An nam chí nguyên tờ 209 dẫn ý chính của đoạn này về Đạo Hạnh: “Thiền sư Đạo Hạnh là vị sư huyện Thạch thất, thường đi khắp
tòng lâm tìm tòi bậc trí thức, khi duyên đạo đã chín, pháp lực có thêm, Sư có thể sai sử chim rừng thú nội họp nhau đến chịu
phục. Sư cầu mưa trị bệnh, không gì là không ứng nghiệm, nay xác thịt đang còn”.
Việc sử dụng những ngữ cú và văn ý đồng nhất với Thiền uyển tập anh như đây chứng tỏ tác giả An nam chí nguyên hay
tác giả một cuốn sách khác mà ông vẫn phải sử dụng Thiền uyển tập anh. Do vậy, trước bản in năm 1715, Thiền uyển tập anh
phải có in một lần nào đó. Chính qua bản in hay tối thiểu bản chép trước năm 1715 mà An nam chí nguyên hay một cuốn sách
trước nó đã rút những dẫn trên về Đạo Hạnh. 120 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Làm không, tất cả không ,
Có không như trăng nước,
Chớ vướng có không không”.
Lại bảo:
“Trời trăng đỉnh núi cao
Người người mất hết châu
Kẻ giàu cóngựa tốt
Đi bộ chẳng cỡi câu”.
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con nối dòng. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112),
người phủ Thanh hóa dâng sớ tâu rằng: “Trên bãi cát biển, có đứa bé linh dị, tuổi mới lên ba mà đã biết
nói, tự xưng con đích của bệ hạ tên là Giác Hoàng. Hết thảy những gì bệ hạ làm, không gì là nó không
biết”.
Vua sai trung sứ đến xem, quả đúng như lời tâu, bèn rước về kinh đô, để ở chùa Báo thiên. Vua
thấy đứa bé thông minh khác thường, rất đỗi thương mến, sắp lập làm hoàng thái tử. Quần thần hết sức
can gián, cho là không được (55b1), và nói: “Nếu đứa bé kia quả thật linh dị thì nên thác sinh vào cung
cấm, sau mới có thể lập”. Vua theo lời, truyền mở đại hội bảy ngày đêm, làm phép thác thai.
Sư nghe chuyện, riêng nói rằng: “Thằng kia yêu dị, làm mê hoặc người lắm. Ta há nhẫn tâm,
ngồi nhìn chẳng cứu, để nó làm loạn lòng người, phá rối chánh pháp sao!”.
Nhân thế, sai chị mình giả làm người đi xem hội, bí mật đem vài hạt châu do Sư kiết ấn, treo
trên mái diềm. Hội đã ba ngày, Giác Hoàng nhuốm bệnh, nói với mọi người: “Đầy khắp cả nước đều có
lưới sắt bủa vây, tuy muốn thác sinh, mà sợ không có đường vào”.
Vua nghi Sư chú giải, sai người tra hỏi, Sư quả nhận tội, bị giam ở lầu Hưng thánh, hợp quần
thần nghị tội. Khi Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Sư kêu van: “Xin hết sức cứu bần tăng một phen, may
thoát tội, ngày sau tất xin đầu thai làm con để đền ơn”.
Hầu nhận lời. Đến lúc hội nghị, quần thần đều nói: “Bệ hạ vì không có con, nên mới cho Giác
Hoàng thác sinh, thế mà Lộ liều lĩnh dám làm chú giải, kết án tử hình, để tạ lòng thiên hạ”.
(56a1) Hầu chậm rãi thưa: “Nếu Giác Hoàng có thần lực, thì dù có trăm Lộ chú giải cũng không
làm hại được. Nay trái lại như thế thì Lộ vượt xa Giác Hoàng vậy. Thần ngu muội trộm nghĩ, nó tỏ phục
Lộ, thì đừng cho y thác sinh”.
Vua xá tội
1
.

1 Đại Việt sử lược 2 tờ 21 a4-b5: “Hội Tường Đại Khánh năm thứ 3 tháng 2 người Thanh hóa nói rằng: “ở Hải tân có một đứa bé lạ
lùng, tuổi mới lên ba, mà hiểu được tiếng nói, tự xưng là đích tử của Hoàng đế, gọi mình là Giác Hoàng, hễ vua cử động thì không
gì là nó không biết trước. Vua sai Trung sứ đến hỏi xem thì những gì người ta nói đều đúng cả, bèn rước về ở tại chùa Báo thiên.
Vì sự linh dị của nó, vua thương yêu nó càng nhiều. Bấy giờ, vua không có người nối dõi, muốn lập nó làm Thái tử, quần thần
không chịu, mới thôi. Bèn liền lập trai hội ở trong cung cấm, muốn khiến Giác Hoàng đầu thai vào làm con mình.
Có nhà sư núi Phật tích là Từ Lộ Đạo Hạnh nghe việc ấy mà không vui bèn sai người chị mình là Từ Thị đến phó hội, lén
lấy vài hạt châu có kết ấn rồi trao cho, bảo: “Đến chỗ hội thì hãy nhét vào đầu mái diềm, đừng để cho ai thấy biết”. Từ Thị làm
theo lời dặn của sư. Giác Hoàng bỗng chốc mắc bệnh sốt trẻ con, bèn nói với người ta rằng: “Tôi thấy khắp cả nước đều có lưới
sắt bao phủ, không có ngõ nào mà thác sinh vào cung được”. Vua ra lệnh mở một cuộc lùng soát lớn thì bắt được những hạt châu
do Từ Thị giấu, bèn bắt Lộ trói ở làng Hưng thánh, muốn đặt vào tội xử tử. Gặp khi Sùng Hiền Hầu vào chầu, Lộ gào khóc thảm
thiết nói rằng: “Xin Hầu ra tay cứu vớt bần tăng nếu may mà được thoát chết thì sẽ vào làm con của Hầu để đáp lại ân đức”. Hầu
bằng lòng, nên khi vào gặp vua, Hầu mưu cứu bằng trăm lối, nói rằng: “Giác Hoàng nếu thật có thần lực mà lại bị Lộ thư giải thì
rõ ràng Lộ hơn Giác Hoàng vậy. Thần nghĩ không gì hơn là cho Lộ thác sanh vậy”. Vua bèn xá tội Lộ Toàn thư không ghi chuyện
này. 121 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Sư đến Nhà Hầu tạ ơn, gặp lúc phu nhân đang tắm, Sư ép nhìn phu nhân. Phu nhân nổi giận,
đem chuyện thưa lại với Sùng Hiền Hầu. Hầu đã biết rõ nguyên nhân nên rốt cuộc không hỏi han gì. Phu
nhân từ đó biết mình có thai. Sư dặn Hầu rằng: “khi nào lâm bồn thì nên báo trước cho biết”.1
Đến ngày đủ tháng, Sư nghe tin báo, bèn thay quần, tắm rửa, bảo đồ chúng rằng: Túc nhân ta
chưa hết, còn phải ra đời lại, tạm làm quốc vương2
. Đến khi thọ chung, lại làm thiên tử trên cõi trời Tam
thập tam3
. Nếu thấy chân thân hư nát, thì lúc ấy ta mới vào Niết bàn, không ở cõi sinh diệt nữa”.
Đồ chúng nghe xong, không ai là không động lòng rơi lệ. Sư nói bài kệ rằng:
“Thu sang không báo nhạn về đây
Cười nhạt người đời thương xót thay
Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái
Thầy xưa(56b1) bao thuở vẫn thầy nay”.
Nói xong kệ, Sư nghiễm nhiên mà hóa, đến nay, xác thoát vẫn còn.4 5 6

1 Toàn thư B3 tờ 16a2-6: “(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ ba, bây giờ tuổi vua đã cao, mà không có con nối dõi, xuống chiếu chọn
con tôn thất vào làm nối dõi. Em vua là Sùng Hiền Hầu cũng chưa có con nối dõi. Gặp lúc nhà sư núi Thạch thất là Từ Đạo Hạnh
đến nhà Hầu để cùng nói chuyện cầu tự, Đạo Hạnh nói: “Ngày kia khi phu nhân lâm bồn thì nên trước báo cho biết, bởi vì tôi đã vì
Ngài đến cầu xin ở thần núi rồi”. Ba năm sau, phu nhân nhân thế mà có thai, sinh ra con trai Dương Hoán”.
2 Toàn thư B3 tờ16b6-17a4: “(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ bảy, mùa hạ tháng sáu, thầy Từ Đạo Hạnh thi giải ở chùa núi Thạch
thất… Trước đó, phu nhân của Sùng Hiền Hầu là Đỗ thị có thai. Đến lúc đó, khó sanh, Hầu nhớ lại lời nói ngày trứơc của Đạo
Hạnh, sai người chạy đến báo. Đạo Hạnh tức khắc tắm rửa thay áo, vào trong hang thi giải mà mất. Phu nhân liền sanh được
người con trai, tức là Dương Hoán vậy. Người làng cho là truyện lạ, đem thi bỏ vào trong khám mà thờ. Núi Phật tích ngày nay
tức là chỗ của nó vậy. Mỗi năm đến ngày 7 tháng 3 mùa xuân, sĩ nữ tụ hội lại ở chùa, làm nó trở nên một nơi du ngoạn nổi tiếng.
Người sau ngoa truyền đó là ngày kỵ của Thầy”. Đại Việt sử lược 2 tờ 22a5: (“Hội Tường Đại Khánh thứ 7) mùa hạ tháng 6 thầy
Đạo Hạnh hóa thân – Thần Tôn sinh ra”.
3
Tam thập tam thiên (Phạn: Trayastrimsà), một tên gọi khác của cõi trời Đao lợi hay Đâu suất đà (Phạn: Tusita), nơi ngự trị của Đế
Thích theo huyền thoại Phật giáo. Xem Trường a hàm 20 và Câu xá luận 11 .
4 Toàn thư B3 tờ 17a4-5: “Xác của Sư đến khoảng năm Vĩnh Lạc đời Minh mới bị người Minh đốt. Người làng đúc lại tượng của Sư
mà thờ như xưa, nay còn”. Thì rõ ràng, xác của Đạo Hạnh đang còn vào thời Trần, khi tác giả Thiền uyển tập anh viết tác phẩm
của mình. An nam chí lược 15 tờ 147-148 cũng nói: “Sư nhục thân kim thượng tồn”. An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: “Kim chân
hình thượng tồn”.
5
Nguyên văn: “Án Quốc sử, Hội Tường Đại Khánh bát niên, (nhân) Sùng hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành
Kỳ, Hầu tử, nghênh nhập trung cung giáo dưỡng. Sùng Hiền (Khánh thọ bát niên đông thập nhị nguyệt đế băng) Hầu tử, niên
phương nhị tuế, đế thâm ái chi, toại lập vi Hoàng thái tử, chi Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên đông thập nhị nguyệt đế băng,
Thái tử tức vị, xuân thu nhị thập nhất niên, tại vị phàn thập nhất niên, thuỵ viết Thần tôn, tức Sư thị giả, Giác Hoàng hoặc Đại
Điên thị giả”.
Những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như diễn tự và loại bỏ không dịch, cứ vào lời chiếu tìm con
tôn thất tìm con vào nuôi dưỡng trong cung của Lý Nhân Tôn trong Toàn thư B3 tờ 18a8-b3: “Hội Tường Đại Khánh thứ 8 mùa
đông tháng 10… xuống chiếu nói rằng: “Trẫm trị muôn dân, đã lâu không có con nối dõi, ngôi thứ của thiên hạ, thì có thể truyền
lại cho ai. Vậy phải nên nuôi dưỡng con của Sùng Hiền, Khánh Thành, Thành Quảng, Thành Chiêu và Thành Hưng Hầu, rồi chọn
đứa tốt nhất trong chúng mà lập lên”. Bấy giờ con của Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán, tuổi mới lên hai mà đã thông minh lanh lợi,
vua rất thương yêu, bèn lập làm hoàng thái tử”.
6 Lĩnh nam trích quái tờ 28-31 chép truyện của Từ Đạo Hạnh hoàn toàn đồng nhất với truyện đây, trừ một sai khác đáng chú ý là
việc Đạo Hạnh thi trúng khoa Bạch liên, mà Thiền uyển tập anh không nói rõ. Còn Từ Đạo Hạnh đại thành sự tích thật lục do “Đạo
nhân tam quán Tam Thanh” chép phụ vào Việt điện u linh tập tờ 221-225, tuy cốt truyện vẫn giống, nhưng có một số chi tiết khá
lôi cuốn đáng ghi, nên đề nghị dịch lại sau:
“Xưa Từ Đạo Hạnh, họ Từ tên Lộ cha là Vinh, dùng đạo Thích làm giáo tôn, làm quan triều Lý đến chức Tăng quan đô
sát, trước thường (qua chơi) làng An lăng, cưới con gái họ Tăng tên Loan, làm nhà ở xóm Láng nam, làng An lãng, gặp được chốn
đất làm nhà là quí địa, nên bẩm sinh Đạo Hạnh có tiên phong đạo cốt.
Hạnh lúc nhỏ ham chơi, tính tình hào hiệp, có chí lớn, hành động cử chỉ, người ta không thể lường. Thường cùng nhà nho
Phí Sinh, Đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người hề Phan Ất cùng nhau làm bạn. Ban đêm, Hạnh siêng năng chịu khó đọc sách, nhưng
ban ngày thì đánh cầu, thổi sáo, đánh bạc làm vui. Cha Hạnh thường quở trách Hạnh hoang chơi biếng nhác. Một hôm, ông lén
nhìn vào phòng Hạnh, thấy ngọn đèn leo lét như hạt đậu, sách vở chất đống, Đạo Hạnh tựa vào bàn ngủ, mà tay vẫn chưa buông
sách. Ông do thế không còn lo lắng nữa. Sau Hạnh ứng thí khoa Bạch liên, đỗ đầu, nhưng không thích ra làm quan, ngày đêm chỉ
nghĩ tới việc báo thù cho cha.
Cha Hạnh nguyên ngày trước dùng diệu thuật xúc phạm đến Diên Thành Hầu. Nhà Hầu có Pháp sư Đại Điên dùng phù 122 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ

yếm giết chết, quăng thây xuống sông Tô lịch. Trôi đến cầu Tây dương, chỗ nhà Diên Thành Hầu, cái thây dừng lại đó, suốt ngày
không chịu trôi đi. Hầu sợ, chạy báo cho Điên. Điên đến nói kệ rằng: “Tăng giận không đầy đêm sao? Vả sống là trường du hý,
chết mới thành đạo Bồ đề”. Thây đáp lại lời nói mà trôi đi, đến chỗ Hàm rồng làng Nhân mục cựu thì dừng lại. Người ta thấy nó có
linh dị, xã đó xây lăng miếu, đúc tượng phụng thờ, mỗi năm kỵ vào ngày 10 tháng giêng. Bấy giờ mẹ Hạnh táng tại chùa Ba lăng,
xã Thượng an. Nay chùa Hoa lăng phụng thờ cả hai vị Thánh cha và Thánh mẹ.
Đạo Hạnh chỉ nhằm phục thù, mà không tìm ra kế. Một hôm rình lúc Đại Điên đi ra sắp làm pháp thuật, bèn lấy gậy sắp
đánh Đại Điên, bỗng nghe trên không có tiếng mắng bảo thôi. Đạo Hạnh bèn quăng gậy, trở về nhà, buồn rầu tức giận, muốn đi
Tây thiên Ấn độ, tìm học phép lạ, để chống Đại Điên. Bèn liền cùng Minh Không, Giác Hải ra đi, đến nước Răng vàng đường đi
hiểm trở, muốn trở về thì thấy một ông già cỡi một thuyền con, thảnh thơi đi trên sông. Họ cùng đến hỏi: “Tới Tây thiên còn bao
xa”. Ông già trả lời: “Đường núi hiểm cao, đi bộ không được. Lão có chiếc thuyền nhỏ, xin giúp chở đi, lại có cây gậy nhỏ đây,
nhắm thẳng Tây quốc mà tới thì chẳng xa, lão xin bằng lòng ngay”. Lại nói bài kệ:
Cùng đi đường đạo lẽ đương nhiên
Nhiều ông xa học quyết nên danh
Mênh mông muốn ngả sao nhọc trải
Chỉ nhắm Hoàng giang thấy thánh sanh.
Nói kệ xong, trong khoảng nháy mắt, bỗng chốc đã đến bờ sông Tây thiên có nhiều thần thông phép thiêng. Đạo Hạnh giữ
thuyền. Giác Hải và Minh Không lên bờ, học được phép thiêng, liền tự trở về trước. Đạo Hạnh giữ thuyền ba ngày, không thấy tin
tức hai người bạn , tự nhiên gặp một bà lão đến bên bờ sông, bèn chèo đến hỏi: “Lão bà có từng thấy hai người đến cầu đạo
không?” bà lão trả lời: “Hai đứa đó đã nhận phép thiêng do ta dạy, đắc đạo trở về rồi”. Đạo Hạnh liền vái, vừa kể lại chuyện ba
người cùng đi, bây giờ bỏ nhau, rất lấy làm buồn. Bà lão nghe nói, tức sai Đạo Hạnh gánh hai thùng nước về nhà, ta sẽ dạy cho
ngươi vài phép thiêng cùng phép cho rút đất chân truyền và đà la ni.
Đạo Hạnh tự hiềm hai người bạn đã thất ước, bèn tụng chú. Giác Hải và Minh Không đi đến nửa đường thì bị chú làm đau
tim, khó di động được. Hai người bạn nhìn nhau kinh hãi. Bên ngoài tuy họ bị quấy rầy, nhưng bên trong nhờ đã học được linh
thuật, nên đang hoàn toàn tỉnh táo, biện biệt được hư thật, biết rằng nó quả do Đạo Hạnh tạo ra. Họ nhìn nhau nói: “Ngươi muốn
biết hậu thân của thân này, thì hãy nhắm ta mà nói”. Đạo Hạnh nhân thế đáp: “Chúng ta cùng học đạo Thế Tôn, đạo quả đã
thành hậu thân sẽ sinh lại thế gian làm bậc nhân chủ, lại sinh mắc bệnh, quyết không thể tránh, các ngươi có duyên với ta, xin
đến cứu nhau”.
Từ đó, hận xưa hết sạch, cùng nhau truyền bá Phật pháp. Đi mặt nước, bay trên không, hàng rồng phục cọp, lên trời rút
đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ nhập thần, chẳng lường được mầu nhiệm. Họ bèn nhượng Đạo Hạnh làm anh cả, Minh Không
làm anh thứ và Giác Hải làm em. Chỗ đó nay gọi là cầu Beo ấy vậy. Minh Không và Giác Hải giã từ trở về chùa Giao thủy. Đạo
Hạnh ở lại tu luyện tại chùa Thiên phúc núi Thạch thất. Trước chùa có đôi cây tùng già, người ta gọi là long thụ. Đạo Hạnh thường
ngày chuyên trì chú Đại bi tâm đà la ni đủ ức vạn ngàn biến thì một nhánh cây rơi xuống. Khi đọc chú xong thì cả đôi cây đều trụi.
Hạnh tưởng được đức Quan Thế Aâm đã đến ứng giúp, sức chú gia trì đã thấu tới thiên đường. Một hôm, thấy thần nhân hiện
đến trước mặt, chân không đạp đất, Hạnh hỏi: “Thần nào đó?” Vị thần trả lời: “Đệ tử là Tứ trấn thiên vương, cảm động đức trì
kinh của Sư, nên đến hầu hạ, để tiện việc sai sử”. Đạo Hạnh biết lục trí của mình đã viên thành, thù cha có thể trả. Bèn trở về ở
tại An lãng làng xưa, thân hành đến cầu An quyết sông Tô lịch, quăng một cây gậy xuống sông. Cây bỗng trên mặt nước, trôi
ngược lên như bay, đến cầu Tây dương mới dừng lại. Đạo Hạnh vui mừng nói: “Phép ta thắng Đại Điên rồi vậy”. Bèn đi thẳng đến
chỗ Điên. Điên thấy, nói: “Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?”. Đạo Hạnh ngửa mặt ngó lên trời, vắng vẻ không thấy gì cả,
nhân thế đánh mạnh. Điên chết, lại quăng xác vào sông Tô lịch để trả thù xưa.
Thù xưa rửa sạch, niềm tục lắng trong, Hạnh lại đi khắp tòng lâm, cầu xin ấn quyết. Nghe Cao Trí Huyền hóa đạo ở Thái
bình, Hạnh lễ phép đến tham yết, tỏ hết chân tâm, có bài kệ rằng:
Lâu mắc bụi đời chưa biết vàng
Chẳng hay đâu chỗ, ấy lòng chân
Nguyện xin chỉ dạy bày phương tiện
Nương thấy Bồ đề khỏi nhọc tìm.
Trí Huyền đáp lại lời kệ:
Bí quyết chân truyền giả vạn kim
Rõ ràng cái đó ấy thiền tâm
Hà sa thế giới nên thôi nói
Chẳng phải Bồ đề cách vạn tầm.
Từ Đạo Hạnh mang nhiên không hiểu, bèn đến pháp hội của Sùng Phạm tại chùa Pháp vân, thong dong hỏi rằng: “Thế nào mới là
chơn tâm?” Phạm đáp: “Chỗ nào lại không là chân tâm”. Đạo Hạnh bỗng nhiên tự ngộ, bèn lại trở về chùa Thiên phúc núi Thạch
thất tu đạo luyện pháp xưa. Từ đó, pháp lực càng thêm, lòng thiền càng thục, có thể sai sử chim rừng thú nội đều bay đến nép
phục xung quanh. Hễ dân các phương có ai bị tật dịch , bùa bay giấy chạy, phép Hạnh lập tức có nghiệm. Đem cứu người, người
đều thấm ơn.
Bấy giờ vua Lý Nhân Tôn không có con nối dõi, cầu đảo không nghiệm. Em vua là Sùng Hiền Hầu mời Đạo Hạnh về nhà
cùng nói chuyện cầu tự. Từ Công nguyện thác thai để tạ ân đức của Hầu. Lúc đó, phu nhân đang tắm ở nhà sau bỗng thấy Đạo
Hạnh hiện ở trong thau nước. Phu nhân sợ, đem nói với Hầụu. Hầu rõ biết ý Hạnh, lén gọi phu nhân nói: “Bóng hiện trong thau
nước, ấy là chân nhân đã nhập vào trong tử cung rồi, cẩn thận chớ sợ hãi nghi ngờ. Phu nhân trong lòng cảm thấy mình có thai.
Từ Công bèn từ tạ mà về, dặn rằng : “Lúc lâm bồn thì nên đi báo cho ta”. Đến khi thai đủ tháng, phu nhân cảm thấy chuyển bụng
muốn đẻ, nhưng rất khó. Hầu bảo: “Nên mau đi báo cao tăng”. Từ Công thấy người đi báo đến, bèn gọi đồ đệ đến nói: “Nhân xưa
chưa hết, ta tạm phải ra đời làm con cõi người để làm vua, thọ hết lại làm (chúa) cõi trời Tam thập tam. Nếu thấy chân thân ta
hoại diệt thì ta mới vào Niết bàn, không còn ở trong sinh diệt nữa. Môn nhân nghe nói, không ai là không cảm động đến rơi nước
mắt. Bèn lải rải nói kệ rằng:
Thu qua không báo nhạn về đây 123 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
52. THIỀN SƯ Trì Bát (1049-1117)
Chùa Tổ phong, núi Thạch thất, làng Đại cù, Tân trại
1
. Người Luy lâu1
, họ Vạn. Nhỏ đã thiết tha
với Phật giáo. Đến tuổi trưởng thành, tới xuống tóc và thọ Cụ túc giới với Sùng Phạm chùa Pháp vân.
Phạm thấy Sư tính hạnh siêng năng, gặp việc cẩn thận, bèn dốc lòng ấn khả và ban cho hiệu trên.

D khiến người đời thương xót thay
Tỏ dấu người đời không ý tiếc
Thầy xưa bao thuở vẫn thầy nay.
Nói xong, đi lên Động tiên, va đầu vào vách đá, dẫm chân lên bàn đá nghiễm nhiên thi giải mà mất. Ấy là năm Bính thân Hội
Tường Đại Khánh thứ 3 mùa xuân tháng 3 ngày mồng 7. Đạo Hạnh Niết bàn, ra đời làm con của Sùng Hiền Hầu, không phiền
nuôi nấng mà mau lớn, không nhọc dạy dỗ mà thông minh, nhan sắc đẹp đẽ, tài năng hết sánh. Vua xuống chiếu đem vào nuôi
dưỡng ở trong cung, sau phong làm Hoàng thái tử. Nhân Tôn băng vua lên ngôi, ấy là Thần Tôn …”.
Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tục biên chép với một vài sai
khác không đáng kể cho lắm. Trừ việc nó thiếu bài thơ thị tịch của Hạnh và thêm bài thơ báo mộng cho Lý Nhân Tôn cùng chuyện
nhờ Minh Không sau này chữa bệnh hộ mình.
An nam chí lược 15 tờ 147-148 viết: “Từ Đạo Hạnh là Nho sinh, ưa thồi sáo ngày cùng bạn leo núi du ngoạn, đêm đọc
sách đến sáng. Một hôm, Hạnh vào núi Phật tích thấy trên đá có dấu bàn chân bên phải, bèn lấy bàn chân mình án lên trên thì
giống như một. Bèn trở về nhà, giã từ mẹ mình, vào núi dựng am tu hành. Vua Lý vô tự, sai danh tăng cầu đảo. Có một vị tăng
không dự, dùng thuật yểm đi. Vua nghe được sai bắt các vị tăng trong nước. Sư cũng bị hạ ngục. Vị Hoàng tử đem sức ra cứu,
nên Sư khỏi được. Vị hoàng tử nói: “Tôi cũng không có con nối dòng, xin Sư cầu đảo dùm tôi”. Sư bèn nói với vị Hoàng tử nên sai
phu nhân vào trong nhà tắm. Sư đi qua ngoài nhà. Phu nhân cảm được mà có thai. Đến khi sinh, vị Hoàng tử cho mời Sư, nhưng
Sư đã ngồi mà hóa. Phu nhân bèn sanh một người con trai kỳ vĩ. Vua Lý lấy làm người nối dõi. Nhục thân Sư nay vẫn còn”.
Việt sử tiêu án 1 tờ 101a1-16 chép: “Xét phu nhân Sùng Hiền Hầu có thai gặp Sư núi Thạch thất là Từ Đạo Hạnh đến nhà
cùng bàn việc cầu tự. Sư hẹn khi sắp đẻ, nên trước báo cho Sư biết. Đến lúc ấy phu nhân đẻ khó, Hầu nhớ lời Sư, sai người đi
báo. Sư liền thay áo tắm rửa, vào trong hang thi giải mà chết. Phu nhân liền sanh một người con trai, tức Dương Hoán. Núi Thạch
thất ở tại làng Lật Sài, huyện Yên sơn, cao vút xanh đẹp, mọc lên giữa một đám đất bằng. Động đá có in dấu đầu và dấu chân,
hình như rồng lân, tục truyền là nơi thi giải. Người làng cho đó là điềm lạ, bỏ thây vào trong khám mà thờ. Mỗi năm đến ngày 7
tháng 3 là thắng hội của một địa phương. Sau trong khoảng Vĩnh lạc, người Minh đốt thây đó. Dân làng mới đắp tượng cùng thờ
với Thần Tôn, Trong khoảng Lê Quang Thuận, sai Nguyễn Đức Trinh đến cầu tự ở trong động thì điềm lạ là có một mảnh đá bay
tới. Bèn cung kính rước về dâng lên. Khi đã vậy, Thái hậu Trường Lạc mộng thấy rồng vàng vào hông bên phải mình, bèn sinh ra
Hiến Tôn. Từ đó dấu thiêng càng hiện rõ”.
Rồi nó nhận xét thế này: “Xét Dã sử thì Đạo Hạnh là con của Từ Vinh, dòng dõi nổi tiếng về pháp thuật, chẳng phải là
một cao tăng. Việc thi giải đầu thai của ông quái đản không thường. Cao tăng minh tâm kiến tánh, tất không dùng pháp thuật mê
hoặc mọi người. Sách sử nên bỏ chuyện lạ lùng, chỉ ghi lại việc thường, mà không nên đem chuyện thần quái mà mê hoặc đời”.
Dẫu vậy, với dẫn chứng vừa đọc, ta cũng thấy Việt sử tiêu án đã không quên bước chân theo Toàn thư và Đại Việt sử lược để ghi
lại những việc làm có vẻ quái đản của Đạo Hạnh. Chỉ Cương mục chính biên là đã làm theo lời giáo huấn của Ngô Thời Sĩ, và từ
đó đã tự làm giảm giá trị của chính mình thôi.
1 Việt sử tiêu án 1 tờ 101b2 nói Từ Đạo Hạnh là “nhà Sư núi Thạch thất” nhưng cứ truyện Đạo Hạnh tờ 53b2 ở trên thì Hạnh sống ở
Phật tích. Vậy Phật tích đời Lý phải chăng là núi Thạch thất thời Ngô Thời Sĩ, tác giả Việt sử tiêu án. Đây là một có thể vì dù Đại
nam nhất thống chí, mục Sơn xuyên có ghi núi Phật tích ở huyện Yên sơn đi chăng nữa thì ở mục Kiến trí diên cách nó lại dẫn Đại
thanh nhất thống chí nói rằng núi Câu lậu ở huyện Thạch thất, núi Phật tích cũng ở huyện Thạch thất”. Rồi nó bình luận: “Nay núi
Phật tích ở huyện Yên sơn là một huyện đời nào mới phân ra chưa rõ”. Nhưthế ta có chứng cứ mà nghĩ rằng núi Phật tích và núi
Thạch thất là một.
Tuy nhiên, theo Đại Việt sử lược 3 tờ 31 b4 thì núi Phật tích ở Ngoại trại, trong khi cứ truyện Trì Bát đây thì núi Thạch
thất lại ở Tân trại. Tân trại đương nhiên không phải là Ngoại trại được. Từ đó núi Thạch thất không thể là núi Phật tích, vấn đề
này Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, đã cung cấp sẵn một giải đáp. Nó dẫn Lê chí đời Minh nói rằng: “Núi
Phật tích là một danh sơn trong 21 núi ở An nam, năm Hồng Vũ thứ 3 (1371) sai sứ sang tế, lại vẽ hình nó mang về. Phía đông
bắc núi độ một dặm có sông Hát chạy vòng quanh. Phía tây nam độ hai dặm có một khe nước nhỏ chảy khuất khúc hơn 10 dặm
đổ vào sông Tích. Núi chuyển hướng đông thuộc thôn Thiên phúc làm núi Long đẩu, thuộc xã Sài khê thì làm núi Hoa phát, làm
núi Lộc, làm núi Long, đến xã Khánh tân thì làm núi Hương, núi Mộng, núi Phụng Hoàng và thôn Ô cách, xã Cù Sơn thì làm núi
Lân, núi Tượng, lại chuyển hướng nam làm núi Ma yên, thuộc thôn Trung, xã Cù Sơn làm núi Dương. Xã Quảng động có núi Âm.
Hai núi ấy đối ngọn nhau. Núi Dương không có cỏ cây. Núi ÂM có cây rất tốt, nên có tên đó”.
Cứ vào những mẫu tin vừa dẫn của Lê chí thì núi Phật tích “chuyển hương đông đến thôn Ô cách, xã Cù sơn thì làm núi
Lân, núi Tượng, lại chuyển nam thuộc thôn Trung, xã Cù Sơn là núi Dương”. Xã Cù Sơn nói đây chúng tôi nghĩ nó là phần đất làng
Đại cù, mà truyện Trì Bát nói tới. Từ đó, núi Thạch thất nơi có ngôi chùa Tổ phong của Trì Bát phải là núi Lân, núi Tượng ở thôn Ô
cách, xã Cù sơn. Chúng tôi không kể đến ngọn Dương sơn của xã này, bởi vì nó là một ngọn núi: “không cây cỏ” thì khó lòng là
nơi làm cảnh dựng chùa được. Về núi Lân và núi Tượng, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên, có nói về núi Phục
tượng như sau: “Núi Phục tượng tại huyện Yên sơn, nó từ Sài sơn mà đến, một chi phía nách trái có núi Phụng hoàng và núi Qui
tích”. Nó không nói gì đến núi Lân hết, thế cũng có nghĩa núi Lân chắc không có gì đặc sắc cho lắm. Núi Tượng như vậy cũng là
núi Phục tượng. Và giống Phục tượng là đến từ Sài sơn, thì núi Thạch thất, tức núi Phục tượng, cùng là núi Phật tích, hay đúng 124 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Khi Phạm qui tịch, Sư tự mình đi khắp những chỗ giảng Thiền, trải hỏi các bậc Tôn túc, rồi trở về
chùa đó giảng dạy nghiên cứu. Tướng quốc Thái úy Nguyễn Thường Kiệt
2
, lúc bấy giờ là vị đàn chủ.
Những gì Sư được dâng cúng, đều đem dùng vào việc Phật. Sư đồng thời dựng lại các chùa Pháp vân,
Thiền cư, Thê tâm và Quảng an… để đáp lại ân pháp nhũ.
Ngày 18 tháng 2 (57a1), năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117), khi sắp thị tịch, Sư nói kệ
rằng:
Có chết tất có sống
Có sống tất có chết
Chết đời lấy làm buồn
Sống đời lấy làm vui
Buồn vui thật vô cùng
Bỗng nhiên thành đây đó
Đối với việc sống chết
Chẳng có gì bận lòng
Án tô rô tô rô tất rị”
3
Nói kệ xong, Sư ngồi thẳng mà mất, thọ 69 tuổi. Môn đồ đệ tử là Thiền sư Tịnh Hạnh, Pháp
Nhãn và Thuần Chân thu di cốt hỏa táng.
53. THIỀN SƯ Thuần Chân (? – 1105)
Chùa Hoa quang, làng Tây kết, Thượng nghi4
. Người Cửu ông, Tế giang1
, họ Đào. Tuổi nhỏ đã
lầu thông kinh sử, đến đâu cũng gặp bọn học trò tranh nhau theo học. Sau gặp Pháp Bảo chùa Quang

hơn từ Phật tích “mà tới”.
Đất Tân trại do đó phần lớn gồm trong huyện Quốc oai, tỉnh Sơn tây ngày nay.
1
Tức phần đất làng Khương Tự và Đại Tự huyện Thuận thành, tỉnh Hà bắc ngày nay. Toàn thư B4 tờ 19b1-20a1 viết: “Năm Thiên
Tư Gia Thụy thứ 3 (1188) mùa hạ tháng 5 hạn. Vua thân hành đến chùa Pháp vân của Luy lâu (Nguyên văn có Luy bà, Nhưng bà
chắc chắn là một viết sai của lâu, Lê Mạnh Thát chú) cầu mưa, nhân đó rước tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên”. Cương
mục chính biên 5 tờ 23b3 cũng chép việc đấy, Nhưng không ghi tên đất nơi có chùa Pháp vân. Mà chùa Pháp vân, ta đã biết là ở
hai xã Khương tự và Đại tự ngày nay. Thì Luy lâu tất cũng phải vậy.
2
Tức Lý Thường Kiệt (1019-1105). Kiệt được phong chức Thái úy năm 1075.
3
Thiền sư Viên Quang, có người hỏi: “Nếu không dính dáng đến chuyện đàn tràng nữa thì Sư có tiếp chăng?” Sư trả lời: “Tô rô tô
rô”. Tô rô tô rô hay nói cho đủ, tô rô tô rô tất rị là một phiên câu chú chữ Phạn: surà-suràsrì nghĩa là: Sự vinh quang của người
anh hùng và không anh hùng.
4
Tây kết là một địa danh lịch sử nổi tiếng. Bọn xâm lược đời Tống thời Lê Hoàn đã đến đóng quân ở đó. Bọn xâm lược Nguyên
Mông dưới quyền chỉ huy của tên tướng khét tiếng tàn ác Ô Mã Nhi cũng đến đóng quân ở đó. Tuy thế, Cương mục chính biên 1
tờ 18a1 đã phải chú là “Tây kết thất tường”. Dẫu vậy, bây giờ cứ vào mô tả của Toàn thư 5 tờ 48a2-49b8 về những chiến thắng
Hàm tử, Chương dương và Tây kết, ta thấy đầu tháng 3 năm 1285 Toa Đô đem 50 vạn quân đến đóng ở Tây kết. Tháng 4 “vua
sai Chiêu Thành Vương, Hoài văn hầu Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc ở đầu bến Tây kết.
Quan quân cùng với người Nguyên đánh nhau ở cửa Hàm tử, các quân đều ở đó. Chỉ quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật là có
người Tống mặc áo người Tống cầm cung nỏ chiến đấu… Người Nguyên thấy vậy, đều thất kinh nói: “Có người Tống đến giúp”,
nhân đó thua chạy về Bắc. Ngày 10 có tiệp báo “Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn
Khả Lạp cùng em Nguyễn Phó đem dân binh các lộ đánh bại giặc ở các nơi Kinh thành và Chương dương”. Ngày 17 Toa Đô cùng
với Ô Mã Nhi từ biển mới vào đến đánh sông Thiên mạc. Ngày 22 vua tiến lên đóng ở bến Đại mang, Tổng quản Trương Hiển của
quân Nguyên đến hàng. Ngày đó, đánh bại giặc ở Tây kết, giết chết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu tên Nguyên soái Toa
Đô. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh hóa. Hai vua đuổi theo không kịp, bắt dư đảng của y hơn 5 vạn mà trở về”.
Cứ vào những diễn tiến của chiến dịch Tây kết đây và cứ vào những chú thích của Cương mục chính biên 7 tờ 39b6 và
41b4 và vị trí của cửa Hàm tử và bến Chương dương cùng việc thoát thân của Ô Mã Nhi, thì Tây kết phải là một tên làng nằm trên
bờ sông Hồng tại huyện Đông anh, tỉnh Hưng yên, tức huyện Khoái châu, tỉnh Hải hưng ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 3 có 125 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Tịnh2
nói một lời mà Sư hiểu được Thiền chỉ, bèn bỏ chỗ học của mình để theo học với Bảo. Chẳng được
bao năm, cửa tù đập vỡ, ánh điện lửa đá theo gõ phát ra, dẫn trẻ dắt mù, hầu không còn sức.
Vào ngày 7 tháng 2 năm Ất dậu Long Phù thứ 53
(1105) khi sắp tịch, đệ tử nhập thất là Bổn Tịch
vào thỉnh ích. Sư thuyết (57b1) bài kệ:
“Chân tánh thường không tánh
Sao từng có diệt sinh
Thân là pháp sinh diệt
Pháp tánh diệt chửa từng”.
Rồi thì mất. Phụ quốc thái bảo Cao Tối lo việc hỏa táng và dựng tháp.

ghi một tổng và xã tên Đông kết thuộc huyện Đông yên của trấn Sơn nam hạ. Tây kết chắc nằm phía tây của tổng xã đó, nhưng
nó không ghi một tổng xã nào tên Tây kết hết.
Chúng tôi nghi Tây kết có thể nằm về hữu ngạn sông Hồng trên địa phận của huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông trước
đây, bởi vì cứ truyện Thuần Chân ở đây thì làng Tây kết thuộc về Thượng nghi. Thượng nghi này, chúng tôi nghi là tên thời Lý của
châu Thượng phúc thời Trần, tức huyện Thượng phúc đời Lê cho tới ngày nay. Huyện này ở đúng về tây huyện Đông yên. Mà
huyện Đông yên, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hưng yên, mục Kiến trí diên cách, là huyện Đông kết đời Trần và thuộc Minh.
Đến đời Lê Quang Thuận mới đổi ra Đông yên. Khảo những tên tổng xã của huyện Thượng phúc trong Bắc thành địa dư chí lục 3
không thấy có một tên nào có thể điểm chỉ cho biết có một làng tên Tây kết ở huyện đó. Vấn đề này cần được nghiên cứu thêm,
đặc biệt bằng nghiên cứu hiện địa.
1
Tức huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Huyện Văn giang thời Nguyễn là thuộc tỉnh Bắc ninh. Viết về lai lịch nó, Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Kiến trí diên cách nói: “Huyện Văn giang đời Trần về trước gọi là Tế giang. Sử kyù chép Lữ
Đường chiếm cứ Tế giang, tức huyện đây đời thuộc Minh do châu Gia lâm thống lĩnh thuộc phủ Bắc giang. Đời Lê Quang Thuận
đổi thuộc phủ Thuận an. Sau đổi tên Văn Giang. Năm Minh Mạng 13 (1832) triều ta đặt riêng phân phủ kiêm lý huyện”.
Đại Việt sử lược 3 tờ 29a1 nói: “Tự Khánh dẫn quân đồn Cứu liên, chia tướng sĩ đồn Cửu cao và Cửu ông để ngăn Nộn”.
Cửu ông ở đây tức Cửu ông, quê của Thuần Chân.
2
Pháp Bảo chùa Tịnh quang này có thể là Pháp Bảo chùa Phúc diên tư thánh có hiệu là Hải Chiếu đại sư, tác giả bài bia chùa Linh
xứng viết năm 1126 nổi tiếng hiện đã phát hiện được, và cũng là tác giả một bài bia khác cho chùa Sùng nghiêm diên thánh viết
năm 1118, mà Lê Quí Đôn đã phát hiện và ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2a8, nhưng đã không chép lại toàn văn bản bia.
3
Nguyên văn: Long Phù nguyên niên Ất dậu. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 19b1 và 20a5 và Toàn thư B3 tờ 13b6-14b5 thì không
có năm nào Long Phù nguyên niên mà lại Ất dậu hết. Long Phù ngũ niên thì phải là Tân tỵ, còn Ất dậu thì phải là Long Phù
nguyên niên. Chúng tôi nghĩ, chữ nguyên trong Long Phù nguyên niên ở đây là một chép sai của chữ ngũ, bởi chữ ngũ và chữ
nguyên dễ viết lộn nhau lắm, và bởi Long Phù ngũ niên thì quả đúng năm Ất dậu. Như vậy, nămmất của Thuần Chân chính là năm
Long Phù thứ năm Ất dậu 126 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Ba (6 ng ư ờ i, 2 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c )
54. TĂNG THỐNG Huệ Sinh (? – 1064)
Chùa Vạn tuế, kinh đô Thăng long, nguời Đông phù liệt
1
, họ Lâm, tên Khu, hậu duệ của Lâm phú
ở Trà sơn, Vũ an2
. Khoáng lấy con gái của Quách tăng lục, nhân dời nhà đến Phù liệt, sinh được 2 con,
người lớn tên Trụ, làm quan đến chức Thượng thư binh bộ viên ngoại lang. Sư là người con thứ vậy.
Tướng mạo Sư kỳ vĩ, ăn nói lưu loát, rất giỏi văn chương, có tài viết, vẽ. Học Nho rảnh rỗi, Sư
nghiên cứu thêm sách Phật, học bách luận và các kinh, không gì là không xem hết. Mỗi khi nói đến chỗ
trọng yếu của Phật pháp, Sư thường than thở rơi lệ.
Năm 19 tuổi, Sư bỏ đời, cùng Pháp Thông chùa Hạc lâm3
thờ (58a1) Định Huệ chùa Quang hưng
làm thầy. Học thiền mỗi ngày một tiến. Định Huệ vỗ về mến chuộng. Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, hỏi
hết thiền chỉ rồi đến đỉnh Bồ đề núi Trà4
trác tích. Mỗi lần vào định, trải qua năm ngày mới dậy. Người
bấy giờ gọi Sư là Đại sĩ nhục thân5
.
Lý Thái Tôn nghe tiếng, sai sứ đến mời, Sư gọi sứ bảo: “Ông không thấy con vật cúng sinh sao?
Người ta đem lụa là cho nó mặc, cỏ tươi cho nó ăn, đến khi bị dắt vào Thái miếu, dù muốn xin làm con
vật hèn mọn, vĩnh viễn còn không thể được huống gì khác nữa ư?”6
. Sư cố từ không được, nên đến lần
thứ hai, Sư mới về kinh. Gặp mặt, vua rất mừng, phong làm Nội cung phụng tăng7
sắc trụ trì chùa Vạn

1 Bắc thành địa dư chí lục 3 có ghi một xã của tổng Nam phù liệt, huyện Thanh trì, trấn Sơn nam thượng tên Đông phù liệt. Làng
Đông phù liệt như vậy ở vào huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
2
Vũ an là tên một châu huyện thời Đường. Tân đường thư 43 thượng tờ 11a11 nói châu Vũ an có hai huyện là Vũ an và Lâm giang.
Đến thời Ngô Quyền, tên ấy vẫn dùng, bởi vì truyện của Phạm Cự Lượng trong Việt điện u linh tập tờ 20 nói ông nội của Lượng là
Phạm Chiêm từng giữ chức Châu mục châu Vũ an. Đến thời Lý, tên Vũ an đang lưu hành. Nhưng Vũ an nằm ở địa phận nào thì
đấy là cả một vấn đề. Cứ truyện Huệ Sinh đây thì tại Vũ an có Trà sơn. Trà sơn nay chắc chắn là tên làng, chứ không phải là tên
ngọn núi, như sẽ nhìn thấy dưới chú thích (4) sau đây. Khảo Bắc thành địa dư chí lục 2 có ghi một xã thuộc tổng Dưỡng Chân,
huyện Thủy đường, trấn Hải Dương tên Trà sơn. Chúng tôi nghi Trà sơn quê của Huệ sinh tức làng Trà sơn này. Nếu vậy, đất
châu Vũ an đời Lý tất phải bao gồm đất huyện Thủy đường đời Nguyễn, tức huyện Thủy nguyên, tỉnh Kiến An ngày nay.
3
Chùa Hạc lâm này nghi là đền Hạc lâm truyện Vạn Hạnh tờ 53a7 nói tới trong bài thơ ghi giới hạn ngôi mộ của Hiển Khánh đại
vương:
Đông hữu Vũ long hạng
Nam hữu Vũ long pha
Tây hữu Hạc lân quán
Bắc hữu Trấn hải trì.
Nếu vậy chùa này ở phía tây ngôi mộ tại làng Đình bảng?.
4
Tức núi Nguyệt thường hay núi Bạch sắc ở huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên
nói: “Núi Nguyệt thường, tại phía tây nam huyện Tiên du ba dặm, một tên là núi Bạch sắc, cũng gọi là núi Trà. Tương truyền Lý
Thánh Tôn đến chơi núi đó và cho tên Nguyệt thường. Núi hơi cao, đá đất lẫn lộn. Trên núi có liu, dưới núi có đền Cao sơn. Năm
Tự Đức thứ 3 (1850) triều ta liệt vào hạng danh sơn, chép vào sách cúng”.
Núi này hiện có đỉnh Bồ Đề không, chưa thể biết được.
5 Đại sĩ là một tên gọi khác các vị Bồ tát. Xem Đại trí độ luận. Nó đôi khi cũng để gọi Phật, như trong Kim quang minh kinh Tứ nghi
tập giải quyển thượng nói: “Đại sĩ, đại là không phải nhỏ, sĩ là việc, vì vận dụng được lòng rộng lớn làm nên việc Phật nên gọi
Đạisĩ, cũng gọi Thượng sĩ”. Du già sư địa luận xác định rõ hơn nội dung của từ Thượng sĩ thế này: “Người làm không lợi mình mà
lợi người, ấy là hạ sĩ, làm lợi mình không lợi người, gọi là trung sĩ, làm lợi cả mình lẫn lợi người gọi là thượng sĩ”. Nội dung của từ
Đại sĩ cũng thế.
Đại sĩ nhục thân như vậy, có nghĩa vị Bồ Tát hay Phật bằng xương thịt.
6
Trang tử, “Liệt ngự khấu”: “Hoặc sinh ư Trang tử, Trang Tử ứng kỳ sử viết: “Tử kiến phù hy ngưu hồ? Y dĩ văn tú, thực dĩ sồ thúc,
cập kỳ khiên nhi nhập thái miếu, tuy dục vi cô độc, kỳ khả đắc hồ”. Xem Trang tử 10 tờ 12a12b1.
7 Đại tống tăng sử lược quyển hạ tờ 250a 4-10: “Nội cung phụng là chức quan trao cho thầy tu. Từ khi Đường Túc Tôn nhóm binh ở
Linh Vũ vào năm Chí đức thứ nhất (756), rồi trở về Phú phong, sư Nguyên Hạo nhận được khẩu sắc, đặt đạo tràng Dược sư, vua
sai những người đi theo xa giá đến để cầu công nghiệm. Tới chùa Khai nguyên, phủ Phụng dương, đạo tràng Dược sư có ba 127 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
tuế. Một hôm, nhân dịp trai tăng trong đại nội, vua gọi Sư nói: “Trẫm nghĩ, Phật tổ gốc ở tâm, người học
chớ nên chỉ trích lẫn nhau, xin cùng với thạc đức các phương, mọi vị bày tỏ điều hiểu biết của mình, để
xem chỗ dụng tâm của các vị ra sao”. Sư lên tiếng đáp thành kệ rằng:
“Pháp vốn như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu người biết như vậy
Chúng sinh cùng Phật đồng
Trăng Lăng-già vằng vặc
(58b1)Thuyền vượt biển lâng lâng
Hiểu không, không biết có
Tam muội mặc thong dong”.
Vua rất khen thưởng, rồi phái làm Đô tăng lục. Bấy giờ các vương công như: Phụng Yết Thiên Vương1
,
Thái Tử Vũ Uy2
, Hỷ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh và Hiển Minh, Thượng tướng Vương Cường3
, Thái sư
Lương Nhậm Văn, Thái bảo Đào Xử Trung và Tham chính Kiều Bồng4 đều tới lui hỏi đạo, lấy lễ thầy trò
đãi Sư .
Đến triều Thánh Tôn, Sư đổi đến chức Tả nhai Đô Tăng thống, tước Hầu, vua không gọi Sư bằng
tên5
.

nhóm, mỗi nhóm bảy người, sáu thời hành đạo. Bấy giờ trong đạo tràng bỗng mọc lên một cây mận. Sư phụng mệnh kiểm xem
hư thực thời cây mận có 49 cành. Nguyên Hạo dâng biểu mừng. Vua phê đáp: “Cây mận lành sum xuê, đó là điềm nước thịnh, mà
nó lại mọc trong già lam thì biết mặt trời Phật pháp đang nổi lên trở lại. Cảm được cái điềm lành đặc biệt này, trẫm xin chia vui
với Sư”. Lý Nhượng Quốc lại đọc sắc nói: “Sắc sư Nguyên hạo là nội cung phụng”. Đặt ra chức Nội cung phụng đây, như vậy là
bắt đầu với Nguyên Hạo. Sau Hạo có Tử Lân là người tuyền châu kế tiếp. Đến thời Hiến Tôn thì Đoan Phổ, Hạo Nguyên và Hoàn
Bạch nối nhau giữ chức. Qua tới thời Chu, Lương, Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu và Đại Tống ta thì chức đấy không còn nghe tới
nữa”.
Đấy là lai lịch chức Nội cung phụng tăng ở Trung Quốc. Ở nước ta, chức này được phong cho một pháp sư tên Định sống
vào những năm 800, mà Dương Cự Nguyên đã làm bài thơ tặng nhan đề: “Cung phụng định pháp sư quy An nam”. Xem Toàn
đường thi 333 tờ 3722. Đến đời Lê Đại Hành có Nguyễn Kha làm Nội cung phụng đô úy.
1
Tức Phụng Càn vương, tước do Lý Thái Tôn phong cho con mình là Lý Nhật Trưng vào năm 1035. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 6a8
và Toàn thư B2 tờ 23a5.
2
Có lẽ là Vũ Uy. Năm 1009, khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn phong cho anh mình là Vũ Uy Vương. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 2b3 và
Toàn thư B1 tờ 34b5.Nhưng Vũ Uy đây không phải là Vũ Uy Vương,mà là Vũ Uy Hầu, con của Lý Thái Tôn và em của Phụng Càn
Vương. Đại Việt sử lược 2 tờ 8a4 có ghi một Vũ Uy Hầu đã cùng với Quách Thịnh Dật đi đánh Nùng Trí Cao vào năm 1048, mà
những sử khác không ghi. Vũ Uy Hầu này là Vũ Uy của chúng ta ở đây.
Về tước Thái tử, thì các sử ta đều nói trừ con trưởng ra, các con khác của các vua đời Lý đều phong Hầu. Nhưng cứ Lĩnh
ngoại đại đáp, thì các con vua đời Lý đều được phong thái tử hết. Những Thái Tử Vũ Uy, Hỷ Từ v.v…chắc đều là con của Lý Thái
Tôn.
3
Có lẽ là Vương Hành, người giữ chức hữu thanh đạo, do Lý Thánh Tôn phong lúc mới lên ngôi vào năm 1054, mà Đại Việt sử lược
2 tờ 10a5 nói tới, còn các sử khác không thấy có. Chữ Hành rất dễ viết lên thành chữ Cường.
4
Lúc mới lên ngôi vào năm 1028, Lý Thái Tôn “lấy Lương Nhiệm Văn làm Thái sư (… ) Đào Xử Trung làm Thái bảo… Kiều Bỗng làm
Hữu tham tri chính sự. Xem Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3-5 và Toàn thư B2 tờ 16a7-9.
5
Về sự liên hệ giữa Huệ Sinh và Lý Thánh Tôn, Báo Cực truyện do Việt điện u linh tập tờ 30-31 dẫn lại trong truyện Ứng thiên hóa
dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân có viết rằng:
“Xưa Lý Thánh Tôn nam chinh Chiêm thành, đến cửa Hoàn bỗng bị gió lớn mưa to, sóng nước cuộn lên, thuyền vua tròng
trành muốn lật, nguy cấp xảy ra không thể lường được. Vua rất lo sợ. Trong lúc bàng hoàng, vua bỗng thấy một người con gái,
tuổi ước trên dưới hai mươi, mặt tựa hoa đào, mày đượm dương liễu, mắt sáng như sao, cười như hoa nở, mình mặc áo trắng
quần lục, nai nịt gọn gàng, đi thẳng đến trước Vua, nói rằng: “Thiếp là tinh của đại địa Nam quốc, sống nhờ ở làng Thủy vân đã
lâu, xem thời mà ra, may gặp dịp tốt, hân hạnh được thấy long nhan, thì sở nguyện bình sinh của thiếp thật đã thỏa. Chỉ mong bệ
hạ chuyến đi này thông suốt, hoàn toàn thu hoạch thắng lợi. Thiếp tuy bồ liễu mong manh, cũng xin đem sức mọn, lặng lẽ phò tá.
Đến ngày khải hoàn, thiếp xin đợi ở đây để bái yết”. Nói xong thì không thấy nữa.
Vua tỉnh dậy kinh hãi nhưng vui, cho mời tả hữu, kể hết những gì đã thấy trong mộng. Tăng thống Lâm Huệ Sinh nói:
“Thần nói thác sinh vào một cây ở tại làng Thủy vân. Nay nên tìm thần cây đó, có thể có linh nghiệm”. Vua đồng ý, sai tùy tùng đi 128 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Năm Giáp thìn Gia Khánh thứ 6 (1064)1
, lúc sắp thị tịch, Sư nhóm đồ chúng nói kệ rằng:
“Nước lửa ngày chan hòa
Do lai, chửa nói ra
Tin ông không xứ sở
Ba ba lại ba ba”.2
Lại nói:
“Từ xưa đến theo học
Người người chỉ phía nam3
Nếu ai hỏi việc mới
Việc mới trăng mùng ba”
Rồi tắm rửa, đốt hương, đến nửa đêm Sư an nhiên mà mất. Sư thường phụng chiếu soạn bia
văn các chùa Thiên phúc4
, Thiên thánh, Khai quốc tại Tiên du và chùa Diệu nghiêm, Báo đức tại Vũ
ninh5
. Lại có Pháp sự trai nghi6
và Chư đạo (59a1) tràng khánh tán văn một số quyển lưu hành ở đời.

tìm ở bãi và bờ sông thì được một cây gỗ, đầu rất giống hình người qua dạng người đã thấy trong mộng. Vua bèn đặt hiệu là Hậu
Thổ phu nhân. Sai đặt hương án ở trong ngự thuyền. Giây lát, sóng gió lặng im, cây cối hết động. Tới khi qua đến Chiêm thành
xáp trận thì giống như có sức thần giúp. Trận đó quả đại thắng.
Đến ngày khải hoàn, thuyền vua đến đậu lại chỗ cũ, ra lệnh xây miếu, thì mưa gió lại nổi lên lại như xưa. Lâm Huệ (Sinh)
tâu rằng: “Để xin một keo có phải muốn về kinh sư chăng”. Thì quả được. Mưa gió lại im lặng. Đến khi về tới kinh sư, vua chọn
đất dựng miếu tại làng An lãng, rất nổi tiếng linh dị. Có kẻ bài báng chú trở thì liền bị tai họa …
Đấy là chuyện Lâm Huệ Sinh tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh Tôn nguyên bản chép tay viết Huệ Lâm Sinh hay Huệ
Lâm, nhưng đó rõ ràng là chép ngược và thiếu cái tên của Huệ Sinh họ Lâm. Suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi đánh Chiêm
thành có một lần, ấy là vào năm 1069, nhưng như sẽ thấy, Huệ Sinh theo Thiền uyển tập anh thì mất vào năm 1063 hay 1064.
Vậy làm sao lại có thể tùng chinh? Xem chú thích tiếp theo.
1
Nguyên văn: Gia Khánh ngũ niên Giáp thìn. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 và Toàn thư B3 thì Chương Thánh Gia Khánh ngũ niên
phải là Quý mão, chứ không phải Giáp thìn. Nếu Giáp thìn thì phải là Chương Thánh Gia Khánh lục niên (1064). Chữ ngũ và chữ
lục cũng rất dễ lẫn. Vậy Huệ Sinh mất năm 1064? Nhưng như thế làm sao Huệ Sinh có thể tùng chinh Chiêm thành với Lý Thánh
Tôn trong cuộc chinh phạt xảy ra vào năm 1069. Phải chăng Huệ Sinh đã tùng chinh với Lý Thái Tôn trong cuộc chinh phạt năm
1044, mà Việt điện u linh tập viết lộn thành Lý Thánh Tôn? Chúng tôi nghĩ đấy là một có thể, nhất là khi vấn đề truyền bản của
Việt điện u linh tập đưa nhiều điểm khá nghi ngờ, mà những cái tên Huệ Lâm Sinh và Huệ Lâm là những thí dụ. Tuy nhiên không
nhất thiết loại bỏ những sai lầm niên đại có thể do sự truyền bản của Thiền uyển tập anh tạo ra, mà trường hợp Khánh Hỷ và
Pháp Dung là những thí dụ.
2
Công án thiền. Thiền sư Vô Trước nói chuyện với Văn Thù trên Ngũ Đài Sơn. Vô trước hỏi về sinh hoạt của các nhà sư ở đấy và
con số của nó. Văn Thù trả lời: “Trước ba ba, sau ba ba” (Tiền tam tam, hậu tam tam). Xem Bích nham lục 4 tờ 173b29-174a7.
3 Điển Thiện tài đi học đạo, được Văn Thù chỉ đi hướng nam tham học với 53 vị thiện tri thức, mà từ Phật học Trung Quốc thường
gọi “Thiện Tài đồng tử ngũ thập tam tham”, trong kinh Hoa nghiêm. Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 62.
4 Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 và Toàn thư B3 tờ 2a3-4 nói: “Năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) mùa đông tháng 12 dựng chùa
Thiên phúc và chùa Thiên thọ, dùng vàng ròng đúc tượng Phạm Vương, Đế Thích hai pho để thờ”. Toàn thư còn chua thêm: “Đó
là nơi đời Trần làm lễ yết chùa”.
5 Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: “Năm Long Thụy Thái Bình thứ sáu (1059) dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh”. Vậy
thì, chùa Diệu nghiêm báo đức ở truyện Huệ Sinh đây tức chùa Sùng nghiêm báo đức. Chữ Diệu có thể là viết sai của chữ Sùng,
hay ngược lại. Chúng ta ngày nay chưa có nghiên cứu hiện địa để xác định đâu là đúng. Chùa Sùng nghiêm báo đức này cũng gọi
tắt là chùa Báo đức và là nơi tu hành của Đại Xả. Xem truyện Đại Xả ở trước.
6
Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: “Pháp sự trai nghi một quyển, Sư Huệ Sinh soạn, người Đông phù liệt, huyện Thanh trì”.
Còn Chư đạo tràng khánh tán văn không thấy sách nào ghi tới cả. Ta không hiểu Lê Quý Đôn đã dựa vào tiêu chuẩn gì để ghi hay
không ghi một cuốn sách. 129 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
55. THIỀN SƯ Thiền Nham (1093-1163)
Chùa Trí quả1
, làng Cổ châu, Long biên. Người Cổ châu, họ Khương, tên Thông. Dòng dõi Tăng
quan, mặt mày sáng sủa, tán tụng2
trong hay. Thường tập môn tổng trí đà la ni, xây lưng mà đọc, không
sót một chữ.
Trong khoảng Hội Phong (1092 -1100), Sư ứng thí3
kinh Pháp hoa và Bát nhã tại điện vua, đều
trúng Giáp khoa. Sau nhờ một lời của Pháp Y, chùa Thành đạo4
mà được ấn khả, Sư nhân thế xuất gia.
Lúc đầu, Sư đến ở chùa Thiên phúc, núi Tiên du, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng lớn, ăn lá
cây uống nước suối, trãi đến sáu sương. Sao đó, Sư trở về làng mình, trùng tu lại chùa Trí quả mà trụ trì.
Trong khoảng Đại Thuận (1128-1132), trời hạn. Vua mời Sư đến kinh cầu mưa thì tức có hiệu nghiệm.
Vua phái làm danh tăng, ban cho áo ngự. Mỗi khi nhà nước có cầu đảo, Sư đều làm chủ5
.
Tháng 2 năm Chánh Long Bảo Ứng thứ 1 (1163), Sư đốt hương dạy chúng, rồi nghiễm nhiên
ngồi mà mất, thọ 71 tuổi. Đến nay xác thân của Sư đang còn. Người thời (59b1) bấy giờ gọi là Phật
sống6
.
Sau này, mặc dù chùa bị cảnh binh lửa, nhưng xác Sư không hề hấn gì.
56. QUỐC SƯ Minh Không (1066-1141)
Chùa Quốc thanh,Trường an7
, người làng Đàm xá, Đại hoàng8
,họ Nguyễn, tên Chí Thành.

1
Chùa Trí quả hiện nay ở làng Phương quan trên hữu ngạn sông Dâu đối diện với làng Văn quan. Chùa đấy là nơi thờ Pháp Điện,
một trong Tứ pháp. Nếu cứ vào địa điểm làng này, thì vị trí làng Cổ châu thời Lý không phải chỉ gồm có làng Khương tự và Đại tự
mà thôi. Trái lại, nó phải bao gồm phần lớn những làng xung quanh hai làng đấy, mà chính yếu là những làng Lũng khê, Thanh
tương, Văn quan, Phương quan và Công hà.
Vì chùa Trí quả là chùa làng mình, nên Thiền Nham đúng ra là người Phương quan, tức người làng Dâu ngày nay. Ta
không biết làng này hiện còn ai họ Khương không?
2
Phạn bối, tức một thứ ca hát tán tụng dùng một số nốt giới hạn nào đó của âm nhạc Ấn độ, sau này trở thành lễ nhạc của Phật
giáo tại các xứ phương Đông. Về ý nghĩa và nguồn gốc chữ bối, xem chú thích (2) truyện Ma Ha.
3
Trong khoảng Hội Phong (1092-1099) không thấy sử ghi một cuộc điện thí nào. Nhưng truyện Viên Thông tờ 68b9-10 ghi một
cuộc thi Tam giáo xảy ra vào năm Hội Phong thứ 6 (1097), mà Viên Thông đỗ hạng đầu. Như thế, Thiền Nham và Viên Thông rất
có thể là hai người đồng khoa.
4
Chùa Thành đạo nghi là chùa Thành đạo hiện ở tại làng Đông cốc, huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh ngày nay, nơi có thờ Pháp
Vũ, một trong Tứ pháp, bởi vì chùa Trí quả, nơi trú trì của Thiền Nham là nơi thờ Pháp Điện, thì tất Nham phải có một liên hệ nào
đó với các chùa có thờ Tứ Pháp khác. Tuy nhiên, tại làng Văn giáp, huyện Thượng phúc, tỉnh Hà đông cũng có chùa Thành đạo và
chùa đấy cũng thờ Pháp Vũ. Dẫu thế, chúng tôi vẫn nghĩ, chùa Thành đạo của Pháp Y tức chùa Thành đạo tại làng Đông cốc.
5
Trong khoảng Đại Thuận, Đại Việt sử lược 3 tờ 1b7-8 chỉ viết: “Đại Thuận năm thứ 3 (1130) tháng 6 hạn, cầu thì mưa. Nhưng
theo Toàn thư B3 thì trong khoảng Thiên Thuận từ năm 1128 đến 1132 không năm nào là không có hạn nên Việt sử tiêu án 1 tờ
110a6, khi nhận xét về biện pháp chống hạn của triều Lý Thần Tôn, đã phải nói: “Xét trong khoảng 10 năm (trị vì của Thần Tôn)
thì không năm nào là không có hạn”.
6 An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: “Thiền sư Thiền Nham là vị sư huyện Siêu loại, giới hạnh tinh nghiêm, ăn lá cây, uống nước
suối, xác chết rồi vẫn còn tươi như khi sống. Người bấy giờ gọi là Phật sống”.
7
Tức đất huyện Yên khánh, tỉnh Ninh bình ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Giới, chùa Quốc thanh hiện chưa truy cứu
được.
8
Tức xã Đàm xá, huyện Gia viễn, tỉnh Ninh bình ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, viết: “Đền
Nguyễn Minh Không ở tại huyện Gia viễn, xưa hai xã Đàm Xá và Điềm giang cùng thờ. Thần người Đàm xá, họ Nguyễn, tự Chí
Thành. Xét Sử ngoại truyện thì thầy đi du học và được tâm ấn từ Đạo Hạnh, hiệu là Thiền sư Minh Không, ở chùa Quốc Thanh.
Trong khoảng Hội Tường Đại Khánh đời Lý Nhân Tôn, Đạo Hạnh khi sắp tạ thế, dặn Minh Không rằng: “Ta sẽ ở ngôi nhân chủ,
mắc bệnh khó tránh, ông nên cứu ta”. Sau Thần Tôn bị bịnh hóa thành hình cọp. Trẻ nít ca nói: “Muốn chữa Lý cửu trùng, phải
tìm Nguyễn Minh Không”. Mời đến, Không nói tiền duyên cho vua nghe. Vua giác ngộ, Minh Không nấu dầu một trăm cân, lấy tay
khuấy rửa cho vua. Bệnh lành, phong làm Quốc sư, cho thuế vài trăm hộ. Đến năm Đại Định thứ 2 (1141) đời Anh Tôn, Sư mất, 130 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Sư thường đi du học gặp Thiền Sư Từ Đạo Hạnh chùa Thiên phúc. Hạnh mến sư, cho phép theo
hầu. Trải qua 17 năm trời làm việc cực khổ, Hạnh khen Sư có chí, bèn sâu ấn hứa và cho tên Minh
Không. Đến khi sắp tạ thế, Hạnh gọi Sư nói rằng: “Xưa Đức Thế Tôn ta, đạo quả đã tròn mà còn bị quả
báo hùm vàng, huống ở đời mạt pháp, công hạnh nhỏ mọn, há mình có thể tự giữ gìn được sao? Ta nay
còn phải ra đời, giữ ngôi nhân chủ, lai sinh mắc bệnh, chắc chắn khó tránh. Ta đối với ngươi có duyên,
xin nhờ cứu với”.
Hạnh mất rồi, Sư trở về làng cũ cày cấy hơn 20 năm, không màng tiếng tăm. Lúc bấy giờ Lý
Thần Tông mới mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng rên la hốt hoảng khiếp đảm, lương y trong thiên hạ
(60a1) ứng chiếu đến chữa, đều phải bó tay không làm gì được1
. Bỗng nghe có trẻ con ca rằng:
“Muốn trị bệnh Thiên tử
Phải có Nguyễn Minh Không”.
Ben sai sứ tìm khắp dân gian mới gặp đuợc Sư2
.
Khi Sư đến, Tôn túc thạc đức các phương đang ở trên điện làm phép, thấy Sư ăn mặc quê mùa,
họ khinh khi không đáp lễ. Sư đến, đem theo một cái đinh lớn, dài hơn 5 tấc, đóng vào cột điện, lên
tiếng nói: “Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì trước đáng được tôn trọng”. Nói thế ba lần, chẳng ai dám làm.
Sư lại lấy hai ngón tay trái, cầm vào thì đinh theo chúng mà ra. Mọi người đều khiếp phục.
Khi gặp vua, Sư lớn tiếng nói: “Đấng đại trượng phu, giàu sang bốn bể, há lại làm ra những điều
cuồng loạn đấy ư?”
Vua rất run sợ, Sư sai lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới cả trăm lần, dùng tay quậy lên
khoảng bốn lần, rồi tắm vua trong đó. Bệnh liền bớt ngay. Sau vua phong làm Quốc sư, cho thuế vài
trăm hộ để tưởng thưởng.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Tân dậu Đại Định3
thứ 2 (1141), Sư mất, thọ (60b1) 76
tuổi
4
.

thọ 76 tuổi. Người trong ấp lập đền thờ. Trước đền có một cây đèn đá cao độ một thước, tương truyền là đèn tụng kinh của Sư.
Đền nổi tiếng là linh ứng. Nay các chùa ở Giao thủy và Phổ lại đều đắp tượng Sư mà thờ”.
1
Những tình tiết diễn tiến cho tới lúc này, nghi là một phụ hội, bởi vì năm năm trứơc khi Minh Không đến chữa bệnh cho Thần tôn,
tức năm Đại Thuận thứ 4 (1131), Toàn thư 3 tờ 36a9 đã ghi việc vua “dựng nhà cho Đại sư Minh Không”. Như vậy, chắc chắn
không có chuyện Minh Không “về quê cày cấy 20 năm hay chuyện trẻ nít phải hát và phải sai sứ đi khắp dân gian mới gặp Sư”.
2 Toàn thư B3 tờ 39a7-9: “(Thiên Chương Bảo Tự) năm thứ 4 (1136) vua bệnh nặng, thuốc men không bớt, thấy Minh Không chữa
lành, phong làm Quốc sư, cho thuế hộ vài trăm”. Rồi chua tiếp: “Đời truyền rằng thầy Từ Đạo Hạnh khi sắp thi giải, trong lúc bị
bệnh, đenm thuốc và chú giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, nói rằng: “Hai mươi năm sau thấy Quốc Vương gặp
bệnh lạ thì đến chữa”. Bởi nó bắt nguồn từ việc này vậy”.
3
Nguyên văn có Đại Định nhị niên Tân sửu. Nhưng cứ Toàn thư 4 tờ 1b8 và 2b8-9 thì Đại Định nhị niên phải là năm Tân dậu, và
tháng 8 mùa thu năm đấy Minh Không mất.
4 Lĩnh nam trích quái tờ 31-33 chép một tiểu sử của Minh Không hoàn toàn đồng nhất với bản đây. Nhưng sau đó, nó lại ghi thêm
một tiểu sử hoàn toàn khác và nói là lấy từ Minh Không biệt truyện. Truyện như sau: “Làng Giao thủy có chùa Không lộ, xưa có
nhà sư tên… trong khoảng Trị Bình (1064-1067) xuất gia trụ trì chùa đó, nổi tiếng là đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi
vào, nhà sư cùng phòng, tức Đạo Hạnh núp trong cửa nhảy ra, giả tiếng cọp để nhát Minh Không. Minh Không cười nói: “Người tu
hành mà muốn làm cọp sao? Ta sẽ cứu ngươi”.
Sau nhiều năm, nhà Sư ấy bỗng chốc chết, hóa làm Quốc vương, chẳng bao lâu bỗng hoá ra mọc lông, vùng vẫy gào
thét, mặt giống như cọp, khắp tìm thầy thuốc, thầy bói, nhà sư, đạo sĩ, nhưng đều bó tay. Nghe Minh Không có pháp thuật, sai
người chèo thuyền đến mời. Minh Không lấy một chiếc om nhỏ, nấu cơm cho thủy thủ ăn. Vị sứ giả cười nói: “Sợ khó đủ hết”.
Minh Không trả lời: “Không phải, để cho họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta”. Rồi thủy thủ bốn năm chục người, ăn
mãi mà không hết. Mọi người đều làm lạ. Đến chiều, họ sắp ra thuyền thì Sư lại bảo thủy thủ hãy ngủ ngon một đêm, đợi sáng
mai rạng đông, bần tăng gọi dậy thì mới có thể bắt đầu ra thuyền. Nếu không thì ta sẽ không đi. Sứ giả nài nỉ không được, bèn
nằm yên giả ngủ, thì chỉ nghe dưới thuyền tiếng gió thổi veo veo. Lúc lâu mặt trời mọc, Sư gọi dây thì thuyền đã cập bến ở kinh
đô.
Minh Không bay lên trời mà vào cung, đun nước tắm cho vua, lập tức lông rụng, thân thể bình phục. Vua hỏi lý do. Sư
đáp: “Người tu hành, nếu một niệm mê thì sám hối là xong, không khó khăn gì hết”. Lại hỏi: “Sư làm sao có thần thông mà làm
được như vậy?” Minh Không trả lời: “Đấy chẳng phải phép thuật gì hết. Thần xưa có bệnh phong, phát ra thì không thấy, nên
nhiều ít không biết thì cái gì cũng trống, mình cứ tin mà bước đi, chẳng phải thần thông gì thảy”. Bèn lại đi bằng đường không mà 131 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
57. THIỀN SƯ Bản Tịch (? – 1140) (Trước tên là Pháp Mật)
Chùa Chúc thánh, làng Nghĩa trú, Bình lạc1
. Người Tây kết, họ Nguyễn, hậu duệ của Nội cung
phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ, lấy làm kỳ nói rằng: “Đứa bé
này cốt tướng phi phàm nếu xuất gia, chắc thành hạt giống của Phật pháp”.
Đến khi lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại thọ
giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một biết mười, xoa đầu nói rằng:
“Chánh pháp phía Nam, đang đợi ông đến xiển dương”. Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô,
gồm rõ đốn tiệm2
. Đến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục
ngưỡng mộ.

trở về, cho thưởng gì cũng không nhận, vua bèn ban hiệu là Thần tăng để khen ngợi”.
Tiểu truyện này của Minh Không, tuy Lĩnh nam trích quái bảo là rút từ Minh Không biệt truyện, nhưng chắc chắn là xuất
phát từ truyện Minh Không thần Dị trong Nam ông mộng lục, và nhất là bởi vì nó hoàn toàn giống với truyện kể trong đó.
Việt sử tiêu án 1 tờ 108b7-109b9 cũng chép lại gần giống truyện trên và bảo là từ Ngoại truyện. Nó viết: “Thế truyền Đạo
Hạnh khi sắp thi giải, đem thuốc có làm phù chú, giao cho đệ tử Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không nói rằng: “Sau 20 năm quốc
vương có bệnh thì đem mà trị”. Thuyết này xuất phát từ Lĩnh nam trích quái. Lại xét Ngoại truyện thì cha Đạo Hạnh là Từ Vinh
dùng pháp thuật nên bị sư Thái Điên giết. Đạo Hạnh nghĩ cách báo thù cha, đến tu đạo tại tịnh xá Hương tích. Trên đường gặp
Khổng Minh Không, bèn kết làm bạn cùng đi đến chùa Vân mộng. Vị thầy dạy cho thần thông quyết. Sau 3 năm, hai người giã từ
trở về. Đạo Hạnh muốn thử thuật mình chơi, nấp vào một nơi hiểm, giả làm con cọp để dọa Minh Không. Minh Không biết, trách
Hạnh dùng tà hạnh lại gồm có chú ngữ. Đạo Hạnh hổ thẹn và hối hận, đến tạ lỗi, vừa nói: “Nghiệp đời sau chưa trừ hết, xin phiền
giải thoát cho”. Đạo Hạnh về am, Minh Không về Giao thủy. Sau đó nghe Đạo Hạnh thi giải, MK cười, nói rằng: “ông Hoà thượng
ấy còn mê phú quý trần gian sao?”. Đến lúc ấy, Thần Tôn bị bệnh kêu gầm, muốn biến thành cọp. Thuốc chữa không chịu. Trẻ
con hát rằng: “Muốn chữa Lý cửu trùng, phải được Khổng Minh Không”. Thái hậu nghe được cho mời đến. Khi đã đến, bèn giảng
chuyện nhân quả đời trước cho vua. Vua bèn giác ngộ. Bệnh liền bớt. Minh Không có nói kệ:
Kỳ lân đồ hậu mạc
Nguyệt vọng đáo trung thiên.
Người bấy giờ không hiểu. Sau vua ở ngôi và tuổi thọ, quả hiệp với lời kệ. Minh Không người Đàm xá, huyện Gia vin. Nay chùa
Phổ lại và Giao thủy có đắp tượng thờ. Năm Đại Định thứ 2 (1141) Sư mất, thọ 76 tuổi”.
Rồi Ngô Thời Sĩ đưa ra lời bình luận sau: “Triều Lý tôn sùng đạo Phật, từ khi Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta mộ theo và bắt
chước. Tiếp đó có Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều là người Hải thanh, thờ Sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Thông Huyền
chân nhân cũng có đạo pháp cao tương tự, nên Nhân Tôn có câu: “Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền”. Nhưng
gọi rồng xuống, làm hổ phục không phải là tài bình loạn cứu nguy. Đi chỗ trống, bay lên không, không phải là sách lược trị dân
giữ nước. Chỉ cũng là loại La Thập, Đồ Trừng đó thôi, có giúp gì cho thế đạo ư? Thế mà các triều đại đã thần dị hóa giáo lý nó, để
đến nỗi có việc tha thuế hộ để làm tự đinh, sự mê hoặc thật đã quá lắm”.
Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục trong Việt điện u linh tập tờ 51 và Đại nam nhất thống chí tỉnh Sơn tây, mục Sơn
xuyên, cũng có chép chuyện Minh Không chữa bệnh cho Từ Đạo Hạnh, nhưng không có chi tiết gì đặc sắc cho lắm trừ sự cộng tác
với Giác Hải trong việc chữa bệnh đấy.
Về nơi Minh Không thường sinh sống, Bắc thành địa dư chí 4, nhân viết về các đền thiêng của trấn Sơn nam hạ, có ghi
đền của Thiền sư Đạo Pháp Minh Không nói: “Đền ở xã Cổ đam huyện Ý yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường ở xã Cổ đam
huyện Ý yên. Thế truyền Ngài bình sinh thường ở xã đó. Sau khi mất người trong thôn lập đền thờ”. Còn về nơi mất của Không,
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Từ miếu nói: “Đền thiền sư Minh Không ở xã Hán lý huyện Vĩnh lại. Sư họ Nguyễn,
tự Chí Thành, người xã Đàm xá, huyện Gia viễn, nhỏ kết bạn với Từ Đạo Hạnh đến chùa Vân mộng thọ giới, sau làm cao tăng đời
Lý. Vua Thần Tôn mắc bệnh, Sư chữa liền lành, phong làm Quốc sư. Thế truyền, Sư mất ở núi Tam viên, xã Hán lý, di tích nay
còn”. Xã Hán lý này theo nó cũng là quê mẹ Minh Không, nên có dựng chùa Hưng long ở đó. Xem mục Tự quan.
Cuối cùng cũng cần nhắc lại là, bản in đời Nguyễn không có tiểu sử của Minh Không, ở đây không liệt Minh Không vào
dòng thiền Pháp vân. Đương nhiên truyện của Không đã bị bản in đời ấy hay “Tiêu sơn tự cựu bản” góp vào trong truyện của
Không lộ. Xem chú thích (6) truyện Không lộ. Nhưng có thể tờ có truyện Minh Không đã bị mất trong “Cựu bản Tiêu sơn tự”. Xem
thêm phần nghiên cứu.
1
Tức phần đất thuộc huyện Văn giang và Mỹ hảo,tỉnh Hưng yên ngày nay, bởi vì hai huyện đấy hiện đang có con kinh mang tên
Nghĩa trụ chảy qua. Tên Bình lạc xuất hiện từ năm 621, khi Lý Uyên đặt ra Long châu gồm ba huyện Long biên, Vũ ninh và Bình
lạc. Xem Tân đường thư 43 thượng tờ 9b13. Đến thời Lý, nó là tên một đạo, như Đại Việt sử lược 3 tờ 25b7-8 ghi lại.
Làng Nghĩa trú, chúng tôi cho là làng Nghĩa trang, tổng Sài trang, huyện Đường hào, trấn Hải dương của Bắc thành địa
dư chí lục 2, tức huyện Mỹ hào, tỉnh Hưng yên ngày nay. Những tài liệu Lý, Trần đều có nói ngôi làng này. Đại Việt sử lược 3 tờ
29a4 gọi nó là một cái ấp, viết: “Năm Kiến Gia thứ 5 (1215) người Nghĩa trú là Chu Đình đem ấp mình phụ theo Nguyễn Nộn”.
Tam tổ thực tục tờ 26a4 nói Nghĩa trú còn cómột ngôi chùa tên Phổ quang.
2
Hữu vô và đốn tiệm là những phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo Trung quốc cũng như Vin đông. Hữu vô hay có không, nguyên
là cặp phạm trù lớn của học thuyết Lão Trang, đấy là thuyết “Hữu vô tương sinh”. Xem Đạo đức kinh tờ 1-2a: “Vô danh thiên địa
chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu… Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương giảo, cao hạ tương khuyễnh…
” Cặp phạm trù hữu vô đó, tới khi Phật giáo truyền nhập Trung quốc, lại trở thành một trong những cặp phạm trù lớn của tư132 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Ngày 14 tháng 6, mùa hè năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 31
(1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng: “Vô
sự ! Vô sự !”. Nói xong thì mất.

tưởng Phật giáo, bởi vì, như Đạo An (312-385) đã viết: “Người xứ đây(tức Trung Quốc) giáo thuyết Lão Trang đang thịnh hành…
nên nhân theo phong trào mà phát triển”.
Còn đốn tiệm, hay mau chậm, là một cặp phạm trù lớn khác do kinh Lăng già giới thiệu vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5,
liên quan đến vấn đề người tu đạo có thể tức khắc giác ngộ sự thực toàn diện toàn phần hay chầm chậm giác ngộ từng bước
từng phần.
Xem Phật thuyết nhập lăng già kinh tờ 596a23-29. Sự phân biệt đó sau này trở thành tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt
để xác định thế giá của hai trường phái thiền lớn của Trung Quốc sau Hoằng Nhẫn, đấy là trường phái thiền của Huệ Năng,
thường gọi là Nam đốn, và trường phái thiền của Thần Tú, thường gọi là Bắc tiệm.
1
Theo Đại Việt sử lược 3 tờ 3a2 mới có năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3. Theo Toàn thư B4 tờ 1a7 thì năm Kỷ mùi nhằm năm Thiệu
Minh thứ 2. Cương mục chính biên 4 tờ 34b4 cũng chép như Toàn thư.133 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
[61A1]
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (4 ng ư ờ i, 3 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
58. TĂNG THỐNG Khánh Hỷ (1067 – 1142)
Làng Từ liêm, Vĩnh khương1
. Người Cổ giao, Long biên, họ Nguyễn, dòng dõi Tịnh hạnh. Nhỏ
không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc thánh.
Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: “Cái gì là ý chính
Thiền tôn của các Tổ?”. Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: “Ấy chẳng phải là
thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?”.
Sư thưa: “Hoà thượng chớ giỡn mãi”.
Tịch nói: “Ta chưa từng giỡn bao giờ”.
Sư không hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn tuế. Biện Tài hỏi: “Ngươi từ đâu
đến đây?”
Sư thưa: “Từ Tịch công đến”.
Tài hỏi: “Thầy đó cũng là một bậc thiện trí thức một phương, thế ông ta đã từng nói câu gì?”.
Sư thưa: “Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu mà thầy không trả lời, nên con bỏ
đi”.
Tài hỏi: “Ông hỏi cái gì?”.
Sư kể lại chuyện trước.
Tài bảo: “Ôi! (61b1) Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của ông”.
Sư trầm ngâm suy nghĩ.
Tài nói: “Không thấy nói:
Hiểu được khắp nơi đúng,
Không ngộ mãi trái sai?”2
Sư bỗng nhiên đốn ngộ, bèn trở về.
Tịch thấy, hỏi: “Ngươi từ đâu đến mau thế?”
Sư lạy nói: :Con có tội hủy báng Hoà thượng, nên đến xin sám hối vậy”.
Tịch dạy: “Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?”.
Sư đáp: “Xin sám hối như vậy”.
Tịch bèn thôi.
Sư thường cùng hai Thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo: “Các ông
theo học với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để ta xem mỗi ông
tiến đạo như thế nào?”.

1
Tức làng Từ liêm, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.
2 Đại Châu Huệ Hải: “Sư vân: Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ”. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a24. 134 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Nhãn và Như sắp mở miệng thì Sư quát:
“Một màn che mắt
Hoa đốm rối rơi”1
.
Tịch nói: “Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc đo?”2
Sư thưa: “Cần gì thuyền”?
Tịch nói: “Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào,
Ngươi chỉ giải thoát đến việc bên này thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy được”.
(62a1) Sư đáp: “Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi”.
Tịch nói: “Buông thả sào trăm thước
Lao đầu một mình đi”.3
Ngươi hiểu sao?
Sư giơ hai tay lên đáp: “Không nguy hiểm, không nguy hiểm !”
Tịch nói: “Buông đi tức khắc !”
Từ đó, danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137), Sư
được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái làm Tăng lục, rồi thăng làm
Tăng thống.
Một hôm, đệ tử Pháp Dung hỏi: “Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?”
Sư trả lời bằng bài kệ:
“Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không
Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông
Thiên ngoại tìm tâm khôn định thể
Nhân gian trồng quế há thành rừng?
Càn khôn gom lại đầu sợi tóc
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng4
.

1
Phù Dung Linh Huấn: “Sư viết: Như hà bảo nhiệm. Tôn viết: Nhất ế tại nhãn, không hoa loạn trụy”. Xem Truyền đăng lục 10, tờ
280c26.
2
Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ Đạo Nhất: “Nước không có gân cốt mà có thể thắng thuyền muôn hộc, lẽ ấy thế nào?”. Đạo Nhất đáp: Trong
đó không có nước cũng không có thuyền thì gân cốt là cái gì?”.
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 246a26-28.
3
Bài kệ của Thiền sư Cảnh Sầm:
“Bách trượng can đầu bất động nhân
Tuy nhiên đắp nhập vị vi chân
Bách trượng can đầu tu tiến bộ
Thập phương thế giới hiện toàn thân.”
(Trăm trượng đầu sào kẻ đứng im
Dẫu cho vào được chửa là chân
Trăm trượng đầu sào thêm bước nữa
Mười phương thế giới hiện toàn thân.)
Xem Truyền đăng lục 10 tờ 274b 6-8
4
Duy Ma Cật sở thuyết quyển trung tờ 546b25-c18:
“Nhược Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm… Hựu thập phương quốc độ sở hữu
nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng phổ sử hiện chi”. Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 80 tờ 440c21-22 “Nhất
mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới”. 135 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Trước mặt nắm tay dùng việc lớn1
Ai hay phàm thánh với tây đông”.
Nói xong, ngày 25 tháng 01 năm Nhâm Tuất Đại Định thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất, thọ 76
tuổi
2
. Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời
3
.

1
Thứ sử Giang châu Lý Bột hỏi Qui Tôn: “Trong kinh, nếu nói núi Tu di chứa hột cải thì Bột tôi không nghi, nhưng hạt cải chứa núi
Tu di, phải chăng là nói bậy?” Tôn đáp: “Người ta đồn Sứ quân đọc sách vạn quyển, chuyện đó có không ?”. Bột nói: “Phải”. Tôn
hỏi: “Sờ từ đầu đến chân, ông chỉ lớn bằng cây dừa, thì sách vạn quyển treo đâu cho hết?”. Bột chỉ gật đầu mà thôi. Ngày khác,
Bột hỏi: “Đại tạng kinh dạy rõ được việc gì?” Tôn đưa nắm tay lên cho Bột coi, rồi hỏi: “Hiểu không?”. Bột nói: “Không hiểu”. Tôn
bảo: “Cái đầu nắm tay to thế mà cũng không biết ?”. Bột thưa: “Xin thầy chỉ bày”. Tôn nói: “Gặp người tức giữa đường trao cho.
Không gặp thì thế đế bố khắp”. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 256b 9-18.
2
Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn, 1966, tr. 474) viết: “Thiền uyển tập anh chép rằng: “Khánh Hỷ
mất ngày 27 tháng giêng năm Đại Định thứ ba, Nhâm tuất 1142, thọ 76 tuổi. Theo đó mà tính, thì ông sinh năm 1067 và ông có
10 tuổi, lúc Đạo Dung tới Thăng long. Làm sao ông làm thầy Đạo Dung được? Sách Toàn thư có chép lại vào năm 1135, việc Hầu
Khánh Hỷ mất. Chắc rằng nguyên là chữ Tăng mà Toàn thư chép lầm ra chữ Hầu. Người chú thích sách Thiền uyển tập anh, in đời
Vĩnh Thịnh, cũng nói rằng: Theo Sử ký thì Tăng Khánh Hỷ mất năm 1135. Nếu theo thoại sau thì lúc bấy giờ Khánh Hỷ cũng chỉ
mới 17 tuổi mà thôi. Tôi nghĩ rằng Thiền uyển tập anh chép lầm năm mất và tuổi thọ. Có lẽ thọ 96 tuổi, vì chữ cửu và chữ thất rất
dễ lẫn. Với chữ cửu thì lúc Sư Đạo Dung ra học với Khánh Hỷ, vị này đã 37 tuổi. Như thế mới hợp lý”.
Thật ra Toàn thư không chép việc Hầu Khánh Hỷ, mà là Hầu Khánh Thiện mất vào năm 1135.
3
Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú đều ghi: “Ngộ đạo thi tập, một quyển, thầy Khánh Hỷ soạn, người
Cổ giao, Long biên. 136 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
[62b1]
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (3 ng ư ờ i, 1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
59. THIỀN SƯ Giới Không
Chùa làng Tháp bát, quận Mãn đẩu1
. Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ
đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên hòa núi Chân ma2
. Xuất gia và thọ giới cụ
túc, hầu hạ vài năm, Sư được Thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch3
. Trải qua năm năm, chuyên
thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Đi tới Nam sách, Sư vào núi Thánh chúa4 ở cấm
túc sáu năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục.

1
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì “Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia lâm tu hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo
lệnh, thú dữ đến chầu. Sau ngồi thẳng mà mất”.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch của An nam chí nguyên và sửa lại một
đôi chữ thành “Giới Không người huyện Gia lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch”. Nhưng truyện Giới Không ở
đây nói Không “người quận Mãn đẩu”. Mãn đẩu chưa bao giờ là tên của quận hay huyện Gia lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới
Không được mời về ở chùa Gia lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Đại nam nhất thống chí đã ghi lầm là người Gia lâm.
Thế thì, quận Mãn đẩu ở đâu?
Các sách sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn đẩu cả. Về làng Tháp bát thuộc quận này, chúng tôi
cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu vậy, Kiến văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: “Các núi của Tuyên quang và Hưng hóa, nơi
nơi đều có cây mạn để, lá nó như cây cổ độ tục gọi đát cây to tới hai hay ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì cá
chạch đều chết”. Chúng tôi nghi, quận Mãn đẩu là nơi có cây mạn để đấy. Mãn đẩu chắc là một ghi âm khác mạn để, hay ngược
lại, như Cứu lan của Đại Việt sử lược đã biến thành Cứu liên của Toàn thư và Thiền uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn
Giác. Nếu vậy, quận Mãn đẩu nằm tại tỉnh Tuyên quang ngày nay giữa hai lưu vực sông Chảy và sông Lô.
Xác định quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng Tu hành tại núi Lịch và có môn nhân là
Châu mục Phong châu là Lê Kiếm. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Đỗ Nguyên Chương viết
năm Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc minh ỡ làng Mạn để. Làng Mạn để chắc là quận Mãn đẩu còn sót lại.
2
Núi Chân ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a3 có ghi một ngọn núi tên Đán ma thuộc
sơn hệ Tam đảo. Chúng tôi nghi Chân ma đó là Đán ma đó, bởi vì từ Đán ma đến Lịch sơn không xa lắm. Lịch sơn là núi sau này
Giới Không dựng am tu.
3 Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1: “Núi Lịch tại xã Yên lịch, huyện Sơn dương, khởi từ núi Sư khổng, huyện Đương đạo mà xuống đến
xã đó thì đất bằng bổng nổi lên núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập thành thành Lãng sơn, chi xuống huyện
Tam dương thành núi Hoàng chỉ. Trong đó núi Lịch cao nhất. Trên đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động vua
Thuấn rất thiêng. Hoa quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng không được mang về. Nếu có ai mang về, họ liền lạc đường,
không thể ra được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy xưa có tự điền , để cung cấp cho
người giữ đền. Xã Yên lịch ở dưới núi lại có miếu vua Thuấn… “Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên.
4
Hang Thánh chúa này là hang núi Kính chúa tại làng Kính chúa huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch
môn, làng Dương nham, huyện Kính môn, tỉnh Hải dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện vẫn còn là hang Kính chủ. Bởi
vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam sách, mới vào ở hang Thánh chúa. Và Nam sách là tên một lộ đời Trần. An nam chí lược
1 tờ 19 ghi là lộ Nam sách giang. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: “Năm Lê Quang Thuận thứ
7 (1466) đặt Nam sách thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ, gọi đó là Hải dương, Thừa tuyên gồm bốn phủ, tức
Thượng hồng, Hạhồng, Nam sách và Kinh môn, lĩnh 18 huyện… ” Và Nam sách thừa tuyên hay lộ Nam sách giang theo Dư địa chí
đã nổi tiếng với núi Kính chủ, nơi sản xuất đá hoa.
Viết về núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: “Núi Kính chủ tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, một tên là núi Thắng hóa
nham, cao 160 trượng, hang dài 60 trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương nham tử, hướng nam, không biết dựng từ
đời nào. Vua Trần Nhân Tôn đánh giặc Nguyên có đóng quân trên núi đó… Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ Thiền
sư Minh Không. Hang bên trái dài 7 thước rộng 20 thước thờ Lý Thần Tôn. Thổ nhân tương truyền xưa có một người đánh cá bên
sông Kính chủ thấy một tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu tượng có linh, xin giúp cho tôi
có nhiều cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn rước tượng lên bờ. Người trong thôn đến
xem thì thấy nó nói: “Ta là Lý Thần Tôn, nhân đi chơi mà đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ lấy tháng giêng
và tháng 10 làm tháng kỵ”.
Sự tích vừa dẫn, dù đầy đủ tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít tại sao ngọn núi Kính chủ hay
Thánh chủ đã có tên như vậy. Thêm vào đó, Toàn thư B7 tờ 18b3 ghi: “Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa xuân tháng hai núi ở
Trà hương băng”. Cương mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng sửa lại là núi Kính chủ, rồi chua như: Kính chủ là
Thánh chủ ở tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương. 137 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Đại Thuận thứ 81
, có nạn dịch
lớn , Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia lâm2
, dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày
đến cả ngàn, vua rất khen thưởng cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.
Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi.
Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:
(63a1) “Ta có một việc kỳ đặc
Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen
Thiên hạ tại gia xuất gia
Yêu sống, ghét chết là giặc
Không biết sống chết khác đường
Sống chết chỉ là được mất
Nếu bảo sống chết khác đườbg
Dối lừa Thích Ca, Di Lặc
Nếu biết sống chết, sống chết
Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng
Các ngươi môn nhơn hậu học
Chẳng nhận vòng vo phép tắc”.
Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê Kiếm(8) và phòng
át sứ Hán Đinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.
60. THIỀN SƯ Pháp Dung3
(? – 1174)
Chùa Hương nghiêm, núi Ma ni4
, phủ Thanh hóa. Người Bối lý1
, họ Lê, là hậu duệ của châu mục
Ái châu Lê Lương đời Đường2
, trải qua 15 đời là một danh tộc của châu đó. cha là Huyền Ngưng, đạo

1
Niên hiệu Đại Thuận, chỉ Đại Việt sử lược ghi lại, còn Toàn thư và tất cả các sử khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tôn
kéo dài từ năm 1128-1132. Như vậy, tất không thể nào có chuyện “năm Đại Thuận thứ 8” được. Chúng tôi nghi năm Đại Thuận
“thứ 8” chắc là một viết sai của năm Đại Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Đại Thuận, cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn
thư không ghi một nạn dịch lớn nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán được. Do thế, chúng tôi vẫn để nguyên như nguyên văn
đã có. Có thể năm Đại Thuận thứ 8 là một chép lộn của năm Đại Định thứ 8, nhưng trong khoảng Đại Định, các sử vẫn không
thấy ghi một nạn dịch nào lớn cả.
2
Tức cháu nội của châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn và công chúa Kim Thành và là anh của Thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ
truyện Trí Nhàn, thì Kiếm giữ chức Châu mục của Phong châu, chứ không phải một nơi nào khác.
3
Theo bia chùa Hương nghiêm do Hoàng Xuân Hãn phát hiện và dẫn trong Lý Thường Kiệt tr.453-461 thì Dung đúng ra phải có tên
Đạo Dung “nhưng những bản nay còn đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng Đạo”. Thiền uyển tập
anh, như một tác phẩm đời Trần, như vậy chắc đổi chữ Đạo thành chữ Pháp.
4
Chùa Hương nghiêm nay vẫn còn ở xã Phủ lý, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa. Chính tại nơi đây, mà ta tìm tấm bia dựng vào
năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 Giáp thìn (1124) kể lại sự tích chùa và sự tích sư Đạo Dung. “Chùa này hoàn toàn mới, các vật trong
chùa đều mới, trừ quả chuông đúc đời Gia Long. Trong vườn không thấy có tháp cổ. Còn có hồ”. Tấm bia chùa này còn đọc rõ
được là nhờ một nhà Sư tên Lê văn Nghị trú trì chùa đó đã thuê thợ đúc lại theo nét chữ xưa vào năm Lê Bảo Thái thứ 7 (1726).
“Ngày nay làng Phủ lý không có núi cao. Núi Càn ni chép ở bia, có lẽ chỉ là mô đất cao hơn cánh đồng chung quanh”. Đấy
là ý kiến của Hoàng Xuân Hãn. Núi Càn ni ở bên chùa Hương nghiêm, tức núi Ma ni ở đây, vì chữ Càn là húy đời Trần. Toàn thư
B6 tờ 30a2-3 nói: “Cửa Cần trước đổi là Càn vì tránh húy nên gọi làm Cần. Càn ni, do thế bị tác giả Thiền uyển tập anh đổi thành
Ma ni. 138 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
hiệu Tăng phán3
. Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Đối vơi kinh vàng kệ ngọc, không gì là không đọc
tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia4
. Hỷ thấy, lấy làm lạ, bèn trao (63b1) pháp ấn5
.
Từ đó, Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Đến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác tích tại chùa Khai
giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò6
, người học đầy nhà. Sau Sư trở về núi Ma ni, dựng chùa để dưỡng
lão.
Ngày mồng 15 tháng 2 năm Giáp ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174)7
, Sư không bệnh mà
hóa. Môn nhơn Đạo Lâm v.v… làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.

1
Tức xã Phủ lý, huyện Đông sơn, tỉnh Thanh hóa ngày nay, bởi vì không những ngày nay xã đó đang có chùa Hương nghiêm, trái
lại còn về phía tây xã hiện có hai làng Viên quang và Hồ đàm, đất của giáp Viên đàm, mà bia chùa Hương nghiêm nói tới là đã có
sự tranh chấp đất đai với Giáp bối lý. Đất Giáp bối lý có lẽ phải bao gồm cả những đất của làng Nhân lý và Mỹ lý nữa.
2
Theo bia chùa Hương nghiêm thì Lê Lương là người đầu tiên dựng chùa Hương nghiêm ở Giáp bối lý vào thời Hậu Đường (923-
937). “Ông thuộc một cự tộc ở quận Cửu chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu rất có thế lực trong
xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3000 người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật”. Đến khi Đinh
Tiên Hoàng lên ngôi vào năm 968, ông được phong Ái châu Cửu chân đô oai quốc dịch sứ, hàm Kim tử quang lộc đại phu, phong
ấp. Ngoài chùa Hương nghiêm ra, bia còn nói ông có dựng chùa Trinh nghiêm và Minh nghiêm nữa, nhưng nay ta chưa tìm thấy
chúng. Chúng có thể ở hai làng Nhân lý hay Mỹ lý.
3
Theo bia chùa Hương nghiêm thì đến đời Lý, vua Lý Thái Tôn đi chơi về phương nam tới Ái châu có qua chùa ấy. Hoàng Xuân Hãn
Sđd., tr. 456, dựa vào Đại Việt sử lược và Toàn thư giả thiết Lý Thái Tôn đến chùa Hương nghiêm khoảng năm 1031. Nhưng
chùa, trải mấy đời thờ cúng, rường cột đã đổ nát. Vua bèn sai sửa chữa lại. Vua lại ban cho cháu ông Bộc xạ, là Đạo Quang
trưởng lão làm thiền chủ, cấp cho 5 tên giúp việc, và sai trụ trì ở đó”. Cha của Đạo Dung theo bia như vậy là Đạo Quang trưởng
lão, có lẽ đây là một tên phong khác, ngoài Huyền Ngung và Tăng Phán.
4
Bia chùa Hương nghiêm: “Năm Bính thìn (1076), Sư bỏ gia hương đi tìm bạn. Cỡi thuyền ra bể, rồi tới Thăng long. Ở đó Thiền sư
gặp một vị tăng hiệu là Cao Tăng. Sư cảm phục, bèn theo học”. Xem Lý Thường Kiệt tr. 457.
5
Bia chùa Hương nghiêm: “Đạo Dung hỏi: “Điều gì cốt yếu trong pháp?” Cao tăng trả lời: “Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo
ngươi”. Bỗng nghe Sư thấy trong lòng mở mang, bèn giác ngộ”. Xem sđd., tr. 457.
6
Bia chùa Hương nghiêm: “Sư bèn ngược dòng sông Lô (Nhị Hà) trèo núi Thứu đài. Ngắm xem cảnh đẹp ấy, Sư dừng chân lại, cho
là rất vừa ý. Sư sai thợ chọn hướng, ghép đá làm nền, mà dựng nên chùa. Đặt tên là chùa Khai giác”. Xem sđd., tr. 458.
7
Hoàng Xuân Hãn, sđd, tr. 460, nhận xét: “Thiền uyển tập anh chép rằng: “Rồi Sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất
ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp ngọ 1174 đời Thiên Cảm Chí Báu”. Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076 Sư đã ra Thăng
long. Nếu sống đến năm 1174, thì Sư phải ít nhất cũng một trăm hai mươi tuổi”.
Cứ theo báo cáo của Hãn về cái bia chùa Hương nghiêm này, thì quả thực nó đưa ra khá nhiều vấn đề cho chúng ta về
niên đại của Đạo Dung, bởi vì theo nó thì năm 1076 Dung ra Thăng long gặp Khánh Hỷ, năm 1087 (Hãn sửa lại là năm1077) Dung
trở về quê và yêu cầu tùng huyễnh Lưu Khánh Đàm sửa lại chùa Hương nghiêm, cùng năm này Dung được vua Lý Nhân Tôn mời
ra Thăng long lập đạo tràng trong cung, rồi năm 1122 Dung trở về quê, lại sửa chùa Hương nghiêm để ở. Sửa xong, viết bia đó
vào năm 1124. Đến lúc này, thế nào Dung cũng trên dưới 70 tuổi rồi. Không lẽ nào Dung còn sống thêm 50 năm nữa cho tới năm
1174 mới mất sao? Chúng tôi hiện chưa có nguyên văn cái bia chùa Hương nghiêm này, nên không thể bàn cãi gì thêm. Nhưng
cũng cần lưu ý rằng năm Bính thìn 1076 cũng có thể là năm Đinh mão 1147, và năm Nhâm dần 1122 có thể là năm Canh dần
1170. 139 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Sáu (3 ng ư ờ i)
61. THIỀN SƯ Trí Nhàn (Một tên là Tĩnh Lự)
1
Am Phù môn, núi Cao dã, Yên lãng2
. Người Phong châu3
, họ Lê, tên Thước là miêu duệ của Ngự
Man Vương triều Lê4
. Oâng nội là Thuận Tôn làm quan với triều Lý đến chức Trung thư đại liêu ban, lấy
công chúa Kim Thành5
. Cha là Đạc, làm quan đến chức Minh tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên
đô tuần kiểm cùng được bổ làm Châu mục6
. Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu
thư gia7
.
Năm 27 tuổi, một hôm (64a1) theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng kinh
Kim cang đến câu “Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên
quán sát như thế”
8
. Sư bỗng nhiên cảm ngộ than rằng: “Năm lời của Như Lai đâu có điêu ngoa1
. Các

1
Cả hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều có “Trí thiền sư”. Nhưng Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16a7-8 và Đại nam
nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi tên một vị Thiền sư tên Trí Nhàn, mà chúng mô tả như: “Người huyện Yên
lãng, siêng tu hạnh lành, thấy một con cọp đuổi một con hươu bèn bảo: “Tất cả chúng sinh đều tiếc thân mình, mầy chớ hại
nhau”. Con cọp cúi đầu xuống đất mà đi. Bọn mọi Lào gần núi họp nhau ăn trộm. Sư dẫn dắt khuyên dỗ, phần lớn cảm hóa theo
lời sư dạy mà làm lành”.
Cứ vào mô tả đó, thì Thiền sư Trí Nhàn của Đạo giáo lưu nguyên, Đại nam nhất thống chí, tức “Trí Thiền sư” của Thiền
uyển tập anh ở đây, chứ không ai khác, bởi vì không những hợp về quê quán, mà còn hợp về những tình tiết sống khác như
chuyện nói chuyện với cọp và chuyện dạy “mọi Lào” đừng ăn trộm. Chúng tôi do thế nghi rằng: “Trí thiền sư” của ba bản in Lê,
Nguyễn đã thiếu mất một chữ, đấy là chữ Nhàn, và tên đầy đủ của Trí thiền sư từ đó phải là Trí Nhàn thiền sư. Chỉ có vấn đề là
Đạo giáo nguyên lưu và Đại nam nhất thống chí đã lấy tài liệu ở đâu đó có thể viết về Thiền sư Trí Nhàn như vậy. Chúng tôi nghi
nó lấy từ An nam chí nguyên và đúng là nó lấy ra từ sách đó. An nam chí nguyên 3 tờ 210 chép việc Trí Nhàn giống như Đại nam
nhất thống chí dẫn trên. Từ đó, dĩ nhiên cuốn sách ấy tất phải sử dụng nếu không phải bản in Thiền uyển tập anh xưa nhất thì
một tài liệu đã dùng bản in Thiền uyển tập anh trước bản năm 1715 xưa nhất của chúng ta hiện còn. Vì vậy, bản in trước năm
1715 chắc chắn phải có đầy đủ tên Thiền sư Trí Nhàn, chứ không phải cái tên thiếu là Thiền sư Trí, mà bản in năm 1715 do in sót
tạo ra, rồi di lụy đến bản in đời Nguyễn.
Chúng tôi do vậy đề nghị bổ sung tên Thiền sư Trí thành Thiền sư Trí (Nhàn), để cho tên các vị Thiền sư ở đây được nhất
quán. Thiền sư nào cũng có hiệu do hai chữ ghép lại cả, dĩ nhiên trừ Thiền sư Ấn độ.
2
Yên lãng ở đây dĩ nhiên không phải là trại Yên lãng, huyện Thọ xương, tỉnh Hà nội đời Nguyễn, mà là huyện Yên lãng, tỉnh Sơn
tây đời Nguyễn, bởi vì huyện Trí nhàn ở đây nói “hai triều đại Anh và Cao Tôn nhiều lần triệu thỉnh mà Nhàn không đáp”, đến nỗi
Tô Hiến thành và Ngô Hòa Nghĩa phải “đem lễ thầy trò đi tìm”, thì đủ rõ am của Nhàn tất không thể ở ngoại ô thành phố Hà nội
được. Theo Đại nam nhất thống chí tỉnh Sơn tây, mục Kiến trí diên cách, thì Yên lãng là tên huyện từ thời Đinh và Lý. Nay là
huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phúc.
Chúng tôi hiện chưa truy ra một ngọn núi mang tên Cao đã thuộc huyện đấy.
3
Tức gồm đất huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay. Xem chú thích (6) truyện Pháp Hiền. Đại nam nhất thống chí nói Nhàn
người huyện Yên lãng. Xem chú thích (1) trên.
4
Tức Lê Long Đĩnh, con thứ tư của Lê Đại Hành, được phong làm Ngự Man Vương ở Phong châu vào năm 991. Xem Toàn thư B1 tờ
20a3 và Cương mục chính biên 1 tờ 26b1.
5 Toàn thư B2 tờ 24b3-4 viết: “Thông Thụy năm thứ 3 (1036) tháng 3, đem công chúa Kim Thành gả cho Châu mục Phong châu Lê
Thuận Tôn”. Đại Việt sử lược 2 tờ 6b2 gọi công chúa Kim Thành là công chúa Khánh Thành. Lê Thuận Tôn như vậy là con của Lê
Long Đĩnh và là cháu nội của Lê Hoàn.
6
Châu mục đây phải là Châu mục Phong châu, bởi vì tính tập ấm của chức ấy dưới thời Lý. Nếu ông nội của Kiếm đã giữ chức Châu
mục Phong châu và Kiếm lại là chắt ngoại của Lý Công Uẩn, thì một sự tập ấm như vậy càng dễ dàng, như trường hợp giòng họ
Thân ở Lạng giang.
7 Toàn thư B7 tờ 40b8 viết: “Năm Long Khánh thứ 2 đình thí tiến sĩ”. Cương mục chính biên 10 tờ 35a2 ghi: “Năm Long Khánh thứ
2 mùa xuân tháng 2 bắt đầu đặt khoa tiến sĩ”. Nhưng cứ truyện Trí Nhàn ở đây thì từ tiến sĩ đã xuất hiện dưới thời Lý Anh Tôn,
nếu không nói khoa tiến sĩ ra đời vào lúc ấy. An nam chí lược 14 tờ 133 có ghi chức cung hầu thư gia thuộc loại quan văn.
8
Dẫn kinh Kim cang tờ 752b:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán. 140 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
pháp thế gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà nho có thể nói tới đạo
vua tôi, cha con2
, còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của Thanh văn, Bồ tát3
. Hai lời dạy dù
khác nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì
nếu không phải giáo lý của Đức Thích Ca, quyết không thể vậy”. Bèn xin xuống tóc.
Sau khi đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm thiền
định, chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm.
Một hôm Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: “Tất cả chúng sinh đều
tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau”. Cọp cúi đầu sát đất, tỏ dấu quy y rồi đi.
Về sau, Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của chất
thành đống. Mọi Lào gần núi (64b1) gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi nhà Sư ra đi, thường có con cọp
lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm. Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số
không thể kể xiết.
Hai triều đại Anh Tôn và Cao Tôn, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc thái úy Tô
Hiến Thành và thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng
một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:
“Đã mang chí vượt, dưỡng trong lòng
Nghe nói lời mầu, ý những nương
Tham dục bỏ xa ngoài vạn dặm
Hi di diệu lý ngày bao dung”4
Lại nói:
“Đạm bạc giữ mình
Chỉ đức là việc
Hoặc bảo lời lành
Một câu khăng khít
Lòng không kia, ta
Đã hết mù mịt
Ngày đêm xuống lên
Không hình bám vít
Như bóng như vang
Không dấu theo vết

1
Theo kinh Kim cang lời nói do Đức Phật phát biểu ra có năm tính chất đây là tính chân, tính thật, tính đúng, tính không dối, tính
không thần dị. Xem kinh Kim cang tờ 750b27: “Như Lai ngữ giả thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả,
bất dị ngữ giả”.
2 Đấy là thuyết chính danh của Nho giáo. Thuyết đấy cho rằng để lập lại trật tự xã hội và phục vụ lợi ích xã hội, thì người làm vua
phải ra làm vua, người làm cha phải ra người làm cha, người làm tôi phải ra người làm tôi, người làm chồng phải ra người làm
chồng, người làm vợ phải ra người làm vợ v.v… nếu không được chính danh như vậy, xã hội sẽ loạn lạc, trật tự bị đảo điên.
3
Tức thuyết tự lợi, lợi tha của Phật giáo. Trong Phật giáo thường chia làm hai phái, đấy là phái Thanh văn, và phái Bồ tát. Phái
Thanh văn có nghĩa là phái nghe lấy những lời của Phật Thích Ca Mâu Ni để tu hành nhằm giải phóng những khổ não do chính
bản thân mình và chỉ nhằm sự giải phóng đó thôi. Do thế, có một phái khác chủ trương phải giải phóng những khổ não của những
kẻ khác nữa, chứ không phải của chính mình. Phái này gọi là phái Bồ tát, tức phái của những người nhằm sự giác ngộ hoàn toàn.
4
Hy Di chi lý, tức đạo lý cao siêu. Đạo đức kinh chương 14 định nghĩa chữ Hy Di thế này: “Xem mà không thấy, gọi là Di; lắng mà
không nghe gọi là Hi” Xem Đạo đức kinh thượng thiên tờ 7b2-3. 141 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Nói xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang rung động
cả núi rừng.
[65a1]
62. THIỀN SƯ Chân Không (1046-1100)
Chùa Chúc thánh, núi Phổ lại, Phù lan1
. Người Phù đổng, Tiên du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất
thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được
Sư.
Thuở nhỏ, Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách vở.
Đến năm 18 Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tịnh
lự, núi Đông cứu2
nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau3
. Nhập thất sáu năm, học hỏi nghiên cứu mỗi ngày
một thêm tiến bộ. Sau nhận được tâm ấn. Sư liền đến ở núi ấy theo luật mà tự phòng hộ, không rời khỏi
núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.
Vua Lý Nhân Tôn nghe được, xuống chiếu mời Sư vào đại nội để giảng kinh Pháp hoa, thính giả
tìm đến tấp nập. Bấy giờ thái uý Nguyễn Thường Kiệt, thứ sử Lạng châu là tướng quốc Thân Công4
càng
thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp
(65b1) và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.
Một lần, có một vị Tăng hỏi: “Thế nào là đạo mầu?”
Sư đáp: “Giác ngộ rồi mới biết”
Tăng hỏi thêm: “Đối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy
làm sao hiểu được?”

1 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: “Núi Phổ lại tại xã Phổ lại, huyện Quế dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông
Lục đầu, cảnh trí khoáng đãng. Trên núi có chùa Chúc thánh, đó là nơi tu hành luyện tinh của Thiền sư Không lộ. Thời Trần, vua
quan thường hay đến đó ngâm vịnh… .”. Xem thêm Đại nam nhất thống chí tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên. Nay là núi Phả lại tại
xã Phả lại, huyện Quế dương, tỉnh Hà bắc.
Một khi đã xác định vị trí của núi Phả lại như thế thì vị trí của chùa Phù lan tất không thể giới hạn theo Cương mục chính
biên 1 tờ 27a4 được, bởi vì theo nó thì “Phù lan là tên một trại, nay là xã Phù vệ thuộc huyện Đường hào, tỉnh Hải dương”. Đất
của trại Phù lan đời Lê và Lý, ngoài huyện Đường hào ra, còn phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện Quế dương và có thể là
huyện Chí linh nữa.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: “Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055) dựng chùa Tĩnh lự ở núi Đông cứu”. Lịch triều hiến
chương loại chí 3 tờ 6a1 viết: “Núi Đông cứu tại huyện Gia định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng, ngó xuống dòng sông. Trên núi
có chùa Thiên thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh Dụ Tổ thường đến chơi nơi ấy… “. Huyện Gia định năm Minh mạng thứ 1 (1820) đổi
làm huyện Gia bình, nên Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: “Núi Thiên thai tại tây bắc huyện Gia bình 5
dặm, một ngọn đứng cao chót vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa, có thể
gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi Đông cứu một tên là núi Đông cao”.
Vị sư Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không biết một tí gì.
3
Qui mộc tương giao. Điển rút từ kinh Tạp a hàm: “Trong biển lớn có một con rùa đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló
đầu lên một lần. Lại có một khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà trôi đông hay trôi tây. Con rùa mù
một trăm năm ló đầu một lần mà gặp lỗ hổng của khúc gỗ đó, thật là khó thay”. Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm kinh Niết
bàn: “Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời cũng khó. Giống như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ
hổng trên khúc cây”. Xem Đại bát niết bàn kinh 2.
4
Tức phải chỉ Thân Đạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình Dương, bởi vì không những Nguyên đồng thời với Lý
Thường Kiệt, mà còn vì vợ của Nguyên là công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân Không. Theo Đại Việt sử
lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là Thân Cảnh Nguyên, được Lý Thánh Tôn chọn làm phò mã năm 1059 và 1066
thì chính thức cưới công chúa Thiên Thành. Tục tư trị thông giám trường biên 279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh Phúc, còn
Mộng khê bút đàm 2 thì gọi là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao lại có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu sao , Nguyên là một
trong những vị tướng lãnh có công đầu trong trận chống quân xâm lược Tống năm 1075. 142 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Sư đáp:
“Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
Thuốc đan đổi cốt được đem về”
Hỏi: “Thế nào là viên thuốc đan?”
Sư đáp:
“Nhiều kiếp ngu si không biết rõ
Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày”
Hỏi: “Thế nào là tỏ bày?”
Sư đáp: “Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà
Tất cả chúng sinh cùng một nhà”.
Lại hỏi: “Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y1
. Cái nào là y?”
Sư đáp: “Lửa kiếp2
lẫy lừng thiêu rụi hết
Núi xanh như cũ trắng mây bay”.
Lại hỏi: “Sắc thân tan rã rồi thì sao?”
Sư đáp: “Xuân đến xuân đi nghi xuân hết
Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân”
Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:
“Đồng bằng sau cơn lửa
Cây cối mỗi tươi thơm”
Tăng vái lạy.
Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo (66a1) cảm. Đến ngày 01 tháng 11 năm Hội
Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:
“Trống vắng gốc mầu sáng rực ra
Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà
Người người thảy biết vô vi sướng
Nếu được vô vi mới phải nhà”.
Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:

1
Thiền sư Động Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà ngộ đạo, bèn làm bài thơ:
“Thiết kỵ tùng tha mích
Thiều thiều dữ ngã cư
Ngã kim độc tự vãng
Xứ xứ phùng đắc cừ”.
(Rất kỵ tìm nơi khác
Cùng ta nó luôn đi
Ta nay riêng tự đến
Nơi nơi đều gặp y)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm “nơi nơi đều gặp y” là rút từ bài thơ vừa dẫn.
2
Kiếp hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời.
Ngọn lửa đấy gọi là kiếp hỏa hay lửa kiếp. Xem A tỳ đạt ma câu xá luận 12. Quan niệm thế mạt đó sau này Thiền tôn mượn để
đặt thành công án. Công án thứ 29 của Bích nham lục đặt vấn đề thế này: “Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu hoại, thì cái gì hoại,
cái gì không hoại?”. Xem Bích nham lục 3 tờ 169a 17-18. 143 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
“Đạo tâm đã thành
Giáo ta đã hành
Ta theo biến hóa”.
Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ1
, hoàng thái hậu và công chúa Thiên
Thành2
, cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân3 đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Đại
minh và sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở
ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, công bộ thượng thư Đoàn
Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:
“Triều đình thôn dã nức cao phong
Gậy chống như mây gặp hội rồng
Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy
Than dài rừng đạo, đọt tùng buông
Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới
Núi xanh soi nước thấy hình vương (66b1)
Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ
Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn”4
63. THIỀN SƯ Đạo Lâm (? – 1203)
Chùa Long vân, làng Siêu loại, Long phước5
. Người Cửu cao, Chu diên6
, họ Tăng sớm mộ Không
tôn1
, chỉ hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp Dung chùa Hương nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều

1
Tuổi hạ mà từ Phật học Trung Quốc gọi là hạ lạp, là một thứ tuổi tính theo tiêu chuẩn tổ chức Phật giáo. Tuổi ấy bắt đầu tính từ
khi một người được chính thức nhận vào tổ chức Phật giáo của những người xuất gia, thể hiện qua việc người đó chấp nhận
những kỷ luật đầy đủ của một người sống hoàn toàn theo Phật giáo, tức kỷ luật Tỳ kheo. Chỉ khi nào chấp nhận kỷ luật đó, tức
thường gọi là “Cụ túc giới”, tuổi hạ bắt đầu tính.
Mỗi tuổi hạ là tương đương với một tuổi đời, bởi vì nhận giới Tỳ kheo mỗi năm phải sống cấm túc ba tháng mùa mưa, còn
những tháng khác họ phải đi lang thang hoạt động truyền giáo, nên nếu ai sống mỗi năm được ba tháng cấm túc đó thì được một
tuổi hạ.
2
Hoàng thái hậu đây tức Linh nhân Hoàng thái hậu (?- 1117), mẹ của Lý Nhân Tôn. Xem chú thích (3) truyện Thông Biện. Còn
Thiên Thành công chúa (? – 1149) là con của Lý Thánh Tôn và là vợ của Thân Đạo Nguyên. Xem chú thích (3) ở trên.
3
Cả hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều viết: “Đệ tử Mậu Nhân ni sư”. Nhưng truyện của ni sư ở tờ 67a8 thì nói ni sư tên
Diệu Nhân. Chúng tôi nghi chữ Mậu là một sai khác của chữ Diệu, tỵ húy tên mẹ Trần Thái Tôn là Lê thị Diệu, nên Diệu đổi làm
Mậu.
4 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b3-6 chép y nguyên bài thơ, trừ câu thứ 5 mà nó chép thành: “Vân oanh bích thảo thiêm tân tháp”. Về
những bàn cãi liên quan tới tác giả bài thơ này cùng bài thơ ở truyện Quảng Trí xem chú thích (3).
5
Cái tên Long Phúc được nhắc tới hai lần trong Thiền uyển tập anh một ở đây và một ở truyện Y Sơn tờ 70b1. Cứ vào thành phần
cấu tạo nên nó, tức làng Siêu loại và Đại thông trường, ta có thể xác định phần đất đó thuộc gồm hai huyện Siêu loại và Gia bình
đời Nguyễn, tức huyện Thuận thành và phần bắc huyện Gia lương, tỉnh Hà bắc hiện nay. Về vị trí là làng Siêu loại, xem chú thích
(1) truyện Thiện Hội về Đại thông trường. Xem chú thích (1) truyện Y sơn.
6 Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: “Huyện Chu diên đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Đường đổi làm Diên châu, đời Lê là
phủ Tam đái, nay tức là đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây”. Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Đường thơ 41 tờ 42b11 đều nói
Chu diên là đất quận Vũ bình thời trước. Mà ta đã khảo ra đất quận Vũ bình rơi vào khoảng tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú
thích (2) truyện Tịnh Lực. Ngoài ra Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu
diên ở về phía đông nam, trị phủ Giao châu, nghĩa là đóng phía nam thành phố Hà nội ngày nay. Chi tiết này Độc sử phương dư
kỷ yếu cũng chép y lại. Như vậy Chu diên chắc phải nằm phía đông nam thành phố Hà nội, nhưng nó gồm phần đất những huyện
nào?
Truyện Đạo lâm đây nói Lâm “người Cửu cao, Chu diên”. Mà cứ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi ba người đỗ tiến 144 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
năm, mật nhận tâm ấn, bèn được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi
người không ít.
Đến tháng 5 năm Quý hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.2

sĩ xuất thân từ làng Cửu cao “hạt Gia lâm”. Đây là Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 và Nguyễn Di
khoa năm1532. Làng Cửu cao này đến khoảng năm 1685 thì đổi thành làng Thượng tốn bởi vì khoa năm đó có Đỗ Công Bật
“người hạt Thượng tốn”, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đến con của Bật là Đỗ Công Đỉnh cũng là đỗ đệ tam giáp đồng tiến
sĩ khoa 1706 và Đỉnh lại ghi là người làng Thượng tốn hạt Gia lâm. Mà ta biết làng Thượng tốn là làng Cửu cao đổi ra, vì Đại Việt
lịch triều đăng khoa lục khi nói Trần Văn Bính là người làng Cửu cao, thì có chua thêm tức làng Thượng tốn.
Như vậy, làng Cửu cao, Chu diên nay là làng Thượng tốn, huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Địa phận của Chu diên do thế
phải ăn thâm vào phần đất của huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Vùng Chu diên xưa từ đó có thể gồm phần đất của những huyện Gia
lâm, tỉnh Bắc ninh và huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên ngày nay.
1
Tức chỉ Phật giáo, bởi vì toàn bộ tư tưởng Phật giáo được xếp thành hữu tôn, Không tôn và Tánh tôn mà Tánh tôn lại bao hàm cả
hữu lẫn không tôn. Nhưng Tánh tôn và Không tôn lại bị “các Thiền gia lộn cho là cùng một tôn, một giáo”, nên Phật giáo gọi là
không tôn. Xem Tôn cảnh lục 34 tờ 616a6-617a4.
2
Truyện Tịnh Thiền tờ 68a7 nói: “Đến khi Lâm mất rồi, Thiền bèn đi khắp chốn thiền tìm bạn học thêm”. Mà Thiền mất vào năm
1139. Như vậy Lâm tối thiểu cũng phải mất trước năm đấy chừng mười năm, chứ đâu lại có chuyện mất vào năm 1203, nghĩa là
sau khi Thiền chết những mười năm. Lại thêm vấn đề, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu chỉ thấy ở Toàn thư B4 tờ 22b8 và 23a5,
trong khi Đại Việt sử lược 3 tờ 14a1 v.v… viết là Thiên Tư Bảo Hựu. Chúng tôi do thế nghi rằng có thể người hiệu đính bản in năm
1715 đã sửa thêm niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu đấy vào, mà là tự nguyên ủy có thể là Thiên Cảm Chí Bảo hay Chính Long Bảo
Ứng. Vấn đề niên đại các vị sư ở đây thật là nan giải. Trừ khi tìm thêm những bia văn mới, ta mới có thể giải quyết một phần nào.
Chúng tôi hiện biết tính chất ngược ngạo phi lý của niên đại 1203 đấy, nhưng không thể đề nghị một cách có căn cứ một
niên đại giả thiết nào mới, vì niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 đã nhằm đúng năm can chi của nó, tức năm Quý hợi, như
Toàn thư đã có. Dẫu sao, ta phải giả thiết Lâm phải mất trước Thiền khoảng mười năm, tức có thể khoảng năm 1175. 145 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Bảy (có 4 ng ư ờ i, 1 ng ư ờ i khuy ế t
l ụ c)
64. THIỀN SƯ Diệu Nhân (1042-1113)
Viện Hương hải, làng Phù đổng, Tiên du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Yết Vương1
,
bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tôn nuôi ở trong cung. Đến tuổi cập kê, vua gả
cho thâu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự thề ở vậy giữ nghĩa (67a1) không tái giá.
Một hôm than rằng: “Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn
phù vinh có thể nương tựa được sao?”
Do đó, đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân Không
tại làng Phù đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho phép trụ trì tại ni viện. Cô giữ
giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là bậc tôn túc trong hàng ni chúng. Có ai đến cầu học, cô tất
đem Đại thừa ra giảng dạy và nói: “Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà thể nhập,
hãy thường tịch tịnh, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ”
Có học trò hỏi: “Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh2
, sao gọi là khi nào cũng tránh xa
thanh sắc?”
Cô đem giáo nghĩa đáp: “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không
thể thấy Như Lai”3
Lại hỏi: “Sao gọi là ngồi yên”4
Cô đáp: “Xưa nay không đi”
Lại hỏi: “Sao gọi là không lời?”
Cô đáp: “đạo vốn không lời”.
Ngày 01 tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), cô cáo bệnh5
(67b1) nói kệ:
“Sinh, già, bệnh, chết
Từ xưa thường vậy
Muốn cầu thoát ly

1
Tức Phụng Càn Vương, tước của Lý Nhật Trung do cha là Lý Thái Tôn phong vào năm 1035. Chữ Càn vì húy đời Trần, nên đổi ra
chữ Yết. Toàn thư B6 tờ 30a2-3: “Cửa Cần, trước gọi là Càn, vì tránh húy nên làm Cần”.
2
Duy ma cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 544b21: “Dĩ nhất thiết chúng sanh bệnh, thị cố ngã bệnh”.
3
Kim cang kinh tờ 752a17:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai”.
4
Yến tọa, ngồi tĩnh lặng tư duy. Ơũ đây ám chỉ thiền thoại Tu Bồ Đề yến tọa mà các thiền gia thường nhắc tới như sau: “Tu Bồ Đề
yến tọa trong một đống đá. Chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: “Trong hư không làm mưa hoa tán thán là ai đó?” Thiên trả
lời: “Tôi là Phạm Thiên. Tôi tôn trọng Tôn giả khéo nói bát nhã ba la mật đa”. “Ta đối với Bát nhã chưa từng nói một chữ, làm sao
ngươi tán thán?” Thiên nói: “Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nghe, không nói ấy là một chân thật về Bát nhã”.
Xem Giáo ngữ lục tờ 680a5.
5 Toàn thư B3 tờ 16a7-9: “(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ 4 (1113) mùa hạ tháng 6, phu nhân Châu mục châu Chân đăng công
chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều là con gái lớn của Phụng Càn Vương. Thánh Tôn nuôi trong cung đến lớn, gả cho châu
mục họ Lê Châu chân đăng. Họ Lê chết, cô tự thề ở góa, rồi xuất gia làm Ni. Đến đó mất, thọ 72 tuổi. Thần Tôn tôn hiệu là Ni
sư”. 146 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Cởi trói thêm buộc
Mê mới tìm Phật
Lầm mới cầu thiền
Thiền Phật chẳng tìm
Ngậm miệng không nói”1
Bèn gội tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.
65. THIỀN SƯ Viên Học (1073 -1136)
Chùa Đại an quốc, làng Cổ hạnh, Tế giang2
. Người Như nguyệt
3
, họ Huỳnh. Nhỏ học sách đời,
đến tuổi đội mũ, đi học nội điển4
, nhân nghe một câu nói của Chân Không, tâm địa bỗng nhiên tỏ ngộ.
Từ ấy, Thiền học cao vút, luật nghi không ngại, thân mặc một áo suốt mùa lạnh nóng, bình bát
tích trượng mang theo bên mình, tùy phương khai hóa; cho đến sửa cầu, đắp đường, không việc nào là
không xung phong trước. Sau, Sư về làng Phù cầm5
, trùng tu chùa Quốc thanh và đúc chuông. Thường
có bài kệ duyên hóa sau:
“Sáu thức6
thường mê đêm trọn khổ,
Vô minh che khuất mãi lưỡi buông
Sớm tối nghe chuông khơi giác ngộ
Thần lười diệt sạch được thần thông”.
Ngày 14 tháng 6 mùa hè năm Bính thìn Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 (1136), Sư thị tịch, thọ (68a1) 64
tuổi. Các môn đệ Ngô Thông Thiền7
, Lưu Vương Nhân, Lữ Pháp Hoa và Châu Diệu Dụng thu di cốt, xây
tháp để thờ.

1
Bài kệ này Thái tôn hoàng đế ngự chế khóa hư quyển hạ tờ 33b 1-4 có chép và nói là bài kệ khuyên chúng của Trần Thái Tôn:
Sinh lão bệnh tử
Lý chi thường nhiên
Dục cầu giải thoát
Giải phược thiêm triền
Mê nhi cầu Phật
Hoặc nhi cầu thiền
Thiền giả bất cầu
Đổ khẩu vong ngôn.
Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản Thiền uyển tập anh ở đây. Với những chữ khác ấy, chúng tôi nghĩ rằng Trần Thái
Tôn đã lấy lại bài kệ thị tịch của Ni sư Diệu Nhân, rồi đổi một vài chữ, để làm của mình, nhất là khi quan niệm “nhất hồi niêm
xuất, nhất hồi tân” (mỗi hồi nêu ra, mỗi hồi mới) của các Thiền gia đời Trần đối với các công án cũ rất là phổ biến. Trần Nhân
Tôn, khi có người hỏi sao mình cứ lập lại các công án cũ của người xưa như thế, đã trả lời: “Nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân”.
Xem Thánh đăng lục tờ 4b1-2.
2
Tức huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thuần Chân.
3
Tức làng Như nguyệt, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Nó không phải là lộ Như nguyệt giang, Đại Việt lịch triều đăng
khoa lục 2 ghi làng Như nguyệt như là quê của Hứa Tam Tỉnh tiến sĩ khoa 1558.
4
Chỉ kinh điển Phật giáo. Nhị giáo luận của Đạo An trong Quảng hoằng minh tập 8 tờ 136c11-16 viết: “Cổ cứu hình chi giáo, giáo
xưng vi ngoại, tế thần chi điển, điển hiệu vi nội… Thích giáo vi nội, Nho giáo vi ngoại”.
5
Tức làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Minh Trí.
6
Sáu thức tức sáu thứ nhận thức do sáu giác quan đem lại, đây là nhận thức của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ý.
7
Ngô Thông Thiền đây không phải là Cư sĩ Thông Thiền, thầy của Tức Lự, thuộc phái Kiến sơ. 147 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
66. THIỀN SƯ Tịnh Thiền (1121 – 1193)
Chùa Long hoa, làng Cổ giao, Long biên. Người làng Cổ giao, họ Phí, tên Hoàn. Ban đầu, cùng
với bạn đồng học là Tịnh Không thờ Đạo Lâm chùa Long vân làm thầy. Hằng ngày miệt mài học hỏi, sâu
hiểu lẽ huyền, Lâm biết Sư sẽ là pháp khí, nên ban hiệu và ấn chứng rằng: “Tịnh là tịnh trí diệu viên,
Thiền là thiền tâm thường tịch”. Đến khi Lâm tịch rồi, Sư bèn đi khắp chốn thiền, tìm bạn học thêm. Lúc
duyên đạo đã thuần, bèn tìm về làng cũ, trùng tu chùa Long hoa. Ngoài lúc khảo sát thiền luật, Sư luôn
nghĩ đến việc lợi tha.
Ngày 12 tháng 8 mùa thu năm Quí sửu Thiên Tư Gia Tự thứ 6 (1193) Sư thị tịch, thọ 73 tuổi.
Môn đồ là Pháp Ký soạn văn bia tại chùa có nói:
Sư sinh đời Lý
Ra gặp thời minh
Lục độ1
há quên
Tứ hoằng2
không bỏ
Chén thơm3
chỗ nổi
Mười phương tín chủ sóng về
Gậy tích khi khua
Bốn chúng4
học đồ mây nhóm
Thần thông khôn tính
Huyền dụng khó lường
Nếu chẳng đến Phật giác trường
Đâu hay thảnh thơi nghiệp tốt.
Quả đúng:
Trời Thích trăng báu
Vườn Pháp thôn thiêng.

1
Tức sáu cái giúp ngừơi ta vượt bến khổ đau, cũng gọi là ba la mật, đấy là bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí
tuệ.
2
Tức tứ hoằng thệ nguyện, “Bốn thệ nguyện lớn”, đấy là chúng sanh vô số lường thệ nguyện đều độ khắp, phiền não vô cùng tận
thệ nguyện đều dứt sạch, pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn thệ nguyện đạt viên thành. Đấy
là bốn lời nguyện tổng quát của Đại thừa. Xem Tâm địa quán kinh 7 và Vãng sanh yếu tập quyển thượng.
3
Hương bôi, tức chén nước thơm dùng để cúng Phật, cũng gọi là a già bôi, hay ư già bôi, chỉ cho chùa chiền.
4
Tứ bộ hay tứ chúng, tức bốn thành phần người Phật giáo, đấy là Tỳ kheo, Kỳ kheo ni, Ưu bàtắc và Ưu bà di. 148 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Tám (có 2 ng ư ờ i, 1 ng ư ờ i khuy ế t
l ụ c)
67. QUỐC SƯ Viên Thông (1080 – 1151)
Chùa Quốc ân, làng Cổ hiền, Nam định1
. Người Cổ hiền, họ Nguyễn tên Nguyên Ức. Sau về ngụ
tại phường Thái bạch2
kinh thành Thăng long, nhân thể làm nhà ở đó. Dòng dõi làm Tăng quan. Cha là
Huệ Dục làm quan triều vua Lý Nhân Tôn đến chức Tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác Thiền sư3
.
Sư bẩm tính thông minh, tài học tinh diệu, sớm có chí xuất trần, thường gặp Viên Học chùa An quốc,
nhân đó mà được yếu chỉ. Năm Hội Phong thứ 6 (1197), đỗ Giáp khoa khoa thi tam giáo4 được sung vào
chức Đại văn. Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1106), vua chọn những bậc hoằng tài trong thiên hạ,
để bổ vào chỗ khuyết trong giai Tăng đạo, Sư lại đứng đầu trong kỳ thi tuyển này, Vua càng cho (69a1)
là lạ, sắp đem trao Sư quyền hành chăn dân. Sư cố từ không được, bèn nhận chức Nội cung phụng
truyền giảng pháp sư.
Từ đó, Sư tùy cơ diễn hóa, chỉ bày yếu chỉ, giác ngộ cho người, giải điều mê trừ việc dốt, quyết
không để vết. Những kẻ thọ nghiệp với Sư đều được hiển danh đương thời.
Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127), chùa Trung hưng diên thọ làm xong5
, vua sai Sư soạn
văn bia. Vua kính trọng tài Sư, nên đổi Sư làm Tả nhai tăng lục. Năm Đại Thuận thứ 3 (1130), Lý Thần
Tôn mời Sư vào điện Sùng Khai. Vua hỏi về lý trị loạn hưng vong trong thiên hạ.

1
Cứ Cựu Đường thư 41 tờ 42b5-8 và Tân Đường thư 43 thượng tờ 9b10 thì Nam định là tên một huyện đặt lần đầu tiên vào năm
621 thuộc Tống châu, mà ngoài nó ra còn gồm hai huyện khác, đó là Tống bình và Hoằng giáo. Đến năm sau thì chia huyện Tống
bình thành hai huyện Giao chỉ và Hoài đức. Đến năm 627 hiệp ba huyện Giao chỉ, Hoài đức và Hoằng giáo lại thành huyện Tống
bình cùng với huyện Nam định thuộc Giao châu. Thông điển 184 tờ 50a9-13 của Đỗ Hựu (735 – 812) nói: “An nam đô hộ phủ nay
đóng tại Tống bình”. Như vậy, địa phận Tống bình tức tương đương với phần đất thủ đô hà nội ngày nay với một phần những
huyện ngoại vi của nó thuộc tỉnh Hà đông. Từ đó, phần đất của huyện Nam định tất cũng phải rơi vào khoảng tỉnh đấy.
Cứ Bắc thành địa dư chí lục 3 thì huyện Thượng phúc, phủ Thường tín, thuộc trấn Sơn nam thượng có một số tổng xã
mang tên Cổ hiền. Làng Cổ hiền của Viên Thông chắc chủ yếu là rơi vào địa phận tổng Cổ hiền đấy. Tổng có 9 xã thôn sau: Cổ
hiền (Thái công), Cổ hiền (Bảo hiền), Dưỡng hiền, Hưng hiền, Nhụy khê (Thượng đình nam thôn), Nhụy khê (Hạ thôn), Thụy ứng,
Nhân hiền và Nhuệ giang. Với những tên xã thôn như vậy vào thời Nguyễn thì ta không còn nghi ngờ gì nữa về vị trí của làng Cổ
hiền thời Lý nữa. Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt nam I tr. 190 nói: “hiện có hai làng Cổ hiền, một thuộc phủ
Thường tín, một thuộc huyện Phú xuyên, cùng ở tỉnh Hà đông”. Nhưng nếu tra lại Bắc thành địa dư chí lục 3 thì những tổng xã
thôn của huyện Phú xuyên thời Nguyễn không có tổng xã thôn nào tên Cổ hiền hết. Do thế, ta có thể dứt khoát xác định là làng
Cổ hiền của Viên Thông là tương đương với tổng Cổ hiền, huyện Thượng phúc, phủ Thường tín, trấn Sơn nam thượng, tức nay
thuộc huyện Thường tín, tỉnh Hà đông. Chúng tôi nói là tương đương bởi vì tổng Đông cứu, thuộc huyện Thượng phúc cũng có
thôn tên Cổ hiền.
Đất Nam định đời Lý như vậy là tương đương với địa phận huyện Thường tín, tỉnh Hà đông ngày nay. Và làng Cổ hiền
của Viên Thông là thuộc huyện đó.
2
Phường Thái Bạch của kinh đô Thăng long hiện chưa thể khảo được. Cứ Địa dư chí cũng như Bắc thành địa dư chí lục 1 và
Phương đình dư địa chí 2 ta không tìm thấy tên Thái bạch giữa những tên phố trại thuộc thủ đô Thăng long. Phải chăng Thái bạch
đời Lý đã bị đổi thành phường Thái cực, quê hương của Lê Kim Quế tiến sĩ khoa 1580, mà Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 và
Bắc thành địa dư chí lục 1 ghi lại.
3
Thiền sư Bảo Giác, cha của Viên Thông đây chắc không phải Bảo Giác chùa Viên minh, vị thầy của Tịnh Giới, mà truyện Tịnh Giới
tờ 33b3 nói tới. Xem chú thích (4) truyện Tịnh Giới. Bảo Giác cũng không phải là tác giả những tác phẩm Chư Phật tích duyên sự,
Tăng gia tạp lục và Viên Thông tập, như Văn nghệ chí của Lê Quí Đôn đã ghi. Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Viên Thông
tập là của Bảo Giác thôi.
4
Những kỳ thi tuyển đấy không thấy các sử sách khác ghi. Xem chú thích (3) truyện Thiền Nham.
5
Nguyên văn: “Đại Khánh tam niên. Những chữ “Đại Khánh tam” chắc là một sửa sai của người viết tựa cho bản in năm 1715, bởi
vì cứ Toàn thư B3 tờ 25a7 thì năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127) mùa thu tháng 7 ngày Đinh tỵ khánh thành chùa Trùng
hưng diên thọ”. Chùa Trùng hưng diên thọ như vậy khánh thành năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1, chứ không phải là vào năm Đại
Khánh thứ 3. Chữ Đại Khánh tam niên” chắc là do chữ “Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên” mà ra. Có lẽ để bản của bản in năm
1715 có những chữ đó bị mờ hay bị mối mọt ăn, nên nhà nho giữ chức vụ “Chính kỳ khuyết thất, trợ kỳ di lậu” cho bản in đó đã
lầm tưởng những chữ “Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên” ấy thành “Đại Khánh tam niên”, nhất là khi tự dạng 6 chữ trước rất 149 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Sư đáp: “Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin
đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu
thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy”.
Lại đáp: “Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn. Thần từng xem
qua các triều vua chúa đời trước, chưa từng có triều đại nào, không dùng bậc quân tử mà được thịnh,
không dùng kẻ tiểu nhân mà (69b1) suy. Cho đến nỗi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một
chiều, mà chỗ do lai đã lâu lắm vậy1
. Trời đất không thể bỗng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có
xuân thu. Đấng nhân quân (không thể) bỗng nhiên trở nên hưng vong, tất là từ từ có thiện, ác. Thánh
chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái
đức không nghỉ của đất để yên người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng
mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hãi tựa leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng,
trái thế thì không gì là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong, chính ở nơi đây vậy”.
Sư đối đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai tăng thống tri giáo môn công sự. Sư
được tự do gần vua, dâng lời chỉ bảo, chưa tùng thiếu sót. Sau đó, Sư phụng chiếu đến đền Tây dương2
cầu giữ thai vua có ứng nghiệm. Do đó vua càng thêm kính trọng, ban cho Sư khi vào triều được đứng
ngang hàng với Thái tử.
Năm Thiên Chương Gia Thụy thứ 5 (1137), xe vua gác giá3
Sư dự nhận cố mạng và (70a1)
phụng di chiếu, chủ trì mọi việc bàn tính phó thác.4
Năm Thiệu Minh thứ 1 (1137), Anh Tôn khi đã lên ngôi, Thái hậu5
nhiếp chính6
, cho Sư đã có
công giúp vua, và nhiều lần trọng thưởng. Sau đó, Sư về lại quận mình lập chùa dưỡng già. Phí tổn xây
dựng1 đều do quỹ Vua ban cấp, đồng thời ban chữ2 để chùa thêm sang.

giống với 4 chữ sau, một khi chữ phù và chữ thọ đã bị mờ hẳn hay bị mọt ăn đứt hoàn toàn. Còn lại chữ thiên thì rất dễ đọc thành
chữ đại, và chữ nguyên rất dễ đọc thành chữ tam. Chúng tôi do thế bằng vào Toàn thư và coi năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 là
năm khánh thành chùa Trùng hưng diên thọ.
1
Dẫn Chu dịch: “Quẻ khôn” “Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ do lai tiệm hỷ”. (Tôi giết vua, con
giết cha, không phải chuyện một sớm một chiều mà nguồn gốc nó đã có từ lâu lắm). Xem Chu Dịch 1 tờ 7a1.
2 Đền Tây dương này nghi là đền Hai Bà Trưng mà sau này Lý Anh Tôn sai dựng “ở ngoài Tây dương” như Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9
ghi lại. Việc cầu thần linh giữ gìn thai vua này, chúng tôi nghi là xảy ra vào hạ bán niên năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3, bởi vì
đến tháng 3 năm sau Lý Thiên Tộ sinh, tức Lý Anh Tôn, có lẽ vì có tham dự vào việc đó nên dưới đây ta thấy nói tới chuyện mời
Viên Thông vào thọ cố mạng. Và việc thọ cố mạng như Lý Thần Tôn giao thì như Toàn thư B3 tờ 41 b2 42a3 đã bị tham tri chính
sự Từ Văn Thông cải mạng vì nhận hối lộ của “ba phu nhân”. Thực ra qua việc đi cầu giữ thai trên “ba phu nhân” đã biết cách tạo
dựng phe đảng cho mình và sự lên ngôi của Lý Thiên Tộ bằng cách kéo Viên Thông đi với mình. Cho nên không phải Từ Văn
Thông trách nhiệm trong việc cải mệnh đó thôi. Nó còn có Viên Thông dù một phần rất nhỏ đi nữa.
3
Nguyên văn: Cung xa yến giá. Hợp từ dùng trong truyện Phạm Huy của Sử kyù, mà Bùi Aân dẫn Ứng Thiệu và Vỹ Chiêu viết: “Ứng
Thiệu nói: “Thiên tử phải ban sáng dậy làm việc sớm, như vừa băng hà, nên gọi nghỉ xe”. Vỹ Chiếu nói: “Hễ vừa mới băng hà thì
là muộn giá, vì lòng thần tử còn muốn nghỉ xe vua đang buộc ngựa nên ra muộn”. Xem Sử kyù 79 tờ 9b 13 – 10a1.
4
Nguyên văn: Cập phụng di chiếu vương mạc hiến phó thác đẳng sự. Câu đấy có 3 chữ Vương mạc hiến thật là khó hiểu. Chúng tôi
thấy có một số cách hiểu chúng. Thứ nhất, chúng tôi coi chữ Vương có khả năng là một khắc thiếu nét của chữ chủ. Coi chữ hiến
có thể là một khắc sai của chữ du. Thứ hai, vì chữ mạc và du đều có nghĩa tính toán, xắp xếp, mưu tính. Nên cả câu Vương mạc
hiến phó thác đẳng sự có thể đọc dịch thành “Chủ mạc du phó thác đẳng sự” với nghĩa “chủ trì mọi việc sắp xếp phó thác”. Ý nói
Viên Thông nhận di chiếu của Thần Tôn về nên sắp xếp việc gửi gắm Hoàng tử lên kế vị cho Viên Thông chủ trì.
5
Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân đời Lê, mẹ của Lý Anh Tôn. Việc Lê phu nhân khen thưởng Viên Thông tất cũng không có
gì là lạ hết, như ta đã thấy ở chú thích (7) trên. Nhưng điều đáng lạ là không thấy sử sách nào khác ghi lại cả. Ngay cả việc “nhận
cố mạng và phụng di chiếu” cũng không thấy ghi.
6
Nguyên văn: Thái hậu xưng chế, Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân họ Lê, mẹ Lý Anh Tôn. Còn xưng chế là một từ dùng chỉ
cho việc nhiếp chính thay vua, Bản kỷ của Lữ Cao Hậu trong Tiền Hán thư nói: “Thái hậu lâm triều xưng chế”. Nhan Sư Cổ giải
thích: “Lời nói của Thiên tử, một gọi là chế thư, hai gọi là chiếu thư. Chế thư tức là những mệnh lệnh về chế độ, chẳng phải chỗ
Hoàng hậu có thể có được. Nay Lữ thái hậu lâm triều làm việc Thiên tử quyết đoán mọi sự, nên xưng chế chiếu”. Xem Tiền Hán
thư 3 tờ 1a9-11. Việc nhiếp chính của Lê Thái hậu, tuy cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi rõ, nhưng khi viết về vụ triều
biến năm 1148, Đại Việt sử lược 3 tờ 4a3-5 đã nói: “Nguyên trước, khi vua còn nhỏ dại, việc triều chính, không kể lớn nhỏ, đều
giao cho (Đỗ) Anh Vũ, mà Anh Vũ lại tư thông với Thái hậu, nên càng trở nên kiêu ngạo phóng túng. Ở triều thì vung tay lớn tiếng
sai quan lại thì nhếch mép truyền hơi, mọi người đều nghé mắt, không dám nói”. Ta cũng đủ rõ Lê thái hậu nhiếp chính như thế
nào. Cũng cần thêm là, Lý Anh Tôn lúc lên ngôi mới có 3 tuổi. 150 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Năm Đại Định thứ 4 (1143) Vua thăng Sư giữ chức tả hữu nhai Tăng thống nội cung phụng tri
giáo môn công sự truyền giảng Tam tạng văn chương ứng chế hộ quốc quốc sư tứ tử y đại sa môn. Đức
vua đã trọng Sư, nên quần thần càng trọng vọng hơn nữa. Từ triều đình đến thôn dã cũng đều như thế.
Ngày 21 tháng 4 nhuần năm Tân mùi Đại Định (1151), Sư nhóm đồ chúng từ biệt, không bệnh
mà mất, thọ 72 tuổi. Sư thường phụng chiếu biên soạn Chư Phật tích duyên sự3
hơn 30 quyển4
, Hồng
chung văn bi ký, Tăng gia tạp lục hơn 50 quyển (14) và thi phú hơn nghìn bài5
lưu hành ở đời.

1
Nguyên văn: tam thôn chi phí. Chúng tôi nghĩ chữ thôn là một chép sai của chữ tài, nên trong hiệu bản chúng tôi đã sửa tam thôn
chi phí thành tam tài chi phí và dịch thành phí tổn ăn uống”. Lý do việc sửa và dịch ấy là như thế này. Thiên Bản vị của Lã thị
xuân thu có chữ “ngũ vị tam tài”. Cao Dụ chua rằng: “Năm mùi là mặn, đắng, chua, cay và ngọt, tam tài là nước, củi và lửa”. Xem
Lã thị xuân thu 14 tờ 4b11-12 Tam tài chi phí do thế có nghĩa là “phí tổn về nước, củi và lửa” tức là phí tổn về việc ăn uống tiêu
dùng hàng ngày tức tổn phí xây dựng.
2
Nguyên văn: Thần du, chữ du ở đây nghi là một nét sai của chữ hàn vì dạng chữ chúng khá giống nhau. Thần hàn như vậy có
nghĩa là (chữ do bút vua viết). Điều này có nghĩa chùa của Viên Thông có được ngự bút của Anh Tôn, để thêm sang quí.
3
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn nói: “Chư Phật tích duyên sự, 30 quyển, thầy Bảo Giác soạn theo lịnh của Lý Nhân Tôn”. Đương
nhiên, Chư phật tích duyên sự không phải của Bảo Giác, mà là của Viên Thông. Bảo Giác là cha của Viên Thông. Ta không hiểu tại
sao Lê Quí Đôn lại có thể chép sai như thế. Phải chăng Đôn đã dùng một bản thư tịch thiết lập từ trước? Đây là một có thể, bởi
Đôn có ghi thêm là Chư Phật tích duyên sự là soạn theo lịnh của Lý Nhân Tôn, một việc Thiền uyển tập anh không nói tới. Văn
tịch chí của Phan Huy Chú không thấy ghi tác phẩm này.
4
Nghệ văn chí ghi: “Tăng gia tạp lục 50 quyển, thầy Bảo Giác soạn” Văn tịch chí có ghi tác phẩm này, nhưng không nói tác giả là
ai.
5
Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: “Viên Thông tập, 2 quyển thầy Bảo Giác soạn. Bảo Giác người Cổ hiền”. Viên Thông tập tức
không phải của Bảo Giác mà là của Viên Thông. Xem chú thích (9) trên. 151 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Mười Chín – Hai Mươi
(1 ng ư ờ i khuy ế t l ụ c)
68. THIỀN SƯ Y Sơn (? – 1216)
(70b1) Chùa Đại từ, Đại thông trường, Long phúc1
. Người Cẩm hương, Nghệ an2
, họ Nguyễn, Sư
mặt mày đẹp đẽ, ăn nói hoạt bát, Thuở nhỏ đi học, coi khắp thư sử, chọn bạn, lựa nghề tất nhằm hữu
ích. Nhưng đối với kinh điển Tây trúc, Sư hết sức lưu tâm. Năm 30 tuổi sư xuất gia với một vị Trưởng lão
trong làng, sau đến kinh thành tham bái Quốc sư Viên Thông, nhờ một lời nói, đạt được yếu chỉ.
Từ đấy, Sư tùy nơi đi giáo hóa, chỉ nhằm lợi người. Vật do người cúng Sư đều dùng vào việc
Phật. Sư có làm bài văn khuyên người:
Ham danh chuộng lợi
Đều như bọt nước trôi sông
Kết phúc gieo duyên
Ấy là trong lòng hoài bão.

1 Đại thông được nhiều sách sử ghi lại. Đại Việt sử lược 3 tờ 20a4-5 ghi nó như một tên châu và một bến đò. Toàn thư B4 tờ 6b1
nói nó là tên một trấn. Lĩnh ngoại đại đáp 2 tờ 16 bảo nó là tên một phủ. Nhưng không thấy nơi nào ghi Đại thông trường cả. Với
chữ trường đi sau nó, Đại thông đây chắc phải liên hệ với một cửa sông hay một của bể bởi vì ta thấy những địa danh thời Lý có
chữ trường theo sau thường chỉ liên hệ đó. Chẳng hạn Toàn thư B3 tờ 291 nói: “Năm Thiên Thuận thứ nhất (1128) mùa xuân
tháng giêng ngày Mậu thân Quang lang trường dâng chín chiếc thuyền của thương gia người Tống dạt tới”. Quang lang trường
đây dĩ nhiên không phải ở Lạng sơn mà là ở cạnh cửa bể Liêm hộ, huyện Thụy anh, tỉnh Thái bình. Bắc thành địa dư chí lục 4 có
ghi một làng Quang lang thuộc huyện Thụy anh, trấn Sơn nam hạ.
Từ đó, Đại thông trường chắc phải liên hệ với bến đò Đại thông và châu Đại thông do Đại Việt sử lược nói tới. Bến đò Đại
thông hay Đại thông bộ được Đại Việt sử lược 3 nhắc nhiều lần như ở tờ 21a1, 22a2, 25a2 v.v…Nhưng đặc biệt có hai lần, mà ta
cần chú ý. Một ở tờ 25a3 nói: “Năm Kiến Gia thứ 3 (1213) mùa xuân tháng giêng ngày Tân dậu (Trần) Tự Khánh, dẫn quân vào
trong cấm thành, đốt cầu Ngoạn thiền, rồi dẫn quân về bến Đại thông”. Và một ở tờ 28a4 viết: “Năm Kiến Gia thứ 4 (1213) mùa
hạ tháng 4 Tự Khánh đóng quân ở bến Đại thông, xây lũy ở Nghĩa trú”. Như vậy một mặt bến Đại thông phải cách thủ đô Hà nội
không xa lắm. Mặt khác nó phải ở gần địa điểm Nghĩa trú, để Tự Khánh có thể chỉ huy việc xây lũy. Mà Nghĩa trú hiện nằm tại
huyện Mỹ hà, tỉnh Hưng yên hiện nay. Như vậy bến Đại thông chắc nằm khoảng ranh giới huyện Gia lâm với huyện Văn giang, có
thể chính tại xã Xuân lâm, huyện Văn giang, nơi những thượng lưu của sông Nghĩa trú tập họp lại để chảy xuống sông Kinh cầu.
Từ đó, Đại thông trường tất phải bao gồm xã Xuân lâm cũng như một vài xã khác quanh vùng tại huyện Văn giang.
Một khi đã xác định Đại thông trường như thế, thì châu Đại thông chắc phải là một bãi đất lồi tại Đại thông trường. Đại
Việt sử lược 3 tờ 28a5 nói: “Tháng tư năm Kiến Gia thứ 4 (1213) Trần Tự Khánh giết Phan Lân ở châu Đại thông trong khi đang ở
bến Đại Thông xây lũy Nghĩa trú, vì Lân muốn liên kết với Nguyễn Nộn. Nhưng trước đó, vào tháng giêng năm đó, Khánh giao cho
Lân giữ Siêu loại. Do vậy, châu Đại thông hẳn phải ở vùng bến Đại thông và không xa Siêu loại bao nhiêu.
Kết luận đấy hoàn toàn tỏ ra đúng đắn, khi truyện Y Sơn đây nói Đại thông trường thuộc Long phúc, mà truyện Đạo lâm
tờ 66b3 lại nói Long phúc có làng Siêu loại. Từ đó, Long phúc chắc là tên một quận đời Lý và địa phận nó gồm một phần huyện
Siêu loại và một phần huyện Văn giang, tỉnh Bắc ninh đời Nguyễn, tức một phần huyện Thuận thành, tỉnh Bắc ninh và phần đất
phía bắc huyện Văn giang, tỉnh Hưng yên ngày nay.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng Thích nói: “Thiền sư Y Sơn, người huyện Gia lâm, nhỏ thông kinh sử, lại càng
giỏi cả sách Phật, có chí lớn, làm lợi người, đến khi thị tịch, hoa cỏ chim muông đều bi cảm”. Rồi chua thêm là: “Nói rõ trong An
nam chí, về thế đại của Thiền sư chưa thể khảo được”.
An nam chí mà lời chua nói đến, là tác phẩm của Cao Hùng Trưng, mà bản in ngày nay gọi là An nam chí nguyên do một
lầm lẫn. Khảo An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì những ghi chú trên của Đại nam nhất thống chí về Y Sơn quả đã rút ra từ đấy. Đến
lượt mình, An nam chí nguyên 3 tờ 208 nói là mình đã rút tài liệu từ “Cựu chí” và quan báo các nơi cùng tương truyền của các phụ
lão mà những bản hiện còn như An nam chí lược và Việt kiều thư không thấy sách nào nói đến Y Sơn cả. Phải chăng nó đã lấy từ
những bản đã mất như Giao châu thông chí hay Các châu huyện chí v.v…? Dẫu rút từ đâu đi nữa, thì những ghi chú trên về Y Sơn
cuối cùng cũng phải rút ra từ Thiền uyển tập anh, bởi vì văn cú giữa chúng và những chi tiết đều giống nhau. Nếu vậy, tại sao
những ghi chú ấy lại có thể bảo Y Sơn là “người huyện Gia lâm?” đây là vì Sơn hoạt động chính ở Gia lâm. 152 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Đến lúc tuổi già, Sư dời về làng Yên lãng1
trụ trì chùa Nam mô, thường dạy đồ chúng rằng: “Các
ngươi nên biết, Như Lai thành Chánh giác, đối với tất cả nghĩa lý, không còn có chỗ xem xét. Đối với các
pháp bình đẳng, không có gì nghi hoặc, không hai, không tướng, không đi, không đứng, không lường,
không hạn, xa lìa hai bên, ở nơi trung đạo, vượt khỏi hết thảy văn tự, ngôn thuyết, truyền được thân
lượng bằng hết thảy chúng sanh, được thân lượng bằng hết thảy mọi cõi, được thân lượng bằng hết thảy
tam giới, được thân lượng bằng hết thảy Phật, được thân bằng hết thảy ngôn ngữ, được thân lượng
bằng hết thảy nguyện, được thân lượng bằng hết thảy hành, được thân lượng bằng hết thảy tịch diệt”2
.
Lại nói rằng:
“Như Lai thành chánh giác
Hết thảy lượng đẳng thân
Hồi hổ không hồi hổ3
Đồng tử mắt sáng thần”
Lại nói:
“Chân thân thành vạn tượng
Vạn tượng tức chân thân
Cung trăng xanh quế đỏ
Quế đỏ tại cung trăng”.
Khi sắp thị tịch, Sư gọi môn đồ dạy: “Ta không trở lại đây nữa”. Bấy giờ, hoa trên cây trước chùa tự
nhiên rơi rụng, chim sẻ kêu bi thương suốt ba tuần không dứt.
Ngày 18 tháng 3 năm Bính tý Kiến Gia thứ 64
(1216) Sư mất.

1
Làng Yên lãng này nghi là làng Yên lãng quê mẹ của Từ Đạo Hạnh, tức nay là làng Láng ở phía tây ngoại thành thủ đô Hà nội.
Xem chú thích (3) truyện Đạo Hạnh. Làng này hiện có chùa Chiêu thiền, nơi thờ Đạo Hạnh và Lý Thần Tôn, mà Đại nam nhất
thống chí, tỉnh Hà nội, mục Tự quán, nói tới chùa đấy, Bắc thành địa dư chí lục 1 gọi là chùa Yên lãng. Nhưng chưa thấy tài liệu
nào, ghi hay nói làng Yên lãng đấy có chùa Nam mô. Phải chăng làng Yên lãng đây là Yên lãng thuộc huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh
phúc ngày nay? Chúng tôi hiện chưa biết làng đấy có một ngôi chùa nào tên Nam mô?
2 Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 274c29-275a17: “Phật tử bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thành chánh giác ư nhất
thiết nghĩa, vô sở quán sát, ư pháp bình đẳng, vô sở nghi hoặc, vô nhị vô tướng, vô hành vô chỉ, vô lượng vô tế, vin ly nhị biên,
trú ư trung đạo, xuất quá nhất thiết văn tự ngôn thuyết (… ), đắc nhất thiết chúng sanh lượng đẳng thân, đắc nhất thiết tam thế
lượng đẳng thân, đắc nhất thiết Phật lượng đẳng thân, đắc nhất thiết ngữ ngôn lượng đẳng thân, đắc chân như lượng đẳng thân,
đắc pháp giới lượng đẳng thân, đắc hư không giới lượng đẳng thân, đắc vô ngại giới lượng đẳng thân, đắc nhất thiết nguyện
lượng đẳng thân, đắc nhất thiết hành lượng đẳng thân, đắc tịch diệt Niết bàn giới lượng đẳng thân”.
3
Hồi hộ bất hồi hộ. Xem Thạch đầu tam đồng khế trong Nhân thiên nhãn mục 5 tờ 327a19.
4
Nguyên văn: Kiến Gia tam niên Bính tý. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 24b9 và Toàn thư B4 tờ 30b6 thì Kiến Gia tam niên là năm
Quí dậu, chứ không phải năm Bính tý. Bính tý thì phải là Kiến Gia lục niên, như Đại Việt sử lược và Toàn thư đã có. Chúng tôi
nghĩ, chữ tam là một viết lộn của chữ lục, một việc rất dễ xảy ra, và đề nghị sửa lại thành Kiến gia lục niên, như bản dịch đã có. 153 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
[71b1]
Hệ Phái của Thiền S ư Thảo Đường
69. THIỀN SƯ Thảo Đường1
Chùa Khai quốc2
, kinh thành Thăng long. (Truyền tôn phái của Tuyết Đậu Minh Giác3
}
Thế Hệ Thứ Nhất (3 ng ư ờ i)
70. HOÀNG ĐẾ Lý Thánh Tôn
71. THIỀN SƯ Bát Nhã4
Chùa Từ quang, Phúc khánh5
Làng Dịch vương, Trương canh6
.
72. CƯ SĨ Ngộ Xá
Làng Bảo tài1
, Long chương {Ba vị trên đều thừa kế Thiền sư Thảo Đường}

1 An nam chí lược 15 tờ 147 viết: “Thảo Đường theo Sư phụ đến sống khách ở Chiêm thành. Xưa Lý Thánh Vương đi đánh Chiêm
thành, bắt được, đem cho vị Tăng lục làm đứa ở. Vị Tăng lục viết Ngữ lục, để trên bàn mà đi, Sư lén sửa lại. Vị Tăng lục lấy làm lạ
về đứa ở, đem tâu vua. Vua bèn phong làm Quốc sư”.
An nam chí nguyên 3 tờ 209 viết: “Thiền sư Thảo Đường, rất có đạo hạnh, biết rành sách Phật, vua Lý tôn làm thầy, sau
ngồi thẳng mà mất”. Vua Lý đây tức Lý Thánh Vương của An nam chí lược mà Lý Thánh Vương đấy tức Lý Thánh Tôn. Cứ Đại Việt
sử lược 2 tờ 13b3-14a8 và Toàn thư B3 tờ 4b7-5a2 thì suốt đời mình Lý Thánh Tôn chỉ đi chinh phạt Chiêm thành một lần vào
năm Thần Vũ thứ nhất (1069). Việc bắt được Thảo Đường chắc chắn xảy ra vào năm đó. Còn Thảo Đường được phong làm Quốc
sư có lẽ vào năm 1070, hay cùng lắm là năm 1071, bởi vì đầu năm 1072, tức tháng giêng năm Thần Vũ thứ 4, Lý Thánh Tôn bị
bệnh nặng rồi mất luôn. Vị Tăng lục, ngày nay ta chưa biết đích xác là ai. Rất có thể là Huệ Sinh, lúc bấy giờ đã làm Tăng Thống
và theo Việt điện u linh tập, đã có tham dự vào cuộc viễn chinh Chiêm thành ấy.
Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b10 viết Thiền sư Thảo Đường rất có đạo hạnh, tinh thông kinh điển, Vua Lý tôn
làm thầy, sau ngồi kiết già mà mất”. Tây hồ chí, tập Tự am, dưới mục chùa Khai quốc và chùa Vạn niên, nói Thảo Đường họ Lý,
và nơi cư trú của Đường không phải chỉ có chùa khai quốc, mà có cả chùa Vạn tuế, tức Vạn niên nữa.
2
Về chùa Khai quốc, xem chú thích (1) truyện Vân Phong.
3
Tức Thiền sư Trùng Hiển (980 – 1052) núi Tuyết đậu tại châu Ninh, Trung Quốc, đệ tử của Trí Môn Quang Tộ thuộc phái Vân môn.
Xem Tục Truyền đăng lục 2 tờ 475a9-476a25 và Tuyết đậu minh giác ngữ lục.
4
Tức Nguyễn Bát Nhã, đại diện cho thiền phái Thảo Đường, mà Quách Thần Nghi khi xem xong Chiếu đối bản của Thông Biện và
Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu đã hỏi Chiếu: “Sao không thấy nói tới hai phái Nguyễn Đại Điên và Nguyễn Bát Nhã?”
Chiếu trả lời: “Aét Thông Biện có một ức ý nào đó”.
5
Chùa Từ quang, Phúc thánh này rất có thể là chùa Phúc thánh mà Toàn thư B4 tờ 5b4 nói là dựng vào năm Đại Định thứ 5, tức
năm 1154, cùng với chùa Vĩnh long.
6
Tức huyện Đan phụng, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Dịch vương, sau này gọi là Dịch vọng của Hà nội ngày nay. 154 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Hai (4 ng ư ờ i )
73. THAM CHÁNH Ngô Ích
{Thừa kế Hoàng đế Thánh Tôn}
74. THIỀN SƯ Hoàng Minh
Làng An lãng2
, Vĩnh hưng {Thừa kế Thiền sư Bát Nhã}
75. THIỀN SƯ Không Lộ
Chùa Quang nghiêm, Hải thanh3
(72a1)
76. THIỀN SƯ Định Giác {Tức Giác Hải}
Hai vị trên đều thừa kế Ngộ Xá, bản truyện của họ dựa theo Nam tôn đồ, đều đặt vào phái Kiến
sơ.

1
Làng Bảo tài cũng như Long chương, hiện chưa có thể khảo được.
2
Làng Yên lãng đây nghi làng Yên lãng hay làng Láng tại ngoại thành Hà nội, quê của mẹ Từ Đạo Hạnh. Xem chú thích (3) truyện
Đạo Hạnh. Nhưng Toàn thư B2 tờ 20b1-2 viết: “Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) mùa đông tháng mười được mùa lớn, vua đi xem
gặt ở ruộng Ô lộ, đổi tên ruộng là Vĩnh hưng. Ngày đó vua về cung”. Cương mục chính biên 2 tờ 35b6 chú rằng: “Ô lộ, Vĩnh hưng,
chưa rõ đích xác chỗ nào. Xét huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên, nghi là đó”. Khảo Bắc thành địa dư chí lục 3 về những tên xã của
tổng Vĩnh hưng cũng như của huyện Đông yên, ta không thấy có xã thôn nào tên Yên lãng cả, tuy có những tổng xã mang tên
Yên cảnh, Yên lịch, Yên vĩ, Yên viên. Do thế không phải là không có thể làng Yên lãng của Vĩnh hưng ở tại vùng huyện Đông yên,
tỉnh Hưng yên đấy. Thêm vào, truyện Cửu Chỉ nói núi Long đội ở Yên lãng. Như vậy, làng Yên lãng đời Lý có thể gồm cả phần đất
phía đông của huyện Duy tiên, Hà nam nữa.
3
Tức chùa Thần quang hay chùa Keo tại xã Dũng nghĩa, huyện Giao chỉ, tỉnh Thái bình. Xem chú thích (1) truyện Không Lộ. 155 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
Thế Hệ Thứ Ba (4 ng ư ờ i )
77. THÁI PHÓ Đỗ Vũ 1

{Thừa kế Tham chánh hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác}
78. THIỀN SƯ Phạm Âm
Làng Thanh oai2
, An la {Thừa kế Thiệu Minh3
}
79. HOÀNG ĐẾ Lý Anh Tôn
80. THIỀN SƯ Đỗ Đô
Hai vị trên đều thừa kế Không Lộ hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.
Thế Hệ Thứ Tư (4 ng ư ờ i )
81. THIỀN SƯ Trương Tam Tạng
{Thừa kế Phạm Âm có nơi nói thừa kế Không Lộ, hoặc có nơi nói thừa kế Định Giác.

1
Có thể là Đỗ Anh Vũ (? – 1158), Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 3a4 thì năm Thiệu Minh thứ 3 (1139) Đỗ Anh Vũ đã giữ chức Thái
uý. Theo Toàn thư B4 tờ 1b1 thì năm sau, tức năm Đại Định thứ nhất (1140) “lấy Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lịnh trị nội ngoại sự”,
nhưng không bao giờ thấy nó ghi thêm một tước gì cho Đỗ Anh Vũ cả. Dẫu thế, việc Đỗ Anh Vũ giữ chức Thái uý khoảng từ năm
1139 trở đi là một chắc chắn. Và cứ An nam chí lược 14 tờ 133 thì Thái úy phải là chức trên Thái phó. Do thế, chưa chắc Thái phó
Đỗ Vũ là Thái uý Đỗ Anh Vũ.
2
Tức địa phận tỉnh Thanh oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Làng Thanh oai này, chúng tôi nghi là tương đương với làng Trung thanh oai
do Bắc thành địa dư chí lục 3 liệt ra, bởi vì, làng đấy lúc bấy giờ có ba thôn, trong đó hai thôn mang tên Xa la và An xá. An xá và
Xa la đây chắc là một phân xã của tên An la. Có thể An xá và Xa la thời Lý là phủ trị của An la, và chúng là một chứng tích cho sự
có mặt đó.
3
Thiệu Minh đây nghi là Hoằng Minh chép sai. 156 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
82. THIỀN SƯ Chân Huyền
83. THÁI PHÓ Đỗ Thường1

{Ba vị trên đều thừa kế Đỗ Đô hoặc có nơi nói thừa kế Thiền sư Tịnh Giới phái Kiến sơ2
Thế Hệ Thứ Năm (4 ng ư ờ i )
(72b1)
84. THIỀN SƯ Hải Tịnh3
85. HOÀNG ĐẾ Lý Cao
86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP Nguyễn Thức
{ba vị trên đều thừa kế Trương Tam Tạng}
87. Phụng Ngự Phạm Đẳng
{Thừa kế Chân Huyền, hoặc lại nói thừa kế Đỗ Thái phó}

1 Đại Việt sử lược 3 tờ 24a6 nói trong lần lánh nạn năm 1112, Lý Huệ Tôn “đã đến nhà của Đại liêu ban Đỗ Thường ở Đông ngạn”.
Đại liêu ban dĩ nhiên là một tên gọi khác của Thái phó. Do sắc lịnh năm Đại định thứ 20 (1159) của Lý Anh Tôn thiết định, mà Đại
Việt sử lược 3 tờ 6b3 đã ghi lại. Do đó Đại liêu ban Đỗ Thường cũng là Thái phó Đỗ Thường. Chỉ có vấn đề là chữ thường của Đại
liêu ban Đỗ Thường, thông thường thì vẫn có thể đọc như chữ thường, nhưng cũng có thể đọc thành chữ thưởng. Vì vậy, Đại liêu
ban Đỗ Thường rất có thể là Đại liêu ban Đỗ Thưởng chứ không phải Thái phó Đỗ Thường. Dầu sao đi nữa, chúng tôi vẫn nghĩ
Đại liêu ban Đỗ Thường hay Thưởng là Thái phó Đỗ Thường ở đây. Thế hệ này, nguyên bản ghi có bốn người, nhưng chỉ liệt kê
tên của ba người
2
Nguyên văn: Tự Kiến sơ Tịnh … thiền sư. Như vậy ta chỉ biết “nối dõi Thiền sư Tịnh… của phái Kiến sơ”. Chúng tôi ghi thêm là
Tịnh Giới, bởi nghĩ rằng thế hệ của Đỗ Thường còn có những người như Trương Tam Tạng được coi là đệ tử của Định Giác, tức
Giác Hải của phái Kiến sơ. Cho nên nếu bảo Thường là một đệ tử của một Tịnh gì đấy của phái Kiến sơ thì có lẽ không sai mấy khi
ta đi tìm trong thế hệ của Giác Hải có một người nào tên Tịnh gì đấy không. Nhưng thế hệ Giác Hải có đến ba người có tên bắt
đầu bằng chữ Tịnh, đấy là Tịnh Không(1091-1170), Tịnh Lực (1112 – 1175) và Tịnh Giới (1140?- 1207). Chúng tôi chọn Tịnh Giới,
không những vì Giới có một đời sống phù phép không kém gì Không Lộ và Giác Hải, mà còn vì truyện Tịnh Giới nói “Có nơi nói
Giới ở chùa Quốc thanh, Hải thanh”, nghĩa là Giới đến từ một chùa và một vùng với Không Lộ và Giác Hải.
3 Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b5-6 dưới mục Tuyết đậu truyền pháp, viết: “Kinh đô Thăng long, chùa Khai quốc Đại sư
Thảo Đường, từ đó truyền tôn phái Tuyết đậu làm đời thứ nhất. Đời thứ hai truyền cho Bát Nhã. Đời thứ ba truyền cho Hoằng
Minh. Đời thứ tư truyền cho cho bốn vị tổ, danh hiệu chưa rõ. Đời thứ năm truyền cho Chân Huyền. Đời thứ sáu truyền cho Hải
Tịnh”.
Nói như thế, chứng tỏ rằng khi An Thiền viết và in xong Đạo giáo nguyên lưu khoảng năm 1845, ông chưa có “Cựu bản
chùa Tiêu sơn” của Thiền uyển tập anh, mà sau này vào năm 1859 ông đã in thành quyển thượng của bộ Đại nam Thiền uyển
truyền đăng của ông. Thế thứ lưu truyền của phái Thảo Đường do ông liệt, do thế có thể rút từ những tài liệu khác với Thiền uyển
tập anh ở đây và vì vậy có một giá trị kiểm chứng nào đó. 157 Thiền Uyển Tập Anh – Quyển Hạ
THIỀN UYỂN TẬP ANH XONG
QUYỂN Hạ

CHINH PHỤ NGÂM

Chinh Phụ Ngâm
Bản Dịch: Đoàn Thị Điểm (1705-1748)
Hán Văn: Đặng Trần Côn (1715-1745)

1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

2- Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

3- Xanh kia thăm thẳm tầng trên

4- Vì ai gây dựng cho nên nỗi này

5- Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt

6- Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây

7- Chín tầng gươm báu trao tay

8- Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh

9- Nước thanh bình ba trăm năm cũ

10- áo nhung trao quan vũ từ đây

11- Sứ trời sớm giục đường mây

12- Phép công là trọng, niềm tây sá nào

13- Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn

14- Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa

15- Bóng cờ tiếng trống xa xa

16- Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng

17- Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt

18- Xếp bút nghiên theo việc đao cung

19- Thành liền mong tiến bệ rồng

20- Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời

21- Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

22- Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

23- Giã nhà đeo bức chiến bào

24- Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu

25- Ngòi đầu cầu nước trong như lọc

26- Đường bên cầu cỏ mọc còn non

27- Đưa chàng lòng dặc dặc buồn

28- Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền

29- Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa

30- Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên

31- Nhủ rồi tay lại trao liền

32- Bước đi một bước lại vin áo chàng

33- Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi

34- Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San

35- Múa gươm rượu tiễn chưa tàn

36- Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo

37- Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử

38- Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba

39- áo chàng đỏ tựa ráng pha

40- Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

41- Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống

42- Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay

43- Hà Lương chia rẽ đường này

44- Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi

45- Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu

46- Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương

47- Quân đưa chàng ruổi lên đường

48- Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ?

49- Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng

50- Hàng cờ bay trong bóng phất phơ

51- Dấu chàng theo lớp mây đưa

52- Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà

53- Chàng thì đi cõi xa mưa gió

54- Thiếp lại về buồng cũ gối chăn

55- Đoái trông theo đã cách ngăn

56- Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh

57- Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại

58- Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

59- Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

60- Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

61- Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

62- Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

63- Ngàn dâu xanh ngắt một màu

64- Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?

65- Chàng từ đi vào nơi gió cát

66- Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?

67- Xưa nay chiến địa dường bao

68- Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu

69- Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn

70- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon

71- Ôm yên, gối trống đã chồn

72- Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh

73- Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại

74- Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua

75- Hình khe, thế núi gần xa

76- Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao

77- Sương đầu núi buổi chiều như giội

78- Nước lòng khe nẻo suối còn sâu

79- Não người áo giáp bấy lâu

80- Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây

81- Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ

82- Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?

83- Tưởng chàng giong ruổi mấy niên

84- Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan

85- Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ

86- Lại lạnh lùng những chỗ sương phong

87- Lên cao trông thức mây lồng

88- Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !

89- Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo

90- Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?

91- Những người chinh chiến bấy lâu

92- Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây

93- Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước

94- Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?

95- Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo

96- Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò

97- Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

98- Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

99- Chinh phu tử sĩ mấy người

100- Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ?

101- Dấu binh lửa, nước non như cũ

102- Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương

103- Phận trai già cõi chiến trường

104- Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về

105- Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ

106- Ba thước gươm, một cỗ nhung yên

107- Xông pha gió bãi trăng ngàn

108- Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành

109- áng công danh trăm đường rộn rã

110- Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi

111- Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai

112- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây

113- Trong cửa này đã đành phận thiếp

114- Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?

115- Những mong cá nước sum vầy

116- Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời

117- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ

118- Chàng há từng học lũ vương tôn

119- Cớ sao cách trở nước non

120- Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu

121- Khách phong lưu đương chừng niên thiếu

122- Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên

123- Nỡ nào đôi lứa thiếu niên

124- Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành

125- Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu

126- Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca

127- Nay quyên đã giục, oanh già

128- ý nhi lại gáy trước nhà líu lo

129- Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió

130- Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông

131- Nay đào đã quyến gió Đông

132- Phù dung lại đã bên sông bơ sờ

133- Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy

134- Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?

135- Ngập ngừng, lá rụng cành trâm

136- Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao

137- Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ

138- Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?

139- Ngập ngừng gió thổi chéo bào

140- Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông

141- Tin thường lại, người không thấy lại

142- Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh

143- Rêu xanh mấy lớp chung quanh

144- Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ

145- Thư thường tới, người không thấy tới

146- Bức rèm thưa lần dãi bóng dương

147- Bóng dương mấy buổi xuyên ngang

148- Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai

149- Thử tính lại diễn khơi ngày ấy

150- Tiền sen này đã nẩy là ba

151- Xót người lần lữa ải xa

152- Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài

153- Tình gia thất nào ai chẳng có

154- Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương

155- Mẹ già phơ phất mái sương

156- Con thơ măng sữa, vả đương phù trì

157- Lòng lão thân buồn khi tựa cửa

158- Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm

159- Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam

160- Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân

161- Nay một thân nuôi già dạy trẻ

162- Nỗi quan hoài mang mể biết bao !

163- Nhớ chàng trải mấy sương sao

164- Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư

165- Kể năm đã ba tư cách diễn

166- Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang

167- Ước gì gần gũi tấc gang

168- Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay

169- Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá

170- Gương lầu Tần dấu đã soi chung

171- Cậy ai mà gửi tới cùng ?

172- Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư

173- Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía

174- Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi

175- Cậy ai mà gửi tới nơi

176- Để chàng trân trọng dấu người tương thân ?

177- Trải mấy thu, tin đi tin lại

178- Tới xuân này tin hãy vắng không

179- Thấy nhàn, luống tưởng thư phong

180- Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng

181- Gió tây nổi không đường hồng tiện

182- Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa

183- Màn mưa trướng tuyết xông pha

184- Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài

185- Đề chữ gấm, phong thôi lại mở

186- Gieo bói tiền tin dở còn ngờ

187- Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ

188- Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai

189- Há như ai, hồn say bóng lẫn

190- Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không

191- Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng

192- Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo

193- Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

194- Bức rèm thưa rủ thác đòi phen

195- Ngoài rèm thước chẳng mách tin

196- Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

197- Đèn có biết, dường bằng chẳng biết

198- Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

199- Buồn rầu nói chẳng nên lời

200- Hoa đèn kia với bóng người khá thương !

201- Gà eo óc gáy sương năm trống

202- Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên

203- Khắc giờ đằng đẵng như niên

204- Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa

205- Hương gượng đốt, hồn đà mê mải

206- Gương gượng soi, lệ lại chứa chan

207- Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

208- Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng

209- Lòng này gửi gió đông có tiện

210- Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

211- Non Yên dù chẳng tới miền

212- Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

213- Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

214- Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong

215- Cảnh buồn người thiết tha lòng

216- Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun

217- Sương như búa bổ mòn gốc liễu

218- Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô

219- Giọt sương phủ bụi chim gù

220- Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi

221- Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc

222- Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên

223- Lá màn lay ngọn gió xuyên

224- Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm

225- Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm

226- Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông

227- Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng

228- Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau

229- Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não

230- Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi

231- Biếng cầm kim, biếng đưa thoi

232- Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa

233- Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói

234- Sớm lại chiều, dòi dõi nương song

235- Nương song luống ngẩn ngơ lòng

236- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?

237- Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi

238- Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan

239- Khác gì ả Chức, chị Hằng

240- Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng

241- Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối

242- Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm

243- Mượn hoa, mượn rượu giải buồn

244- Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi

245- Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng

246- Ôm đàn tranh mấy phím rời tay

247- Xót người hành dịch bấy nay

248- Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi

249- Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt

250- Trống tiều khua, như đốt buồng gan

251- Võ vàng đổi khác dung nhan

252- Khuê ly mới biết tân toan dường này

253- Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ

254- Chua cay này, há có vì ai ?

255- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi

256- Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề

257- Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng

258- Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn

259- Duy còn hồn mộng được gần

260- Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người

261- Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ

262- Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa

263- Sum vầy mấy lúc tình cờ

264- Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân

265- Giận thiếp thân lại không bằng mộng

266- Được gần chàng bến Lũng, thành Quan

267- Khi mơ những tiếc khi tàn

268- Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !

269- Duy có một tấm lòng chẳng dứt

270- Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi

271- Lòng theo song chửa thấy người

272- Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe

273- Trông bến Nam, bãi che mặt nước

274- Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh

275- Nhà thôn mấy xóm chông chênh

276- Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm

277- Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách

278- Rườm rà xanh cây ngất núi non

279- Lúa thành thoi thóp bên cồn

280- Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu

281- Non Đông thấy lá hầu chất đống

282- Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai

283- Khói mù nghi ngút ngàn khơi

284- Con chim bạt gió lạc loài kêu thương

285- Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc

286- Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu

287- Ngàn thông chen chúc khóm lau

288- Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về

289- Trông bốn bề chân trời mặt đất

290- Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen

291- Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn

292- Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan ?

293- Gậy rút đất dễ khôn học chước

294- Khăn gieo cầu nào được thấy tiên

295- Lòng này hóa đá cũng nên

296- E không lệ ngọc mà lên trông lầu

297- Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu

298- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong

299- Chẳng hay muôn dặm ruổi giong

300- Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ?

301- Lòng chàng ví cũng bằng như thế

302- Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa

303- Hướng dương lòng thiếp như hoa

304- Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương

305- Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái

306- Hoa để vàng bởi tại bóng dương

307- Hoa vàng hoa rụng quanh tường

308- Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần

309- Chồi lan nọ trước sân đã hái

310- Ngọn tần kia bên bãi đưa hương

311- Sửa xiêm dạo bước tiền đường

312- Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ

313- Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ

314- Độ Khuê Triền buổi có buổi không

315- Thức mây đòi lúc nhạt hồng

316- Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài

317- Mặt trăng tỏ thường soi bên gối

318- Bừng mắt trông sương gội cành khô

319- Lạnh lùng thay, bấy nhiêu Thu

320- Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi

321- Một năm một nhạt mùi son phấn

322- Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi

323- Xưa sao hình ảnh chẳng rời

324- Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương

325- Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ

326- Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in

327- Gió Xuân ngày một vắng tin

328- Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì

329- Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy

330- Trước gió xuân vàng tía sánh nhau

331- Nọ thì ả Chức chàng Ngâu

332- Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông

333- Thương một kẻ phòng không luống giữ

334- Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau

335- Thoi đưa ngày tháng ruổi mau

336- Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh

337- Xuân thu để giận quanh ở dạ

338- Hợp ly đành buồn quá khi vui

339- Oán sầu nhiều nỗi tơi bời

340- Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân

341- Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước

342- E đến khi đầu bạc mà thương

343- Mặt hoa nọ gã Phan Lang

344- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng

345- Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở

346- Tiếc quang âm lần lữa gieo qua

347- Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa

348- Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng

349- Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt

350- Lầu hoa kia phảng phất mùi hương

351- Trách trời sao để nhỡ nhàng

352- Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên

353- Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội

354- Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương

355- Chẳng xem chim yến trên rường

356- Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau

357- Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh

358- Nọ loài chim chắp cánh cùng bay

359- Liễu, sen là thức cỏ cây

360- Đôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền

361- ấy loài vật tình duyên còn thế

362- Sao kiếp người nỡ để đấy đây ?

363- Thiếp xin về kiếp sau này

364- Như chim liền cánh, như cây liền cành

365- Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy

366- Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau

367- Thiếp xin: “Chàng chớ bạc đầu

368- Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”

369- Xin: “làm bóng theo cùng chàng vậy,

370- “Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên

371- “Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền

372- “Mọi bề trung hiều, thiếp xin vẹn tròn”

373- Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt

374- Sức tý dân dường sắt trơ trơ

375- Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi

376- ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn

377- Mũi đòng vác đòi lần hăm hở

378- Đã lòng trời gìn giữ người trung

379- Hộ chàng trăm trận nên công

380- Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài

381- Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải

382- Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh

383- Đỉnh non kia, đá đề danh

384- Triều thiên vào trước cung đình dâng công

385- Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch

386- Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen

387- Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền

388- Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân

389- Nền huân tướng nên công rạng vẻ

390- Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông

391- Ơn trên: tử ấm thê phong

392- Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời

393- Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ

394- Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương

395- Khi về đeo quả ấn vàng

396- Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao

397- Xin vì chàng xếp bào cởi giáp

398- Xin vì chàng giũ lớp phong sương

399- Vì chàng tay chuốc chén vàng

400- Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng

401- Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm

402- Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu

403- Câu vui đổi với câu sầu

404- Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời

405- Sẽ rót vơi lần lần từng chén

406- Sẽ ca dần ren rén từng thiên

407- Liên ngâm đối ẩm đòi phen

408- Cùng chàng lại kết mối duyên đến già

409- Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ

410- Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình

411- Ngâm nga mong gửi chữ tình

412- “Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !”.

CUNG OÁN NGÂM KHÚC

Cung oán ngâm khúc
Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán ngâm khúc
Văn học Việt Nam thế kỷ 18 đạt những thành tựu rực rỡ vì đã chứng kiến sự ra đời nhiều tác phẩm Nôm xuất sắc ở cả hai mặt: nội dung phản ánh thời đại sâu sắc và trình độ nghệ thuật điêu luyện. Một trong những tác giả có công lao đóng góp vào thành tựu ấy là Nguyễn Gia Thiều.

Thời đại Nguyễn Gia Thiều sống là thời đại có nhiều biến động. Loạn lạc, đói kém khắp nơi. Vua chúa quan lại ăn chơi trụy lạc, tranh chấp, loại trừ nhau. Dân nghèo bị đàn áp, bóc lột. Binh sĩ bỏ thây ở các chiến trường. Trong triều đình, ngoài thôn xóm, từ quý tộc đến bình dân đều cảm thấy hãi hùng, bế tắc. Sự lo lắng về thân phận con người mặc nhiên được đặt ra cho những ai có ý thức quan tâm đến hiện thực bất bình và vấn đề nhân đạo. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (có nhiều bản dịch) đã là một tiếng nói phản đối chiến tranh. Cung oán ngâm khúc góp thêm lời tố cáo cuộc sống chán chường mệt mỏi, bất bình vì những cay nghiệt: Cảnh phù du trông thấy mà đau!

Nguyễn Gia Thiều là con của quận chúa Quỳnh Liên. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại. Cha ông là một võ quan, được phong tước Đạt vũ hầu. Ông được lui tới trong phủ chúa, do đó được nhìn thấy tận mắt cảnh ngộ của những cung nữ bị bỏ rơi. Ông đã dùng lối văn độc thoại, làm lời một cung phi tài sắc trình bày tâm trạng và nỗi đau đớn bị vua ruồng bỏ. Người phụ nữ trong khúc ngâm đã lên tiếng. Nàng ý thức rõ rệt về phẩm chất, tài năng của mình, nàng tố cáo cuộc sống phè phỡn xa hoa của bọn vua chúa, biến người cung nữ thành thứ đồ chơi. Nàng miêu tả nỗi thê thảm trong cuộc sống cô đơn, tù túng. Từ sự phản ánh hiện thực với lòng phẫn nộ và sự oán hờn như vậy, nàng triết lý về cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng:

Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.

ở đây, Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà nho thời đại ông, chán chường và mệt mỏi.

Nghệ thuật Cung oán ngâm khúc về mặt cấu trúc cũng như về mặt ngôn từ đều sắc sảo. Không gian Cung oán ngâm khúc là không gian bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo. Thời gian Cung oán ngâm khúc chủ yếu là mùa thu và bóng đêm. Cảnh trong Cung oán ngâm khúc là cảnh lồng qua màn sương hồi ức và tưởng tượng. Đặc biệt, lối biểu hiện bằng cảm giác là cách viết độc đáo của Nguyễn Gia Thiều có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, rất tập trung và cô đọng. Những hình dung từ về xúc giác, thị giác, thích giác chọn lọc tài tình, bất ngờ mà đúng chỗ, đã gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Vần điệu song thất lục bát nhuần nhuyễn, phép đối ngẫu được tôn trọng chặt chẽ. Hơi văn, giọng văn réo rắt não nùng, thích hợp với nội dung và tâm trạng con người trong khúc ngâm.

Nguyễn Gia Thiều là một tài năng đa dạng. Ông thuộc gia đình quý tộc, xuất thân là quan võ. Năm 1782, ông giữ chức Tổng binh ở Hưng Hóa, phong tước Ôn Như hầu, nhưng ông lại xin thôi, về sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả đi tu (ông có hiệu là Như ý Thiền). Ông là một thi nhân mà cũng là một nhạc sĩ. Ông đã sáng tác các bản nhạc Sơn trung âm, Sở từ điệu. Ông vẽ đẹp, có bức tranh Tổng sơn đồ được vua Lê khen thưởng. Ông cũng am tường cả về kiến trúc, Tháp chùa Thiên Tích (Bắc Ninh) đã được xây dựng dưới sự điều khiển của ông. Quãng cuối đời, ông có được triều Tây Sơn mời ra cộng tác, nhưng đã chối từ, về sống ở quê nhà: làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) cho đến khi mất.

Vũ ngọc khánh
Tác Phẩm
Những tác phẩm còn để lại, về phần chữ nho có bộ Tiền Hậu Thi Tập, nhưng chưa tìm thấy, chỉ còn khẩu truyền một đôi bài. Về quốc âm thì còn Tây Hồ Thi Tập, Bộ Tứ Trai và Cung Oán Ngâm Khúc. Tiên sinh rất tinh nghề thanh nghệ luật (nghề làm thơ), đã dìu dắt phái thi học đời hậu Lê được lắm nhà thơ hay. Ở tập Chuyết thập tạp chí của ông Lý văn Phức chép truyện Ôn Như Hầu có nói rằng: “Nhất thị ứng khẩu thành tụng, ngữ ngữ khả nhân, nhất thị thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân”. Nghĩa là: một là ra lời nói thành câu thơ, lời lời thảy nghe được, hai là nghìn lần nhồi nặn, trăm lần nung luyện ra câu thơ, lời lời khiến người nghe phải sợ… tức là tiên sinh có tài nhanh chóng cũng hay và có công trau nắn càng hay.

Tài lành dễ đâu chôn lấp được, một thiên “Cung Oán Ngâm Khúc” nay còn truyền xa. Hai chữ Cung Oán là sự oán hờn nơi cung cấm của các cung phi, cung tần đã từng được vua yêu rồi lại bị ghét bỏ, vì lời gièm pha ghen tuông lẫn nhau; hoặc có người đã chọn mà suốt đời không được hạnh sủng, nên đã thốt ra nỗi oán hờn. Trải xem các đời từ xưa nơi cung cấm, cung nhân nhiều đến số ba bốn nghìn, mà trong số ấy thường chỉ có vài người được sủng ái, nên phần nhiều cung nhân có tài học tự làm ra lời cung oán, hoặc các nhà thơ đặt ra lời cung oán, mượn thân phận của cung nữ mà tỷ nghĩ thân phận mình, cũng đề là cung oán. Về sau hai chữ “Cung Oán” thành một cái nhan đề, chuyên nói sự oán hờn của cung nữ. “Cung Oán Ngâm Khúc” sau đây là một khúc ngâm về nỗi oán hờn của cung nhân mà Ôn Như Hầu tiên sinh đã mượn tình trạng cung phi để tự ví thân phận mình; khúc ngâm này dùng điệu “song thất lục bát”.

Cung oán ngâm khúc
1. Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng,
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
5. Duyên đã may cớ sao lại rủi,
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang,
Vì đâu nên nỗi dỡ dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình.

Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa,
10. Vẻ phù dung một đóa khoe tươi,
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung.

Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khóe thu ba rợn sóng khuynh thành,
15. Bóng gương lấp loáng trong mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
20. Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

25. Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,
Địch lầu thu đường gã Tiêu Lang,
Dẫu nghề tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng.

Tài sắc đã vang lừng trong nước,
30. Bướm ong còn xao xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.

Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang,
35. Hồng lâu còn khóa then sương,
Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.

Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu ngấp nghé mong sao,
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
40. Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.

Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển,
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai,
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.

45. Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên.

Kìa thế cục như in giấc mộng,
50. Máy thuyền vi mở đóng khôn lường,
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.

Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,
Hình thì còn bụng chết đòi nau,
55. Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra !

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu,
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
60. Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần.

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc buồng gan,
Bệnh trần đòi đoạn tâm toan,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.

65. Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu,
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,
70. Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
75. Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp chông gai,
80. Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương.

Mồi phú quí dữ làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

85. Sân đào lý mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

Quyền họa phúc trời tranh mất cả,
90. Chút tiện nghi chẳng trả phần ai,
Cái quay búng sẵn lên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong,
95. Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quán thu phong đứng rũ tà huy.
Phong trần đến cả sơn khê,
100. Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì !

105. Mùi tục lụy đường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.
Cái gương nhân sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao.

Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
110. Mối thất tình quyết dứt cho xong,
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình !

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.
115. Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
120. Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.

Hẳn túc trái làm sao đây tá,
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia.
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.

125. Kìa điểu thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng.
Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.

Đường tác hợp trời kia run rủi,
130. Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.
Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao ?

Tay nguyệt lão khờ sao có một,
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
135. Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng.

Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Cành xuân hoa chúm chím chào,
140. Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.

Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp ló trong trăng.
Sênh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điên Tô.

145. Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh,
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn.

Tiếng thánh thót cung đàn thúy địch,
150. Giọng nỉ non ngón địch đan trì.
Càng đàn càng địch càng mê,
Càng gay gắt điệu, càng tê tái lòng.

Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
155. Hoa thơm muôn đội ơn trên,
Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời.

Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
160. Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
Đóa lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.

165. Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,
Lòng quân vương chi chút trên tay.
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ thành này muốn long.

Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ,
170. Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son.

Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương.
175. Dẫu mà tay có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân.

Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen.
Thân này uốn éo vì duyên,
180. Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời.

Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay.
Gẫm như cân trất duyên này,
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ.

185. Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.
Chữ đồng lấy đấy làm ghi,
Mượn điều thất tịch mà thề bách niên.

Hạt mưa đã lọt miền đài các,
190. Những mừng thầm cá nước duyên may.
Càng lâu càng lắm điều hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm.

Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt,
Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi.
195. Suy di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị vong.

Đuốc vương giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
200. Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.

Vốn đã biết cái thân câu chõ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên.
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào !

205. Song đã cậy má đào chon chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người.
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại râm.

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
210. Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.

Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
215. Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.

Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
220. Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.

Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

225. Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.

Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ,
230. Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
235. Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng.

Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
240. Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa !

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không ?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !

245. Nào dạo lối vườn hoa năm ngoái,
Đóa hồng đào hái buổi còn xanh.
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du tiên hãy rành rành song song.

Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng.
250. Để thân này cỏ úng tơ mành.
Đông Quân sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân.

Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.
255. Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong.

Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi.
Hóa công sao khéo trêu ngươi,
260. Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.

Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa !

265. Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng,
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn.
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.

Khi trận gió lung lay cành bích,
270. Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn.

Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.
275. Vắng tanh nào thấy vân mồng,
Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh.

Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai:
Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi,
280. Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo.

Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả,
Điệu thương xuân khóc ả sương khuệ
Lạnh lùng nào thấy ỏ ê,
Khí bi thu sực nức hè lạc hoa.

285. Tiếng thúy điện cười già ra gắt,
Mùi quyền môn thắm rất nên phai.
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi,
Thì thong thả vậy cũng thôi một đời.

Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng,
290. Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình.
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót gieo cành biết sao !

Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
295. Cùng nhau một giấc hoành môn,
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.

Ví sớm biết phận mình ra thế,
Dải kết điều ỏe ọe làm chi.
Thà rằng cục mịch nhà quê,
300. Dầu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này.

Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.

305. Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi.

Trong gang tấc mặt trời xa bấy,
310. Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu ?
Sinh ly đòi rất thời Ngâu,
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.

Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm năm chực phận buồng không.
315. Khéo vô duyên bấy cửu trùng,
Son nào nhuộm được má hồng cho tươi.

Vườn thượng uyển hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong.
Doành Nhâm một dải nông nông,
320. Bóng dương bên ấy đứng trông bên này.

Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,
Chốn phòng không như giục mây mưa.
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.

325. Trên chín bệ có hay chăng nhẽ,
Khách quần thoa mà để lạnh lùng !
Thù nhau ru hỡi đông phong,
Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.

Tay tạo hóa cớ sao mà độc,
330. Buộc người vào kim ốc mà chơi.
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm !

Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn,
Há phai son lạt phấn ru mà.
335. Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành !

Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối đường tơ.
Ngọn đèn phòng động đêm xưa,
340. Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.

Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy,
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu ?
Bõ già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng.

345. Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương hót gió đèn xanh lờ mờ.

Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn,
350. Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao.
Buồn này mới gọi buồn sao ?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.

Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong.
355. Phòng khi động đến cửu trùng,
Giữ sao cho được má hồng như xưa.

Nguyễn Gia Thiều
(1741-1789)

HOÀI NAM KHÚC – 懷南曲

Hoài Nam khúc – 懷南曲
Hoài Nam khúc (懷南曲), còn gọi là Hoài Nam ký (懷南記), do Hoàng Quang (?-1801) soạn, mang tư tưởng chống Tây Sơn và ủng hộ chúa Nguyễn.

Ăn cơm mới, nói chuyện cũ,
Tưởng cơ đồ Chúa Nguyễn thêm thương!
Ngùi ngùi nhớ đức Tiên Vương,
Công phu chỉ ngõ mở đường vào đây.
5Phân cương từ chốn lũy Thầy,
Bắc Nam tương giới nào lay ngọn cờ.
Để phòng chẳng chút vi sơ,
Đã hâm ao nóng lại hơ thành vàng.
Tượng vì trên chúa Đào Đường,
10Dưới tôi lại có những trang Cao, Quỳ.
Thang non bè biển đều về,
Có nhân trời đất cũng vì nữa ai.
Dây dưa truyền đã bảy đời
Kiệm cần còn hãy đội trời Thang, Văn
15Tám truyền mới đến tiên quân,
Đai cân mới đổi, áo quần mới thay.
Một trường lễ nhạc xum vầy,
Tranh treo thế giới gấm xây cung thành.
Đâu đâu hòa chẳng đua tranh,
20Cửa quyền tía đỏ, lều tranh ỷ – là
Ngậm cơm vỗ bụng đều ca,
Nhìn xem Nam Việt ngỡ là Đường Ngu.
Âu vàng vững đặt mấy thu.
Ở ăn nào có lo âu sự nghèo
25Quấy đem trách bấy tôi yêu.
Mở đường mọt nước xui điều sâu dân.
Lợi đo từ tấc nhẫn phân,
Tầm xa dễ vạy, thước gần ít ngay.
Chín trùng nào Chúa có hay,
30Lệnh ra thì ít, lạc bay thì nhiều.
Ngàn chung rước những sự nghèo.
Phủ xây oán hận, thềm rào họa tai
Luống toan phú quí làm mồi.
Đàn hòa lũ nịnh, phấn giồi mặt dua.
35Ngọt lời để tật cho Vua,
Cảnh ngôn nào thấy một mồ Tỉ Can.
Để cho mạch nước hao tàn
Đao khuê cạn tễ, chưa toan rước thầy.
Trong khi cỗi nước động lay,
40Cung xanh trước quạnh chưa xây nền Chừ.
Mười phần thế nước dường tơ,
Đời không Tứ Hiệu ai hòa gỡ xong.
Hiềm nghi ai khéo sinh lòng,
Ngọt ngon một bánh chúc mừng các con.
45Xa lo kìa hỡi Quí Tôn,
Giặc trong thềm vách, dạ còn chớ quên.
Giáp Tân chúa mới tân thiên,
Tranh nhau trận ấy ước nên dầm vàng.
Đỉnh hồ từ quạnh xe loan,
Điệu vong ngùi tả hai chương vãn từ:

I. Ba chín năm dư sáng nghiệp vương.
Ân oai cương đoán tốt dường gương.
Mặt Nam dốc sửa trong phong hóa,
Cõi Bắc thường cầm nỗi bản chương.
Cỗi nước chẳng toan tôn thái tử,
Mối nhà nỡ để rối triều cương.
Đã không Chiêu Liệt còn chi nữa
Bếp Hán ai nhen lửa đặng hường.

II. Non nước trời Nam đã bảy triều,
Nghiệp vương xây dựng để tôn miêu.
Rỡ ràng chính hóa đời Văn, Võ.
Réo rắt âu ca thủa Thuấn, Nghiêu.
Của đặng Công Lưu sao chẳng muốn,
Sắc như Đản Phủ cũng nên yêu.
Cơ chi quốc thúc còn Cơ Đán,
Chống đỡ chi cho cỗi nước xiêu.

Thơ thôi chạnh tưởng bơ vơ,
Thế này chưa biết cuộc cờ về ai?
Lại cho cướp đặng báu trời.
Thẹn cùng Tử – Ngũ hổ ngươi Di – Tề.
55Lại cho ôm đặng ngọc khuê,
Soi gương Nguyên Cát, nhắm bia Kiến Thành.
Nỡ nào cốt nhục phân tranh,
Chẳng hay thiên ý đã dành chân vương.
Một mình ấu chúa đảm đương.
60Cựu dinh may lại có trang anh hùng
Mượn tay kìa bấy Trương – Công,
Gót gian ẩn tích, da trung lộ ngần.
Cùng thuyền e lậu tấc phân,
Âm mưu Hữu Ý uống hần chín sông?
65Hòa triều đều trụt lưỡi trung.
Nào ai có dám cãi trong ngục trần.
Chua le thay nỗi ân cần!
Béo gầy khéo mượn Việt Tần lòng thương.
Chín truyền bèn đến tân vương.
70Ấu thơ nào biết mối giường đảm đương.
Tưởng xưa Thái Giáp thêm thương
Mấy lầm hầu trách “Phúc Thang điển hình”
Cơ chi có Doãn A – Hành.
Làm chi đến nỗi rối mành nhà Thương.
75Trách vì quốc phó họ Trương.
Chánh quân khéo khéo chẳng nhường Y Châu.
Của dân muôn một mình thâu.
Như sành còn hãy rán dầu cho khô.
Muôn chung ăn tưởng chửa no.
80Cùng loài hãy muốn lên gò cho cao.
Một đoàn phú quí xôn xao.
Trâm anh còn bú, đài bào còn mem.
Trong triều hòa những con em.
Có ai mà lại nghi hiềm dạ ai.
85Đua nhau ăn uổng cơm trời.
Cạn đường thịt chạy nhuận vời thây đi.
Cho hay Thuấn đã qua kỳ.
Tài dầu chẳng sánh Cao Quì cũng dâng.
Của tiền thì đặng trí thân.
90Thiếu tiểu tu cần, dầu học chí nên.
Mãn triều chân tử vẻ vang.
Đều những đọc tiền, nào thấy đọc thơ!
Học trò là báu nước nhà,
Non cao hang thẳm tiếc đà bỏ rơi.
95Há rằng chẳng có bảng trời.
Thi tiền thì đỗ, thi tài thì bay.
Anh hùng khó chịu chau mày.
Nhà giàu con trẻ lướt mây thè lè.
Có ai bưng bít chẳng nghe.
100Đã chăn sao để trâu dê gầy mòn.
Nỡ tàn cỗi nước chẳng vun.
Ngọc vàng con hát. Lấm bùn thằng dân.
Ăn chơi cho sướng cái thân.
Béo mình những tưởng, ốm dân chi sờn.
105Lấy ai cứu chúng lầm than ?
Nóng nuốn thêm nóng, sâu càng thêm sâu.
Hãy còn hối lộ tham cầu.
Trút hờn dưới thẳm, chồng sầu trên xanh.
Có phen Bạt quỉ hiện hình.
110Ba đông rực rỡ trên nhành trổ lam.
Có phen chan chứa nguồn tham.
Lụt dẫy hàn đàm, nước đục dòng Xuân.
Có phen điềm hiện yêu phân.
Trời năm sáu mặt treo ngần giữa không.
115Có phen sấm sét bão – bùng.
Lúa có hoàng trùng nội có hổ lang.
Có phen điềm giới sắc hoang.
Tối tăm hồng nhật, rỡ ràng tuệ tinh[1].
Có phen điềm ứng giáp binh.
120Nước sông dường máu đã tanh lại nồng,
Có phen điềm ứng hư không.
Lở non nên vực, cạn sông nên gò.
Có phen dậy trận đánh khua.
Bỗng dưng đất động trái mùa sấm ran.
125Có phen cốt nhục tương tàn.
Ban ngày sao mọc, rỡ ràng hơn đêm.
Mống bày mười thắt thửa xem.
Tham vui nào có nghi hiềm sự chi.
Há rằng trời chẳng lòng vì.
130Mấy điềm răn trước, hay vì đã nên.
Trách vì phụ tá chẳng hiền.
Lợi tai vui mắt, lại quên sự nghèo
Rõ ràng lỗ miệng khéo thêu.
Áo che việc dữ, bia treo sự lành.
135Khiến trên ngăn lấp thánh minh.
Ấu sung nào biết bất bình lẽ chi.
Đua nhau quấy rối triều nghi,
Kiếm đồ ngoạn bảo dị kỳ dâng lên.
Nào hay thuốc độc bề trên.
140Mê tâm không tưởng nước nên sự nghèo.
Kể từ Ất dậu lâm triều.
Rồi qua Quí Tỵ chúc nghèo chín năm.
Giặc dân nổi dậy xứ Chiêm.
Tây Sơn Biện Nhạc nghĩ cầm Võ Thang
145“Phù minh diệt ám” tiếng vang.
Đã liều búa sắt, gươm vàng quản chi.
Trong non khói lửa đen xì.
Cờ thì treo áo, binh thì rút cây.
Rủ nhau chuột lũ cáo bầy.
150Vuốt nanh khách khứa, cánh vai buôn bè.
Nực cười châu chấu chống xe.
Những ngờ chấu ngã, ai dè xe nghiêng.
Lớn oai sao nó chẳng kiêng.
Đầu còn chó gặm, sau liền kình ăn.
155Tới đâu ngọc thạch câu phần.
Than rằng Thăng, Điện ấy dân tội gì.
Triều đình xa dễ chẳng nghe,
Đã đành đuổi cáo muôn què nhọc khua.
Há không lương sĩ cù cù.
160Bởi vì ngọng miệng xôi chùa tham ăn.
Há không lúa thóc đầy căn.
Ba quân đánh giặc phải ăn cơm nhà.
Há rằng chẳng sắc can qua.
Can qua sắc nữa, ai hòa đánh cho.
165Chẳng nài trăm trận đều thua.
Miễn là đắc thắng đầy kho bạc vàng.
Tinh binh đồn thủ Phấn Dương.
Đem binh lão nhược lót đường Tây Sơn.
Ải ngoài sai chúng khó khăn.
170Góc nhà đồn thủ về phần cháu con.
Trận bày dưới biển trên non.
Vầy dân tiền của đắp đồn miễn hơn.
Khéo là đành dạ bất nhân,
Một mình muốn sống, muôn dân nỡ hoài.
175Ví dầu xuống ngựa lên ngai.
Không dân chưa dễ cùng ai sang giàu.
Tưởng hơn nào thiệt có âu.
Nước nhà đã mất công hầu cùng ai?
Sao không chống sức ra tài.
180Lấy gan làm luỹ, lấy vai làm thành.
Để cho giặc nọ vô danh,
Xôn xao ếch giếng khoe mình nỗi chi.
Anh hùng để phải thế thì.
Nào là tài cán chẳng đi dẹp loàn ?
185Binh cơ khéo vận trong màn,
Chưa lo đánh giặc, đã càn đánh dân.
Mới hay Tần lại công Tần,
Quét hang đã lỡ, cày sân lại chìu.
Đến đâu máu mỡ đều hao,
190Của dân sao khéo tơ hào chẳng kiêng.
Ai làm dân Quảng truân chiên.
Dễ hầu gà luộc mấy phiên nữa là.
Tranh nhau mấy trận vào ra,
Xương phơi trắng núi, máu hòa đỏ sông.
195Lấy ai làm chước chiến phong,
Trận tiền dễ thấy anh hùng mặt nao?
Tả quân tuy có tài cao,
Than rằng hùm một nài sao cáo bầy!
Hãn sinh Võ Mục đời này.
200Có Trương Tần Cối khó bày nên công.
Xa xôi nào thấy chín trùng,
Có hay mưu hãm anh hùng vậy chăng?
Tiếc tài chân tướng ai bằng,
Tạc bia muôn thủa kính dâng một đề.

Thơ rằng:

Vô lỳ lục lục lũ muôn ngàn,
Khen Tả Quân Du có trí ngoan.
Ngoài cõi vững bền thành họ Lý,
Trong quân da lạnh khổ ngươi Hàn.
Điềm trời cõi Bắc còn bia tiếng,
Trải đất non Tây thảy nép gan
Khá tiếc đương nghèo trong vận nước,
Anh hùng nỡ lụy ba lan!

205Thơ thôi thảm thiết nhiều bề,
Tưởng anh hùng lại càng ghê nỗi lòng.
Ngao cò dùng dắng dư đông,
Bắc Hà chốc đã chén nồng ngư ông.
Tháng năm Giáp Ngọ hưng sư.
210Lời thay phủ việt, thơ từ hỏi han.
Trách vì Trương dại chẳng khôn.
Bày kế hoảng hồn đem lễ cảo lao.
Mượn đường chẳng biết làm sao,
Rày dầu diệt Quắc, mai nào còn Ngu.
215Chẳng toan yếu đỡ nguy phù.
Cùng thuyền sao nỡ gieo thù hỡi ai?
Những tin muôn dặm thành dài,
Đường trong đã mở đường ngoài lại qua,
Bởi ta lại làm lại ta,
220Nước mình mình đánh dễ hòa trách ai?
Uổng lo mấy nén vàng mười.
Bảo sơn đã đến, dễ rời về không!
Hạm xa xá sợ ý xung.
Biết ai đã hẳn gian hùng một Trương.
225Bây giờ hết chước không lường,
Nỡ cho nước đến gốc giường mới ngăn.
Noi sương ví chẳng hay răn,
Xa lo thì dễ, họa gần nói chi.
Bây giờ thế đã thùy nguy,
230Dầu Tôn, Ngô nữa chước gì hầu toan.
Há rằng chẳng có tài năng,
Bình thường chẳng đoái, nguy nan mới chiều.
Hiếm chi những hạng đỏ điều,
Anh hùng rày đã lụy chiều cháo rau.
235Bán quan tiền bạc bấy lâu.
Bây giờ một tướng mua hầu dễ ra.
Đường cùng mới biết độ xa,
Đốt thơ, chém xứ ai hòa thua ai.
Nên, hư cho biết ý trời.
240Dễ cam tội đánh dễ cười muôn thu.
Bắc Nam bày trận nhà Hồ.
Danh thơm đã quyết một mồ tướng quân.
Trọng đông hầu đã sáu tuần,
Cuộc đời Hán, Sở chưa phân một bàn.
245Khéo toan ai dễ vụng toan.
Một người cũng một lá gan anh hùng.
Nào nhường Bái Đáp tranh phong.
Trắng non kiếm kích, đỏ sông tinh kỳ.
Cho hay thời vận bất tề,
250Sức trời mà chớ, hiếm chi sức người.
Anh hùng thành bại dễ nài,
Hai mươi tám Tết đã rời chiến tâm.
Mới hay chữ ngộ là lầm
Trong thành cờ Triệu đã cầm tay Lưu.
255Một trường phú quý phong lưu.
Vật ngoài nào tưởng ái ưu nỗi gì.
Dứt lòng lận bận lão kỳ.
Ở Mân dầu rối, qua Kỳ cũng xong.
Chúa tôi mới quyết một lòng.
260Tháng giêng mồng bốn thuận dòng mới lui.
Đoái theo cảnh cũ ngùi ngùi.
Nước pha màu biếc, non dời thức xanh.
Bên trời, góc biển lênh đênh.
Ngừng châu hòa mực tả tình một chương:

Thơ rằng:

Xuân hạ ăn chơi chẳng sớm lo.
Đến thu đông lại biết răn cho.
Tấm lòng trời đất thương hay mỏi.
Nước mắt non sông khóc cũng no.
Chim Việt ngựa Hồ ngơ ngáo đó.
Hươu Tần yến Tạ lạc loài mô?
Số là bĩ, thái xưa nay vậy.
Há dễ trong đời thiếu trượng phu?

Thơ thôi khôn lấp nỗi thương.
Giữa đường gánh bỗng đứt quang một mình.
Muôn dân bỏ lại bao đành,
Cơ chi nhắm mớ dứt tình cũng theo.
Gẫm hờn phô chúng tôi yêu,
270Khi bình thấy Chúa, khi nghèo thấy ai.
Nặng bầu bạc én vàng thoi,
Nhẹ thuyền trung ái giữa vời lênh đênh.
Nỡ nào bỏ chúa cho đành.
Nước đâu hầu rửa nhơ danh muôn đời.
275Áo ai mặc hãy ấm hơi?
Cơm ai no dạ ăn rồi lại quên?
Cầm lòng bội bạc sao nên?
Đặng đàng ngoài, lại bỏ miền đàng trong.
Nào khi chầu chực màn rồng.
280Phấn vua giồi bén đặm nồng duyên tôi.
Bây giờ phân rẽ đôi nơi,
Thuyền không để Chúa giữa vời cùng ai?
Nào khi cậy thế nhờ hơi,
Coi mình tiên bối, coi người giống chi.
285Bây giờ nghèo lại bỏ đi,
Làm sao cho phải thửa nghì tôi con.
Nào khi nương tựa quyền môn,
Mình vuông hiếp chúng, gỗ tròn lăn dân.
Bây giờ phụ nghĩa quên ân,
290Lẽ đâu bỏ gánh quân thân giữa đường?
Nào khi bồng đỡ yêu đương.
Thân mình đặng cậy, họ hàng đặng trông.
Bây giờ hoạn nạn lại vong,
Những toan của lấy, nào mong nghĩa đền.
295Nào khi tôi chúa phỉ duyên,
Cả cơm ai sánh, lớn tiền ai đương.
Bây giờ bỏ chúa giữa đường,
Ải Vân nguy hiểm biết đường thế nao.
Khi bình tìm tới lao xao.
300Đến khi loạn lạc thì nào thấy ai.
Ví dầu chúa chẳng sang vời
Đạo tôi há chẳng mang lời bất trung?
Gương chẳng soi lấy Đinh công.
Phản làm tôi Hán, tin dùng những chi.
305Mấy người bạc nghĩa vô nghì,
Trước sau rồi cũng làm bia để đời.
Chúa mình, mình chẳng ngay thờ,
Biết lòng chúa khác có ngờ hay tin?
Lẽ thời nợ nước lo đền,
310Thấy nghèo liều mạng mới nên anh hùng.
Có đâu đương thủa bão bùng.
Ba đào thuyền Chúa bỏ không ai chèo.
Hổ sinh với đấng bọt bèo
Phận hèn chưa đặng giúp nghèo tấc công.
315Lụy châu muôn giọt ròng ròng,
Lạy dâng ba lạy đưa lòng một thơ:

Thơ rằng:

Gây loạn vì ai khéo trớ trêu,
Ấu sung xui Chúa phải cơ nghèo.
Lênh đênh sự nghiệp thuyền không lái,
Tan tác vua tôi gió thổi bèo.
Mấy dặm giang sơn sầu ngóng dại.
Hòa nghìn hoa cỏ thảm chầu theo.
Dưới cờ may đặng xoay tay tớ.
Con giặc tôi loàn quắc hẳn bêu.

Thơ thôi chạnh tưởng bơ vơ,
Một mình thân Chúa ấu thơ biết gì,
Ải Vân thăm thẳm ra đi.
320Biết ngày nào lại trở về kinh đô?
Nỡ tham chốn khác quê mô.
Xui cho chim Việt ngựa Hồ sao nên.
Giang sơn một gánh xuống thuyền
Cơ đồ để lại giữa miền Phú Xuân.
325Kêu sầu mấy tiếng trống quân,
Nào còn nhạc rối đòi lần như xưa.
Cấm cung là chốn vua ta.
Kìa gươm ai dựng nọ cờ ai treo?
Của kho lấy hết bao nhiêu,
330Ấy rơm thay bạc, ấy rêu thay tiền,
Than rằng gác phụng đài tiên,
Chớ nào hương xạ bỗng liền tanh hôi.
Bốn bề nhạc ngựa, chuồng voi.
Kìa cung đế tử, nọ chòi chinh phu.
335Lạnh lùng tám cảnh năm lầu,
Phòng hương đóng thảm, rèm châu rủ hờn.
Mến lòng, vật hãy cảm ơn.
Hạc ngâm cung oán, ve đờn khúc ai.
Khôn chiều gió tối mưa mai.
340Phủ tàng ngói lở lâu đài giá tan.
Trêu người khiến cảnh đeo hờn,
Đào phai má thắm, liễu sờn mày xanh.
Chông gai nẻo khuất đường quanh,
Thấy đồn cùng luỹ, nào thành thủa xưa?
345Chạnh lòng tưởng nỗi bơ vơ,
Trăm năm khôn nói, một thơ tả tình.

Thơ rằng:

Chúa cách Vân quan đã bấy lâu,
Thành vàng ai nỡ chất thành sầu.
Lạnh lùng đỉnh Bắc sương ngàn dặm.
Chếch mác lầu Tây nguyệt nửa câu.
Sáu viện đeo sầu hồng úa sắc,
Chín cung để thảm gấm phai màu.
Cửa kho đèn nguyệt đều thâu hết.
Còn chút chòm sao yến bóng chầu.

Thơ thôi buồn tưởng một mình.
Đoạn trường trăng biết, sự tình trời hay.
Ai làm đá nát vàng phai,
350Ủ ê nào thấy lâu đài như xưa.
Miếu đường đòi chốn lơ thơ.
Vò hương chếch mác bàn thờ ngả nghiêng.
Tám vì thánh hãy còn thiêng,
Phù trì ai nỡ phụ thiềng cháu con.
355Ví dầu Tân chúa chon von,
Vái trời xin hộ Hoàng Tôn sau nầy.
Hai trăm mười bốn năm chầy.
Dựng nên cơ nghiệp để rày ai ăn?
Tấm lòng man mác khôn ngăn,
360Dâng lên trước miếu một văn cáo rằng:

Kính mặt đức Tiên Vương,
Non Lam trổ ngọc;
Nước Việt tuôn vàng.
Thân cùng Trịnh trong điều mạch nước;
Tôn họ Lê trên chánh ngôi Vương.
Thệ đều dạ ái ưu, Hồ, Việt tưởng một nhà lạc tiệc;
Tư vì ai hấn khích, Lưu, Hạng nên trăm trận chiến trường.
Hai chốn Bắc, Nam mới cứ.
Sáu năm Thanh Nghệ lại sang.
Thương sinh dân gối tuyết, nằm sương, ngoài mới triệu về chư tướng;
Thủ Bố Chánh ngăn thành, đắp lũy; trong bèn an trị bốn phương.
Tám đời Thánh dõi truyền đức giáo;
Hai trăm năm sửa trị triều cương.
Nại từ ấu tự lên ngôi, giường Thang rối đã đành vua Giáp.
Thêm lại quyền thần phụ chánh, tộ Nguyễn suy căm giận họ Trương.
Ngoài đã mọt sâu lê thứ;
Trong thêm cá thịt họ hàng.
Ong bèn dậy Tây Sơn, thế đã khiến ba phân chân vạc;
Hùm lại gầm ải Bắc, lò bỗng tàn sáu miếu khói hương.
Thế cheo leo Nguyễn tự nữa tơ, linh biết chăng ôi liệt thánh.
Rày xui khiến Hạ đồ một mối; kẻo còn hổ với Thiếu Khương.
Ngõ một thủa lại vầy cơ hội;
Đặng muôn năm cho sáng miếu đường
Nay cáo.

Vái thôi nhiều nỗi bâng khuâng,
Trời cao có biết thấu chăng nữa là ?
Uổng sinh làm hại nước nhà,
Ngậm hờn quốc phó bút hòa nên thơ:

Tôi giặc ngậm hờn đứa họ Trương,
Làm cho trăm họ khốn ghê đường.
Cậy Lương dòng ngoại lần tiên Chúa,
Giả Hoắc mầu trung lập tự vương.
Bán nước tiền ròng xây cánh tả,
Buôn dân vàng diếng chất phần dương.
Hai triều tể tướng công chi nớ ?
Luống đặng xe tù tới Bắc phương.

365Thơ thôi nổi giận không ngơ.
Đoái trông sự nghiệp bơ vơ lại buồn.
Cảm xưa tôi dựng nước non.
Nước non hãy còn, tôi ấy đi đâu.
Vời trông Thuận hầu, Chiêu hầu[2].
370Miếu thờ còn đó, điếu sầu một thiên:

Danh sáng đài mây đã mấy đông.
Có nhân dường hãy sống hai ông.
Chiêu hàng quận Nghệ cờ Hàn Tín.
Quyết thắng Thành Nam thẻ Tử Phòng.
Một mối dốc thâu về cõi ngoại,
Hai trăm há nguyện ở đàng trong.
Tớ dầu nối đặng binh quyền ấy,
Rửa hổ xin vì kẻ chín sông.

Thơ thôi đã vái lại nguyền
Bao giờ như cũ hiệp duyên quân thần.
Than rằng thiên hạ phân vân,
Lấy ai chửng nịch cứu phần dân ta.
375Chúa đi Chúa chẳng nài xa,
Bao nhiêu phép tốt nước nhà đem theo.
Thấy chi những chuyện báo yêu,
Thấy sự khó nghèo để lại cho dân.
Ngùi ngùi thấy cảnh Phú Xuân.
380Ngụ tình bèn tả năm vần nên thơ.

Thơ rằng:

Cơ nghiệp hai trăm hưởng có thừa,
Tưởng thôi cơ nghiệp lụy dường mưa.
Non sông cảnh vật coi như cũ,
Thành quách nhân dân đã khác xưa.
Tưởng dấu đồng đà nhìn bát ngát,
Ngâm thơ Thử Tắc chạnh bơ vơ.
Đi về nghiệm hẳn như lời hát.
Xuân lại hoàn xuân thấy bấy giờ.

Thơ thôi lòng hãy ước mơ,
Phủ Hà, huyện Tống bao giờ lại Xuân.
Cơ hàn cực nỗi muôn dân
Gạo mua bạc nén, cá cân tiền đồng.
385Một ngày ví bẵng ba Đông.
Muôn ngàn cũng hết tay không thế nào?
Gạo ăn cũng ví trời cao,
Một tiền một cáp gạo sao cho đầy.
Nghĩ nào ăn đắng nuốt cay.
390Năm tiền chưa đặng đơm đầy bát cơm.
Hương hoa hưởng lấy mùi thơm,
Ước ăn no dạ biết làm chi ra?
Bao nhiêu súc tích của nhà,
Ngàn vàng mua sống miễn qua một ngày.
395Gần xa trìu trĩu châu mày,
Một năm nào thấy Đông Tây tiếng cười.
Xiết thương Hà Nội lưng vời.
No chi hầu lại khiến dời Hà Đông.
Cheo leo dường trứng non chồng.
400Khác người Quảng, Huế một lòng chua cay.
Đã cam hột gạo mua nài,
Nào no xưa, thấy đói rày dễ duôi.
Cách sông hờn thảm mấy thôn,
Khói tiêu trăm bếp bụi hun muôn nồi.
405Vực cồn dễ khiến xa bồi.
Bèo tan thân thế, thuyền trôi ân tình.
Kêu tường luống thấy yếu anh,
Cỏ loạn thị thành rêu lấp thôn gia.
Đường đi nào thấy người ta,
410Chim là trăm họ, cỏ là muôn dân.
Cơm chan nước mắt mà ăn.
Thân người nào khác ví thân muông mèo.
Lỡ đời tấm mẳn làm yêu.
Khi mua đứng bóng xế chiều đặng đâu.
415Lọ là củi quế, gạo châu.
Ấy khoai là bạc, ấy rau là vàng.
Thiết thân đói khát trăm đàng.
Nào ai có biết hổ hang lẽ gì.
Cha con cũng bỏ nhau đi.
420Vợ chồng nào tưởng xướng tùy là đâu!
Há rằng tình chẳng thương nhau,
Nhất chiêu bất thực có câu vô nghì.
Kẻ nào gắng đặng thì đi.
Vong hương thất thổ quản gì tấm thân.
425Kẻ nào già yếu lỡ lần,
Đã đành thác trẻ ngã lăn rãnh ngòi .
Đói lâu nhọc cốt, nặng hài.
Người ăn thịt người trời đất thấu chăng!
Sinh dân ví chẳng đạo hằng.
430Lộn đời súc vật, thì rằng cho hay.
Ai làm nên nỗi nước nầy.
Non xương chất thảm, dòng thây trôi hờn.
Có ai hầu lại phong phần?
Đường rêu ấy táng, suối đờn ấy đưa.
435Có ai hầu lại phụng thờ?
Hương tàn ấy chớp, đèn lờ ấy trăng.
Có ai hầu lại than rằng?
Mưa hằng tuôn lụy, gió hằng kêu oan.
Có ai hầu lại quách quan?
440Dưới phần bụng cá, trên tan mỏ diều.
Thác thì ra đất đã liều,
Sống gẫm nhiều điều thực khó nói năng.
Thác yên, sống đã thuận chăng?
Vì ai nên nỗi bất bằng hỡi ai?
445Cơm ăn nào hổ ta lai.
Bến mê đều đắm lòng người khá thương.
Nào còn thói cũ phong quang.
Ăn lông mặc lá, doi đường Hồng – Mông.
Đắng cay ai biết trong lòng.
450Dật dờ thân lại lạnh lùng tấm thân!
Đoái trong thiên hạ mười phần.
Cơ hàn hết chín, giàu ăn mấy người?
Sự ăn còn hãy chưa nguôi,
Than rằng sự mặc ngùi ngùi thêm thương.
455Ba đông đã lạnh thấu xương.
Chẳng thà lại trắng mà vàng lại xen
Hỗn hào nào biết sang hèn
Đặng lành bố bả, phỉ quyền gấm thêu.
Ai chê kẻ khó người nghèo
460Ghét dơ thì thớ thuyền chèo hạ lưu.
Bơ vơ như thế thêm sầu,
Thấy phô sự khóc, thấy đâu sự cười.
Cô hồn thương hỡi chúng ngươi.
Nỗi hàm oan ấy, mấy đời cho tiêu.
465Ngọn hương giải thoát ai khêu.
Dòng mê ai vớt lên đèo từ bi.?
Thương tình hầu dễ có chi
Kính dâng ba chén tạm vì một văn.

Hỡi ôi!
Sống thác đã hay rằng phận, ưng thà ưng cho hết thửa nhân tình;
Cơ hàn cực nỗi thiết tha, trách bấy trách lầm khi loạn lạc.
Nhớ chúng cô hồn xưa:
Trăm thợ trổ tràng;
Ngàn năm xây tạc.
Quảng Nam trời đất rộng, dễ ai dành phong nguyệt sinh nhai;
Thuận Hóa nước non thanh, mặc vui thú giang sơn đồ mạc.
Trời xuân đã thấu lên đài;
Cõi thọ đều mừng đến vực.
Những tưởng nghèo cho yên phận nghèo, khó cho yên phận khó, ngõ nhờ bốn thú làm ăn;
Chẳng may vận khéo xui rối vận, thời khéo xui rối thời, đoái thấy bốn bề nổi giặc.
Cám thương không xiết nỗi thương;
Đến thác chẳng yên phận thác.
Hoặc ở chiến trường mà nằm trong kiếp lược, thảm chưa tàn ngọn lửa Tây Sơn;
Hoặc sa trận thế mà lụy phải tồi tàn, sầu còn dọi lưỡi gươm Bắc tặc.
Hoặc chịu cơ hàn mà cả trách trời xanh;
Hoặc đã muối dưa mà chẳng qua ngày bạc.
Trôi gành tấp bãi, thây oan khắp bến lênh đênh;
Bỏ quán nằm cầu, xương trắng đầy đường ngan ngát.
Hồn còn chôn bụng cá, lòng sông;
Phách hãy dọi chân diều, mỏ ác.
Cốt hài rơi hãy đó, luống đeo sầu ngọn cỏ, hạt sương;
Thân thích đoái còn ai? hầu phỉ đặng vò hương bát nước.
Phải ta đặng cầm cờ Cấp Ảm, thà chịu tội kiểu chiếu mà phát kho;
Phải ta đặng phò giá Võ Vương, cũng tán của Lộc Đài mà làm phước.
Kẻo chịu gió tối phất phơ.
Kẻo chịu mưa mai lác đác.
Ôi! Một thủa đổi dời;
Nghìn năm chếch mác.
Thang bắt loạn, kham trách họ Trương.
Cờ xướng nghĩa ngậm hờn thằng Nhạc.
Đau lòng không ráo mắt, thấy xương da bỏ chốn rãnh ngòi.
Ngưng trán đổ mồ hôi, không quan quách phải dùng bó vác.
Đất một thỏi, đem vầy phong táng, lõa lồ kia kẻo thấy chẳng đành;
Rượu ba tuần, rầy tạm tế nghi, anh linh nữa xin nguyền thỏa chước.
Nay cáo.

Tế thôi lụy ứa chéo khăn.
470Tưởng trong hai chữ “vận tuần” mà ngâm,
Loạn nầy hầu dễ mấy năm?
Hay là dõi trị hai trăm có thừa?
Có đâu trải nắng dầm mưa.
Bao nhiêu ách tắc như xưa hãy còn.
475Bây giờ hãy biết lẽ khôn.
Đắng cay phải chịu, ngọt ngon dễ nài.
Ra đàng những thấy chông gai.
Đất trời chẳng rộng, trách ai hẹp hòi.
Có đâu oan nghiệp luân hồi.
480Thế gian rằng có lẽ trời ở mô?
No thôi quá ngán chi no!
Chớ mơ bị thóc mà mua sáu đồng.
Khó nghèo ở lỗ đã xong.
Giàu sang coi lại chẳng thông ở truồng.
485Khôn ngoan cũng giống điên cuồng.
Phong quang nào phải buông tuồng như xưa,.
Ai làm thất sở sanh sơ.
Thân ta như ốc ngẩn ngơ lộn hồn;
Giả ơn nhân nghĩa muôn ơn.
490Đã khô máu mỡ, chi còn tăm hơi
Chua cay đắng xót lòng người.
Một ngày không Chúa trăm nơi dậy loàn.
Chiêu binh giả lập Hoàng Tôn.
Quan nghe huyện Mộc, đóng đồn Ba Lâm.
495Đánh nhau cướp bóc ầm ầm
Kẻ tranh Khám Lý, người làm Tham Mưu.
Khéo là rước oán mua cừu.
Chuột bầy đào lỗ dễ hầu chi nên.
Đua bơi hơi sức cho phiền.
500Hết chèo Cam Lộ, cùng thuyền Thủy Ba,
Chẳng hay tài cán chi ta.
Chọc ong vò vẽ, hỡi đà ích chi
Nào câu: “Địa lợi thiên thì”
Lấy lưng chú Tán mưu kỳ ông Tham.
505Chẳng chờ thời thế khá làm.
Những riêng trí tuệ, những ham cày bừa.
Một mình hầu dễ mấy thờ,
Bao nhiêu thảo mộc, hầu chờ phong vân.
Chẳng thì tứ thú làm dân.
510Gỗ tròn có sức thì lăn mặc lòng.
Sao như cá chậu chim lồng.
Khó đà cay đắng giàu cùng khúc nôi
Há rằng khó cực mà thôi.
Giàu bao nhiêu dễ đặng ngồi mà ăn.
515Bán buôn cho nhọc tấm thân.
Ở kiệm, ăn cần, nào hẳn của ta.
Thí nghèo xưa chẳng rộng ra.
Giữ tiền làm mọi rày đà ích chi
Sang giàu tích đặng mấy thì.
520Giá ngân buổi sớm tà huy ban chiều.
Khen ai bày đặc trớ trêu.
Xúc lòng kẻ cướp, mõ đều đánh răn.
Ở đâu chẳng chúa trị dân.
Con không cha mẹ, cô bần ai thương?
525Đau lòng mượn lấy văn chương,
Xúc ngâm một vãn kể thương sự đời.

Thương đời loạn; thương đời loạn.
Chẳng qua thiên ý đành xui;
Hay nỗi nhân mưu thất toán.
Năm Quí Tị tháng chín, tai mới nghe Tây giáp lộng trì;
Sang Giáp Ngọ tháng năm, tờ lại thấy Bắc Hà phản gián.
Ngỡ như năm trước, nói vậy lại qua;
Ai ngờ phen này, tưởng thôi hóa hẳn.
Cửa lũy Thầy sắt mà mọt; hai mươi mốt tháng chín, bỗng đà binh pháp thẳng xông.
Thành Phú – Xuân vàng mà phai; hai mươi tám tháng chạp, phút thấy điện đài vi soán.
Cám thương sự nghiệp sinh sơ;
Xiết nỗi Chúa tôi ly tán.
Mồng bốn tháng giêng mới chạy, quân bỏ thuyền, đều lấy bạc vàng
Nghìn ngày nợ nước bỏ quên, tôi bỏ Chúa, lánh vòng tên đạn.
Tưởng nhiều người hưởng thủa thái bình;
Đặng mấy kẻ cùng khi hoạn nạn
Ăn cây nào rào cây nấy chẳng thấy ngoan dân nhà Châu;
Đặng buồng nọ bỏ buồng kia, đều những Đinh công nhà Hán.
Ắt khéo là kinh thảo thủa tật phong;
Ắt khéo là thành thần khi bản đảng?
Kia Điền thị đem về Tề địa, thế đã nghiêng hơn bảy mươi thành;
Nọ Doãn Công bền giữ Tấn Dương, thành chẳng lụt còn ba tấm ván?
Huống chi bảy phủ hãy còn;
Trách bấy một người chẳng dạng.
Son nỡ để cho phai thơ;
Thiết nỡ xui cho mục khoán.
Cám cảnh thay!
Ao lệch vạc nghiêng, thành xiêu ngói tán.
Chốn Tiêu Tương tám cảnh, chẳng còn nghe dõi ca phụng, nổi thuyền rồng;
Miền cung cấm chín trùng, luống những thấy phất cờ lau, bày trận nhạn.
Đoái chếch mác ghê đàng;
Tưởng xót xa đòi đoạn!
Nhà tôn miếu tan tành đồ trọng khí, chếch vò hương, nghiêng bát nước đổ bàn thờ;
Chốn phủ tàng thâu góp của danh lam, những xanh vạc, lại đồ đồng thôi rổn rảng.
Ấy xã tắc xiết chi là khưu khư.
Ấy sinh dân xiết chi là đồ thán!
Gẫm lẽ thiệt “hoán chủ giàn, tan con nghé” ai ngờ ta không thửa mẹ cha,
Tủi thân hư “như con cá bỏ giỏ đơm” ai ngờ ta khác chưng thổ sản.
Chỉ huy cờ đã về tay;
Sinh sát đao cầm đằng cán.
Mõ thâu đêm mấy đoàn kẻ cướp, thương hỡi thương, giàu súc tích chẳng đặng ăn.
Gạo năm tiền một chén hẩm hiu, thảm bấy thảm, bạc tiền đồng thời mới bán.
Lấy chi dưỡng sức cầm hơi;
Luống những ngóng đầu chau trán.
Nhà ở cùng cây cỏ ở, chốn thị thành bỗng hóa rừng xanh;
Người ăn như chó mèo ăn, vật tấm mẳn xem bằng vàng gián.
Nếu nói ra thì nước mắt nhỏ sa;
Nếu kể đến thì lòng thương khôn giãn.
Nhà nuôi bữa, kể hồn không kể xác, khổ não thay! cá lượng vảy, thuốc lượng điếu, củi bán cân;
Chợ mua tiền, thấy tốn chẳng thấy ăn; tha thiết bấy! bánh bán lá, khoai bán xâu, cơm đóng oản.
Nghĩ nào uống khát ăn thèm;
Khôn bấy nằm cầu ở quán.
Kẻ già yếu, thác lăn ngòi rãnh, xương trắng quận Hà Đông;
Người thất thơ, đi bỏ quê hương, cỏ xanh miền Nam Giản.
Nỗi ái ưu đã rối dạ rối lòng. Niềm cốt nhục cũng hết ngoan hết ngoãn.
Bên giềng Bắc đói quên liêm sỉ, em vặn cánh tay anh mà ăn cướp cũng đành;
Chốn làng đông đói hết nghĩa nhân, mẹ cắt miếng thịt con mà đặng ăn nào quản.
Cỏ rau trăm họ sắc xanh lè;
Vượn hót muôn dân hình quái đản.
Giữa chợ đói nằm thắt thẻo, người rằng: ông ngày trước mới thấy dù, võng, xiêm, đai;
Bên đường rách chịu xơ vơ, kẻ rằng: bà ngày xưa mới thấy xuyến, hoa, hột, noãn.
Dân đời loạn lạc, từng nghe chép để trường biên;
Sinh thủa hiểm nghèo, so lại hơn trong truyện vãn.
Cơm cháo đắng, lấy cỏ rau làm ngọt, bòn non, non đã trọc tròi;
Mắm muối không, lấy nước mặn làm ngon, múc biển, biển đà quá cạn.
Thủa bình thường đói chịu đã cam;
Ngày tết nhất “no” thêm quá ngán.
Cửa rước chúa Xuân buồn dược dược; nào cây nêu, cây mía, những tiếng pháo tiếng đu;
Bàn thờ ông vải chạnh khuâng khuâng; nào miếng bánh, miếng nem, những cơm lương cơm phạn.
Chúa xa xôi có thấu chăng là;
Dân loạn lạc no nao đặng chán!
Nắng đã trưa, mà mù còn tối, ấy là người phải đao thương mà khô cốt sầu bi;
Trời chẳng động, mà sấm cứ kêu, ấy là kẻ chịu sống cơ hàn mà u hồn ai oán.
Kể sao cùng muôn việc thảm thương;
Trông cho đặng mặt trời bão noãn.

Tớ nay:
Sĩ ở Đông lân.
Ngụ miền Nam bạn.
Than rằng đã lánh gian truân;
Rủi là gặp kỳ phán hoán,
Số là thấy “thiên hạ hoại loạn dĩ cực” lửa hừng thảm thêm sầu;
Chửa gặp thì “thánh nhân cơ hội khả vi” mưa rưới đượm mầu cứu hạn.
Nói khôn cùng muôn việc thửa xưa.
Thường phải tạm vài lời tự thán.
Song le truyện cũ đã tra.
Chép lại sách xưa để án.

Lời rằng:
Đại hàn chi hậu, tất hữu dương xuân;
Đại loạn chi hậu, tất hữu chí trị,
Vậy có đoán rằng:
Khỉ bổng con mà khóc.
Gà vỡ ổ liền bay.
Chó ngoảy đuôi mừng chủ.
Lợn ăn no ngủ ngày.

Bây giờ đã hẳn mọi đường.
Ăn năn nỗi chúa, nhớ thương vô cùng.
Đắng cay, thấy ruột làm xong,
530Ngọt ngon kẻ nể chiều lòng thêm chua.
Những người phụ chúa thờ thù,
Làm nên đã mấy qui mô trong đời
Quân thân ngay thảo với ai ?
Đá vàng lỗ miệng chông gai trong lòng.
535Vách gian rằng đã cẩn phong,
Mười tay đã chỉ, mười tròng đã xem.
Tối tăm đã biết rằng đêm.
Miễn lòng đuốc đỏ, ghi hiềm nỗi chi.
Đã rằng: quân tử thế thì,
540Sao câu: “Phi quỉ tế chi” lại làm.
Khá thương hãm nịch thân tâm,
Thuyền không Thang, Võ, ai cầm vớt lên.
Đánh Nam sao Bắc nỡ quên,
Hay gần thời đoái, xa miền chẳng thương.
545Nước hao, con nước lại càng.
Chờ năm nào nữa, mới sang thái bình.
Than rằng biển thế mênh mênh.
Bốn bề sóng gió, đỗ mình nơi nao?
Dễ chiều hạn hán khát khao,
550Sợ hằng gặp mống, trông nào thấy mưa.
Lấy ai vớt chúng dân ta?
Sao người tư mục trời chưa sớm trồng.
Hay là trước thử cháu rồng.
Làm cho khổ tiết, mới dùng ấy chăng?
555Há rằng thiên ý hay răn?
Hồng Mông với Hạng, còn rằng Bái Công.
Xưa còn sơ cửu tiềm long.
Rày đà ở ruộng, mặc lòng lăng vân.
Cá tôm sau chẳng biết thân,
560Thấy rồng ở cạn đặng gần lại khinh.
Giao long vốn giống thần linh
Trong ao há dễ có tình ở lâu.
Một mai cửu ngũ đương đầu,
Chín trùng mưa móc, ân sâu khắp nhuần.
565Sá chi một lũ kiếm ăn.
Cậy mình có sức hiếp dân buông tuồng.
Mệnh trời nào biết tấc phân.
Vin vai đã tưởng trèo lần lên cao.
Xét mình tài mọn sức nao,
570Giống linh, báu cả cầm nào đặng vay.
Xem gương Trần Thắng thì hay,
Nghênh ngang nào đặng mấy ngày xưng vương.
Ngàn năm dầu nhẫn chôn xương,
Nỗi nhơ danh ấy như gương để đời.
575No say mãn tiệc thì thôi.
Ngựa xe giong ruổi chưa nguôi buông tuồng.
Mấy thu sao khéo uổng công.
Đặng chữ gian hùng chém Quắc mà thôi.
Phải chi lòng hẳn như lời.
580Trước sau đều hộ con trời mấy nên.
Huống thêm hương lửa bén duyên
Ngày sau đã hẳn con tiên cháu rồng.
Một mai rối nước gỡ xong.
Trên trời công nghiệp cao trồng ai phen.
585Muôn năm để lại tiếng khen,
Bia vàng tạc đá, phỉ nguyền hay chăng ?
Tiếc thay chẳng thuận đạo hằng.
Nghĩa nhân lỗ miệng đãi đằng rằng khôn.
Ngọn cờ chiêu chúng hương thôn.
590Báo danh làm chữ Hoàng Tôn bia bày.
Cho nên ứng thuận lòng người.
Ai đâu dám cãi mệnh trời vậy vay.
Đã vâng hồng nhật trên tay.
Hãy còn ở thói nước mây lăng loàn.
595Bây giờ đã hẳn mặt chăng ?
Phấn tô trung nghĩa, mực nhằng tà gian.
Làm cho thiên hạ lầm than,
Tội danh biết để mấy ngàn muôn thu ?
Bây giờ coi thế đã cô.
600Quân thần ban tối, cừu thù bữa mai.
Làm vua ví chẳng mệnh trời.
Nếu tranh mà đặng nhiều người cũng mơ.
Xưa kia cờ đã về ta.
Trong tay chẳng phất để ra tay người.
605Có thân thì đoái sau nầy,
Chẳng ngay cùng Chúa ai ngay cùng mình.
Cáo kia chớ cậy có thành.
Trần Hòa dễ chống dân tình đặng đâu.
An nguy còn tưởng khoe mầu.
610Thành cao oan nghiệp, ao sâu tội tình.
Sao chẳng học phép dụng binh ?
Lấy trung làm giáp, mài thành làm gươm.
Nghĩa nhân trận ấy thường đàm.
Giữ bền, đánh đặng, ai làm chi hơn.
615Cớ sao rước oán, gây hờn.
Một mình khiến chống cho hơn cả trời.
Mượn hồn ốc hổ cho ngươi.
Vì dân bảy phủ gửi lời một thơ.

Sinh loạn vì ai trước mượn tay,
Kinh doanh gã Nhạc có tài hay.
Thả mồi tặc tử câu binh Bắc.
Mượn lưới Hoàng Tôn bủa cõi Tây.
Nếm mật ba dinh thù hãy đắng.
Ăn gừng hai xứ oán còn cay.
Bạo tàn sao chẳng soi gương Hạng.
Nước đỏ Ô giang khó vớt thây.

Thơ thôi thảm thiết tuồng thơ,
620Trèo cây đương gió, ngọn cờ đương lay.
Sao cho hùm nọ có vây.
Đất hỡi đâu dày, trời hỡi đâu cao?
Cao dày dễ có riêng sao,
Phúc nào khỏi thiện, họa nào khỏi dâm ?
625Gẫm xem thiên mệnh nhân tâm,
Chuyển hoàn sự ấy, há lầm ngưu ngư.
Làm chi nên nỗi ngất ngơ.
Vì dân thì phải khu trừ loài gian.
Tấm lòng hương lửa chưa tàn,
630Lạy trời chớ phụ, xin ban mười nguyền.
Một nguyền các đạo tương liên,
Ba ngàn đồng đức hiệp miền Mạnh tân.
Hai nguyền ứng thiên, thuận nhân.
Ngôi chánh bắc thần trước lập Hoàng Tôn.
635Ba nguyền sĩ tuyển tài khôn.
Can nghe, kế dụng, chớ mòn tấc phân.
Bốn nguyền cờ dựng nghĩa nhân.
Đến đâu chớ phạm của dân thu hào.
Năm nguyền nghịch đảng rủ nhau,
640Bạo tàn thì chết theo sau thì đừng.
Sáu nguyền an nghỉ Điện, Thăng.
Chiêu về trăm họ, nghiệp hằng đặng lo.
Bảy nguyền khử chúng tham ô,
Chớ còn nổi giặc để thù muôn dân.
645Tám nguyền rộng bủa lưới nhân.
Khắp thâu hào kiệt trong trần chớ rơi.
Chín nguyền quan ải trùng khai,
Mở đường thương lữ trong ngoài chầu vua,
Mười nguyền đem lại đế đô,
650Xe thơ một mối cơ đồ muôn năm.
Nguyền rồi lại vái lâm dâm.
Xin cho như nguyện chớ lầm mới thiêng.
Kẻo còn đeo nỗi buồn riêng.
Rau ăn chưa báo, nắng hiên chưa đền.
655Ngõ nhờ thiên vận sớm nên.
Phấn dồi đời trị, phỉ nguyền bình sinh.
Trên mừng đặng Chúa thánh minh.
Chầu về bốn biển, tăm kình bặt không.
Thái bình mở tiệc ca hồng.
660Thịt no đức hóa, rượu nồng giáo văn.
Nơi nơi đủ mặc no ăn
Khúc ca ba áo đôi quần xênh xang.
Bõ khi loạn lạc cơ hàn.
Đói nằm thắt thỉu dọc đàng bơ vơ.
665Tấm lòng chẳng hổ ngây thơ
Tưởng dung chắp vá mấy lời giải khuây.
Thiết tình nào lựa câu hay,
Ai xem biết đặng lòng này chớ chê.
Trước sau mọi nỗi chép ghi,
670Coi chơi há dám tạc bia để đời.

Chú thích
▲ Tuệ tinh là sao chổi (điềm gở !).
▲ Là Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật.

BẦN NỮ THÁN – 貧女嘆

Bần nữ thán – 貧女嘆

Bần nữ thán là lời than thở của người con gái nghèo. Đại ý nói: mình vốn có tài sắc, những mong sớm lấy được người chồng khá thế mà chỉ vì nỗi nghèo, thành ra duyên phận dở dang; sau kết lại cái ý bền chí đợi chờ, tất có ngày kỳ ngộ.

Kiếp phù thế, nhân sinh thấm thoắt,
Vì chữ bần, nên ngắt chữ duyên!
Ai làm số phận xui nên ?
Há thua sắc thắm, há hèn màu tươi.
5Con tạo hóa trêu ngươi chi tá ?
Đem sắc, tài thu cả vào khuôn,
Hiên tây thấp thoáng trăng suông,
Gió vàng hiu hắt như tuôn mạch sầu.
Niềm tâm sự thấp cao mọi nỗi,
10Tình cảnh này biết nói cùng ai?
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Bực mình mà gửi mấy lời vân vân.
Nghĩ mình cũng dự phần son phấn,
Cũng dự phần ngọc trắng, gương trong,
15Cũng môi son, cũng má hồng,
Cũng màu thi lễ cũng dòng trâm anh.
Cũng chải chuốt màu thanh vẻ quý,
Cũng não nùng trâm vẽ, hương xông,
Cũng hay nữ hạnh, nữ công,
20Nữ ngôn cũng lịch, nữ dung cũng mầu.
Vẻ quyền quý phong lưu cũng thuộc,
Nết đoan trang, trinh thục cũng ưa,
Ở ăn nề nếp sau xưa,
Dám sai phận gái mà thưa phép nhà.
25Việc canh cửi, tay đưa chân dận,
Đường dệt thêu bướm lượn óng đôi,
So xem quốc sắc, nữ tài,
Đã trong gia huấn, lại ngoài nam phong.
Khi nối gót kiếm, cung, kỵ, ngự,
30Khi theo đòi kinh sử, tứ thư,
Khi lựa vận, lúc so tơ,
Khi bầu Lý Bạch, khi cờ Trương Ba.
Dẫu chẳng phải ngọc ngà kỳ dị,
Nhưng cũng trong ý nhị thanh tân,
35Những mong vườn hạnh gặp tuần,
Gieo cầu đáng dịp, nhắc cân đương vừa.
Tuy chưa chắc cung phi hoàng hậu,
Thì cũng rằng mệnh phụ, phu nhân,
Hoặc là tài tử, giai nhân,
40Thì công sửa túi nâng khăn cũng đành!
May mà gặp khoa danh, khoa giáp,
Cũng bỏ công đánh sáp soi gương,
Những công trang điểm sửa sang,
Dẫu treo thước ngọc, nhà vàng cũng nên!
45Tưởng không nổi giận duyên, tủi phận,
Tưởng không điều nhạt phấn, phai son!
Một hai tính cuộc vuông tròn,
Đào còn đương thắm, liễu còn đương tơ.
Ngẫm duyên phận, ai ngờ nên nỗi,
50Nghĩ nguồn cơn, dở dói thêm càng,
Vì đâu nên nỗi dở dang?
Nói càng thêm giận, nghĩ càng thêm thương.
Con tạo hóa, đa đoan lắm nhẽ?
Cái tiện nghi chẳng xẻ cho cân.
55Giàu thì trọn vẹn mười phần,
Khó không cho một vài phân với người!
Tay nguyệt lão trêu người chi mấy,
Cầm lấy dây giữ mãi thế mà?
Giàu thì nẩy mực đương vừa,
60Khó thì để mãi trơ trơ sao đành.
Chị Hằng lại đành hanh chi mấy,
Quyết đang tay giữ mãi khăng khăng,
Cầm cân chẳng nhắc cho bằng,
Giàu thì nhắc đến, khó hằng chịu trơ!
65Trách người thế mập mờ có một,
Bỏ vàng mười mà chuốc thau ba,
Trách thay người thế mập mờ,
Chơi non chẳng biết rằng là non thanh.
Trách người thế vô tình lắm lắm,
70Cảnh thanh kỳ bỏ vắng chẳng chơi,
Trách thay người thế mà sai,
Chỉ tham bông thắm, nỡ hoài bông thơm.
Tưởng thế sự ai làm nên nỗi,
Nghĩ càng thêm tức tối, trăm chiều,
75Hay là số phận làm sao?
Xui ra duyên phận hẩm hiu thế mà!
Hay là kém da ngà mắt phượng,
Hóa cho nên bướm chán ong chê,
Hay là nắng chẳng thương huê,
80Để rầu bông thắm, để xơ nhị vàng?
Hay là kém màu gương, nước tủy,
Hay là thua màu quý, vẻ thanh,
Hay là thua đẹp, thua xinh,
Thua son, thua phấn, thua tình, thua duyên.
85Vì một nỗi thua tiền, thua bạc,
Hóa cho nên thua sắc, thua tài,
So ra ai đã kém ai,
Kẻ kia tám lạng, kẻ này nửa cân.
Vốn đã biết cái thân kẻ khó,
90Có dám đâu đánh đọ với giàu.
Rằng thì mang tủi đeo sầu,
Nói càng ấp úng, nghĩ thêm ngại lời.
Xuân xanh kể đôi mươi có lẽ,
Quả mai còn ba bảy đường tơ.
95Kìa như đông bích lân gia,
Kẻ đà bốc phượng người đà mộng lan!
Cũng mang tiếng hồng nhan với thế,
Nỡ nào nên ruồng rẫy chẳng thương.
Bao nhiêu thêu dệt y thường,
100Vì người ta sửa tư trang lấy chồng.
Cũng mang tiếng má hồng mặt phấn,
Luống năm năm chực phận phòng không.
Há rằng hoa chẳng chiều ong,
Cho nên tủi phận thẹn hồng lắm thay!
105Bắc thang đến cung mây mà hỏi,
Biết bao giờ phượng tới cành ngô?
Bao giờ bắc lại cầu Ô,
Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?
Tình rầu rĩ thôi xuân lại hạ,
110Cảnh thốt nhiên thu quá đông qua.
Rắp toan hỏi nguyệt than hoa,
Nguyệt trong mây tối, hoa đà ủ bông.
Giải phiền sắp so cung mượn chén,
Áng mây sầu cánh én chao nghiêng,
115Lựa vần nghĩ cuộc giải phiền,
Cờ tiên nước bí, thơ tiên túng vần.
Đêm thanh những âm thầm với bóng,
Mặt âm thầm mà bụng ủ ê,
Buồn trông gương sớm đèn khuya,
120Gương mờ nước thủy, đèn hoe lửa phiền.
Buồn trông cảnh, cảnh xiên bóng bạc,
Buồn trông trăng, trăng gác non tây,
Buồn trông ngọn cỏ lá cây,
Tháng ngày theo ngọn gió bay tơi bời.
125Buồn trông tranh, thẹn người tố nữ,
Buồn ngâm thơ, tủi chữ thanh xuân,
Buồn trông mây kéo dần dần,
Như tuôn khói tỏa, như vần khí thiêng.
Trông non tây đá xiên lỗ chỗ,
130Trông bể đông sóng vỗ mênh mông,
Lại càng như nấu như nung,
Như hun, như đốt, càng nồng, càng mê.
Trông ngàn Bắc so le ngọn cỏ,
Trông bể Nam, nhấp nhố thuyền câu,
135Lại càng như dệt như thêu,
Như vò như cuộn, càng khêu càng buồn.
Nghe oanh thành véo von rộn rã,
Nghe quốc hè ra rả giọng rên,
Lại càng ngơ ngẩn lao đao,
140Lại càng tức tối tâm bào lắm nao!
Nghe đêm thu ve sầu ri rỉ,
Nghe đêm đông giọng dế nỉ non,
Lại càng rầu rĩ bồn chồn,
Lại càng tức tối gan vàng chẳng xong.
145Buồn muốn nói, nghĩ không nên nói,
Buồn muốn trông, lệ lại chứa chan,
Sắt cầm muốn lựa phím loan,
Giọng sầu ra rả cho đàn ngang cung.
Buồn cầm quạt, khi phong khi mở,
150Ngâm thơ tình, tình nhớ, tình quên,
Thương vì phận, xót vì duyên,
Chẳng ai phận nấy, hóa nên nỗi buồn.
Càng nghĩ lắm, tâm hồn tức tối,
Nghĩ nguồn cơn nông nỗi càng đau,
155Chẳng qua kẻ trước người sau,
Thôi thôi, ta sẽ bán sầu làm tươi.
Lọ là phải bàn may bàn rủi,
Lọ là nên kẻ tủi người sầu,
Ai ơi, xin chớ cười nhau,
160Chẳng qua mai trước, hạnh sau khác gì.
Mai nở trước, mai cười hạnh muộn,
Hạnh nở sau, hạnh ngán mai suy,
Hạnh, mai cười lẫn nhau chi,
Đến kỳ kết quả, đến kỳ khai hoa.
165Kìa trai già có khi nở ngọc,
Nọ trúc đông có lúc nẩy măng,
Kìa thì nước nọ thì trăng,
Trăng thường tròn khuyết, nước hằng đầy vơi.
Đêm thì có khi dài khi ngắn,
170Thời tiết trời khi nắng khi mưa,
Năm khi thiếu, có khi thừa,
Ngày thì khi sớm khi trưa khác nào.
Có đâu lại gieo đào trả lý,
Có đâu nên nhắn cá gửi chim,
180Miễn cho chí ở cho bền,
Chẳng lo phận khó, chẳng phiền muộn duyên.
Kim, Kiều nọ, ước nguyền mấy độ,
Phan, Trần kia gắn bó bao lâu,
Ấy là sớm đã gặp nhau,
180Mà còn cách trở lâu lâu sum vầy.
Kim cúc nọ, sương bay mới nở,
Kinh tùng kia, tuyết vỗ càng xanh.
Kìa sen, tiết muộn cành xinh,
Có khi cũng gặp duyên lành như ai.
185Hễ hãy còn mày ngài mắt phượng,
Hễ hãy còn má phấn môi son,
Còn đời, còn nước, còn non,
Hãy còn cát sĩ hãy còn cát nhân.
Thôi thì thôi, vườn xuân chực khóa,
190Giận những loài nhạn cá ỏi tai!
Thôi thì vườn khóa then cài,
Lấp dòng lá thắm, ngăn loài chim xanh.
Nỡ nào để hồng ngâm chuột vọc,
Nỡ nào để hạt ngọc trâu vầy,
195Quyết gan chờ kẻ cân đai,
Sớm khuya đành phó mặc nơi thanh hoàng.
Mã Long tuấn gặp chàng Bá Nhạc,
Ngọc Kinh sơn gặp được Biện Hòa.
Nước non kia hẳn chưa già,
200Nhân duyên kia định, cũng là có nơi.
Còn hàn vi biết ai hay ai dở,
Trải phong trần mới rõ khá hèn.
Hễ mà vận đến thì nên,
Giàu sang cũng có, nhân duyên cũng mầu.
205Phượng chắp cánh kia còn đợi gió,
Rồng sinh răng cũng biến lên mây,
Trăm năm có phải một ngày,
Ôm cầm lựa lọc so dây bốn bề.
Nên kết tóc xe tơ cho phải,
210Đáng văn nhân tài tử mới trao,
Ngọc lành còn đợi giá cao,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Muộn thì muộn, muộn thì càng chắc,
Khó đành khó, khó chẳng lụy ai.
215Giận duyên nói bấy nhiêu lời,
Ai khen cũng mặc, ai cười mặc ai.

MỤC-LIÊN BẢN HẠNH

Mục-liên bản hạnh
Hoàng Xuân-Hãn
Phiên âm từ bản nôm,
hiệu-đính và chú-thích
Dẫn
Sau đây là chuyện đức Bồ-tát Mục-liên soạn bằng Việt-ngữ xưa , theo thể lục-bát, để Phật-tử nhớ và tôn-sùng một vị La-hán có tiếng rất hiếu-hữu, đã cứu mẹ ra khỏi Địa-ngục. Cũng nhờ hành-động của Ngài mà nay có lễ Vu-lan ngày rằm tháng bảy để báo-hiếu cho tổ-tiên.

Bồ-tát người Bắc-Ấn-độ, vốn tên Maudgalyâyana, hoặc Moggalâna. Người Trung-quốc đã phiên ra chữ Hán mà ta đọc là Mục-kiện-liên hoặc gọi tắt là Mục-liên. Mục-liên là một trong mười vị đệ-tử cao nhất của đức Phật. Là con nhà phú-hữu, trái ý với cha mẹ, Ngài đi tu đạo Bà-la-môn, thành bực thầy có tới năm mươi đệ-tử, và nổi tiếng giỏi các phép thần-thông. Nhưng chưa toại ý với đạo-lí mình đã học, Ngài kết bạn với một đồng-chí xá-lị-phất (cariputra ) đến kinh-đô Vương-xá-thành ( Radjagriha ) của nước mình Ma-kiệt-đề (Magadha ) để học-hỏi sáu thầy Bà-la-môn nổi tiếng. Nhưng cũng không toại nguyện. Trong sáu thầy ấy, có San-xà-da ( Sajaya ) mách cho biết rằng thái-tử Thích-ca-mâu-ni (çakyamouni) đã tu đắc-đạo và sắp tới Vương-xá-thành thuyết-pháp. Hai người bèn đợi. Lại có bạn của Xá-lị-phất là Át-bệ ( Açvajit ) đem đạo-lí của đức Phật kể lại cho nghe, hai người xin qui-y và theo đức Phật, rồi nên hai vị đệ-tử rất cao trong Phật-giáo. Đức Phật đã rất chú-trọng đến hai người, khẳng-định rằng cả hai sẽ thành Phật, và coi Mục-liên là đệ-tử thần-thông bậc đầu.

Phật-tử đời sau chú-ý nhất vào truyền-thuyết chuyện bà mẹ Mục-liên, tên là Thanh-đề, bị đày vào ngục A-tì vì bà có ác-tâm. Mục-liên thương mẹ, bèn xin Phật giúp đi cứu. Phật bảo nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư-tăng “ra hạ” mà làm lễ trai-đàn xin chư-tăng cầu xá tội cho mẹ. Phật lại cho một cái gậy bít thiếc có phép mở cửa khi gậy gõ vào, và Phật trỏ cho Mục-liên biết mẹ bị giam ở ngục nào? Nhờ vậy, Mục-liên tìm được nơi mẹ bị đày; rồi nhờ ngục-tốt gọi mẹ ra nhận mặt. Thanh-đề nói không có con nào tên Mục-liên. Mục-liên phải giải-thích rằng đó là hiệu sau khi tu chứng-quả. Mẹ mừng và ra ngục với con. Mục-liên mời mẹ ăn chuối. Bà bóc vỏ, vứt xuống đất, những tù-nhân khác muốn lượm ăn. Bà bèn lấy chân dày cho nát. Con biết mẹ còn nghiệp-chướng; lòng buồn, nhưng cũng làm phép dâng mẹ bát cơm trắng. Mẹ mừng, và ăn cơm; nhưng khi cơm sắp vào miệng thì lại hoá ra than. Phật cũng không độ được kẻ ác-tâm; Thanh-đề lại phải luân-hồi làm kiếp chó để tự-tu thêm. Nhờ con tu-hành, chư-tăng giúp cứu, ba năm sau, bà mới trở lại kiếp người.

Văn-kiện sau đây kể lại chuyện nầy bằng quốc-âm, thể lục-bát dễ hiểu, dễ nhớ để giáo-hoá phật-tử nước ta. Giá-trị bản văn không hơn những chuyện cổ-tích bằng văn lục-bát đời Lê còn lại ngày nay. Chữ vần nhiều nơi chọn vụng. Quí là về phương-diện cổ-ngữ Việt. Trong chính-văn ngắn-ngủi , chỉ có 162 vế ( 1134 từ) mà văn-bản còn giữ được khá nhiều từ cổ (tôi viết tắt bằng ám-hiệu “t.c.” trong vòng đơn), hoặc nghĩa cổ, hoặc âm cổ bằng cách đổi âm trắc ra âm bằng (tôi viết tắt bằng ám-hiệu “b.â.” trong vòng đơn).

Một tính-cách khác của Phật-giáo đời Lê cũng thấy trong văn nầy: ấy là “Tam giáo tĩnh hành”: những quan-niệm Lão và Khổng được ghép vào trong chuyện Phật-giáo. Ví như nói đến lễ Trung-nguyên, tức rằm tháng bảy, nói đến chữ Nhân trong cách xử-thế, lại không quên ơn Vua và chúc nước vững-bền.

Tuy văn-bản nôm không mang thời-điểm khắc, nhưng chữ nôm cổ, từ-ngữ cổ vẫn còn. Vả lại tôi được thấy bản in nầy đóng cùng với một sách khác có tựa khắc năm 1731 (Vĩnh-thọ tam niên), một loại sách có chữ nôm mà tự-dạng còn mới hơn, dùng bởi các thiền-sư Tam-giáo để làm những lễ trai-đàn (tên sách làCung-văn dịch đình bài-biện các đàn). Tôi nghĩ rằng văn-bản nầy đáng được coi là khắc tự đời Lê, trước 1731. Chữ khắc khá chính-xác, tuy rằng cũng có chữ không thành hình hoặc lầm ra chữ khác. Có chữ mà tôi chữa vì chắc sai hoặc nghi sai, thì tôi sẽ dùng ám-hiệu “ng.” trong vòng đơn, nghĩa là: nguyên là. Trong bản phiên-âm, tôi cũng chú-giải những từ tối nghĩa, viết bằng chữ xiên trong vòng đơn liền sau những chữ ấy. Tôi cũng sẽ xếp các từ được chú-giải ấy vào một phần tự-vựng đặt cuối sách. Sau các từ, sẽ có những số mã trỏ vế mang từ ấy và có chữ mang cả chú-thích nữa. sau nầy, nếu có nhịp, tôi sẽ phiên âm bài tựa sách Cung văn dịch đình bài biện các đàn và cho phụ vào đây.

Ngày 4 tháng 9 năm 1994 , PL 2538
Hoàng Xuân-Hãn
Mục-liên tu đạo
1 Tích xưa Đức Bụt Mục-Liên
Thương mẹ tìm đến Tây-thiên tu-hành
Ba năm chứng-quả viên-thành
Một bát một mình nhẫn-nhục từ-bi

Mẹ ác bị đày

5 Thanh đề (tên mẹ) từ thủa sinh-li (sinh ra)
Tội nặng, sa ngục A-tì khốn thay !
Diêm-vương đôi-hỏi (vặn tra) đòi ngày (nhiều ngày)
Dương-gian thiện ác, biết hay ca (t.c. : tại) lòng
Khán-quan kiểm-bộ tiên-đồng ( kẻ coi sổ giữ ngục)

10 Mở sổ ròng-ròng biết sự ngay gian
Thanh-đề nết ở đá-đoan (t.c. đa-doan)
Thấy người đói khát cơ-hàn chẳng thương
Sát-hại lục-súc ngưu dương (trâu dê)
Tổn tha vật-mệnh (sinh-mệnh chúng), phỉ (nhạo) thường báng tăng

15 Cho nên quả-báo chẳng hằng (quái gở)
“Nhị tác nhị thụ” (mầy làm mầy chịu), đọa chưng (rơi vào) U-đồ (đường tối:Âm-phủ)

Mục-liên tìm mẹ

Con tìm mười cửa Phong-đô
Chẳng thấy từ-mẫu, biết hồ (biết là) làm sao
Trở về bạch Bụt thấp cao :

20 ((Còn có ngục nào, vâng phép lại đi ))
Bước qua khỏi dặm Bách-kì
Coi thấy cửa ngục thành-trì ghê thay !
Tích-trượng (gậy bít thiếc) cầm ở ca (t.c: 8) tay
Gõ vào cửa ngục, mở bày song-song

25 Ngưu-đầu ngục-tốt (kẻ giữ ngục có đầu trâu) tây đông
Vâng phép đều cùng phóng xá tội-nhân
Thấy mẹ khổ-hải (bể khổ) trầm-luân
Bằng dao cắt ruột mười phần quặn đau
Thanh-Đề mới bảo trước sau:

30 (( Mẹ phải cơ-cầu (đói khổ), nhiều nỗi gian-nguy
(( Từ ngày thác xuống Âm-ti
(( Mẹ phải cầm ngục A-tì khốn nay
(( Ơn con báo-bổ làm chay
(( Phá được ngục nầy, mẹ mới thoát thân

35 (( Chẳng còn bén chút phàm-trần
(( Tổ-tiên nội ngoại, song-thân hoà đồ (tất cả)
(( Được ngồi cửu-phẩm (cao chín bậc) Tiên-đô
(( Tống-thực Thiên-trù (bếp Trời cho ăn), hỉ-xả từ-bi ))

Cứu mẹ khỏi tù

Mục-Liên thủa ấy mới ( ra? ng. là) đi
40 Tìm chẳng thấy mẹ, ngồi thì hoà (cả) lo
Mười tám cửa ngục rạc (t.c. giam) tù
Thương mẹ thay là! Tìm chẳng thấy đâu
Dòng-dòng nước mắt thấm bâu (t.c. tay áo; ng: dâu)
(( Mẹ ơi mẹ hởi ! ở đâu ? Thương nầy ! ))

45 Bụt bảo Mục-Liên rằng bay (t.c. như vầy) :
(( Mẹ Ngươi bấy-chầy (bấy lâu) cầm ở Phong-đô
(( Mười tám cửa ngục rạc tù
(( Non cao cồn-cộn, Phong-đô rái dàng (đáng sợ) ! ))
Mục-Liên coi thấy chẳng đang

50 Tay cầm tích-trượng gõ ngang cửa tù
Thanh-Đề ra hỏi sự-do:
(( Người nào hay đến Phong-đô chốn nầy ? ))
Mục-Liên thưa lời rằng bay (45)
(( Tớ đi tìm mẹ chốn nầy, là Nuôi (t.c. thưa Ông)

55 (( Bụt đã bảo tớ mọi lời
(( Ơn Nuôi (t.c. Ông, Bà) đòi bảo mẹ nầy ra đây ))
Quỉ-sứ (ng: Ơn sứ) vào bảo một giây (chóng) :
(( Có Mục-Liên Thầy tìm mẹ phu-nhân ))
Thanh-Đề mãng (t.c. nghe) tiếng, than thân :

60 (( Mục-Liẽn tên ấy, phu-nhân khôn (khó) nhìn
(( Dương-gian, là vóc (thân) con min (t.c. ta)
(( Tên thì (ng: ngày) chẳng phải Mục-Liên đâu là ))
Quỉ-sứ khi ấy lại ra:
(( Mục-Liên chẳng phải con bà thân-sinh ))

65 Mục-Liên lại bảo phân-minh
Dẫn-dụ sau trước chân-tình cho hay:
(( Mẹ sinh ra vóc (61)thật rày
(( Xuất-gia làm Thầy, cải hiệu Mục-Liên
(( Đêm ngày thương mẹ đi tìm

70 (( Bụt cho một trượng tích-kim (thiếc) con gầy (gậy b.â.)
(( Thấy vậy tìm đến chốn nầy
(( Ơn Nuôi (56) ngày rày bảo Mẹ ra đây ))
Quỉ-sứ vào bảo một giây (57)
Thanh-Đề mừng giã các rày tù-nhân :

75 (( Con tôi có nghĩa thập-phân (hoàn-toàn)
(( Xin ra cho biết, kẻo phần đợi trông ))
Thanh-Đề ra cửa Đông-phong
Mục-Liên coi thấy cúc-cung (cúi mình) tạ-từ
Đôi hàng nước mắt bằng mưa

80 Ôm mẹ hoà (t.c. mà) khóc qua ư (t.c. quá chừng) thương nầy:
(( Thì-vần (vận b.â.) quả-báo chẳng tây (t.c.tư, riêng)
(( Nhị tác nhị thụ” (16), ai rày chịu cho
(( Bấy-chầy (46) Mẹ thác Phù-Đồ (Âm-phủ)
(( Mẹ ôi! Quả-báo Phong-Đô nhật-dà (dạ b.â.: đêm ngày)

85 (( Áo-ăn (ăn-mặc) làm thấy xấu-xa
(( Ba năm tù-rạc thật là gian-nguy
(( Bây-giờ chẳng có của chi
(( Thì-trân quả-thực (trái ngon đúng mùa) Mẹ thì xá (t.c. hãy) ăn))

Mẹ còn tính ác

Lòng (mẹ) còn toan ( nghĩ ) dữ làm ngần (t.c. quen)

90 Ăn chuối bỏ vỏ; tù-nhân ăn mày
Chẳng cho, lấy chân đạp dày
Mục-Liên coi thấy, thương thay cong (t.c. : trong) lòng :
(( Thể-âu (t.c. hẵn là) quả-báo làm xong (t.c. thật thế)
(( Ước làm sao khỏi thoát vòng u-minh ))

95 Mục-Liên niệm-cứu hương-kinh
Hoá bát cơm trắng, hoá hình mẹ ăn
Thanh-Đề chịu chẳng làm ngần (89)
Và chưa đến miệng, cơm rày (liền ?) ra than
Mục-Liên nước mắt hoà (t.c. cả) chan (đầy)

100 (( Mẹ ơi mẹ hởi! Bàn-hoàn (bâng-khuâng) thương thay!
(( Thể-âu (93) quả-báo còn chầy (t.c. lâu)
(( Mẹ con nhiều nỗi đắng cay trăm đường ))

Mẹ bị thêm kiếp chó

Thanh-Đề chịu những tư-lương (lí-luận)
Đọa làm thân chó, chực trường (dài) ba năm

105 Dòng dòng nước mắt chiêu đăm (t.c. tả hữu)
Chịu làm thân chó cổ câm (kim) khác loài
No (t.c.đủ) ngày mới được làm người
Vì chưng quả-báo chẳng sai đâu là
Thụ tội khốn-khổ ai qua

11O Rày mới cốc (t.c.: biết) tính, sự nầy biết hay
Nhớ ơn có Mục-Liên Thầy
Minh tâm kiến tính (rõ tâm thấy tính) thuả nầy ai qua
Dựng làm Thủy Lục trai-gia (lễ chay thủy bộ)
Kim-ngân châu-báu phát ra làm ngần (89)

115 Trước là báo đức từ-thân
Sau là Thất-tổ (bảy đời trên cha) trầm-luân hoá-hồn

Mục-liên cứu mẹ

Cùng nhờ Đại-Pháp Không-môn
Bao nhiêu hoành-mệnh (sinh mệnh) đẳng-hồn thoát ra
Tụng kinh liên-tiếp nhật-dà (84)

120 Khai phương (mở lối), phá ngục khắp hoà (cả) làm nơi (các chỗ)
Chuyển luân (quay bánh xe) Pháp, trống vang trời
Thỉnh Thập-phương Phật hộ nơi chứng-đàn (đàn cầu xin)
Thinh-văn (đệ-tử được nghe Phật) Bồ-tát hai bên
Đồng trợ công-đức mạn-viền (viên b.â: đầy đủ) thuả nay

125 Tụng kinh Huyết-bồn (tên kinh gán cho Mục-liên) khi nay
Trung-Nguyên (lễ rằm tháng bảy) xá tội thoát rày Phong-Đô
Bao nhiêu địa-ngục lao-tù
Cùng được thoát cả Tiên-đô thanh-nhàn

Mục-Liên cứu mọi người

Mục-Liên nhớ đức Từ-nhan

130 Mãn-viên (124)bát-độ (dựng đặt) trai-đàn tiến-tu
Huyết-bồn (125) đẳng chúc Cửu-Ngu (chín đời si-mê ?)
Nhiễu đàn tam táp (đi quanh đàn ba vòng) Phong-Đô rành-rành
Bao nhiêu tù-ngục lạc-hình (trại giam)
Bụt liền xá tội, siêu-sinh làm ngần (89)

135 Thanh-Đề từ ấy thoát thân
Khỏi loài cầm thú cổ-câm (kim) từ rày
Nhờ ơn có Mục-Liên Thầy
Các các môn ngục đều rày hoá Tiên
Ai ai hưởng lộc tự-nhiên

140 Thất- tổ Cửu-huyền (chín đời trước) đều được hoá sinh

Lễ trung-nguyên và dòng tam-giáo
Cam-lồ (sương ngọt) nước rưới tĩnh-thanh (trong-trẻo)
Làu-làu kim-tướng (mình Phật) toạ bình (màn che) liên-hoa
Thiều (đàn), tiêu (sáo), nhạc vỗ, xướng ca
Bảy hàng cây báu rà-rà nở đua
145 Trung-Nguyên (126) phóng-xá lao tù
Mục-Liên tiếp-dẫn, Diêm-phù sạch không
Từ rày đắc đạo thành công
Muôn năm hưởng phúc, Quốc-trung khoẻ bền
Viên-dung (thông suốt) báu-phiệt (bè từ-bi) vạn tuyền

150 Hữu tội, vô tội, thoát liền lâng-lâng
Thủy thanh (nước trong) nguyệt hiện trừng-trừng (suốt suốt)
Một cơn gió thổi quét chưng (t.c. ấy) bụi trần
Ai ai đội đức Hoàng-ân (nhà Vua)
Thập-bát địa-ngục làm ngần (89) hỉ-hoan

155 Ngưu-đầu, mã-diện thiên ban (nghìn thứ quỉ giữ ngục)
Đều thì phóng-xá khải-hoàn (thắng về) Thiên-quân (đồn Trời)
Khuyên người thiện-tín xa gần
Xá (t.c. hãy) tu cho chín, chữ nhân chớ dời
Độc dữ quả-báo vô-sai

160 Ai hoà (t.c. mà) giữ được, ấy mai được tuyền
Hạnh nầy truyền để thiên niên (nghìn năm)

162 Mục-Liên thành Phật, thành Tiên chép làm ./.

Nam Mô a-di-đà phật
Thiên-Tử Vạn vạn niên chi thọ

Paris ngày trước Trung-nguyên năm Giáp Tuất
Phật-lịch 2538 (C.l. 1994)
Hoàng Xuân-Hãn phiên-âm từ bản Nôm và chú-thích

Mục – lục
Tiểu-đề
số vế
từ vế

Mục-Liên tu đạo
4
1
Mẹ ác bị đày
12
5
Mục-Liên tìm mẹ
22
17
Cứu mẹ khỏi tù
50
39
Mẹ còn tính ác
14
89
Mẹ bị thêm kiếp chó
26
103
Mục-Liên cứu mọi người
12
129
Lễ Trung-nguyên và dòng Tam-giáo
22
141
Hết
162
162

Bảng dẫn tiếng cổ

Áo ăn 85
Bạch 19
Bàn hoàn 100
Báo bổ 33
Bay (x Rằng) 45;53
Bằng 28;79
Bâu 43
Ca 8;23
Câm 136
Cầm 32;46
Cong 92
Cốc 110
Cồn-cộn 48
Cơ-cầu 30
Chan 99
Chầy 46;83;101
Chiêu đăm 105
Chưng 16;152
Chứng 3;122
Dà 84;119
Dàng 48
Đá-đoan 11
Đăm (x. Chiêu) 105
Đoạ 16;104
Đòi 7
Đồ 36
Đôi hỏi 7
Gầy ( =gậy) 70
Giây(x. Một) 57;73
Hằng 15
Hoà: cả 36;40;99;120
Hòa : mà 80
Hồ 18
Khỏe bền 148
Khôn 60
Làm nơi 120
Làm ngần 89;97;114;134;154
Làm xong 93
Lạc (x. Rạc) 133
Mãng 59
Min 61
Một giây 57;73
No 107
Nuôi 54;59;72
Phỉ 14
Qua ư 80
Rạc 41;47;86
Rái 48
Sinh li 5
Tây (riêng) 81
Tây đông 25
Toan 89
Tư-lương 103
Thầy 58;68;137
Thể-âu 93;101
Viền ( =viên) 124
Vóc 61;67
Xá 88;158

HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ

Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ nhất

Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung
Vương Thế Tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín.

Triều Lê Trang tông Dụ hoàng đế (Tức Lê Trang Tông, tên là Duy Ninh (1533-1548). Các chú thích từ đây trở đi đều của người dịch) trung hưng cơ nghiệp ở sông Tất Mã (Tức sông Mã ở Thanh Hoá). Bấy giờ Thế tổ Minh khang thái vương Trịnh Kiểm làm phụ chính, giúp vua dẹp yên được đảng họ Mạc và trở lại kinh đô cũ. Rồi từ đó, họ Trịnh đời đời kế tiếp tước vương, nắm giữ hết quyền bính trong tay, hoàng gia mỗi ngày một suy yếu dần.

Truyền đến đời Hiển tông Vĩnh hoàng đế, niên hiệu Cảnh hưng (1740-1786), thì Thánh tổ Thịnh vương (Tức Trịnh Sâm, mới lên ngôi chúa) chuyên quyền cậy thế, làm oai làm phúc; vua Lê chỉ còn biết chắp tay rủ áo mà thôi.

Thịnh vương là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài về văn lẫn võ, đã xem khắp kinh sử, biết làm văn làm thơ. Sau khi Thịnh vương lên nối ngôi chúa, từ kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước, hết thảy đều được sửa đổi; bao nhiêu tướng giặc, đảng nghịch, đều lần lượt bị dẹp tan, Chúa có cái chí muốn làm bá chủ, nào diệt giặc Trấn Ninh, nào phá bọn Công Chất [đây là hai cuộc khởi nghĩa nông dân lớn ở thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật ở vùng Thanh-Nghệ, lấy Trấn Ninh làm căn cứ, kéo dài 32 năm (1738-1770). Cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở vùng Sơn Nam và Tây Bắc, kéo dài 30 năm (1739-1769)], quân nhà chúa đã đến, không chỗ nào là không thắng. Lúc đó bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, chúa dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích.

Một hôm, tiệp dư (Một cấp bực của vợ vua, dưới bậc phi) Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. ả họ Đặng này, quê ở làng Phù Đổng, mắt phượng mày ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông với ả.

Từ đó, Thị Huệ càng ngày càng được nhà chúa yêu quí, ả nói gì chúa cũng nghe và hễ có việc gì là chúa cũng bàn với ả. Rồi ả được ở chung một nơi với chúa, y như một cặp vợ chồng nhà thường dân. Xe kiệu, quần áo của ả cũng đều được sắm sửa hệt như đồ dùng của chúa.

Thị Huệ từ lúc được nhà chúa chiều chuộng, hơi có vẻ lộng hành. Hễ có chuyện gì không vừa ý, là ả xây xẩm mặt mày, rồi kêu khóc thảm thiết để làm rối lòng chúa.

Chúa có một viên ngọc dạ quang, lấy được trong khi đánh dẹp phương Nam, vẫn xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói:

– Nhè nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!

Thị Huệ bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng:

– Làm gì cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh người như vậy?

Rồi ả tự ý bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ dành cho ả vui lòng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa.

Kịp đến khi Thị Huệ có mang, chúa liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu sinh con thánh. Đến kỳ, ả sinh được một trai, vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh hưng 38 (1777). Chúa hết sức yêu mến đứa bé, lúc đầy trăm ngày, chúa lấy tên của mình lúc nhỏ là Cán mà đặt cho nó, để tỏ ra nó cũng giống mình.

Khoa thi hương năm ấy, chúa lấy hai câu: “Sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung” (Nghĩa là: “Khí thiêng của sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc nên”, ý muốn chỉ về Trịnh Cán), để làm đề thi. Các quan văn võ đưa đón ý chúa, cũng có nhiều kẻ lấy chữ: “Tính huy hải nhuận” (nghĩa là: “Sao sáng, biển hoà” tức là điềm sinh ra bậc thánh) làm câu chúc mừng.

Lúc vương tử Cán đầy tuổi tôi, cốt cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà, khác hẳn người thường. Đến khi biết nói, vương tử Cán đối đáp gãy gọn, cử chỉ không khác gì người lớn. Mỗi khi các quan văn võ vào thăm, vương tử tiếp đón với dáng bộ nghiêm chỉnh. Có người cách hàng năm mới gặp, vương tử cũng vẫn nhớ rõ họ, tên, kể lại chuyện cũ vanh vách. Chúa sai quan từ hàn làm bài tụng 16 chữ, để viên a bảo (viên quan trông nom việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái của vua chúa) dạy truyền miệng cho vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc liền. Thấy vậy chúa càng quí vương tử Cán bội phần.

Cũng do đó, Thị Huệ mới ngầm có ý muốn cướp ngôi thế tử.

Lại nói, lúc ấy chúa đã có thế tử là Trịnh Tông (sau đổi là Trịnh Khải), do thái phi họ Dương đẻ ra. Thái phi tên là Ngọc Hoan, người ở làng Long Phúc, huyện Thạch Hà. Chị nàng là cung tần của Ân vương (cha Thịnh vương, tức là Trịnh Doanh), sinh ra Thuỵ quận công, được Ân vương hết sức yêu quí. Nhờ chị, thái phi được kén vào làm cung tần của Thịnh vương. Nhưng từ sau khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm sống cô quạnh. Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng. Nàng không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi viên quan hầu là Khê trung hầu. Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh.

Hôm sau, chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu. Khê trung hầu cố ý giả làm nghe lầm, đưa ngay thái phi Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhưng đã chót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa đòi Khê trung hầu vào trách mắng. Khê trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho chúa nghe. Chúa cũng nín lặng không nói sao cả.

Thái phi trải qua một trận mưa móc, liền có thai ngay. Đến kỳ, nàng sinh ra một trai. Năm Quí-mùi, Cảnh hưng 24 (1763).

Chúa tự nghĩ đầu rồng tuy có khí tượng làm vua, nhưng là rồng vẽ không phải rồng thật, mà lại chỉ có đầu không có đuôi, như vậy chưa hẳn đã là điềm tốt cả. Vả lại ở triều trước, Trịnh Cối, Trịnh Lệ (Trịnh Cối là con Trịnh Kiểm, Trịnh Lệ là con Trịnh Doanh. Hai người này đều mưu đồ giành ngôi chúa, nhưng đều thất bại) cũng do người Long Phúc đẻ ra và đều mưu sự phản nghịch mà không thành.

Do đó, chúa có ý không vui. Các quan văn võ vào chúc mừng, chúa lấy cớ rằng đứa con ấy không phải là vợ cả đẻ ra, từ chối không nhận lời mừng.

Khi thế tử Tông đã lớn, dung mạo rất khôi ngô mà chúa cũng chẳng yêu chiều gì mấy.

Tính thế tử ham võ nghệ, không thích học hành. Năm lên bảy tuổi, chúa sai Nguyễn Khản (Nguyễn Khản là con Nguyễn Nghiễm, người huyện Nghi Xuân Nghệ Tĩnh có sách chép là Nguyễn Lệ) tiến sĩ khoa Canh-thìn (1760), làm tả tư giảng, và Trần Thản, tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), làm hữu tư giảng để rèn tập cho thế tử. Nhưng chẳng bao lâu, Thản chết. Còn Khản thì đang được chúa tin dùng, phải quán xuyến mọi công việc trong ngoài, nên cũng không mấy khi đến được chốn “màn giảng”, chỉ có năm sáu viên tuỳ giảng bảo ban việc học cho thế tử theo như nếp cũ mà thôi. Chuyện đó chúa cũng có biết phần nào, nên lại càng không bằng lòng.

Theo lệ cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông cung. Bấy giờ các quan cũng có tâu trình việc ấy; song chúa không cho, bắt thế tử phải đến ở tại nhà riêng của quan a bảo là Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như vậy, ngôi đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người khác.

Đến năm thế tử mười lăm tuổi, thì con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, thế tử đúng mười tám tuổi. Theo lệ cũ, thế tử đáng được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng không hề nhắc tới việc ấy.

Như thế là người nối ngôi vẫn chưa định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về thế tử Tông thì hùa theo thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào phe vương tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.

Thị Huệ cho rằng thế tử Tông đã khôn lớn, lông cánh đã đủ; mà con mình hãy còn trứng nước, nên càng mưu mô để gây thêm thế lực.

Khi ấy Huy quận công Hoàng Tố Lý (nguyên trước là Hoàng Đăng Bảo) đang có danh vọng lớn, thường dựa vào sự giúp đỡ của Thị Huệ; mà Thị Huệ thường cũng lấy quận Huy làm chỗ nhờ cậy bên ngoài. Quận Huy người làng Phụng Công, là cháu Bình Nam thượng tướng quân Việp quận công là Hoàng Ngũ Phúc, vẻ người thanh dật, là tay văn võ toàn tài. Khoa thi hương năm ất-dậu (1765), Huy đi thi được trúng cách; đến khoa thi võ năm Bính-tuất (1766) Huy lại đỗ luôn tạo sĩ. Hồi ấy Ân vương còn đang trọng dụng quận Việp, mới gả con gái thứ cho quận Huy.

Uy quyền quận Việp mỗi ngày một lớn. Có người ngờ sẽ xảy ra điều gì bất trắc, hoặc cũng có kẻ bảo quận Việp sắp lấy thiên hạ để truyền cho quận Huy. Căn cứ vào lời sấm hồi ấy có câu: “Nhất thỉ trục quần dương”. (Một con lợn đuổi đàn dê); có kẻ tán rằng: Thỉ tức là quận Huy, bởi vì quận Huy tuổi hợi (thuộc lợn), mà dương đây chỉ vào chúa và thế tử, vì cả hai đều tuổi mùi (thuộc dê). Rồi những kẻ hiếu sự lại còn đặt ra câu sấm: “Thảo nhất điền bát” (Cỏ một, ruộng tám) để chỉ vào chữ Hoàng (thảo nhất điền bát chắp lại thành chữ Hoàng chỉ Hoàng Ngũ Phúc). Có kẻ lại nói: “Thổ sất vân gian nguyệt, hoàng hoa ánh nhật hương”. (Mảnh đất sánh trăng trong mây; hoa cúc ánh hương mặt trời). Thổ, sất, nguyệt là chữ tế (chữ tế nghĩa là con rể, chỉ quận Huy). Hoàng, hoa, nhật là chữ Việp (Chữ Việp gồm chữ hoa và chữ nhất, còn chữ Hoàng là họ Hoàng), chỉ quận Việp. Thêm nữa, tên cũ của quận Huy là Đăng Bảo (Có nghĩa là: lên ngôi báu) người ta cũng lấy đó để dị nghị. Vì vậy quận Việp muốn tránh sự hiềm nghi ấy mới bảo quận Huy đổi tên Đăng Bảo ra Tố Lý.

Sau quận Việp lấy cớ mắc bệnh đau mắt để xin từ chức, chuyện ấy chẳng nhắc làm gì nữa.

Lại nói năm Giáp-ngọ (1774), quận Việp phụng mệnh kéo quân vào đánh trong Nam, có đem quận Huy đi theo. Quận Huy vốn đã học được phép dùng binh gia truyền của quận Việp, nên được các tướng tá rất sợ phục. Huy lại khéo cắt đặt nhân tài, nên các tay hào kiệt đều vui lòng chịu sai khiến. Huy có công luôn luôn phá được quân địch, tiếng tăm mỗi ngày một lẫy lừng. Khi dẹp yên được xứ Thuận Hoá thì quận Việp qua đời. Chúa bèn giao luôn cho quận Huy quản lĩnh số quân của quận Việp, và cho làm trấn thủ Nghệ An.

Đóng ở trấn Nghệ An. Huy ra sức tiêu diệt trộm cướp, cấm đổi tiền (đổi tiền đẹp để tích trữ, làm cho tiền khan hiếm), trấn áp cường hào, ngăn chặn việc kiện cáo, làm cho trong hạt rất thịnh vượng, Huy lại thu dụng những kẻ anh tài, đặt ra nhiều chức liêu thuộc. Dưới trướng ông ta có những tên như tả, hữu tham quân chẳng hạn. Thế là thiên hạ lại ồn ào lên, đồn rằng quận Huy sắp sửa làm phản.

Chúa nghe tiếng, ngày ngày cùng viên triều thần tin cẩn là Nguyễn Khản và quan thế tử a bảo Hân quận công Nguyễn Đĩnh bàn cách giết Huy. Trong lúc bàn bạc, ba người vẫn dùng tiếng lóng “chữ thập” để chỉ quận Huy. Vì chữ thập cũng na ná chữ nghệ (chữ thập xoay chéo thành chữ nghệ viết tắt) là trấn Nghệ An, nơi quận Huy đóng quân.

Họ thường đuổi mọi người đi để bí mật bàn bạc, chỉ có Thị Huệ là biết được.

Công chúa vợ quận Huy, ngày đêm ra vào trong phủ luồn lọt Thị Huệ; Thị Huệ mới đem việc kín nói cho công chúa nghe. Quận Huy trong dạ không yên, dâng thư xin về triều. Chúa cho phép ngay.

Huy nghĩ rằng Thị Huệ tuy được chúa yêu, nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi đó thế tử đã lớn rồi, hùa theo Thị Huệ e không phải là kế lâu bền. Vì vậy, sau khi đã vào hầu chúa, Huy liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của thế tử, để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy lại đem một trăm lạng vàng và mười tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến, để xin vào ra mắt thế tử. Nhưng thế tử không nhận đồ lễ, cũng không cho vào gặp, nói riêng với bọn hầu cận rằng:

Thằng giặc ấy sao không ở trấn làm phản, mà lại vội về triều? Rồi đây ta sẽ tịch thu hết cả gia sản nhà nó, cần gì đồ lễ của nó bây giờ!

Quận Huy biết thế tử không dung mình, bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế lập.

Huy đem dâng ngôi nhà cũ của quận Việp cho vương tử Cán làm dinh thự. Từ đó, Huy thành ra người riêng của Thị Huệ. Mà trước mặt chúa, Thị Huệ cũng hết sức bao che cho Huy. Do đó, quận Huy được vào chính phủ (phủ của chúa Trịnh để phân biệt với triều đình của vua Lê) mở dinh quân Trung nhuệ, coi việc trong phủ, đồng thời kiêm lĩnh chức trấn thủ trấn Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình), Quận Huy và Thị Huệ, trong ngoài liên kết với nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ. Các viên quan võ như chức cai cơ, trấn thủ, đều do cửa của họ mà ra. Lúc ấy, duy chỉ có Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản, trấn thủ Sơn Tây hiện đang làm tả tư giảng cho thế tử, và Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc tức con nuôi của Hân quận công, hiện đang làm a bảo cho thế tử, là còn dám có ý kia khác với quận Huy mà thôi. Như vậy là cái thế bè đảng đã thành rồi.

Lại nói, từ khi vương tử Cán sinh ra, thế tử Tông có ý rất tức bực, chỉ sợ mình không được lập làm chúa. Thế tử cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thẩm Thọ… nho sinh Đàm Xuân Thụ và tên xuất thân tạp lưu (là hạng thư lại không đỗ đạt gì, không do chính ngạch mà ra) Vĩnh Vũ, ngày đêm bàn mưu, lo lắng không biết nên làm thế nào.

Vừa lúc đó, chứng bệnh cũ của chúa lại phát, bệnh tình rất nguy kịch. Một đêm thế tử bỗng mơ thấy mình mặc áo chầu chàm, đội mũ chữ đinh, đứng ở phủ đường. Sáng mai thế tử kể lại với bọn gia thần và nói:

– Ta mơ như vậy là điềm có tang, trong cung nay mai chắc sẽ có biến; ta phải sớm lo liệu trước mới được.

Bọn tôi tớ ấy liền khuyên thế tử nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ; một mai trong cung xảy ra chuyện chẳng lành, thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết quận Huy, và bắt giữ cả hai mẹ con Thị Huệ, khiến vương tử Cán không thể lên ngôi chúa. Mặt khác báo cho hai trấn Tây, Bắc (Sơn Tây, Kinh Bắc) đem quân vào kinh, bắt ép các đại thần để dựng thế tử lên ngôi chúa.

Thế tử nghe theo và phao lên rằng mình sắp được lệnh đem quân vào đánh miền Nam. Rồi thế tử lại sai người báo ngầm cho Khê trung hầu, giao một ngàn lạng bạc cho nho sinh Đàm Xuân Thụ để Thụ phân phát cho bọn tay chân đi mua sắm vũ khí. Tiếp đó, thế tử mật báo cho các viên trấn thủ ở hai trấn Tây, Bắc, chiêu tập dũng sĩ.

Thế tử cắt đặt xong thì bệnh của chúa cũng vừa khỏi, việc ấy bị tiết lộ. Hồi đó, có Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham hiểm, giảo hoạt, thường vẫn quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước, chính vì Bá đã tố cáo âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công (Thuỵ quận công tức Trịnh Lệ con Trịnh Doanh, định giành ngôi chúa với Trịnh Sâm) mà y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức tiến triều (những người không đỗ tiến sĩ mà được làm quan ở sáu bộ thì gọi là tiến triều), rồi lại thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có lỗi bị cách chức, y đang nóng lòng mong lại được ra làm quan. Y bèn sai con dâu cả vào làm đày tớ cho Thị Huệ; rồi thường nhặt nhạnh những chuyện chơi bời đùa nghịch của Tông, xui con dâu kể lại cho Thị Huệ để nịnh nọt, lấy lòng. Mặt khác, y lại ngầm sai người nhà tin cậy tới làm bộ hạ của hai viên trấn quan Tây, Bắc để dò xét tình hình. Đến lúc ấy, y đã nắm được phần nào sự việc của bọn này, liền vào báo với Thị Huệ.

Thị Huệ đem việc đó bàn với quận Huy. Huy bảo Huy Bá viết bức thư kín, rồi Huy tự bỏ vào trong tay áo, đi đến phủ chúa, đuổi hết những người chung quanh, đem thư ra trình chúa.

Chúa xem xong, cả giận, định sai người giao xuống trị tội tức khắc. Quận Huy can rằng:

– Thế tử quả là có lỗi, nhưng sở dĩ thế tử dám làm chuyện to lớn như thế chính là do hai viên trấn thủ Tây, Bắc chủ mưu. Nay hai viên ấy hãy còn cầm quyền ở ngoài, nếu vội vã trừng trị thế tử, e sẽ có biến khác. Chẳng thà trước hết hãy gọi hai viên ấy về triều, giam cả ở trong phủ, rồi bấy giờ hãy tuyên bố tội trạng và trừng trị một thể.

Chúa cho là phải. Hôm sau chúa đòi thế tử vào cung, vờ quở mắng về việc xao nhãng học hành, rồi bắt thế tử phải đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong Trạch các. Lại sai tiến sĩ khoa Bính-tuất (1766) là Nguyễn Quýnh làm tả tư giảng, và tiến sĩ khoa Mậu-tuất (1778) là Nguyễn Đích làm hữu tư giảng. Rồi sau đó chúa cho đòi hai viên trấn thủ Tây, Bắc về triều; bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 8 năm Canh tý niên hiệu Cảnh hưng (1780).

Lại nói, lúc ấy ở trấn Kinh Bắc (địa bàn Kinh Bắc gồm: Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) có viên đốc đồng là Ngô Thì Nhậm (người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, con Ngô Thì Sỹ, sau làm quan với Tây Sơn), tiến sĩ khoa ất-mùi (1775) vốn là gia thần và tuỳ-giảng của thế tử, thường vẫn rất ăn ý với trấn thủ Tuân sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân). Về phía Tuân, không việc gì là không bàn với Nhậm, duy chỉ có việc âm mưu của thế tử là Tuân không hề nói đến. Trước đó mấy ngày, Sơn Thọ (có sách chép Hà Như Sơn) là gia thần của thế tử, lại từng là học trò của Nhậm, được thế tử sai đến kể rõ mưu mô của thế tử cho Nhậm biết; rồi lại ngầm ra lệnh cho Nhậm phái người cất lẻn lên vùng Lạng Sơn mua ngựa tốt để dùng vào việc binh. Thì Nhậm hoảng sợ nói:

– Thế tử là người sẽ nối ngôi chúa, mà nước là nước của thế tử, lo gì mất ngôi mà phải lập mưu ấy? Đây ắt lại do bọn tôi tớ xúi giục. Thế tử trẻ người hăng máu, suy nghĩ chưa chín chắn, nên mới nghe theo họ. Chúa thượng là người xét đoán sáng suốt, há lại che giấu được ngài ư? E rằng tai hoạ sẽ xảy ra lúc nào không biết, bọn gia thần của thế tử rồi không còn đất gửi thân đâu.

Đoạn Thì Nhậm vội vã sang kể hết tình đầu cho Khắc Tuân nghe, và khuyên Tuân phải hoả tốc về kinh, can ngăn thế tử đừng làm việc đó, để tránh tai vạ sau này.

Khắc Tuân không nghe, nói rằng:

– Tiểu chức này với quan lớn, chỉ biết việc tuần phòng khám xét; ngoài ra những việc không dính líu đến ta, thì không nên hé răng.

Thì Nhậm thở dài mà về.

Mấy ngày sau, quả nhiên có lệnh đòi Khắc Tuân và Thì Nhậm. Hai người vội vàng cùng đi. Tới kinh, họ thấy trấn thủ Sơn Tây (Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản) và a bảo Hân quận công (Nguyễn Đĩnh) đều đã bị triệu về, còn đang ngồi đợi tội ở nhà Tả-xuyên. Khắc Tuân xin vào điếm Quyển-bồng gặp chúa, nhưng chúa không cho vào, sai viên quan hầu là Quyến trung hầu ra trách Khắc Tuân rằng:

– Cậu và thằng Tông đã muốn làm giặc thì cậu cứ việc ra mà sắp sẵn binh mã, đây ta đã có các tướng mạnh để đối địch với cậu!

Khắc Tuân quay ra, gặp Thì Nhậm ở điếm Tiểu-bút, Tuân cầm tay Nhậm than:

– Tôi thờ chúa từ khi lọt lòng đến giờ, nay chúa gọi tôi là giặc. Hôm nọ quan lớn nói chuyện tôi cứ cho làm thường, nay việc đã như thế, tính sao bây giờ?

Thì Nhậm cũng hoảng hốt chẳng biết trả lời thế nào.

Khắc Tuân liền làm tờ khải, cung khai hết những việc trước rồi nhờ Quyến trung hầu đưa vào dâng chúa. Nhưng chúa đang giận, không xem, lại sai Quyến trung hầu đem tờ khải ra xé trước mặt Khắc Tuân.

Khắc Tuân lượm lấy tờ khải bị xé ấy mà ra, nhưng sợ hãi luống cuống chẳng biết đi đường nào.

Viên trấn thủ Sơn Tây lúc ấy cũng rất lo sợ, có điều muốn nói mà không dám tự bày tỏ. Ông ta bèn cùng Khắc Tuân nói với Thì Nhậm:

Bọn tôi ở ngôi trọng yếu mà bị lời gièm pha nặng nề, bây giờ dù có nói gì, chúa cũng chẳng tin. Ngài nên đem những điều nghe thấy viết một tờ khải, đổ tội cho lũ tôi tớ, như vậy may ra bọn tôi mới khỏi bị oan, mà thế tử cũng sẽ được an toàn không việc gì.

Thì Nhậm bất đắc dĩ phải làm theo ý hai người. Chẳng ngờ chúa nhận được tờ khải, lại càng giận dữ nói:

– Quả như lời nói của người ta không sai!

Rồi chúa sai Thì Nhậm và bọn quan hầu là Ngạn triêu hầu, Đường trung hầu, án trung hầu cùng tra xét vụ án đó.

Thì Nhậm cùng bọn quan hầu định tìm cách gỡ tội cho Khắc Tuân và viên trấn thủ Sơn Tây, nhưng vì nhà có tang Nhậm phải bỏ việc quan mà về [Nhậm về chịu tang cha là Ngô Thì Sĩ. Theo Việt sử thông giám cương mục (sau đây gọi tắt là Cương mục) thì chính Nhậm hợp mưu cùng Huy Bá để tố cáo việc của Tông và Khắc Tuân. Ngô Thì Sĩ đã cố sức can mà nhậm vẫn không nghe. Sau khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm vì có công tố giác, được thăng hữu thị lang bộ Công. Do đó, người đương thời có câu rằng: “Sát tứ phụ nhi thị lang” giết 4người cha để làm thị lang). Bốn cha là: Sĩ, thân phụ; Tông, quân phụ; Khắc Tuân, và Xuân Hán, phụ chấp (bạn của bố). Có thuyết lại nói tứ phụ là Sỹ và Nguyễn Khản, Phương Định, Khắc Tuân ba người bạn của bố].

Chúa bèn giao cho viên đồng tham tụng là Nghĩa phái hầu Lê Quí Đôn, bảng nhãn khoa Nhâm-thân (1752) làm thay việc tra xét. Cuối cùng, nắm được hết tình hình tội trạng, chúa liền gọi các chính thần vào cung vừa khóc vừa nói:

– Quả nhân không may gặp phải thằng con bất hiếu, lũ bầy tôi bất trung, chúng ngầm mưu việc phản nghịch; hình tích cũng giống như vụ Thừa Kiền, nhưng tâm địa thì tệ hơn nhiều. Việc bỏ con cả lập con thứ là bất đắc dĩ. Các ngươi cũng nên hiểu rõ bụng ta, cứ theo phép nước mà định tội chúng nó đi!

Các quan trong triều bàn rằng: mấy tên phạm tội đều nên xử tử, còn riêng về thế tử thì không dám bàn.

Lời bàn đó dâng lên, chúa cầm bút phê rằng:

“Cứ xét theo nghĩa của kinh Xuân-thu thì phải trị tội tên Tông thật nặng. Nhưng nghĩ tình cha con ruột thịt không nỡ như thế, vậy nên truất nó xuống làm con út, trọn đời giữ đạo làm tôi. Còn bọn các quan, thì viên trấn thủ Sơn Tây và Khê trung hầu, vốn đã theo hầu ta từ lúc chưa lên ngôi, cũng có công lao, đặc ân cho được tự liệu lấy. Riêng a bảo Hân quận công là người thật thà không tham dự và mưu đó cũng được tha tội chết, nhưng phải cách chức xuống làm dân thường”.

Mệnh lệnh ban xuống, Khê trung hầu và Tuân sinh hầu đều uống thuốc độc tự tử.

Dưới trướng Tuân sinh hầu có viên văn thư là Nguyễn Quốc Trấn cũng bị tội lây với chủ, phải ghép án tử hình. Lúc sắp bị chém, Quốc Trấn quát lớn:

– Trời không có mắt, triều đình không có quan, nỡ để Quốc Trấn mắc oan.

Rồi Trấn dặn người thân thuộc để giấy bút vào tay áo mình và nói thêm:

– Sống đã không bày tỏ nỗi oan được, chết phải kiện ở âm phủ.

Mọi người nghe câu nói đó, ai cũng thương xót cảm động.

Thế tử Tông bị truất rồi, chúa bắt cứ phải ở trong ngôi nhà ba gian, cho người giám sát chặt chẽ; phàm những việc ăn uống Tông đều không được tự do. Bọn gia thần của Tông cũng không được phép ra vào thăm hỏi. Do đó, phe đảng của thế tử, mỗi người lẩn trốn đi mỗi nơi.

Còn phe cánh của Thị Huệ thì mỗi ngày một mạnh. Các quan lớn nhỏ không ai là không nịnh nọt, hùa theo, mà nhà chúa cũng càng trọng ả hơn trước.

Thừa dịp ấy, Thị Huệ bèn hỏi con gái chúa là công chúa Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng Mậu Lân.

Công chúa này tên chữ là Ngọc Thuyên, là cô con gái yêu quý nhất của chúa. Nguyên chính phi họ Hoàng sinh được hai nàng công chúa. Cô lớn là công chúa Ngọc Anh, tên chữ là Ngọc Loan, đã gả cho Đương trung hầu Bùi Thế Toại, con trai cả của Đoan quận công Bùi Danh Đạt làm trấn thủ Nghệ An trước kia. Còn Ngọc Lan là cô thứ hai, chưa có chồng, được chúa rất yêu chiều.

Ngọc Lan vóc người yếu đuối, từ nhỏ vẫn ở trong cung thuỷ tinh, kiêng nắng, kiêng gió. Nơi Ngọc Lan ở, chúa bắt thị tỳ phải nói năng sẽ sàng để cho nàng khỏi giật mình. Khi Ngọc Lan đã lớn, mỗi lần vào thăm chúa, chúa đều cho phép cùng ngồi với mình như lúc nàng còn bé. Phàm những điều Ngọc Lan cầu xin chúa, không có lời nào là không đắt. Các quan vào hàng công thần, quí tộc, nhiều người đã tới cầu hôn, nhưng chúa chưa hứa gả cho ai. Đã có lần chúa hạ chiếu chỉ cho các quan văn võ, cùng con cháu các dòng họ công thần vào phủ để cho công chúa tự kén chọn. Chúa bảo công chúa hễ chọn được ai vừa ý thì chúa sẽ gả cho người đó. Nhưng Ngọc Lan vẫn chưa kén được ai vừa lòng.

Đến nay, Thị Huệ cầu hôn cho em trai, chúa sợ mất lòng ả ta, bất đắc dĩ mà phải gượng nhận lời.

Lại nói, Đặng Mậu Lân này vốn là một tên hung bạo; từ khi Thị Huệ được chúa yêu dấu Lân lại càng ỷ vào thế chị để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo quần, xe kiệu của y, nhất nhất đều rập kiểu theo đúng như của vua chúa. Thường ngày, Lân vẫn đem theo vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất kỳ là của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau làm cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường, hễ người nào trông vừa mắt, tức thì Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ, rồi lôi người ấy vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc cha kẻ bị nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn gãy răng, hoặc cũng có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.

Chúa cũng biết thế, nên tuy đã trót nhận lời gả công chúa cho Lân mà trong bụng vẫn còn có ý thương tiếc. Vả lại chúa nghĩ, công chúa người yếu ớt, mảnh khảnh, không thể chịu nổi một tên đàn ông cường bạo như thế. Nến đến ngày về nhà Lân, chúa lấy cớ rằng công chúa chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép Lân hợp cẩn (Theo lễ xưa, đêm tân hôn vợ chồng uống chung một chén rượu, gọi là hợp cẩn). Rồi chúa sai quan a bảo cùng nhiều thị nữ đi theo để hộ vệ công chúa. Tiếp đó, chúa lại phái thêm cả viên nội sai là Sử trung hầu đến làm giám chế, không cho Lân xâm phạm tới công chúa.

Thật là:

ái ân, cô gái không e sợ
Hoan hỉ, chàng trai lại dở dang.

Chưa biết việc tới thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ hai

Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc,
Giết Huy quận, ba quân phò Trịnh vương.

Lại nói, Đặng Mậu Lân tuy đã lấy được công chúa Ngọc Lan, nhưng cứ mỗi lần vào với công chúa thì lại bị Sử Trung ngăn cản; vì vậy Lân hết sức tức giận, nói với Sử Trung rằng:

– Chúa bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé ở xách giày nhà ta, có quý hoá gì? Đây ta không phải ham gì nhan sắc của nó; nhưng tốn kém mất bao nhiêu tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn thì cũng phải vần một trận cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đắp lại sự phí tổn, rồi bấy giờ sẽ tống cổ nó đi. Còn mày, mày muốn sống muốn tốt thì hãy tìm đường kiếm nẻo mà bước đi. Kẻo nữa lại kêu ta không bảo trước.

Sử Trung đáp:
– Đó là mật chỉ của chúa thượng, không phải tôi dám như vậy!

Lân nói:

– Mày thử hỏi chúa, xem chúa ở vào địa vị tao liệu chúa có nhịn được không?

Sử Trung nói:

– Quan lớn đừng nên quá lời như vậy, nhà chúa không thể so sánh với người thường.

Lân nổi giận đùng đùng mà rằng:

– à, mày đem chúa để doạ tao phỏng? Chúa là cái quái gì?

Dứt lời, Lân tuốt gươm chém Sử Trung. Sử Trung chết ngay.

Giết xong Sử Trung, lân bèn sai đóng chặt cửa dinh, ra lệnh trong không được ra, ngoài không được vào, định ngầm thủ tiêu cái thây Sử Trung.

Ngọc Lan nghe chuyện, sợ quá, lập tức bảo một thị nữ chui qua một lỗ hở nhỏ chạy về phủ chúa báo tin.

Chúa cả giận, sai viên quan hầu đốc thúc một toán lính đến bắt Lân.

Lân cầm gươm lăm lăm, đứng trước cửa doạ:

– Đứa nào muốn chết thì cứ vào đây!

Chúa lại phải sai quận Huy đem quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói tội giết sứ giả đáng bêu đầu.

Thị Huệ nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa.

Lại nói, vương tử Cán rất tuấn tú, thông minh, nhưng người vốn yếu đuối. Lúc còn ẵm ngửa, vương tử đã mắc chứng cam: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay gầy khẳng khiu. Chúa phải sai người đi tìm danh y khắp bốn phương về chữa cho vương tử (Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác cũng đã từng bị triệu vào kinh để chữa bệnh cho Cán (xem Thượng kinh ký sự)). Những người do nghề thuốc mà vào phủ đều được thăng trưởng: Nguyễn Thực từ chức huấn đạo lên đến chức tiến triều; Chu Nghĩa Long là người khách buôn Trung Quốc, được phong tước hầu coi việc quân. Thuốc thang tốn kém kể có hàng trăm vạn, nhưng chạy chữa hết năm này qua năm khác mà bệnh vẫn không khỏi.

Chúa lại sai người đi lễ bái khắp các đền đài có tiếng linh thiêng; một mặt cho thiết lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu khẩn. Vậy mà bệnh của vương tử vẫn đâu hoàn đấy.

Có kẻ tố cáo với chúa, nói là vì Tiệp dư (Tiệp dư đây không rõ ai, bản chữ Hán không ghi tên họ người nào; bản dịch của Ngô Tất Tố, cho là Dương Ngọc Hoan có lẽ là phỏng đoán như vậy) không được yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn hình người gỗ ở trong cung để trấn yểm.

Chúa giận lắm, sai bắt người nhà Tiệp dư để tra hỏi. Nhưng bọn ấy trốn hết, tìm khắp tứ phía không lùng bắt được người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào chỗ chôn người gỗ, cũng không thấy gì, việc này mới thôi.

Tuy nhiên, bụng chúa cũng vẫn còn ngờ, nên cứ để mặc cho Thị Huệ làm chay làm bùa, tha hồ cúng lễ. Do đó, bọn đồng cốt ra vào tấp nập; mà bệnh của vương tử Cán vẫn khi tăng khi giảm chẳng ra thế nào.

Đến khi thế tử Tông bị tội, thì gặp lúc bệnh của vương tử Cán đã hơi đỡ. Năm sau vương tử lên đậu, từ tuần nung mủ đến tuần đậu lặn đều không có gì quản ngại. Chúa hết sức vui mừng nói:

– Thì ra trẻ con cam sài cũng là sự thường, chẳng cần phải lo. Mà hễ nó đã lên đậu, lên sởi thì tức là nên người rồi.

Bấy giờ các quan trong ngoài đều có lời chúc mừng.

Nhiều người khuyên chúa giáng chỉ lập vương tử Cán làm thế tử cho yên sự mong mỏi của thiên hạ. Chúa nghe lời ngay.

Thánh mẫu thái tôn (tức là mẹ Trịnh Sâm) được tin liền nói với chúa:

– Thế tử Tông với vương tử Cán đều là cháu cả, già này thực không coi đứa nào hơn đứa nào. Có điều thế tử đã lớn và khoẻ mạnh, còn vương tử thì nhỏ tuổi lại hay đau yếu; khuyên chúa hãy nghĩ đến tôn miếu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó, may ra đứa con út (chỉ Tông vì Tông bị giáng xuống làm con út) kia nó biết hối lỗi thì hay, bằng không, đợi lúc vương tử khôn lớn hãy lập trưởng cũng chưa muộn gì.

Chúa đáp:

– Tên Tông và tên Cán đối với mẹ là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đã nói: “Biết con chẳng ai bằng cha”. Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả chăng triều đình bàn bạc chung như thế, chứ cũng chẳng phải vì tôi yêu đứa con nhỏ mà bày đặt ra việc này. Mẹ há chẳng biết rõ rồi sao? Nay nếu không sớm định người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra dòm nom, mong chờ, tôi e tai hoạ sẽ xảy đến lúc nào không biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào tay người xứng đáng. Đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được tư túi; lẽ nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của Cán không khỏi, thì thà lập Côn quận công (có bản chép là Quế quận công, tức Trịnh Bồng, anh em con chú bác với Sâm, con Trịnh Giang), trả lại dòng chính cho nhà bác; chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.

Thánh mẫu không dám nói gì nữa.

Chúa bèn sai các quan trong triều làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập vương tử Cán làm thế tử (Bấy giờ có nhiều người không đồng tình việc lập Cán, nên đã đặt ra câu ca dao:

Đục cùn thì giữ lấy tông:

Đục long, cán gãy, còn mong nỗi gì?

Dùng chữ tông và cán theo nghĩa đôi để chỉ vào Trịnh Tông và Trịnh Cán.).

Lại nói, từ mấy năm nay, bệnh cũ của chúa vẫn thường hay phát trở lại, khi thì một tháng, khi thì nửa tháng. Mỗi lần bệnh phát thường hết sức nguy kịch, nhưng rồi dần dần cũng lại khỏi. Chúa rất sợ nắng gió, bình thường phải ở luôn trong thâm cung và nơi đó phải thắp nến suốt đêm ngày. Nếu không phải triều hội lớn, thì không bao giờ chúa ra gặp các quan. Sập ngự trong phủ chúa có che trướng thuỷ tinh, kiệu của chúa đi cũng treo rèm thuỷ tinh, để ngăn nắng gió. Các quan muốn trình báo việc gì, đều do quan hầu đem tờ khải vào. Chúa muốn phán gì cũng do quan thị truyền chỉ ra. Dẫu đến các bậc thân quí, cũng phải một năm hoặc nửa năm mới gặp mặt chúa một lần. Còn các hàng văn võ trong triều, thì thường không hề được thấy mặt rồng. Việc của phủ chúa, bên ngoài người ta đồn đại như là việc thiên tào. Cứ như thế, sự ngăn cách, che lấp ngày càng thêm tệ.

Đến lúc này, bện của chúa lại nguy kịch. Thị Huệ ngày đêm hầu hạ. Trong hàng đại thần chỉ có quận Huy là được ra vào. Mẹ chúa và các con gái chúa cũng ít khi được tới gặp, hàng ngày thăm hỏi sức khoẻ của chúa, họ chỉ đứng ngoài cửa buồng và hỏi qua bọn quan hầu mà thôi.

Nhân cơ hội ấy, Thị Huệ bèn nói với chúa:

– Thiếp thờ chúa thượng, nhờ ơn được quá thương yêu, thành ra nhiều kẻ thù ghét; không biết rồi đây mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào đâu?

Chúa yên ủi rằng:

– Thế tử đã chính thức lên ngôi đông cung, nước là nước của nó; rồi đây khanh sẽ làm mẹ cả thiên hạ, kẻ nào còn thay đổi được?

Thị Huệ lại thưa:

– Sợ không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất.

Bấy giờ quận Huy cũng có ở đó. Chúa nhìn Huy nói:

– Sau này ngươi cần hết sức giúp đỡ chính cung và thế tử, để cho yên lòng ta.

Quận Huy thưa:

– Tôi dám đâu chẳng hết lòng về việc này kỳ cho đến chết. Nhưng ngay bây giờ, nhân lúc chúa còn tỉnh táo, xin hãy kịp thời truyền mệnh lệnh cho thế tử Cán nối ngôi và lập chính cung làm vương phi, cùng coi việc nước, để cho có mệnh lệnh sẵn sàng.

Chúa khen:

– Phải đấy! Khanh cần làm phụ chính cho vương tử.

Quận Huy lại thưa:

– Vâng lời di chúc làm người phụ chính, tôi chẳng dám gánh vác một mình. Hiện nay có Khanh quận công là bậc chí thân, Hoàn quận công là bậc sư phó đại thần, Châu quận công và Tứ xuyên hầu đều ở trong chính phủ, vốn có đức vọng, Diễm quận công là a bảo của đông cung, Thuỳ trung hầu là bảo vệ của đông cung, đều là những bầy tôi tin cậy. Vậy xin nhà chúa hãy cho phép những viên ấy cùng nhận cố mệnh (mệnh dặn lại lúc sắp chết) với tôi.

Chúa bằng lòng.

Quận Huy liền sai Tứ xuyên hầu thảo tờ cố mệnh, và quan thiêm sai Nhữ Công Điền làm tờ sách phong Tuyên phi. Giấy tờ lập xong, Huy bỏ vào tay áo đem dâng chúa để xin điền tên.

Bấy giờ bệnh chúa đã nguy kịch, nhân có thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi dậy. Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi han. Chúa cũng khóc mà rằng:

– Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho đến cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy ngự giá về cung, cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ gì đến con mà đau lòng mẹ. Còn việc sớm hôm thăm hỏi sau này đã có tự vương (chúa nối nghiệp, chỉ Trịnh Cán) thay con.

Thánh mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng vì có Thị Huệ ở đấy nên cũng khó hé răng, dùng dằng mãi chưa ra.

Chúa thấy vậy lại nói:

– Mẹ quá thương con, không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung.

Thánh mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.

Chúa quay sang dặn Thị Huệ.

– Bệnh ta không khỏi, không ở được cùng khanh đến lúc bạc đầu. Nay ta về chầu giời, khanh ở lại phụng thờ thánh mẫu, nuôi nấng tự vương; còn duyên sắt cầm đành hẹn đến kiếp khác.

Thị Huệ nấc lên đến hơn một khắc, rồi ả cắt tóc thề rằng:

– Chúa thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp vò võ một mình! Thiếp xin liều thân mà chết theo chúa. Thờ phụng thánh mẫu đã có hai công chúa, giúp rập tự vương đã có các quan đại thần, chúa đừng giao những việc ấy cho thiếp.

Rồi thị khóc oà lên.

Chúa ngoảnh sang Thuỳ trung hầu nói:

– Sau khi ta qua đời, các ngươi phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều mình. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ để nàng chung thuyền với ta mà đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm.

Tiếp đó, chúa cho đòi quận Khanh, quận Hoàn vào chịu cố mệnh.

Hai người vào, chúa truyền miễn lạy và cho ngồi. Hai người khóc lóc hỏi han sức khoẻ. Chúa nói:

– Con xin chắp tay cúi đầu lạy chú, lạy thầy. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đã nguy cấp, muốn cho thế tử Cán lên nối ngôi chúa. Vậy nhờ chú và thầy chung sức đồng lòng, giúp cho qua khỏi bước khó khăn này.

Dứt lời, chúa bảo Thị Huệ đặt mình nằm xuống.

Quận Huy quì xuống, rút tờ cố mệnh trong tay áo dâng trình, nhưng chúa chỉ lấy tay xua đi.

Quận Huy lại thưa rằng:

– Nay thánh thể không yên, mà chỗ đề tên họ trong tờ cố mệnh thì hãy còn để trống, vậy xin chúa hãy để cho vương thân Khanh quận công viết thay.

Chúa không còn nói được nữa, chỉ gật đầu mà thôi.

Quận Khanh bèn lấy bút phê, rồi ngay trước sập chúa, lần lượt viết tên mấy người vào chỗ bỏ trắng trong tờ cố mệnh. Viết xong, lại dâng cho chúa xem; nhưng lúc ấy chúa đã nhắm nghiền hai mắt không biết gì nữa.

Thế là Trịnh vương qua đời. Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng quận Huy năm Nhâm-dần (1782). Chúa thọ 44 tuổi, làm chúa được 16 năm.

Sau khi chúa tắt thở, quận Huy một mặt cắt đặt cho các quan lo liệu việc tang lễ, một mặt sai Thuỳ trung hầu sao lấy mấy bản thư cố mệnh và tờ sách phong Tuyên phi đưa ra chính phủ, để cho các quan triều tâu lên vua Lê.

Ngay hôm ấy, vua Lê hạ sắc dụ lập thế tử Cán làm Điện đô vương.

Trăm quan liền đem nghi trượng, binh lính đến cửa Kính-thiên để rước sắc về phủ chúa.

Đến phủ, quan a bảo Diễm quận công bế thế tử-đã được mặc áo triều, đội mũ, mang đai màu hoa quì-đứng đón ở sân, quỳ xuống nhận sắc.

Xong đó, ngoài phủ đường đã đặt sẵn sập ngự, quận Diễm bồng thế tử Cán lên ngôi chúa. Các quan theo thứ tự lần lượt vào lễ mừng. Lễ xong, quận Diễm lại bế chúa mới (Trịnh Cán) vào cung Huỳnh để lạy thánh mẫu. Rồi sau đấy, mọi người đều thay triều phục, mặc áo trở để làm lễ phát tang.

Lúc Thịnh vương còn sống có soạn ra cuốn Vạn niên thư, phàm việc tang lễ từ lễ “phạm hàm” đến lễ “đại tường”, “nhập miếu” (Phạm hàm: Lễ đặt vàng, ngọc hoặc các của quí khác vào trong miệng người chết. Đại tường: Lễ giỗ sau khi chết hai năm. Nhập miếu: Lễ rước linh hồn vào nhà thờ, để thờ chung với các tổ tiên), nghi tiết như thế nào đều đã chua rõ; cho cả đến mấy chữ miếu hiệu “Thánh tổ Thịnh vương” cũng được ghi sẵn. Nay cứ theo đó mà làm.

Bảy viên đại thần ngày đêm túc trực ở trong phủ, chia nhau coi sóc mọi việc.

Lại nói về bảy viên phụ chính này.

Khanh quận công tên là Trịnh Kiều, tức là con thứ năm của Hy tổ Nhân vương, và là em Nhị tổ Ân vương, đối với chúa mới là hàng ông chú. Kiều là bậc tuổi cao, đức cả, song tính tình chất phác, thật thà, đối với công việc nên hay không nên cũng mặc, chẳng có ý kiến gì.

Hoàng quận công tên là Nguyễn Hoàn, người làng Lan Khê huyện Nông Cống, đỗ tiến sĩ khoa Quí-hợi (1743). Trước Hoàn làm hữu tư giảng cho Thịnh vương, sau lên đến chức thượng thư bộ Lại, rồi làm Tham tụng. Hoàn đã về trí sĩ nhưng lại bị gọi ra tham dự triều chính, Hoàn là một vị trọng thần của nhà nước, nhưng tính người hoà hoãn, chìm nổi theo đời, gặp việc thường dè chừng, không quyết đoán.

Tứ xuyên hầu tên là Phan Lê Phiên (có sách chép Duy Phiên hoặc Trọng Phiên), người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Đinh-sửu (1757). Phiên từng làm tả thị lang bộ Hộ, làm tham tụng; là người có phong độ đoan trang, học vấn rộng rãi, nhưng tính nết thâm trầm lại hay nương nhờ vào bọn quyền thế.

Châu quận công, Diễm quận công và Thuỳ trung hầu đều xuất thân từ hàng quan hoạn.

Châu quận công tên là Lê Đình Châu, người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn, hầu hạ các chúa trải đã mấy triều. Châu có làm chức tri binh phiên cơ mật, là người trung hậu, lúc đã già vì là bậc kỳ cựu, nên được vào chính phủ, nhưng không giữ việc gì.

Diễm quận công tức Trần Xuân Huy, người làng Khoái Lạc, huyện Thiên Bản; nguyên là gia thần của Thịnh vương, khi vương chưa lên ngôi. Lúc Thịnh vương lên cầm quyền, Huy được giao cho chức tri hộ phiên. Huy là người thuần thục, cẩn thận. Thịnh vương rất tin, sai Huy làm a bảo cho thế tử, ngày đêm ở luôn bên cạnh thế tử, không dự gì đến những việc bên ngoài.

Thuỳ trung hầu tên là Tạ Danh Thuỳ, người làng Khang Thượng, huyện Yên Mô, từng làm chức xuất nạp (một chức quan hầu cận của vua chúa chuyên giữ việc phát nhận giấy tờ, và truyền đạt mệnh lệnh) rồi lại làm trấn thủ Thanh Hoa (thời Lê trung hưng, Thanh Hoá gọi là Thanh Hoa). Thuỳ là người cơ trí, giỏi văn học, biện luận như gió. Thịnh vương vốn tin trọng, sai Thuỳ làm chức bảo vệ cho thế tử; nhưng vì Thuỳ tuổi trẻ chưa có danh vọng gì mấy, nên không tránh khỏi phải lép vế và chiều theo ý những kẻ đồng liêu.

Bởi vậy, hết thảy mọi việc trong thiên hạ đều do một tay quận Huy quyết định, không có ai bàn qua nói lại gì hết.

Nguyên sáu người kia, không phải hết thảy đều một lòng với quận Huy cả. Chẳng qua thấy họ có địa vị và danh vọng, nên quận Huy mới lôi kéo họ vào cùng cánh với mình để họ khỏi có ý khác mà thôi.

Chỉ Diễm quận công vốn là phe đảng của Thị Huệ, xưa nay lại rất ăn ý với Tứ xuyên hầu; nên hai người này đều một bụng một dạ với quận Huy. Song quận Diễm là người dốt nát, ít hiểu biết, việc gì cũng phải nhờ Tứ xuyên hầu chỉ vẽ cho; mà Tứ xuyên hầu thì cũng như quận Huy, đều đang mê mẩn trong tình thế lúc bấy giờ.

Còn Hoàn quận công là bậc lão nho. Thuỳ trung hầu là hạng khôn vặt. Rút lại không lường được bụng dạ của họ ra sao.

Trong đó, thực thà không có ý gì, duy chỉ có Khanh quận công và Châu quận công mà thôi.

Quận Huy tự đứng làm chủ cuộc, phàm mọi việc đều tự mình gánh vác, không cần đùn đẩy cho ai; người khác có đồng ý hay không, Huy cũng chẳng thèm kể đến.

Lúc đó, chúa mới lên ngôi, vì còn thơ ấu nên người trong nước không khỏi có ý ngờ. ở phố phường người ta túm năm tụm ba bàn tán. Kẻ nói chúa mới bị bệnh rất nặng, chưa biết chừng ngày nào đó trong cung sẽ có biến; quận Huy uy quyền lớn quá, không khéo hắn sẽ cướp nước mất. Người bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp đem xã tắc giao phó cho quận Huy. Bấy giờ, đầu đường xó chợ có câu ca dao như sau:

Trăm quan ít sáng nhiều mờ (có sách chép: “Trăm quan có mắt như mờ” hoặc “Sáu ông cố mệnh ngẩn ngơ”);

Để cho Huy quận vào rờ chính cung.

Huy nghe tin, bèn sai quan đề lĩnh đem móc sắt và kéo treo khắp các chợ, doạ rằng những ai còn dám tụ họp nói chuyện thì sẽ móc lưỡi cắt đi. Do đó, ở ngoài đường sá người ta chỉ dám ghé mắt ngó nhau; dân chúng kinh kỳ đều sợ nơm nớp.

Lại nói về thế tử cũ, từ khi chúa mới lên ngôi, Thị Huệ vẫn muốn ngầm hại thế tử, nhưng Thuỳ trung hầu thường tìm lời khôn khéo để che chở cho. Thị Huệ bị lời lẽ Thuỳ trung hầu giằng giữ, nên không dám quả quyết hành động. ả bèn bắt Tông ra ở tại nhà Tả-xuyên, rồi giao cho bốn đội Nội-khuông, Nội-dực, Nội-nhưng, Nội-kiệu giám sát. Mỗi ngày chỉ có ba bữa cúng cha, thế tử mới được vào phủ đường, lễ xong lại về sở giam. Vì vậy, thế tử ngày đêm lo lắng, sợ rằng không giữ được tính mạng.

Mẹ thế tử là thái phi họ Dương nhờ người chị là quận phu nhân họ Dương kêu van với quận Huy rằng:

– Em thiếp là cung tần Dương thị mỗ và con út chúa là vương tử mỗ xin gửi lời lạy trình quan lớn xét cho: Đứa con út đó có tội, gạt bỏ là phải, không dám phàn nàn. Nhưng nay nó ở vào cảnh ngộ hiềm nghi, tình thế cấp bách, khôn xiết nguy hiểm sợ hãi. Vậy muôn vàn lần mong mỏi quan lớn hãy rủ lòng thương, che chở cho nó được toàn vẹn; công ơn cứu sống của ngài, mẹ con nó xin ghi xương tạc dạ.

Quận Huy vừa khóc vừa trả lời:

– Tôi thờ tiên chúa, được chịu ơn huệ đã nhiều, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng tình là cha con. Thế tử cũ cũng là con của chúa tôi, tôi có lòng nào, thì xin trời đất tru diệt. Phu nhân trở về, cho tôi gửi lời trình trước màn tang của vương tử và quý cung tần rằng, xin cứ yên lòng, tôi sẽ hết sức giúp đỡ, không có điều gì phải lo ngại.

Rồi Huy bí mật sức cho bốn đội quan quân, ra lệnh phải lỏng lẻo bớt trong việc giam giữ thế tử. Từ đó các gia thần và các người thân tin cũ của thế tử mới được ra vào dễ dàng, không ai xét hỏi.

Thế tử có người đầu bếp tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch. Một hôm, thế tử hỏi bên ngoài lòng người ra sao, Dự Vũ đáp:

– Nhà chúa bỏ con cả lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất bình lắm. Hôm nọ trong khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho các quân sĩ, nhưng trong quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau, quận Huy phải ra lệnh nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong lòng vẫn còn hậm hực.

Thế tử mừng thầm, đem chuyện ấy bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ.

Thọ người làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn; hắn nói với thế tử:

– Lòng người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù, thì việc lớn ắt thành.

Thế tử mừng lắm, bèn sai Dự Vũ làm cơm rượu, mời bọn biện lại trong đám thân quân tới đánh chén, rồi nói với họ rằng:

– Thế tử chẳng có tội gì, nhưng bị mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc tiên chúa, vu tội hãm hại thế tử để cướp ngôi. Còn quận Huy vốn có chí phản nghịch, lợi dụng vương tử Cán bé dại dễ kiềm chế, nên hắn mới vào hùa với mụ mà gây ra việc bỏ người này lập người kia, để hắn làm phụ chính cho tiện cái mưu cướp nước của mình. Nay tân chúa bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi đây cơ nghiệp nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất “thang mộc” (“thang mộc” nghĩa là tắm gội. Đất “thang mộc” là đất thiên tử phong cho các chư hầu, để làm nơi cung đốn việc tắm gội hoặc nơi ăn ngủ trước khi vào chầu. Do đó, đất “thang mộc” cũng dùng để trỏ chung đất quê hương của vua chúa. ở đây đất “thang mộc” trỏ vào Thanh Hoá, đất quê hương của vua Lê.) và là binh lính ứng nghĩa, làm nanh vuốt của nhà nước, ai cũng sẵn lòng trung nghĩa. Nếu anh em còn nghĩ đến cái ơn của nhà chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, thì hãy nên một lòng giúp đỡ nhà chúa. Mai đây nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt (văn thư viết bằng son, khoán ước chế bằng sắt, ban cho bầy tôi có công để tỏ ý cùng được hưởng phú quí lâu dài với nhà vua) lưu truyền muôn đời.

Mọi người đều nói:

– Chúng tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ý vương tử ra sao. Sợ đến lúc ấy nhỡ có điều gì kinh động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương tử đã ngỏ ý cho biết như thế, thì việc này chắc không khó gì.

Sau đó, họ bèn ngầm đi báo cho nhau, hẹn ngày tụ họp ở chùa Khán Sơn (chùa Khán Sơn xưa ở trên trái núi đất gần khu vực vườn Bách Thảo Hà Nội, chùa bị phá từ cuối đời Cảnh-hưng).

Lúc quân lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ còn sợ thanh thế quận Huy, nên chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thoả.

Giữa lúc đang bàn bạc như thế, thì bỗng một người đứng phắt lên nói:

– Chỉ sợ anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ thừa dịp cúng cơm sáng xong (theo tang lễ xưa, người chết khi chưa chôn thì gia đình mỗi ngày cúng hai lần cơm), đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi kéo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!

Mọi người đều reo mừng hưởng ứng, và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là viên biện lại của đội Tiệp-bảo (đội thân binh hầu hạ) tên là Bằng Vũ.

Gã Bằng Vũ này là người huyện Thanh Chương, xứ Nghệ An, ông cha vốn là công thần đời Lê trung hưng. Về sau tập ấm (đây dịch theo hai chữ ấm tận. Trong chế độ phong kiến, những kẻ làm quan, tuỳ theo thứ bực, con cháu đều được nối nghiệp làm quan gọi là tập ấm; đến lúc nào không được hưởng tập ấm nữa thì gọi là ấm tận) đã hết, con cháu trở nên nghèo nàn. Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay. Gã người thấp bé, thanh nhã như dáng học trò. Sau khi vào đội Tiệp-bảo, nhờ biết dăm ba chữ, gã được làm chân biện lại. ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.

Lúc này Bằng Vũ thủ xướng ra lời bàn đó, cả bọn liền bầu ngay gã làm chủ mưu, giao cho gã đánh trống trước để thúc giục ba quân.

Bằng Vũ mạnh bạo nhận lời. Rồi cả bọn cùng nhau uống máu ăn thề. Nhưng họ không dự định ngày nào, chỉ hẹn nhau hễ nghe hiệu trống của Bằng Vũ thì cùng kéo đến để khởi sự.

Mưu toan bí mật đã bàn định xong. Chợt lại có người nói:

– Việc này hết sức quan hệ. Nên nhờ quốc cữu tâu với thánh mẫu, xin lĩnh ý chỉ của thánh mẫu mà làm. Vạn nhất quận Huy có biết, mình còn có mật lệnh làm cớ để mà nói, tỏ rằng mình vẫn làm việc minh bạch. Như thế mới là kế vạn toàn!

Người ấy là Bùi Bật Trực, quán làng An Toàn, huyện La Sơn, một tay danh sĩ xứ Nghệ. Bật Trực trước đã từng làm chức viên ngoại lang, hồi này vì bị mất quan vẫn nương nhờ ở trong nhà quốc cữu Viêm quận công (Viêm quận công Nguyễn Trọng Viêm là em mẹ Trịnh Sâm, do đó gọi là quốc cữu). Khi bọn biện lại hẹn quân sĩ đến tụ tập ở chùa Khán Sơn, Bật Trực cũng đã nghe phong thanh. Gã liền đem mưu mô của bọn quân sĩ nói nhỏ với Chiếu lĩnh bá (tức Nguyễn Trọng Chiếu), con Viêm quận công, và khuyên nên nhập bọn để hớt lấy công ấy. Còn bản thân gã thì đứng ra làm người manh mối giữa Chiếu lĩnh bá và bọn quân sĩ. Vì thế, nên gã mới đến dự cuộc họp để nói với bọn họ như vậy.

Quân sĩ vốn không cần chỉ của thánh mẫu, nhưng thấy người nhà quốc cữu cũng có mặt trong cuộc hội họp, khước từ sẽ lộ chuyện. Vả lại, lời của Bật Trực nghe cũng có lý, họ bèn cùng đi với Bật Trực đến gặp quận Viêm.

Lúc quân sĩ chưa đến, Chiếu lĩnh bá đã đem chuyện nói trước với cha. Cha hắn ta vốn là người tầm thường, nghe thấy chuyện đó thì sợ lắm, bèn nói:

– Lũ lính tráng này là đồ thô lỗ, khinh suất nên mới làm việc ấy: mình can dự vào làm gì? “Con vua thì lại làm vua”. Ai làm chúa ta cũng vẫn không mất cái chân là quốc cữu tiền triều. Nay lại muốn cầu công trạng, nếu việc thành, ta không thể giàu sang hơn thế này nữa; mà ngộ nhỡ công việc vỡ lở, hẳn là chết không có đất chôn!

Chiếu lĩnh bá đáp:

– Bọn họ bàn bạc, ước hẹn với nhau đã đâu vào đấy rồi. Thế nào nay mai họ cũng ra tay, mà đã ra tay là phải xong việc. Cự tuyệt họ tức là bỏ uổng cơ hội. Vả chăng sự giàu sang của cha dẫu đã đầy đủ rồi thật, nhưng cha cũng nên để cho chúng con nhân dịp này mà lập công danh. Hơn nữa con đã trót hứa với họ, bây giờ dù có muốn thoái thác cũng không thể được.

Một lát quân sĩ kéo đến. Quận Viêm bất đắc dĩ phải ra tiếp.

Sau khi nghe họ nói, quận Viêm trả lời:

– Các anh em còn có lòng vì nước, tôi đây há lại dám có bụng dạ nào khác. Có điều anh em muốn xin ý chỉ của thánh mẫu, thì nên đến nhà cháu tôi là viên phó tri binh phiên Nguyễn Kiêm mà bảo viên ấy vào bẩm với thánh mẫu. Viên ấy giữ chức tri lệnh sử, nên ra vào cung Huỳnh người ta sẽ không nghi ngờ. Còn tôi, tôi cũng xin gửi lời trình thêm với thánh mẫu nữa.

Quân sĩ nghe lời, lại kéo cả sang nhà Nguyễn Kiêm.

Kiêm vốn là hạng hèn nhát, nghe quân sĩ nói thì hoảng hốt chối đây đẩy. Nhưng bọn người vẫn cố nèo:

– Việc này cũng đã bẩm với quốc cữu và Người đã dạy như thế.

Rồi họ thúc ép Kiêm phải đến nhà quận Viêm để nhận lời dặn mà vào tâu với thánh mẫu.

Nguyên việc bỏ con lớn lập con nhỏ, thánh mẫu vốn không hài lòng, vì vậy khi được nghe mưu toan ấy, thánh mẫu đã thấy hợp ý ngay. Nhưng dẫu sao cũng chưa thoát khỏi chí khí đàn bà, thánh mẫu sợ nhỡ công việc bại lộ, quốc cữu sẽ bị vạ lây; nên muốn hãy ngầm dỗ dành quận Huy để hắn đưa thế tử Tông lên quyền ngôi chúa cho khỏi sinh biến. Lại nghĩ trong bọn bảy tên phụ chính, chỉ có quận Hoàn vừa là thầy học của chúa trước vừa là bố vợ Kiêm, bụng dạ có thể tin được, mà lại là bậc lão nho có nhiều mưu trí, có thể cùng bàn mọi việc với ông ta. Thánh mẫu bèn bảo Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hãy chậm khởi sự lại vài ngày, còn một mặt thì tới bàn mưu với quận Hoàn.

Quận Hoàn nói:

– Nếu ba quân làm như thế, tất sẽ gây ra rất nhiều việc lôi thôi. Nay thánh mẫu quyết đoán sáng suốt như vậy, thực là phúc cho xã tắc. Lão thần đây cũng không thể nghĩ hơn thế được. Nhưng xin thánh mẫu hãy hạ chỉ dụ quận Huy, còn tôi ở trong sẽ nói thêm vào.

Kiêm đem lời ấy tâu với thánh mẫu. Thánh mẫu bèn sai người bảo quận Huy rằng: “Nay tân chúa bị đau, trong nước đang lo lắng, nghi ngờ. Tướng quân nếu còn coi xã tắc là trọng thì, hãy nên tạm để cho vương tử Tông lên quyền ngôi chúa để yên lòng người. Đợi khi nào tân chúa trưởng thành, vương tử Tông sẽ lại trao trả chính quyền và lui về giữ trọn đạo làm tôi. Tướng quân nên đem ý đó bày tỏ với Tuyên phi và để vương tử Tông nhận Tuyên phi làm mẹ nuôi, lấy tướng quân làm a bảo. Mong rằng tướng quân hãy hết sức giúp đỡ cho được chu toàn!”.

Quận Huy đáp lại rằng: “Lý tôi gửi lạy dưới cửa thánh mẫu. Thánh mẫu đã lo đến việc lớn của xã tắc, tôi đâu dám chẳng vâng mệnh. Nhưng có điều việc này không phải ý của tiên vương. Tôi được tiên vương trao gửi con bồ côi, ngài đã dặn dò rất cặn kẽ. Nay tử cung (quan tài của vua chúa) còn quàn tại đây mà đã thay đổi mệnh ngài, lòng tôi tự thấy không yên. Vậy chuyện này xin hãy để liệu sau. Vả tiên vương cũng không còn người con nào khác, chỉ có tân chúa và vương tử Tông mà thôi. Nếu tân chúa không gánh vác nổi công việc, thì sau đó tất là phải đến vương tử Tông. Lúc đó vương tử Tông cứ việc đường hoàng mà thay thế, há chẳng tốt đẹp hơn sao, cần gì phải vội vã hấp tấp, làm việc trái với lẽ thường như vậy? Còn như kẻ lo lắng, thì lâu rồi họ khắc yên lòng; kẻ nghi ngờ, lâu rồi họ khắc tin tưởng. Dám xin thánh mẫu cứ yên tâm… “.

Sứ giả ra chưa khỏi cửa, quận Huy đã hằn học:

– Việc này dẫu có đánh chết ta cũng chẳng nghe!

Sứ giả về thuật với thánh mẫu. Thánh mẫu biết chí của Huy không thể lay chuyển, bèn đem lời Huy nói lại với Nguyễn Kiêm.

Kiêm sợ việc lộ, vạ lây, lại đến bàn với quận Hoàn.

Quận Hoàn nói:

– Bây giờ sự thế đã như vậy, thôi thì mặc cho ba quân họ muốn làm gì thì làm!

Tình cờ có một tên lính ở xã Vạn Lộc, huyện Động Sơn, đem các công việc báo với người cùng làng làm viên thiêm tri binh phiên Trần Hữu Cầu. Cầu vốn tính hiếu sự, lại giỏi làm văn, tức thì soạn ngay bài hịch Ba quân phò chính, rồi ngầm đem dán ở khắp các đường phố. Do đó, trong kinh kỳ nôn nao cả lên.

Thấy chuyện đã vỡ lở như vậy, bọn Bằng Vũ cho là thế không thể đừng được, bèn quyết định ngay ngày hôm sau khởi sự, không cần phải tâu với thánh mẫu. Hôm ấy là ngày 24 tháng 10 năm Nhâm dần (1782).

Bấy giờ quận Huy cũng biết tai hoạ sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:

– Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.

Các quan nói:

– Lẽ nào lại có chuyện ấy?

Quận Huy bèn đưa ra một tờ khải nói là Huy Bá tố cáo quận Viêm đang âm mưu làm phản và xin các quan hãy tra xét để trừng trị.

Gặp lúc trời sắp tối, người nhà quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, rồi gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian; có kẻ khuyên hắn nên đưa nghĩa sỹ vào trong phủ để tự vệ… Nhưng quận Huy đều gạt đi mà rằng:

– Xưa nay thói đời vẫn hay phao nhảm, chưa chắc việc đó đã có thật. Mà dù có đi nữa thì cứ để thong thả rồi cũng tra ra, chúng nó trốn đi đằng nào được. Nếu việc quá gấp không thể trị nổi bọn chúng, thì ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương, sống thác cũng cam, cần gì mà phải hốt hoảng!

Đêm ấy quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.

Sáng mai, lễ cúng cơm bữa sáng vừa xong, các quan đang sắp lui trào, Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi chín tiếng trống.

Các quan ngơ ngác nhìn nhau. Quận Huy sai người đóng chặt cửa các, bắt trói Bằng Vũ đem chém. Khi Bằng Vũ đã bị trói rồi, Thuỳ trung hầu bảo quận Huy rằng:

– Bọn chúng lập mưu này không phải chỉ có một đứa, nếu chém Bằng Vũ thì đảng gian sẽ lọt lưới hết. Chi bằng hãy giam nó lại, để tra xét thêm cho tiệt hết mầm loạn.

Quận Huy cho là phải, thế là Bằng Vũ không bị giết chết.

Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.

Lúc ấy cửa các đã đóng, quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo quát tháo long trời lở đất.

Quận Huy gọi quận Châu ra bảo:

– Cậu (Quận Châu là bà con họ ngoại của chúa Trịnh, do đó gọi là cậu) giữ chức binh phiên, làm sao không biết răn đe chúng nó?

Quận Châu sợ hãi, vâng dạ mà ra.

Quận Huy tự làm tờ khải rằng:

“Lý tôi kính khải như sau: Tôi được tiên vương giao cho giúp đỡ nhà chúa. Nay đám ba quân nổi loạn, làm cho kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh chúa đem quân giết chúng. Nếu dẹp được, ấy là nhờ về oai linh của chúa, nhược bằng không dẹp được, tôi cũng xin liều chết để xuống ra mắt tiên vương ở dưới âm cung”.

Khải làm xong, quận Huy giao cho quan xuất nạp dâng trình, và xin lấy thanh bảo kiếm của chúa để ra đánh giặc.

Khi bảo kiếm đưa tới, quận Huy quỳ gối lĩnh nhận, rồi lập tức truyền lấy voi để ra trận.

Lúc ấy quận Châu đang đứng ở phía trái trong cửa các, cách quân lính một bức tường, lên tiếng dụ họ rằng:

– Làm lính phải biết lễ phép. Nay tử cung còn quàn ở đây, các người không được làm ồn ào như vậy. Nếu có điều gì muốn nói, cứ về viết một tờ khải đem lại, ta sẽ trình bày giúp.

Quân lính thét lớn:

– Cậu cũng định theo quận Huy làm phản à? Nếu cậu không mở ngay cửa ra, chúng tôi trèo tường mà vào, thì xác cậu sẽ nát như cám!

Quận Châu run sợ, phải mở cửa. Quân lính chen vai xông vào.

Quận Huy chống kiếm lên voi, cưỡi ra giữa sân phủ, trỏ ba quân quát:

– Bớ ba quân! các người phải đâu về đấy ngay, không được làm ầm ỹ, ta sẽ chém đầu chúng mày!

Quân lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới.

Nhưng chỉ được một lát, bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi. Voi vươn đầu ra húc, quân lính chạy quanh chân voi để tránh cặp ngà. Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ném ra tới tấp, voi co vòi mà gầm không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây; lại vớ lấy súng để nạp đạn, nhưng mồi lửa tịt không cháy. Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém. Voi bước lùi trở lại. Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi. Quận Huy lấy mũi lao phóng xuống, làm bị thương vài người. Quân lính hăng máu kéo đến càng đông. Lại có một toán ở cửa Tuyên-vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi phải đứng im không thể nhúc nhích. Họ bèn dùng câu liêm móc cổ quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.

Sau đó, họ phanh bụng quận Huy lấy gan ăn sống, còn thây chết thì lôi ra ngoài cửa Tuyên-vũ.

Em ruột quận Huy là Lý vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến, vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đi đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân (Hồ Hoàn Kiếm bây giờ).

Anh em quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà Tả Xuyên phò thế tử Tông lên phủ đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm chung quanh, gào lên vui sướng:

– Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thấy mặt rồng, cho thoả lòng vui của mọi người!

Trong lúc gấp vội không có kỷ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem chúa, sân phủ đông như họp chợ.

Quận Châu phải đem ngọn cờ đuôi báo phất ở giữa sân, rồi khua chiêng thu quân, mãi đến hơn một trống canh mới yên.

Mấy hôm trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi người đều cho đó là cái điềm thái bình, thánh chúa. Kẻ qua người lại trên đường đều hý hửng nói: “Chúa ta lập rồi!”. Thế rồi họ truyền miệng nhau mà reo mừng, kinh kỳ hôm ấy vì thế phải nghỉ phiên chợ.

Quân lính đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi chúa. Cuộc lễ mừng xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chúa, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn.

Hôm ấy, việc biến xảy ra, Thị Huệ khiếp sợ vô cùng, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu cung. Các gia thần của vị chúa nhỏ cũng đều chạy trốn hết cả. Riêng quận Diễm bế chúa lánh đi ở một nơi khác, từ sớm đến tối không được miếng gì vào mồm, chúa gào khóc nheo nhéo. Quận Diễm phải doạ: “Không được khóc to, kẻo quân lính nghe tiếng, chúng nó kéo đến đánh chết!” Chúa nhỏ sợ hãi, mới không khóc nữa.

Đến đêm, thánh mẫu sai người đi tìm Thị Huệ cùng chúa nhỏ về cung, cho thay quần áo và ăn uống. Chúa nhỏ vì quá sợ hãi không ăn uống gì được, bệnh càng thêm nguy kịch.

Chúa mới (Trịnh Tông) bèn treo giải hễ người nào chữa khỏi bệnh cho chúa nhỏ, thì thưởng một trăm lạng vàng và phong cho tước hầu. Nhưng rốt cuộc không có ai nhận chữa.

Hôm sau, chúa mới ra lệnh cho quan tham tụng Tứ-xuyên hầu, thay chúa nhỏ làm một tờ khải xin tự lui xuống làm vương đệ. Tờ khải làm xong, chúa mới giao xuống cho các đình thần bàn bạc. Các quan xin giáng phong chúa nhỏ làm Cung quốc công. Được ít lâu sau thì Cung quốc công qua đời.

Lại nói, bọn quân lính tuy đã giết chết anh em quận Huy, nhưng cơn giận vẫn chưa hả. Phò lập thế tử Tông lên ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh cơ của quận Huy.

Chúa ưng lời ngay. Ba quân liền reo lớn:

– Quan cứ lệnh, lính cứ truyền, mau đi phá huỷ dinh quận Huy anh em ơi!

Chỉ trong chốc lát, nhà cửa của quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không còn. Rồi bọn quân lính càng thừa thế hoành hành. Phàm các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh-tý (việc Tông mưu cướp ngôi khi trước) những viên quan hầu mọi ngày có tính nghiệt ngã mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.

Luôn trong mấy ngày, họ làm náo động cả kinh thành. Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi.

Sau, chúa phải sai người dò xét trong kinh kỳ, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa lấy một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai. Từ đó về sau việc phá phách nhà cửa mới tạm ngừng, nhưng việc lùng bắt người để giết thì vẫn chưa dứt.

Lại nói, trong bọn thủ hạ của quận Huy có một người tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, quê ở làng Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An.

Cha Chỉnh nhờ nghề buôn bán, trở nên giàu sang, gia tư kể có hàng vạn, thường vẫn ở dưới cửa quận Việp.

Chỉnh, phong tư đẹp đẽ, trí tuệ hơn người. Lúc nhỏ theo học nho, đã đọc khắp các kinh sử, năm mười sáu tuổi đỗ hương cống; đã từng theo cha nương nhờ dưới cửa nhà quận Việp.

Chỉnh giỏi về thơ văn quốc âm. Vì mến công nghiệp của Quách Tử Nghi nhà Đường, Chỉnh có làm bài Quách lệnh công phú bằng chữ nôm, được nhiều người trong nước truyền tụng.

Tính Chỉnh lại hào hiệp, giao du khắp thiên hạ. Trong nhà Chỉnh lúc nào cũng có vài chục người khách, khi ngâm thơ, khi uống rượu, tuỳ theo sự hứng thú mà thù tạc với nhau. Nhà Chỉnh nuôi mười mấy ca nhi và vũ nữ; Chỉnh tự tay soạn ra bài hát, phổ vào đàn sáo, ngày đêm bắt họ ca múa để mua vui.

Vì thế, Chỉnh được xem là tay phong lưu bậc nhất ở đất Trường An (tức là kinh đô Thăng Long. Nguyên là tên kinh đô nhà Hán, sau thành danh từ chung chỉ kinh đô) hồi ấy.

Ngoài ra, Chỉnh lại còn có tài khôi hài, mỗi khi bông đùa ai cũng phải phục.

ở trong nhà quận Việp hơn mười năm, Chỉnh mới được cử ra coi đội Thiện-tiểu; có kẻ thấy vậy chê rằng: “Sao nhỏ thế?”. Chỉnh liền đáp lại ngay: “Chớ cho điều thiện nhỏ mà không làm!” (câu này rút trong bài di chúc của Lưu Bị đời Tam quốc để lại cho con. Nguyên văn là: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi”, ở đây Chỉnh mượn hai chữ Thiện-tiểu của Lưu Bị để chỉ đội Thiện-tiểu với ý khôi hài). Cả đám đều bật cười. Tài bông đùa của Chỉnh đại để là như vậy.

Khi quận Việp vào đánh phương Nam, Chỉnh được đi theo giúp việc bút nghiên. Thấy Chỉnh có tài, quận Việp hết sức yêu mến.

Sau khi quận Việp qua đời, có kẻ tố cáo rằng trong lúc làm việc quan, Chỉnh đã đánh cắp vàng bạc của công kể đến hàng trăm vạn. Việc ấy liên luỵ đến cả quận Huy. Chỉnh bị tống giam vào ngục và bị tra tấn đến gần chết, nhưng vẫn nhất định không xưng. Nhờ vậy Chỉnh mới được vô tội. Còn quận Huy thấy thế thì lại càng trọng Chỉnh bội phần.

Lúc vào làm trấn thủ Nghệ An, quận Huy dùng Chỉnh làm hữu tham quân; thường giao cho Chỉnh luyện tập thuỷ thủ để chống giặc biển. Chẳng bao lâu Chỉnh trở thành vô địch trong nghề thuỷ chiến. Ngoài biển, mọi người thường gọi Chỉnh là “con hải ưng”.

Đến hồi quận Huy đổi về trấn Sơn Nam, Chỉnh cũng được đổi sang cai quản đội Tiền-trung, đem quân đi tuần mặt biển. Rồi ít lâu sau, Chỉnh lại được đổi về trông coi cơ Tiền-ninh ở trấn Nghệ An.

Ngôi mả tổ nhà Chỉnh nằm ở trên núi Côn Bằng. Về thế đất ấy, sách địa lý nói rằng: “Ngàn vạn con rồng đuổi ngàn vạn con hổ; xưng bá xưng vương đều được như ý”. Nhân đó Chỉnh mới tự đặt hiệu là Bằng lĩnh hầu.

Thời kỳ còn ở dưới trướng quận Việp, Chỉnh có một người quen cùng làng tên là Nguyễn Viết Tuyển, thi võ đỗ biền sinh. Tuyển vốn có sức lực hơn người, lại là tay can đảm, mưu lược, nhờ Chỉnh tiến cử lên quận Việp, nên Tuyển được coi trung đội của đạo Hậu-kiên đóng ở trấn Sơn Nam.

Đến lúc này nghe tin trong kinh có biến, Tuyển vội vã vượt biển về quê. Giương buồm ra đi từ ngày 26 đến ngày 28 thì đến làng Đông Hải. Tuyển đem hết mọi việc ở đường ngoài kể lại với Chỉnh. Chỉnh bối rối, hoảng hốt, không biết nên làm thế nào.

Thật là:

Sóng nổi đất bằng ai chẳng sợ,
Nắng thiêu núi tuyết khó nương nhờ

Chưa biết Chỉnh tính liệu như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.

Sách Thông giám chép: Đời Đường, có người bảo Trương Thoàn nên tới nhà Dương Quốc Trung. Thoàn nói: “Các người tựa vào Dương hữu tướng như tựa núi Thái Sơn; tôi thì cho đó là trái núi băng. Hễ mặt trời lên thì các người hết chỗ dựa”. Câu này lấy ý ở điển ấy.

Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ ba

Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh,
Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn.

Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời Viết Tuyển, bị một phen giật mình sợ hãi, nhưng rồi lại cố trấn tĩnh ngay và giữ kín chuyện đó không để lộ cho ai biết, chỉ bí mật dặn vợ mấy điều, rồi đi thẳng đến trấn sở Doanh cầu để bàn với Dao trung hầu [tức Vũ Tá Dao, người huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh (Nghệ Tĩnh)].

Dao trung hầu nguyên là em rể quận Việp, hiện làm trấn thủ Nghệ An, nghe lời Chỉnh nói, sợ lắm, liền hỏi mưu kế nên như thế nào.

Chỉnh nói:

– Trấn này giáp liền trấn Thuận Hoá, hiện nay phó tướng Phú Xuân là Thể quận công, đồn thủ Động Hải là Khôi thọ hầu (Thể quận công tên là Hoàng Đình Thể. Khôi Thọ hầu tên là Khôi Thọ), đều là môn đồ của cụ quận Việp; với chúng ta cũng là những người cùng thuyền. Quan lớn nên viết thư kín bảo quận Thể tìm cách giết viên đại tướng Phú Xuân, chiếm lấy thành đó, rồi kíp cho người ra dụ Khôi Thọ. Khôi Thọ thế nào cũng đem cả thành Động Hải mà hưởng ứng với ta. Còn ở đây, quan lớn cứ việc giữ lấy trấn này để làm cái thế môi răng với hai nơi ấy. Rồi ngài thu dùng hào kiệt, chiêu mộ thổ binh, chặn đường Hoàng Mai và đóng đồn lớn ở vùng Quỳnh Lưu để làm kế cố thủ. Còn về việc phòng giữ mặt biển, tôi xin đảm đương. Trấn này địa lợi có thể nương tựa, nhân tâm có thể trông cậy. Năm trước, quận Siêu bị tội với đức Dụ tổ (tức Trịnh Giang) cũng giữ trấn này để chống lại nhà chúa, cuối cùng đã thoát khỏi tai nạn. Huống chi sự thế ngày nay lại còn dễ dàng hơn hồi quận Siêu, nếu ngài làm được như vậy, ấy là đã lấy được nửa thiên hạ rồi. Chẳng những triều đình không làm gì nổi, mà ngài còn có thể giữ cõi yên dân, ung dung ngồi nhìn sự thay đổi của thiên hạ. Như thế, chẳng những trước mắt khỏi bị tai vạ mà về sau còn có thể lập được kỳ công nữa!

Dao trung hầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

– Kế của ông quả thực là hay lắm. Nhưng tôi tự liệu tài sức không thể làm được như thế. Xin ông nghĩ cho cách thứ hai nữa xem sao?

Chỉnh đáp:

– Ngoài kế ấy ra, chỉ còn một cách bỏ nước mà đi thôi!

Dao trung hầu lại hỏi:

– Nhưng mà đi đâu?

Chỉnh nói:

– Thiên hạ vạn nước lo gì không có chỗ đi?

Rồi Chỉnh ghé tai Dao trung hầu nói nhỏ mấy câu. Dao trung hầu nửa muốn nghe theo, nửa lại mơ hồ chưa quyết, liền nói với Chỉnh:

– Đó cũng là việc to lớn lắm, để tôi nghĩ lại xem đã!

Chỉnh nói:

– Bây giờ sự biến chỉ trong chốc lát, đợi khi ngài nghĩ lại thì có lẽ cái lệnh tróc nã đã tới nơi rồi. Vậy ngài hãy ở lại mà nghĩ, xin để cho tôi được tự tiện!

Rồi Chỉnh cáo từ ra về. Tới nhà, Chỉnh hỏi vợ biết mọi việc đã sửa soạn xong; bèn nói là có lệnh của quan trấn thủ sai đi tuần tiễu mặt biển, rồi đưa hết người nhà từ già đến trẻ và tất cả các thứ gia sản xuống thuyền. Mọi người trong nhà đều không hiểu là chuyện gì.

Khi tất cả đã ở trên thuyền rồi, Chỉnh mới gọi hơn ba trăm lính cơ do Chỉnh trông coi, bảo họ đứng ở bờ sông, nói rõ ràng duyên cớ cho họ nghe, để lại cho mỗi tên lính một quan tiền đen, rồi từ biệt họ. Đến tận lúc ấy, bọn lính mới hiểu công việc của Chỉnh.

Thuyền nhổ neo, Chỉnh cho bắn ba phát súng lớn, rồi sai chèo ra giữa dòng sông và kéo buồm cho thuyền chạy thẳng ra biển.

Lại nói, ba quân sau khi đã phò lập được thế tử Tông lên ngôi chúa, họ cậy vào công đó sinh ra kiêu căng. Hàng ngày họ tụ họp để cùng nhau bàn việc triều đình. Thường khi họ viết giấy đưa vào trong triều, nói việc này nên để, việc kia nên đổi. Nhiều khi những việc vô lý họ cũng bắt buộc triều đình phải làm. Chẳng những thế họ còn đòi hỏi những ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Triều đình hễ có ai bàn chuyện phải chăng, thì họ lấy việc phá nhà, đánh giết ra để hăm doạ. Những lúc các quan xử kiện, họ cũng nhúng tay vào, hoặc nhận bên nguyên là người họ, hoặc nhận bên bị là người quen, rồi ép các quan phải đổi trắng thay đen. Còn dân chúng trong vùng họ đóng có kiện cáo gì, thì họ tự ý đòi bắt và xử đoán lấy, không cần gì đến quan tư.

Các quan đều phải nhịn hơi nuốt tiếng, không dám động chạm đến họ. Trong cung hễ động làm việc gì bất kể lớn nhỏ, họ cũng dòm nom bàn tán; hoặc bẻ việc này sao làm thế kia, hoặc hỏi việc kia sao làm thế này. Chúa và Dương thái phi cũng tự thấy bị bó buộc quá, không thể chịu nổi.

Triều đình bàn nên xét công ban thưởng, để tỏ rõ sự đền ơn, khiến cho họ đều được mãn nguyện; rồi sau đó sẽ dùng phép vua mà trừng trị dần dần. Chúa cho là phải, bèn sai các quan bàn định về công giúp đỡ tôn phò nhà chúa. Phong cho Bằng Vũ là Suy trung dực vận công thần, tước hầu, coi đội quân chầu chực ở nội cung. Quận Viêm, quận Hoàn cùng bọn Nguyễn Kiêm, Gia Thọ, Dự Vũ đều được phong làm Tuyên lực công thần và theo thứ bực khác nhau, đều được thăng chức tất cả. Riêng ba chục người nhóm họp ở chùa Khán-sơn lại còn được ghi tên vào sổ trung nghĩa và cho thăng thưởng thêm. Ngoài ra, các quân lính thuỷ, bộ, trong, ngoài đều được thăng chức một lần, đồng thời được ban tiền thưởng tuỳ theo công trạng nhiều hay ít. Triều đình lại cấp cho họ những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người, họ có thể nhượng lại cho kẻ khác mà lấy tiền để hưởng được ơn huệ thực sự.

Sau khi quân lý đã nhận thưởng đâu vào đấy, chúa bèn dụ họ ai nấy đều nên tuân theo pháp luật để cùng vui hưởng thái bình.

Bấy giờ, quân lính liền răn bảo nhau rằng:

“Cánh mình đã phò lập ông ấy làm chúa, thì cũng đừng nên quấy nhiễu quá để cho ông ấy được biết cái thú vui làm chúa. Rồi xem sau này dần dần thuận cảnh ông ấy cư xử ra sao? Nếu ông ấy càn rỡ quá đáng, thì lúc bấy giờ sẽ liệu cách mà trừng trị. Chúng mình đằng nào cũng không mất quyền làm lính kia mà!”.

Rồi từ đó, họ cũng bớt làm bậy.

Chúa được yên ổn đôi chút, liền đưa những người thân tín cũ vào các chỗ trọng yếu. Lấy tả tư giảng Nguyễn Khản làm tham tụng; cậu cả là Khuông thọ hầu Dương Khuông làm quyền phủ sự.

Nguyễn Khản người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, là con Xuân quận công Nguyễn Nghiễm. Khản sinh ra là một trang phong lưu công tử, thi đỗ rất sớm, theo phò Thịnh vương từ lúc chưa lên ngôi chúa, được vương rất đỗi yêu mến. Kịp đến khi vương lên ngôi, Khản lại càng được tin dùng, được ra vào trong cung cấm, y như các viên nội giám.

Tính Khản hào hoa, trong lâu đài không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm thơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc phong lưu đại thần. Tại đình Kim-âu nơi Khản ở, có đủ cả nước, non, trúc, đá, cảnh trí hết sức thú vị. Thịnh vương hay ngự chơi nhà Khản, thường ban thưởng rất nhiều.

Trước Khản làm tả thị lang sung chức bồi tụng, với Xuân quận công cùng ở trong chính phủ. Sự yêu quý của chúa đối với Khản hồi ấy, thật là có một không hai trong hàng các quan văn võ.

Sau đó, Khản được đổi làm trấn thủ Sơn Tây và kiêm cả trấn thủ Hưng Hoá. Đến khi xảy ra vụ án năm Canh tý, tội Khản đáng phải chết, nhưng Thịnh vương nghĩ thương tình, đặc cách cho giảm nhẹ, chỉ bắt giam ở nhà quận Châu. Hồi ấy quận Huy và Thị Huệ cũng muốn tìm cớ đưa Khản đến chỗ chết. Nhưng Khản biết ý đã làm một bài Tự tình khúc bằng chữ nôm, kể hết những sự đãi ngộ quý mến ngày xưa, rồi nhờ người lén đưa giấu cho chúa. Chúa xem bài đó, động lòng thương; nhờ vậy Khản mới thoát chết.

Kịp đến khi thế tử Tông lên ngôi, Khản lại được phục chức về ban cũ, rồi thăng chức thượng thư bộ Lại, tước Tán quận công.

Nguyên ngày đi đánh dẹp phương Nam, Khản làm tham lĩnh trấn Nghệ An, kiêm trông coi về lương hướng của quân lính; Khản có dung túng cho người nhà quấy nhiễu xứ ấy. Nên bây giờ thấy Khản được phục chức, thì bọn lính xứ Nghệ lại lôi cái oán cũ ấy ra. Họ nhao nhao bảo nhau: “Lão ấy là người xa xỉ, phóng túng, năm xưa đã từng gieo rắc bao nhiêu tội ác cho trấn ta, ta kiện nhưng không được xử. Nay lão ấy lại làm quốc sư, rồi nếu để lão ấy lại làm tể tướng nữa thì dân chịu sao nổi? Chi bằng chúng ta mỗi đứa cho một quả đấm cho xong đời lão ấy đi!

Nhưng rồi trong bọn lại có kẻ đứng ra khuyên giải, nên Khản mới được vô sự.

Dương Khuông là em ruột Dương thái phi; người rất dung tục bỉ ổi, không có tài năng gì hết. Vụ án năm Canh tý, tôi tớ, họ hàng, bè đảng nhà thế tử Tông đều bị tai vạ, riêng Khuông nhờ ngu si mà được hưởng phúc thái bình.

Khi thế tử mới lên ngôi, Khuông liền được giao cho trông nom cơ Trung uy, cùng với Dương thái phi nấp bên trong mà định đoạt mọi việc. Quân lính đã từng nhạo báng rằng: “Cậu ấy thì có tài cán gì? Chẳng qua chỉ nhờ vào cái bóng của người mặc váy mà được như thế. Nay vừa khỏi vòng cùng khốn, đã muốn vội giàu sang. Cũng ví như kẻ bị đói đã lâu, lúc gặp cơm thì ăn ngốn ăn ngấu rồi cũng đến nứt ruột ra mà thôi!”.

Đến bây giờ thấy Khản và Khuông cùng vào chính phủ, lòng họ đều không phục. Tuy vậy, bọn họ cũng rất giảo quyệt, kẻ này oán nhưng kẻ kia lại ơn, sau lưng họ chê mà trước mặt họ lại khen, chẳng còn hiểu đầu đuôi ra sao?

Vả chăng những nhà có chức quyền trọng yếu thường thường chỉ nghe lời nói chuyện thái bình mà không nghe lời nói chuyện nguy biến. Việc gì cũng muốn mạnh bạo tiến tới, nhưng không biết ngoảnh nhìn mối lo về sau. Họ chỉ muốn nóng vội làm cho chóng được thái bình. Cho nên mới có những mưu kế sâu sắc, những lời bàn bạc kín đáo, mà việc cần kíp thứ nhất là đè nén bọn kiêu binh.

Tình cờ lúc đó, trong đám kiêu binh có bốn người lính giả lấy danh nghĩa đồng đội, ức hiếp người lái buôn Đông Hà để mượn thuyền. Việc này bị người đội trưởng phát giác và triều đình đem chém cả bốn. Bọn kiêu binh đều oán là hình phạt quá lạm. Nhưng vì họ đã trót tự mình phát giác ra, nên cuối cùng cũng đành im.

Khản và Khuông thấy đám lính im lặng, cho là uy quyền đã được lập lại; hai người mừng rỡ bảo nhau: “Nhà nước đã sẵn có pháp luật. Nếu ta cứ giữ vững pháp luật như thế vài lần, thì dù chúng có kiêu cũng chẳng kiêu được!”.

Bấy giờ có viên tri huyện Đông Thành là Mai Doãn Khuê, người làng An Toàn, huyện La Sơn. Khuê vốn là tay giảo quyệt ghê gớm trong trấn Nghệ An. Việc quân lính ngông nghênh làm bậy, phần nhiều đều do hắn xui giục. Vì muốn tâng công với triều đình, Khuê bèn mật báo với Tán quận công Nguyễn Khản rằng:

– Triều đình cho rằng kiêu binh có thể dẹp được, nhưng không biết rằng hoạ lớn sắp xảy ra không thể nào ngăn nổi. Tôi nghe bọn lính bàn nhau: Hoàng tự tôn (Hoàng tự tôn là cháu nối nghiệp của hoàng thượng, chỉ Lê Duy Kỳ, tức Chiêu-thống sau này) nguyên trước do họ đón về, nay hoàng thượng tuổi già, mà hoàng tự tôn cũng đã khôn lớn, họ muốn họp nhau tâu xin hoàng thượng nhường ngôi cho cháu. Khiến cho ngôi vua ngôi chúa đều do tay quân lính dựng lên, để công của họ càng to thêm. Trong bọn họ lại có một số người cậy mình có công rồi tỏ ý oán vọng, họ muốn phò cho nhà vua thống nhất thiên hạ, để cướp lại quyền ở nhà chúa. Nếu kế ấy mà thành được, tôi e các ngài sẽ không còn đất mà gửi thân nữa.

Tán quận công đem lời ấy tâu lại với chúa. Chúa sai Doãn Khuê phát giác chuyện đó.

Khuê bèn vu cáo cho viên câu kê Siêu thọ bá, cháu gọi Tứ xuyên hầu bằng cậu, cũng có dự mưu.

Việc ấy được giao xuống tra xét thì không thấy bằng chứng gì hết. Nhưng triều đình vẫn cho là người tố cáo nói đúng, bèn đưa Siêu Thọ về giam ở quê quán.

Còn Doãn Khuê vì có công phát giác, được phong làm Khuê lĩnh bá, cho cai quản toán lính chầu hầu ở nội điện. Khuê lại còn được kiêm chức giảng quan cho hoàng tự tôn và được ở luôn trong nội điện để dò xét công việc của ông hoàng đó.

Lại nói, hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ (trước tên là Duy Khiêm, hoặc Tư Khiêm), là con thái tử Lê Duy Vỹ đã mất.

Thái tử xưa vóc người đẹp đẽ, tư chất thông minh. Thấy nhà vua bị mất quyền, thái tử căm tức lắm, thường vẫn khảng khái nuôi chí thu phục lại quyền bính. Thái tử lại từng xem khắp kinh sử, yêu mến các nho sinh; nên hào kiệt trong thiên hạ không ai là không ngưỡng vọng. Trong lúc Thịnh vương còn là thế tử, chỉ vì tranh giành trên dưới mà vương có bụng ghét thái tử.

Khi ấy chính phi của Ân vương không có con trai, chỉ sinh được một con gái tức là công chúa Tiên Dung. Tiên Dung được vương hết sức yêu chiều. Năm nàng mới mười tuổi, chính phi xin với vương gả cho thái tử để sau này nàng làm hoàng hậu. Vương bằng lòng.

Một hôm thái tử và thế tử cùng vào thăm Ân vương; vương mời ăn cơm và để con rể với con trai cùng ngồi một mâm. Chính phi thấy vậy liền nói rằng:

– Sao chúa lại được cùng ăn với vua?

Rồi bà ta bắt ngồi riêng ra mỗi người một nơi. Thế tử giận tái mặt lại, nhưng vẫn cắn răng không dám nói. Lúc tan tiệc trở ra, thế tử bảo với thái tử:

– Hai chúng ta sẽ phải một người sống, một người chết. Vua ấy cũng không nên đứng cùng với chúa này!

Đến khi Thịnh vương lên ngôi chúa, liền lập mưu với gia thần là viên quan hoạn Thiều quận công Nguyễn Kim Đĩnh (chính tên là Phạm Huy Đĩnh, người xã Cao Mỗ, nay là xã Kim Bôi, huyện Tiên Hưng, Thái Bình), vu cho thái tử Vỹ thông dâm với cung nữ của Ân vương; rồi đem tội đó tâu lên hoàng thượng để bắt thái tử bỏ ngục.

Trước đó, trong giếng Tam Sơn ở mé sau điện bỗng có tiếng nổ như sấm. Thái tử dùng thuật số để bói, biết mình sắp gặp nạn, bèn đến nói với hoàng thượng. Hoàng thượng cũng lấy làm lo, vẫn phải luôn luôn cầu nguyện cho con.

Kịp tới ngày bị bắt, thái tử biết tai nạn xảy ra đến nơi, liền vào ẩn ở trong điện ngủ của hoàng thượng.

Quận Thiều dẫn toán lính trước tiên xông thẳng vào Đông cung, định bắt thái tử đã rồi mới tâu vua, nhưng tìm khắp cả Đông-cung không thấy. Quận Thiều liền vào thẳng trong điện, kể tội thái tử cho vua nghe, rồi nói rằng:

– Tôi nghe nói thái tử náu ở chỗ ngủ của bệ hạ, xin hãy bắt giao cho tôi.

Hoàng thượng ôm mãi lấy thái tử không nỡ rời ra. Quận Thiều cũng cứ quỳ mãi ở giữa sân điện.

Thái tử tự biết mình không thể thoát được, liền lạy trước mặt hoàng thượng, rồi ra cho quân lính trói.

Sau khi giải về phủ chúa, thái tử bị truất xuống làm dân thường và bị giam vào ngục. Rồi Thịnh vương ép hoàng thượng lấy người con thứ tư là Lê Duy Cận làm hoàng thái tử.

Được ít lâu sau, quận Thiều lại sai tay chân vu cáo cho hai nho sinh thi đỗ ở làng Đan Luân là Nguyễn Huy Sưởng [chính là Vũ Bá Sưởng người làng Đan Luân, nay thuộc Bình Giang, Hải Dương (Hải Hưng)] và Lương Giản (người xã Tào Sơn, huyện Ngọc Sơn, nay là Tĩnh Gia, Thanh Hoá), rằng hai người này âm mưu cướp thái tử ra khỏi ngục để cùng dấy quân làm loạn. Việc này được đưa xuống các quan bàn bạc, và bắt Sưởng để tra xét. Giản khi ấy đã kịp bỏ trốn. Còn Sưởng bị đánh đau quá, không chịu nổi roi vọt, đành phải nhận liều. Thế là thái tử phải ghép vào tội thắt cổ.

Ngày hành hình, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ cách nhau gang tấc cũng không trông rõ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai, gái trong thiên hạ, không ai là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng đó là việc trái ngược nhất, bi thảm nhất từ xưa đến nay. Hôm ấy nhằm ngày 20 tháng chạp, năm Tân-mão, niên hiệu Cảnh-hưng (1771).

Sau khi giết thái tử, Thịnh vương bắt đầu có chí thống nhất đất nước, định bắt cả ba con của thái tử giam vào một nơi. Một hôm, chúa tắm gội ăn chay, rồi ngự ra hồ Tây để cầu thần báo mộng. Đang đi, chợt thấy trước mặt có một cái kiệu, trên kiệu có một người ngồi chĩnh chện, nhìn kỹ té ra đó là thái tử Vỹ. Chúa truyền hỏi quân lính có ai trông thấy xe kiệu gì ở trước mặt không. Quân lính đều nói không thấy. Chúa lo lắm, liền sai quay ngay về cung. Đêm ấy, chúa đang nằm trong màn, bỗng thấy một người đầu đội khăn hồng, mình vận áo đỏ, tay cầm một chiếc mái chèo, vạch màn ra rồi đứng ở đầu giường trừng mắt nhìn mình. Chúa vội hỏi ai thì người ấy đáp rằng:

– Ta là Duy Vĩ đây!

Chúa cả sợ, bấy giờ mới biết đó là linh hồn của thái tử Vỹ.

Nguyên khi thái tử bị bắt thì một người đàn bà trong cung bế các con của thái tử chạy trốn về phía tây, vào ngủ nhờ nhà một người dân ở làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm.

Người dân này đêm trước đã mơ thấy có người bảo rằng: “Mày phải quét rửa nhà cửa, sân sướng cho sạch sẽ, thiên tử và thái hậu sắp sửa tới nơi?” Tỉnh dậy hắn ta nghĩ bụng: “Mình là nhà dân, đâu được cái may mắn có các bậc chí tôn ngự tới?” Rồi suốt ngày hôm đó, hắn ta chắp tay đứng đợi ở ngoài cổng; nhưng đợi mãi mà vẫn chả thấy một ai. Đến xẩm tối, mới thấy một người đàn bà bồng con xăm xăm tiến đến trước cổng xin ngủ nhờ; hắn ta liền đón ngay vào trong nhà và mời ngồi lên chiếc phản cao nhất. Sau khi đã kể qua câu chuyện chiêm bao cho người đàn bà nghe, hắn ta lại nói:

– Cứ theo giấc mộng đêm qua của tôi như thế, thì bà và các cậu đây hẳn phải là dòng dõi quí tộc; nếu không phải thân thích nhà vua, ắt cũng là họ hàng nhà chúa!

Người đàn bà đó chính là cung phi họ Nguyễn, nghe nói, vội gạt đi mà rằng:

– Câu chuyện chiêm bao, có gì là bằng cứ. Bác đừng nói nhảm, đó là việc chết người chứ không phải chuyện chơi đâu!

Ngay sớm hôm sau, mấy mẹ con lại từ giã chủ nhà mà ra đi. Nhưng chẳng bao lâu, bị người ta dò theo tung tích bắt được, đưa về an trí ở trấn Sơn Tây, rồi lại bị giải về kinh đô và giam ở ngục đề lĩnh.

Kịp đến khi quân lính phò thế tử Tông làm chúa, thì hoàng tôn (Lê Duy Kỳ) đã 17 tuổi. Nhâ dịp ấy, quân lính bèn mang luôn kiệu tới nhà giam đón hoàng tôn về điện.

Hoàng tôn mặt rồng mắt phượng, tiếng nói như chuông, quân lính thấy vậy đều khen: “Thật đúng là bậc thiên tử”

Bà nội thế tử Tông xưa nay vốn thân với thái tử Lê Duy Cận. Thấy hoàng tôn về, bà ta sợ thái tử Cận mất ngôi, liền sai người giả vờ mời hoàng tôn vào chầu ở cung Huỳnh, để lừa bắt hoàng tôn đem dìm xuống sông Nhĩ Hà. Lúc hoàng tôn vào cung, bà ta cho tay chân bức hoàng tôn phải nằm lên cáng rồi bí mật khiêng đi.

Khi qua hồ Sen. hoàng tôn nằm trong cáng kêu gào ầm ĩ: lính canh nghe tiếng, quát phải đứng lại. Phu cáng và tên đi theo bỏ chạy tứ tung, nhân đó hoàng tôn được thoát nạn (theo Cương mục thì hơi khác; bà nội Tông sai hoạn quan Liêm Tăng ép Kỳ tới chầu hầu, để bí mật giết chết. Kỳ chối không được, vừa khóc vừa đi. Do đó, quân lính phát hiện được la hét đòi tra ra kẻ thủ mưu. Họ tìm Liêm Tăng không thấy, có ý ngờ cho Cận chủ mưu).

Bấy giờ ba quân ồn ào nhốn nháo, muốn tra ra kẻ mưu hại hoàng tôn để bắt mà giết đi.

Thái tử Cận nghe được chuyện đó, liền vào phủ hầu chúa.

Thấy kiệu thái tử để ở ngoài cửa phủ, quân lính đều tức giận nói: “Ngôi vua lại có thể cầu may mà được à? Để chi cái của này để hắn tiện đường chạy chọt làm những việc bậy bạ!”

Rồi họ phá tan chiếc kiệu. Thái tử Cận hoảng sợ phải ăn mặc giả làm thường dân mà lẻn về cung.

Chúa biết việc đó là do ở nơi bà mình gây ra, bèn dụ quân lính không nên làm ồn ào. Rồi lập tức sai triều đình bàn định việc dựng hoàng tôn Kỳ lên ngôi đông cung, cho được yên lòng ba quân.

Chúa ép thái tử Cận phải nhường ngôi và giáng phong làm Sùng nhượng công.

Thế là hoàng tôn Lê Duy Kỳ được lên ngôi làm hoàng tự tôn. Hoàng thượng liền sai đặt ra các giảng quan để trông nom việc học hành. Công phu dạy dỗ ấy, ngày tháng thêm nhiều mãi. Do đó cái tiếng thánh hiền nhân hiếu của hoàng tôn được đồn vang khắp cả trong ngoài. Cũng do đó mà quân lính mới có cái mưu tôn phò cho hoàng tôn lên làm vua.

Đến khi Doãn Khuê tố cáo, tuy tra xét không thấy có bằng chứng gì, nhưng cuối cùng chúa cũng vẫn ngờ.

Một hôm, quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn ở nhà giam ra tâu lên hoàng thượng, để kể công và xin được ban ơn. Hoàng thượng cho ba quân vào lạy ở sân điện Vạn-thọ, tuyên chỉ uý lạo họ. Rồi truyền cho viên tả phiên lại sai người đánh cá hồ Sen lên, chọn lấy cá trắm làm gỏi thết đãi cả bọn. Sau đó mới từ từ bàn đến cách thưởng công cho họ.

Lúc quân lính ngồi dự yến tiệc ở trên điện, có kẻ chạy đi báo tin với chúa. Chúa cho đòi ngay quốc sư Nguyễn Khản, quốc cữu Dương Khuông vào phủ và bảo:

– Cái mưu mô tôn phò của bọn kiêu binh thật là giập không thể tắt được! Hiện giờ chúng nó đang tụ họp trên điện nhà vua. Vậy ta nên làm thế nào?

Quốc sư Nguyễn Khản đáp:

– Xin cho bắt mà giết đi!

Chúa bèn sai viên đầu hiệu đội Nhưng-nhất là Triêm vũ hầu (tên là Nguyễn Triêm) đem đội quân Phong-vân đến vây bắt.

Gã Triêm vũ hầu này người làng Phú Hoa, huyện Yên Lãng, thi đỗ tạo sĩ, dáng người hùng vĩ, có can đảm lại có sức khoẻ. Sau khi vâng mệnh chúa, Triêm vũ hầu liền xách gươm đi thẳng ra ngoài cửa phủ, rồi tuốt gươm ra, lấy tay gại gại vào lưỡi gươm mà nói: “Gươm sắc lắm! Gươm sắc lắm!

Chém được đầu kiêu binh đây!”. Tiếp đó gã dẫn quân xông thẳng lên trên điện, vây lấy chỗ bọn kiêu binh đang tụ họp ăn uống.

Ba quân đang mải mê chè chén, thấy có lính đến vây bắt thì đều hoảng hốt bỏ chạy tán loạn. Triêm vũ hầu và đội quân Phong-vân đuổi bắt được bảy tên, đem giải về phủ chúa.

Chúa lập tức cho với các quan tới để bàn cách xử trí. Các quan tới đông đủ, đem cả bảy tên ra tra hỏi. Bảy tên cứ thực tình khai hết, không có âm mưu gì khác cả. Các quan họp bàn đều có ý che chở cho họ. Riêng nguyên cữu Dương Khuông lại quả quyết mà rằng:

– Không phải hỏi tội trạng nào cả! Chỉ cái thói hay tụ họp mà không chừa cũng đáng xử chém rồi, còn phải bàn bạc làm gì nữa? Bọn chúng cứ cậy đông người mà ngông nghênh, không thể một lúc giết cho hết được. Nhưng hễ đứa nào phạm tội thì quyết không dung tha. Ví như cả bó đũa thì không thể nào bẻ gãy được, nhưng nếu cứ rút riêng một hai chiếc ra mà bẻ, thì lâu dần rồi cũng phải gãy hết. Hôm nọ chém bốn đứa đó, thế là chịu chết bốn đứa, có thấy chúng bắt đền được ai đâu?

Quốc sư Nguyễn Khản cũng nói thêm:

– Lời bàn của quốc cữu thực là có lý. Các quan cứ nên theo luật mà thi hành.

Các quan bèn chiểu theo điều luật “vào trộm hoàng thành” mà xử cả bảy tên vào tội bêu đầu.

Tờ khải dâng lên, chúa sai đem tội phạm ra chém ngay hôm đó. Trong triều ngoài phố, ai cũng lấy làm hể hả. Bữa ấy nhằm ngày 15 tháng thái tử năm Nhâm thìn, niên hiệu Cảnh hưng (1772).

Sau vụ bảy kiêu binh bị giết chết, ba quân thẩy đều đem lòng oán giận. Họ lại họp nhau bàn bạc.

Một người trong bọn nói:

– Ngày nay được có triều đình này, khiến cho chúa tôi ngồi yên mà hưởng phú quí, đều là do công sức của chúng mình cả. Thế mà, họ chẳng ơn thì chớ, lại còn cho là kẻ thù, động một tí là bị đè nén. Nếu chúng ta cứ chần chừ nín nhịn mãi, khiến cho cái mưu “bẻ đũa” của họ thành được, thì rồi bọn mình sẽ không còn người nào sống sót đâu!

Một người khác lại nói:

– Chúng ta không biết bẻ, chỉ biết “đả” thôi! Mau mau mỗi người một đấm, đưa ngay chúng đi theo quận Huy, xem chúng nó có còn bẻ được nữa hay không?

Rồi họ hẹn nhau đến hôm sau, vào lúc tan chầu thì sẽ khởi sự.

Có kẻ đem việc đó mật báo với các quan trong triều. Các quan nửa ngờ, nửa tin. Sớm hôm sau, quốc cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu đi lén vào trong phủ. Còn quốc sư Nguyễn Khản thì đóng cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan chầu, quân lính chia nhau đi bủa vây các dinh thự. Vào nhà Dương Khuông và Triêm vũ hầu, không thấy hai người, quân lính tức thì hò nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát, cả hai dinh đó đều bị san thành đất bằng.

Riêng ở dinh quốc sư Dương Khuông, có một thủ hạ là người khách phương Bắc (chỉ người Trung Quốc lúc bấy giờ), vốn rất giỏi thuật đánh kiếm. Nghe tin có biến, hắn vội tuốt gươm ra đứng giữ ở cổng. Quân lính nom bộ dạng người khách phương Bắc ngờ ở trong còn nhiều tay kiếm khách khác, nên không dám vào. Nhưng lâu lâu, họ thấy ra ra vào vào vẫn chỉ có một hắn ta; tức thì cả bọn liền sấn ngay vào sát cổng. Người khách múa gươm ra đánh, chém bị thương vài người, quân lính kéo ùa vào, vằm hắn ra nát như bùn. Rồi họ xông thẳng vào trong dinh; lúc ấy Khản đã thay đổi quần áo, theo đường tắt chạy ra cửa ô Trường Bắn mà trốn đi rồi. Quân lính lập tức phá tan dinh của Khản.

Chúa nghe tin dinh thự của quốc sư Nguyễn Khản có người canh giữ, cho rằng Khản đã phòng bị, chắc không việc gì; bèn sai một hiệu quân đến ngay đó để phân giải. Nhưng lúc quan quân tới nơi thì Khản đã bỏ trốn, dinh thự đã bị phá gần hết.

Sau đó, đám kiêu binh lại kéo về phủ bảo với chúa rằng:

– Quốc sư mang quân ra ngoài làm loạn, xin chúa cho người đuổi theo!

Chúa bất đắc dĩ phải sai viên thị thần là thiêm tri binh phiên Thoan trung hầu đem quân đuổi theo Khản; nhưng lại dặn ngầm là cứ đi từ từ để cho Khản chạy thoát. Thoan trung hầu đuổi đến ô Cầu Giấy không theo kịp Khản, lại quay trở về.

Quân lính giận Thoan trung hầu không chịu đem hết sức ra đuổi, liền kéo đến nhà phá luôn nhà hắn ta.

Thoan trung hầu cũng phải chạy trốn nốt.

Quân lính không bắt được ba viên quan ấy, lấy làm căm tức lắm. Sau khi dò biết quốc cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu lẩn trốn trong phủ chúa, họ bèn chai nhau chắn kín cửa phủ, rồi cho một toán xông vào bên trong, đòi chúa phải đưa hai viên ấy ra cho họ.

Chúa nói dối rằng:

– Không thấy ai trong này cả!

Quân lính đều nhao nhao:

– Chúng trốn vào phủ, đã có người trông thấy rõ ràng. Người ta còn nhớ cả giờ chúng đi vào nữa, thế nhà chúa còn chối à? Xưa nay há lại có chuyện vua chúa chứa giặc ở trong cung bao giờ?

Dương thái phi vừa khóc vừa dỗ dành các quân lính rằng:

– Cái thân goá bụa may nhờ có ba quân phò chúa mới được như thế này! Nay chỉ còn có một đứa em, xin ba quân hãy tha mạng nó, để cho được trọn vẹn cái ơn xương thịt.

Đám kiêu binh thét lên:

– Tha mạng cậu ấy à! Thế hôm nọ bảy mạng người chết, ai tha? Nếu còn cố giấu, cung khuyết sẽ ra tro ngay lập tức, cái đó chắc cũng không hay ho gì!

Thái phi bèn ngồi sụp xuống đất, chắp hai tay lại vái lạy, van xin.

Các quân lính lại nói:

– Không nói chuyện với đàn bà. Chỉ hỏi nhà chúa thôi!

Chúa nói:

– Bức bách nhau thế này, thà đừng lập làm chúa còn hơn!

Quân lính nói:

– Tưởng rằng muốn làm chúa nên mới lập, chớ nếu không muốn thì có ai ép?

Một người nữa hùa theo nói:

– Bẻm mép thế! Thôi, hãy xuống khỏi bệ đi! Chúng tôi mời Thuỵ quận công đến là khắc yên chuyện.

Chúa hoảng sợ, không dám ho he gì nữa.

Lúc bấy giờ đã sắp tối, bọn quân lính đều tản ra về, và họ còn nói thêm:

– Bắt chúng nó cũng ví như bắt cá. Nước sâu thì cá còn lặn; đến mai tháo cho cạn nước, xem chúng nó có thể bay lên trời được không?

Đêm ấy, kiêu binh canh giữ cửa phủ rất chặt chẽ.

Chúa bàn với thái phi rằng:

– Khí thế của chúng như vậy, không thể dùng lời nói suông mà giảng giải được đâu. Cần phải mất nhiều của đấm mõm cho chúng nó, may ra mới xong, nếu không, thì phải xoay kế khác…

Thái phi đáp:

– Nghe nói có tên Nhuyến Thọ, biện lại đội Nhưng-nhất là một đứa giảo quyệt, bọn kiêu binh làm gì cũng phải hỏi mưu nó.

Sáng mai, chúa bèn cho người ra dụ Thọ, ngỏ ý đút lót, bảo Thọ hễ nhận thu xếp việc này, sẽ giao một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, cho y mặc sức muốn làm gì thì làm, không cần hỏi đến. Lại hứa thêm rằng: “Nếu làm xong việc, sẽ còn có trọng thưởng nữa”.

Nhuyến Thọ trong bụng đã ưng, nhưng còn làm bộ khó khăn mà rằng:

– Bọn họ muôn người muôn miệng, khó mà nói năng được với họ. Vả chăng, hễ đã ngỏ ý đút lót thì thế nào họ cũng sinh ngờ vực. Rồi ngộ nhỡ lúc ấy lại có một vài người bàn ngang vào nữa, làm cho cơn giận của họ bốc lên, thì lưng tôi phỏng chịu được mấy đấm?

Người của chúa sai đến vẫn cố kèo nài. Nhuyến Thọ ngần ngừ đáp:

– Nếu vậy để tôi lựa chọn lấy mấy chục người hung hăng, táo tợn nhất, đem tình thực ra bàn với họ, rồi bảo họ phụ hoạ thêm với tôi. Nhưng khi bàn bạc, giả sử mấy chục người này có đòi thêm điều gì, thì tuỳ nhà chúa thương lượng lấy; tôi chỉ xin đứng ra làm kẻ dàn xếp mà thôi. Còn như cái khoản tiền bạc công cộng kia, cũng xin đợi đến lúc quân lính tập hợp đông đủ đã. Bấy giờ nhà chúa sẽ tự ngỏ lời trước; tôi và mấy chục người này ở bên cạnh hùa thêm vào, như thế việc mới có thể thành được!

Người ấy về nói lại với chúa. Chúa bằng lòng, liền sai đưa riêng Nhuyến Thọ một ngàn lạng bạc để hắn phân phát.

Gần chiều, quân lính lại tụ họp và tiến sát vào tận trong phủ. Chúa và thái phi lại phải ra dỗ dành. Bọn lính nói:

– Việc gì mà phải lắm mồm! Cứ vào trong cửa cấm lùng khắp toà phủ, rồi túm búi tóc lôi ra, hỏi hắn xem cái nắm đũa ấy còn có thể bẻ được mấy chiếc nữa?

Chúa nói:

– Ba quân làm như vậy thì có sướng gì, chẳng qua chỉ thêm bẩn tay mà thôi! Nay quả nhân có chút quà mọn là một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, xin đưa để khao thưởng ba quân, mong ba quân hãy nghĩ lại mà tha thứ cho hai cái mạng nhỏ bé đó!

Đám kiêu binh đáp:

– Chúa còn tiếc hai người đó, rồi sẽ thấy phủ đường cũng không giữ được đâu. Bọn tôi cần gì số tiền bạc ấy!

Giữa lúc họ đang nhao nhao, Nhuyến Thọ bỗng vượt lên phía trước và nói:

– Nhà chúa là bề trên đã phải chịu nhũn như vậy; các anh em không nên ăn nói cạn tàu ráo máng quá!

Tiếp đó bọn mấy chục người kia cũng mỗi người một câu phụ hoạ thêm vào. Rút cục lính tráng ai chẳng hám lợi, họ bèn dịu giọng mà rằng:

– Đã thế, thì hãy tha cho em ruột thái phi. Còn Triêm vũ hầu là người giữa trời, bọn tôi phải xin mỗi người một miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ tan về ngay tức khắc. Nếu không, thì dẫu có số tiền ấy cũng chẳng làm cho ba quân nguôi giận được.

Chúa nói:

– Tha thì tha cả. Sao còn tách bạch người nọ người kia?

Quân lính nói:

– Nhà chúa nếu còn quanh co che chở cho Triêm vũ hầu; bọn tôi khi “máu đã nhập tim” (do câu tục ngữ: “Máu nhập tim, nhà lim cũng nhỏ”), thì ngay cả quốc cữu cũng không tha nữa!

Nguyên hôm trước Triêm vũ hầu trốn vào phủ, lẩn ở trên gác Kỳ-lân, vẫn dùng đôi kiếm để giữ mình. Trong lúc bọn quân lính đòi giết, Triêm vũ hầu bụng bảo dạ: “Nếu chúng không nghe nhà chúa điều đình, mà cứ xông vào bắt ta, thì phải đứng trên thang chém lấy dăm ba cái đầu của bọn chúng, chứ ta không chịu chết một mình!”.

Đến lúc này việc đã gấp quá, chúa bèn sai người đến dỗ Triêm vũ hầu rằng: “Bây giờ xã tắc nguy nan như treo trên sợi tóc, nhà chúa không thể cố giấu tướng quân được nữa. Vậy xin tướng quân hãy vì chúa chớ tiếc cái chết, để cho nhà chúa được yên. Đó là công muôn đời của tướng quân!”

Triêm vũ hầu bất đắc dĩ phải trèo thang xuống ra mắt chúa mà nói:

– Chết thì chết, thần xin hai tay hai kiếm tung hoành với chúng nó một trận, giết gọn lấy vài trăm đứa, cho hả bớt cơn giận của nhà chúa!

Chúa nói:

– Như thế chỉ làm cho thái phi kinh sợ, mà quả nhân cũng chẳng được yên nào!

Triêm vũ hầu quẳng hai thanh gươm xuống đất nói:

– Bó tay mà chịu như thế, thần đành chết uổng vậy!

Chúa khóc mà từ biệt Triêm vũ hầu. Rồi lại hứa với Triêm vũ hầu rằng, sau khi y chết, sẽ cấp cho một ngàn khoảnh ruộng làm của nối đời và phong cho làm phúc thần, bắt dân mười làng thờ cúng.

Triêm vũ hầu đáp:

– Thần chỉ vì chúa mà chết, đâu phải cầu mong tước lộc? Xin chúa hãy ra sức tăng thêm uy quyền, xoay loạn làm trị, thì thần dẫu chết, xương vẫn không mục nát!

Chúa bèn tự tay viết sáu chữ: “Trung nghĩa tráng liệt đại vương” đưa cho Triêm vũ hầu. Triêm vũ hầu quì xuống nhận mảnh giấy đó, vê tròn, nuốt vào bụng, rồi lạy tạ chúa mà đi ra. Khi qua điếm Tiểu-bút, Triêm vũ hầu bị đám kiêu binh lôi kéo và hỏi:

– Gươm sắc của mày bây giờ như thế nào?

Triêm vũ hầu đáp:

– Tao không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo mệnh chúa và vì xã tắc đó thôi. Nhưng mà, chẳng lâu gì đâu, tao chết rồi, sẽ có người khác đến chặt đầu lũ chúng bay. Đến lúc ấy, chúng bay sẽ biết gươm có sắc hay không!

Quân lính xúm vào toan đánh Triêm vũ hầu, gã cản lại mà rằng:

– Đây là nơi nghiêm cấm, không được hành hung. Hãy để tao ra khỏi cửa phủ, ngồi yên đâu đấy, rồi tha hồ cho chúng bay muốn làm gì tao thì làm.

Đoạn gã bước khoan thai đến bên cạnh cầu đá, tìm chỗ, ung dung ngồi xuống và bảo bọn quân lính:

– Nào, bây giờ chúng bay làm gì tao thì làm đi!

Đám kiêu binh lấy gạch đá đập mãi vào đầu Triêm vũ hầu khiến máu chảy đầy mặt. Nhưng gã vẫn ngồi yên không cựa, khẽ lấy tay áo lau mặt, rồi vừa cười vừa nói:

– Bây giờ tao không thi đấu võ, nhưng vẫn còn thi can đảm! Thế mới lạ chứ!

Ngay đó, một tên lính đứng sau cầm giáo đâm thọc vào lưng gã, gã mới chết.

Triêm vũ hầu chết rồi; quân lính vẫn chưa hết giận, lại vào buộc chúa phải xử lại vụ án vừa qua.

Chúa bất đắc dĩ phải giao việc đó xuống cho triều đình bàn định. Quốc sư, quốc cữu đều bị bãi chức làm dân thường. Bảy tên lình bị chém ngày trước đều được đền mạng.

Từ đó, kiêu binh lại càng ngông nghênh tợn. Tại các đường phố, họ cứ dăng tay nhau mà đi. Các vị công hầu gặp họ đều phải quay xe tránh sang lối khác.

Lại nói, Nguyễn Khản lúc mới phục chức, được làm trấn thủ Sơn Tây; đến khi vào làm tể tướng thì cho em ruột là Điền nhạc hầu Nguyễn Cương (Cương mục chép là Nguyễn Điều. Có sách lại chép Nguyễn Điền) ra thay.

Hôm ấy, Khản lật đật trốn ra ngoài thành, dùng võng một đòn bắt hai người khiêng đi, nhằm hướng Sơn Tây mà chạy. Tới trấn, Cương ra đón vào trong dinh và hỏi duyên cớ. Khản đáp:

– Tục ngữ nói: “Quân bất trị”. Thật là đúng lắm!

Rồi Khản đem đầu đuôi câu chuyện kể hết cho Cương nghe. Cương nói:

– Bây giờ việc đã như thế, anh định đối phó ra sao?

Khản vốn là hạng người xuềnh xoàng, không có cơ mưu, nghe em hỏi liền cười và đáp:

– Trừ ra có thuật quỷ thần, hễ thấy chúng nó họp nhau, tức thì theo đến mà ám ảnh, làm cho chúng nó đau bụng nứt ruột, như Tề thiên đại thánh bóp Hoàng My (Điển này lấy ở truyện Tây du), không biết đằng nào mà lần nữa, hoạ may chúng nó mới sợ. Chứ còn sức người thì không làm sao được!

Cương là kẻ có nhiều mưu mẹo khôn ngoan, liền nói với Khản:

– Tôi có một mẹo, có thể khiến cho chúng nó chết ráo.

Khản hỏi:

– Mẹo như thế nào?

Cương đáp:

– Ngày nay dân trong bốn trấn (Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Thời Lê, 4trấn ở chung quanh kinh đô này được gọi là kinh trấn hay kinh lộ, là những nơi che chở cho kinh đô; ngoài kinh trấn lại có 9 phiên trấn hay phiên lộ như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quangv.v… là phên giậu che chở cho các kinh trấn) đang oán ghét chúng nó đến xương tuỷ; nếu ai lấy danh nghĩa diệt kiêu binh để kêu gọi, thì chỉ cần hô một tiếng, không người nào là không hưởng ứng. Trấn này ở về miền thượng du, dân chúng thuần hậu dễ bảo. Trước kia anh làm trấn thủ Hưng Hoá, các tù trưởng địa phương đều là thuộc hạ của anh, anh bảo chắc họ phải nghe. Trên vùng Tuyên Quang, phiên mục Diễn quận công (tức Hoàng Văn Đồng giữ Mỏ đồng Tụ Long, Tuyên Quang) giàu có nhất thiên hạ, năm xưa có tội được anh cứu giúp, ông ta hẳn còn nhớ ơn; nếu viết thư lên rủ, thế nào ông ấy chả theo. ở trấn Sơn Nam, quận Thạc (tức Hoàng Phùng Cơ) là tướng đánh trăm trận, vốn nổi tiếng là bậc vô địch. Rồi ở trấn Kinh Bắc thì Thần trung hầu (tức Trương Tuân), ở trấn Hải Dương thì Thái đình hầu (tức Trịnh Tự Quyền), đều là những tay có mưu trí. Bây giờ hãy dùng mật lệnh nhà chúa, sai họ ngầm nuôi nghĩa sĩ, giữ vững dinh trấn, và nghe theo sự điều khiển của anh. Còn anh, vốn là một vị tể tướng lại kiêm chức sư phó, thì một lời nói ra khỏi miệng, trấn nào lại dám không tuân theo. Bên Kinh Bắc còn có hai tên tướng giặc đầu hàng là tú Huy và cai Hồ, đều là những tay dữ tợn, tinh khôn. Hiện chúng đang ở chỗ viên nội thần Nhật trung hầu; nếu thả cho chúng và sai đi xui giục hai phủ Lạng Giang, Bắc Hà (đều thuộc Bắc Giang), chắc cũng giúp cho mình được một tay. Trên Thái Nguyên lại có tên giặc già là cai Già, thuở xưa đã từng làm môn hạ của anh, hẳn anh cũng có thể sai khiến được. Cả bấy nhiêu nơi ta hẹn nhau cùng ngày khởi sự. Phàm ưu binh (thời Lê trung hưng, kén lính ở 3 phủ thuộc Thanh Hoá và 12 huyện thuộc Nghệ An để chuyên bảo vệ kinh thành. Loại lính này được ưu đãi hơn các lính nơi khác, vì thế gọi là ưu binh, hoặc cũng gọi là lính tam phủ) Thanh-Nghệ, hễ đứa nào ở các trấn ngoài đều phải trừ cho hết. Đứa nào trốn thoát, cho dân sở tại cứ bắt mà giết đi. Rồi thì bốn phương tám mặt cùng ập vào kinh thành kiêu binh ắt sẽ không còn đường mà chạy nữa. Đó là một kỳ công muôn đời mới gặp, anh nên tính gấp đi!

Khản nghe xong, nói:

– Hay lắm! Nhưng nay chúa còn đang ở trong tay chúng; ném chuột lại có thể không kiêng đồ vật được ư? (ý muốn nói diệt kiêu binh lại sợ vạ đến Trịnh Tông)

Cương nói:

– Đó là việc rất dễ: Trước hãy sai người trình với chúa, bí mật lấy hết vàng bạc, của cải trong kho, phân tán ra các trấn; thái phi, vương tử và các cung tần cũng lén đưa cả ra ngoài thành, hễ gặp chỗ nào tiện thì hãy ở tạm. Sau đó ngầm báo cho quận Thạc đem thuyền chở quân đến bến Thanh Trì, nói phao là đi tuần sông: rồi giấu kín một chiếc đò ngang, đợi sẵn ở bến Tây Long. Còn chúa thì sẽ mặc quần áo thường dân, cất lẻn xuống chiếc thuyền ấy đi xuôi đến dinh trấn Sơn Nam và tạm đóng tại đó. Xong đâu đấy bấy giờ các trấn mới cùng khởi sự. Như vậy, thì không còn lo ngại gì nữa!

Khản mừng mà rằng:

– Không có chú, tôi không nghĩ được đến thế. Dẫu không thành cũng là một việc làm hả dạ!

Rồi Khản làm tờ mật khải đưa về cho chúa. Chúa mừng lắm, viết ngay tờ mật chỉ khen ngợi, đồng thời hẹn sẵn mọi việc. Tiếp đó, chúa mời thái phi cải trang và lẻn ra ngoài thành, đến tạm trú tại nhà người chồng bà dì thứ bảy của chúa ở làng Văn Giáp, huyện Thượng Phúc. Vương tử và các cung tần cũng đều theo cả đến đó. Một mặt, chúa cho mở kho lấy hết vàng bạc châu báu, sai các thị thần thân tín ngầm đem ra, giao phó cho bốn trấn. Một mặt, chúa cho hẹn với quan trấn thủ trấn Sơn Nam, đúng ngày 28 tháng ấy thì bí mật đến đón mình; lại hẹn với các trấn đúng ngày mồng một tháng sau thì các đạo sẽ cùng khởi binh cả một loạt.

Công việc sắp đặt như thế là xong.

Tới ngày hẹn, quận Thạc theo lệnh chúa đem thuyền đến đón.

Khi ấy trong kinh hết sức nhốn nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp đem quân vào thành, để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng hốt, ngầm cho vợ con gói ghém hành lý đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các nơi, còn ở kinh chỉ để lại những người thuộc “quân tịch” mà thôi. Rồi chúng kéo nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất đắc dĩ phải ra ngự ở Trạch các để uý lạo ba quân.

Trong đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa rằng:

– Chúa đừng tưởng chúng tôi không biết mà hòng đem đầu lưỡi ra khua múa để che đậy. Từ đây theo cửa Tuyên Vũ đi ra, rồi đến bến Tây Long (tục gọi là Tây Luông, ở thẳng phía sau nhà hát thành phố Hà Nội bây giờ); chẳng qua chỉ độ trăm bước đã có thuyền của quận Thạc chờ đón sẵn sàng ở đó; trông trước trông sau, khi nào thấy không có người, thì bước lên thuyền cho nhanh rồi tìm đường mà đi chứ gì!

Chúa biến sắc mặt, nín lặng quay vào.

Từ hôm ấy, quân lính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Những người nào ra vào, hễ hơi có vẻ khang khác là bị họ khám xét tra hỏi liền.

Vì vậy, chúa không dám ra khỏi cung. Quận Thạc nghe tin, lại rút quân về trấn của mình.

Chúa sai người ra báo lại với các trấn hoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo theo đúng hẹn cũ đã rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào kiệt các nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh.

Ngày hôm đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh-Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn, lúc đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm Thanh-Nghệ, tức thì bị dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả cách làm người câm, ăn xin ở dọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám kiêu binh ở đây biết cái tin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành.

Được tin này, bọn kiêu binh ở kinh tức thì họp nhau bàn cách chống cự. Rồi họ chia nhau thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía tây mới kéo ra đến Đại-phùng, đạo phía bắc mới kéo đến cầu Vịnh thì đã bị ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ phải bỏ cả khí giới, cố mang vết thương mà chạy về kinh.

Bấy giờ kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài thành chạy trốn.

Đám kiêu binh vừa sợ vừa tức, gọi chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh khí, chia cho cơ đội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một tấc sắt nào để tự vệ.

Đêm hôm ấy, kiêu binh bắt được bốn tay nghĩa sĩ lẻn vào thành; họ liền bí mật đem đến hội sở của họ để tra hỏi. Mấy tay nghĩa sĩ đau quá, khai liều rằng đêm nay quân ở ngoài sẽ vào đánh úp. Đám kiêu binh cả sợ, bèn bảo nhau phòng bị nghiêm nhặt. Súng nhồi sẵn mồi lửa, gươm tuốt khỏi vỏ, suốt đêm họ hò hét, đi lại rầm rập, kinh thành hầu như sắp vỡ.

Sớm hôm sau, họ đem chém cả bốn nghĩa sĩ, rồi xúm quanh phủ chúa mà trách rằng:

– Nhờ có chúng tôi phò, chúa mới được lên ngôi. Nay chúa lại coi chúng tôi là kẻ thù. Lính Thanh-Nghệ hai trăm năm nay vẫn là nanh vuốt cật ruột của nhà chúa. Bây giờ chúa lại nỡ dấy quân bốn trấn về giết hại lính hai xứ chúng tôi. Tin da dẻ mà ngờ cật ruột, giơ dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là những kẻ bỏ thuốc độc cho chúa. Nếu chúa không mau dụ bốn trấn bãi binh, thì đừng có trách chúng tôi là vô lễ!

Chúa một mực chối là không biết, rồi ngầm sai người bảo các trấn bãi việc ấy đi.

Đám kiêu binh không biết là chúa đã ngầm ra lệnh đình chỉ, nên vẫn còn nghi ngờ. Họ bèn tụ họp nhau, bàn làm chuyện đại nghịch. Hẹn đến canh ba đêm ấy, nổ ba tiếng súng Bảo-long làm hiệu, rồi cùng kéo vào phủ chúa để hành sự; sẽ lấy hết của cải đồ vật trong phủ chia nhau; sau đó lấy xe kiệu của chúa chở hết các đồ nghi vệ cùng sổ sách đưa đến nội điện, rồi rước hoàng thượng về Thanh Hoa để mưu toan công việc sau này.

Thật là:

A’o cá hớ hênh nên chẳng quyết,
Lòng hồ cố chấp hoá ngờ nhau.

Chưa biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.

áo cá: dịch chữ “ngư phục”. Sách Thuyết uyển chép: Bạch long ngư phục, khốn ư Dự Thư, nghĩa là: con rồng trắng cải trang làm con cá, bị người Dự Thư bắn trúng mắt. ở đây ý nói Trịnh Tông định cải trang làm thường dân để ra khỏi thành, nhưng mưu cơ bị lộ…).

lòng hồ: bụng da loài cáo nham hiểm, hay nghi ngờ.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ tư
Nhờ ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù thầy
Tỏ lòng trung, Trần Quán chết theo chúa.

Lại nói, đám kiêu binh sau khi đã bàn định mưu mô xong, liền kéo nhau đến hỏi Trần Nguyễn Nhưng. Nhưng vốn quen làm giấy tờ cho đám lính; bèn lập ngay một bản điều ước, cắt đặt rõ người nào làm việc nào, rồi đưa cho họ. Sau đó, Nhưng lại tức tốc đem mưu ấy vào báo với chúa. Chúa cả sợ nói:

– Hôm qua ta ngồi ở cung Trung Hoà, có con quạ khoang bay xuống trước sân vừa nhảy nhót vừa nhìn vào ta đến hai ba lần, như có ý muốn mổ. Ta phải sai thị thần lấy giáo ra xua mấy cái, nó mới bay đi. Thấy điềm ấy, bụng ta đã biết chắc là có kẻ dưới đang mưu hại ta. Nay quả nhiên đúng như vậy. Bây giờ ngươi hãy nên vì ta mà giảng giải với họ, cho nó hợp với cái điềm “xua giáo” của ta.

Rồi chúa lại hứa cho Nhưng tiền bạc, để Nhưng ngầm phá mưu của quân lính.

Nhưng là một người nông nổi, được chúa tỏ ý khen thưởng, tin dùng, liền đi khoe ngay với người khác. Quân lính biết mưu của họ đã bị Nhưng tiết lộ, bèn lùng bắt, Nhưng phải trốn về vùng Thanh Hoa.

Chúa thấy Nhưng là kẻ đa tâm lại hay kiếm chuyện, nhân dịp hắn đi trốn, bèn cho làm chức ký lục ở Thuận Hoá.

Sau khi Nhưng đi rồi, thì vừa lúc các trấn cũng bãi binh; vì vậy mưu của quân lính cũng thôi nốt.

Bây giờ lại nói về việc Nguyễn Hữu Chỉnh giong buồm ra biển vào Tây Sơn trong năm Nhâm dần (1782).

ấp Tây Sơn thuộc địa phận xứ Quảng Nam (Quảng Nam hồi ấy gồm cả ba tỉnh Nam-Ngãi-Định cũ. ấp Tây Sơn ở vào địa phận tỉnh Bình Định). Xứ này phía bắc giáp ải Vân, phía nam giáp Gia Định, phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp biển; bờ cõi rộng hàng ngàn dặm.

ở ấp Tây Sơn có người họ Nguyễn tên là Văn Nhạc, tổ tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng năm Thịnh-đức (Lê Thần Tông 1653-1657), quân nhà Nguyễn ra đánh Nghệ An, chiếm cứ được bảy huyện phía nam sông Cả, rồi dồn bắt tất cả dân cư đưa về Nam cho sống ở vùng Tây Sơn. Tổ bốn đời của Văn Nhạc, chuyến ấy cũng bị bắt ở trong số đó.

Văn Nhạc trước kia nhà nghèo, nhưng sau nhờ vào việc gá bạc mà gia tư bỗng trở nên giàu có. Nhạc từng làm biện lại ở Vân Đồn, nên người ta vẫn thường gọi là biện Nhạc. Biện Nhạc vì tiêu mất tiền công, bèn trốn vào núi, tụ tập tay chân hơn một trăm người, rồi đi ăn cướp ở các châu ấp. Viên trấn tướng vùng ấy không sao trị nổi.

Từ đó, biện Nhạc tự xưng là chúa Tây Sơn. Một hôm, biện Nhạc tự ngồi vào trong cũi, cho bọn tay chân khiêng đi và loan báo ở dọc đường rằng đã bắt được chúa Tây Sơn tức biện Nhạc, xin đưa đến dinh trấn để trình nộp. Viên trấn tướng mừng lắm, mở cửa cho vào, rồi đem giam ở trong ngục. Đêm ấy, biện Nhạc phá cũi xông ra, cướp lấy thanh gươm của tên lính canh ngục, chém chết tên ấy, phóng lửa đốt luôn dinh trấn, rồi giết nốt viên tướng trấn và chiếm lấy thành (đây là thành Qui Nhơn, do trấn tướng Nguyễn Khắc Tuyên coi giữ. Theo một số tài liệu khác thì Nhạc chỉ là người vào làm nội ứng, bên ngoài lúc ấy đã có Nguyễn Thung cầm đầu một toán quân Tây Sơn ập vào, cùng với Nhạc cướp thành).

Bấy giờ chúa nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần (tức Định vương) còn bé, quan quốc phó của triều đình nhà Nguyễn là Đạt quận công (Trương Phúc Loan) nắm hết quyền chính, làm lắm điều càn bậy, nên lòng người trong xứ đều lìa tan.

Khi Văn Nhạc nổi loạn, lại mượn một bọn vô lại người phương Bắc (khi Nguyễn Nhạc khởi nghĩa, có hai thương nhân Trung Quốc là Tập Đình và Lý Tài chiêu tập các dân nghèo người Hoa-kiều theo giúp. Lý Tài xưng là Hoà nghĩa quân, Tập Đình xưng là Trung nghĩa quân. Quân của Lý Tài và Tập Đình chiến đấu rất hăng, làm cho bên địch vô cùng sợ hãi. Nhân đó, Nhạc thường chọn nghĩa quân của mình lấy những người cao lớn, cho ăn mặc giống như quân của Lý Tài và Tập Đình, lúc ra trận quân Nguyễn trông thấy bóng đã bỏ chạy. Người phương Bắc nói đây chính là trỏ vào những người Hoa-kiều đó) giả xưng làm quân cứu viện của Tập đình hầu, để chống với quân nhà Nguyễn. Mấy trận đánh nhau, quân nhà Nguyễn đều không thắng nổi, do đó mà thanh thế của Tây Sơn ngày càng to lớn hơn.

Năm Giáp Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh hưng, thánh tổ Thịnh vương nhân cơ hội đó, mới sai quan đại tư đồ Việp quận công làm Bình Nam thượng tướng, đem quân đóng ở La Hà và phao lên rằng sẽ vào tiếp viện cho chúa Nguyễn. Nhạc thấy vậy liền sai người đem cống một con ngựa hay, một thanh gươm báu, và xin theo về triều đình.

Hồi ấy, xứ Thuận Hoá mới dẹp yên, tướng sĩ đều ngại vất vả, muốn để công việc Tây Sơn sẽ tính toán sau. Do đó quận Việp mới làm tờ khải về trình với Thịnh vương, xin nên nhân dịp ấy mà vỗ về Nhạc. Vương cũng nghe lời, bèn cho Nhạc làm trấn thủ Quảng Nam và phong làm Tuyên uý đại sứ, Cung quốc công. Từ đó, hàng năm Nhạc vẫn dâng lễ cống đều đặn.

Quận Việp thường hay sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm sứ giả qua lại với Tây Sơn. Thấy Chỉnh có tài biện luận, Nhạc rất yêu mến. Được ít lâu, Nhạc thấy có điềm rồng vàng, liền cho đóng ngai rồng, lên ngôi vua, tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái đức. Triều đình biết vậy, nhưng cũng bỏ đó không hỏi gì đến. Bấy giờ Nhạc đang có ý muốn thôn tính Thuận Hoá, mà vẫn chưa có người để bàn định công việc. Nên khi được Chỉnh chạy vào với mình, Nhạc mừng lắm. Nhưng thực ra, trong lòng vẫn chưa tin. Chỉnh cũng nhận thấy điều đó, liền kể với Nhạc tất cả đầu đuôi câu chuyện của mình, rồi lại tình nguyện gửi vợ con làm con tin, để xin được nương tựa vào xứ sở của Nhạc, Nhạc bằng lòng.

Nhạc vốn đã mến tài của Chỉnh, nên đối với Chỉnh càng ngày càng thân mật, tin cậy. Ngược lại, Chỉnh cũng hết lòng thờ Nhạc, bày kế cho Nhạc đánh chiếm đất đai các nước Chiêm Thành, Xiêm La, Bồn Man. Rồi Chỉnh lại tự mình cầm quân đi tiên phong, xông pha vào những nơi tên đạn, khiến mấy nước lân cận ấy lần lượt đều bị đánh bại. Do đó, ân tình giữa Nhạc với Chỉnh lại càng thêm mặn mà.

Tuy thế, nhưng trong khi ở với Tây Sơn, Chỉnh vẫn hàng ngày mong về nước cũ.

Lại nói, triều đình từ khi mất Chỉnh, rất lấy làm lo, thường vẫn chiêu mộ xem ai dụ được Chỉnh trở về thì sẽ trọng thưởng. Một người em rể của Chỉnh xin nhận việc đó. Triều đình liền cấp cho một đạo mật chỉ để người ấy lên đường.

Lúc gặp Chỉnh, người ấy chưa kịp nói gì thì Chỉnh đã hỏi:

– Chú lận đận trèo đèo lội suối tới đây làm chi? Có phải định làm thuyết khách cho chúa Trịnh không? Chú coi mặt ta, xem từ khi đẻ ra đến giờ đã từng nghe ai xui khôn xui dại chưa, mà chú dám cả gan như vậy?

Người em rể chỉ còn biết cúi đầu nín lặng, không dám nói gì nữa.

Chỉnh lại hỏi tiếp:

– Nhưng thôi được, chú đã ở Bắc vào đây, ắt là biết rõ đầu đuôi sự việc. Vậy chú hãy kể cho ta nghe xem, từ sau khi Huy quận công bị nạn, thì công chúa (chỉ con gái Trịnh Doanh, vợ Huy quận công) và các cậu công tử lưu lạc đi đâu?

Người ấy đáp:

– Khi ấy, công chúa bị Dương thái phi giam vào hậu cung. Còn hai công tử nghe tin có biến thì bỏ chạy về huyện Yên Dũng, dấy quân trả thù, làm chấn động cả vùng Kinh Bắc. Chúa Trịnh sai viên trấn thủ Kinh Bắc là Mãn trung hầu đem quân đi đánh. Quân Mãn trung hầu bày trận ở núi Ba Tầng (nay ở địa phận huyện Việt Yên, Hà Bắc). Các công tử sai viên thủ lệnh Hoàng Tú làm tiền bộ đem quân ra đánh. Hoàng Tú bị chết ngay trước trận. Quân sĩ tan rã. Hai công tử đều bị bắt sống, đóng cũi giải về kinh.

Chỉnh nghe xong, than rằng:

– Tuổi trẻ bồng bột, hèn nào không hỏng việc! Nhưng cũng là một việc làm vì nghĩa, dầu thất bại mà vẫn vẻ vang…!

Rồi Chỉnh lại hỏi:

– Thế đưa về kinh rồi sau ra sao?

Người ấy trả lời:

– Triều đình bàn định hai công tử đều đáng tội chết. Chúa nghĩ tình anh em cô cậu, ra ơn cho được tha tội chết. Nhưng lại bị thái phi ngầm sai người đến bắt uống thuốc độc. Có kẻ báo với chúa. Chúa vội sai viên trung sứ đến ngăn lại. Nhưng khi đến nơi thì cậu cả đã bị trúng độc chết rồi. Chỉ còn cậu hai hiện đang bị giam ở ngục cửa Đoài.

Chỉnh tỏ vẻ ngậm ngùi mà rằng:

– Thương thay! Phá tổ đổ trứng (đời Tam-quốc, Khổng Dung bị Tào Tháo bắt, lúc sắp bị giết chết, có kẻ đến bảo hai con của Dung nên trốn đi; hai người đó trả lời: “Tổ vỡ thì trứng còn toàn vẹn làm sao được”- Câu này dùng theo ý đó)! Người ta có tội tình gì?

Lại hỏi:

– Còn công chúa, từ khi bị giam vào hậu cung thì việc ăn ở ra sao?

Đáp:

– Chúa cũng nghĩ tình cô ruột, không nỡ hành hạ gì cả. Song vì thái phi vẫn có hiềm cũ, nên đã làm cho khổ cực đủ đường. Công chúa vừa đau buồn vừa uất giận, nên đã thành bệnh mà chết rồi!

Chỉnh thở dài hồi lâu, rồi nói:

– Công chúa chết cũng là phải, sống mà làm gì nữa…!

Lại hỏi:

– Thế còn Đặng Tuyên phi thì thế nào?

Đáp:

– Khi chúa nhỏ bị bỏ, thái phi liền sai người bắt Tuyên phi đến trước mặt mình, kể tội, rồi buộc Tuyên phi phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy. Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất. Nhưng Tuyên phi vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ-tăng ở vườn sau. Tại đây, Tuyên phi bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, Tuyên phi lấy áo che mặt, trốn ra khỏi cửa Tuyên-vũ, chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính đuổi kịp. Từ đó, lại càng bị giam giữ chặt chẽ. Năm sau trong nhà tẩm miếu trên lăng Thịnh-phúc, tự dưng bao nhiêu đồ thờ bằng gỗ, bằng vàng hễ động tay vào là nát mủn như bùn. Viên giữ lăng miếu vội vàng gửi thư về kinh trình rõ việc biến. Thái phi cho đòi cô đồng vào hỏi. Cô đồng phán rằng: “Chúa thượng đã làm trái ý tiên vương; tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa lên ngôi, đã ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ý cạy mở tử cung, thay đổi quần áo khâm liệm, khiến cho xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị là người mà tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường, khiến vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội, tai biến sẽ còn nhiều nữa!”. Thái phi sợ hãi, lập tức vào nói với chúa. Chúa bèn sai quan tế lễ tạ tội, rồi cho Tuyên phi được trở lại làm cung tần nội thị vào thờ phụng tẩm miếu. Tuyên phi được vào hầu hạ lăng tẩm, đêm ngày chỉ gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ “đại tường” của tiên vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ Thanh Hoa, theo lễ cung nhân táng Tuyên phi ở cách Vọng-lăng của tiên vương một dặm.

Chỉnh nói:

– Chết được đấy! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại có tiết liệt như vậy. Nhưng không hiểu vì sao ngôi của Tuyên phi lại bị giáng làm cung tần như thế?

Đáp:

– Bởi vì khi chúa lên ngôi được một năm, người ta lục tờ cố mệnh của tiên vương, thấy có chữ son của thánh mẫu ngự phê rằng: “Không phải bút rồng của tiên vương, không đủ làm bằng”. Chúa liền giao tờ đó cho triều đình bàn định, bấy giờ quan thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm tờ luận về “quốc sách”, nói rằng: “Ngôi của chúa Điện đô với sách mệnh của Tuyên phi cùng tờ cố mệnh, đều là cái mệnh của tiên vương trong lúc mê lẫn. Nó rất trái lẽ thường, sai đạo lý, không thể cho là phải được. Nay thánh mẫu là mẹ mà đổi lại ý của con thì thật là một việc hết sức chính đáng. Vậy cần phải truy xét về cái tội của những kẻ phụ hoạ, để làm cho sáng tỏ và nghiêm chỉnh pháp điển của nhà nước!” Do đó mà Tuyên phi bị truất làm người thường. Rồi Tứ xuyên hầu vì viết tờ thư cố mệnh, Khanh quận công vì tự tiện viết thay bút rồng, Thiêm sai Nhữ Công Chấn vì tự tiện thảo tờ sách mệnh phong Tuyên phi, xuất nạp Thuỳ trung hầu vì sao những tờ sách mệnh ấy đưa ra chính phủ… đều phải bãi chức về làm dân thường. Đặng thị sau này lại phải giáng làm cung tần, cũng là vì cớ đó.

Lại hỏi:

– Ngoài mấy việc ấy, còn chuyện báo ơn báo oán gì khác nữa không?

Đáp:

– Chúa mới lên ngôi hôm trước, hôm sau liền hạ lệnh rằng, tất cả mọi người đều được khoan dung, chỉ riêng những kẻ tố giác việc năm Canh tý thì không được tha. Vì vậy những kẻ này lần lượt đều bị bắt và bị làm tội hết thảy. Duy Ngô Thì Nhậm không biết trốn đi đâu. Những kẻ phải chết về vụ án Canh tý gồm có Tuân sinh hầu, Khê trung hầu và chồng dì Sáu, về sau đều được truy tặng tước vương và lập đàn chay để làm lễ cầu siêu, giải oan cho họ.

Chỉnh nói:

– Bãi bỏ mệnh của cha giữa triều đình, phô bày lỗi của cha với cả nước; đó là việc đại bất hiếu!

Lại hỏi:

– Tham tụng, bồi tụng bây giờ là những ai?

Đáp:

– Chúa mới lập nên, Tứ xuyên hầu liền bị bãi chức; quan bồi tụng Bùi Huy Bích lên thay chân và được phong làm Kế liệt hầu. Nay Kế liệt hầu vẫn một mình giữ ngôi tham tụng. Còn bọn Trương Đăng Quỹ, Mai Thế Uông, và Trần Công Thước được thay nhau làm bồi tụng. Đó đều là những bậc tai mắt nắm quyền chính hiện giờ.

Hỏi tiếp:

– Từ bấy đến nay, còn có điềm lành, điềm gở gì không?

Đáp:

– Điềm lành không thấy, chỉ có điềm gở thì nhiều: ngày rằm tháng một năm Nhâm dần (1782), ở trong cung bỗng dội ra một tiếng rất to, rền vang đến hơn một khắc, làm rung chuyển cả trời đất. Không hiểu là tiếng gì?

Chỉnh nói:

– Đó là tiếng trống trời.

Người ấy kể tiếp:

– Năm Quí mão (1783), núi vua Hùng tự nhiên sụt xuống hơn hai chục thước. Tháng sáu năm ấy, con sông Thiên-đức (tức sông Đuống) cạn hẳn một ngày một đêm. Năm Giáp thìn (1784), giữa đêm mùng một tháng mười, trong hồ Thuỷ-quân (tức hồ Hoàn Kiếm) thình lình có tiếng phát ra như sấm, nước hồ sủi lên sùng sục, sớm mai bao nhiêu tôm cá đều chết sạch. Cũng trong năm ấy, trên các cây cối trong phủ chúa, thường có hàng vạn con quạ ở đâu kéo đến, bay lượn lao xao, ngày đêm kêu gào quang quác. Rồi ở quãng bờ thành phía ngoài cửa các của phủ đường, bỗng dưng cũng sụt xuống hơn mười trượng. Đó là những sự lạ to lớn, ai ai cũng biết. Còn những chuyện lặt vặt, thì không sao kể hết được.

Chỉnh chắt lưỡi luôn mấy cái, rồi hỏi đến tình trạng bọn kiêu binh. Người ấy cứ theo sự thực kể lại hết đầu đuôi. Chỉnh xem chừng câu chuyện đã cạn, bèn sai nhà bếp làm cơm rượu, thết đãi cho người ấy ăn uống thật no say. Sau đó, Chỉnh mới căn vặn người ấy rằng vào đây để làm gì?

Người ấy thưa:

– Đương trung hầu thấy tôi với quan lớn có tình bà con, nên mới tâu với chúa, xin giáng chỉ sai tôi đến đây khuyên quan lớn về triều, cho khỏi mất công danh phú quí.

Chỉnh cười mà rằng:

– Chú là đứa ngu, ta thực không thèm chấp. Song ta chỉ ghét cái đứa sai chú đến đây dám khinh nhờn ta. Vậy ta kết quả tính mạng cho chú; nếu có oan ức thì cứ xuống âm phủ mà kiện cái đứa đã sai chú ấy!

Rồi Chỉnh hạ lệnh cho tay chân lôi luôn người ấy ra chém chết.

Nhạc thấy Chỉnh chém thuyết khách, lại càng thân cận tin yêu hơn.

Qua năm Bính ngọ (1786), khoảng cuối mùa xuân, đại tướng Thuận Hoá là Tạo quận công (tức Phạm Ngô Cầu) sai viên thuộc hiệu đội Dực-hữu là Dương lĩnh bá Nguyễn Phu Như vào Tây Sơn nói về công việc biên giới của hai xứ.

Phu Như với Chỉnh vốn là chỗ quen biết, liền nói với Chỉnh những lẽ có thể lấy được Thuận Hoá. Rồi Như lại cho Chỉnh biết rằng hai xứ Thanh-Nghệ và cả bốn trấn hiện đang bị đói lớn, dân chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa gì nhau, tình thế không thể lâu bền; nếu lấy được Thuận Hoá, thì việc dẹp yên thiên hạ không khó gì nữa!

Do đó, Chỉnh mới quyết định mưu kế về nước. Luôn bữa ấy, Chỉnh vào hầu Nhạc, bày cách thức lấy đất Thuận Hoá, và xin điều động binh tướng đánh chiếm ngay lấy Phú Xuân.

Nhạc theo lời, liền sai người em ruột là thượng công Nguyễn Văn Bình (tức Nguyễn Huệ), đốc xuất các quân thuỷ bộ; lại sai dũng tướng Võ Văn Nhậm (Võ Văn Nhậm vốn là tiết chế của họ Nguyễn, bị Tây Sơn đánh thua ở trận Gia Định, toan tự tử, sau nghe Nguyễn Huệ dụ hàng, Nhậm bèn theo Tây Sơn từ đó, rồi được Nhạc gả con gái cho) làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, cùng theo hiệu lệnh của Bình, đến ngày 28 tháng tư thì kéo quân lên đường, tiến thẳng về phía thành Phú Xuân.

Lại nói, từ năm Giáp-ngọ (1774), Thuận Hoá thuộc về bờ cõi nước ta (đứng về phía Lê-Trịnh ở Đàng ngoài mà nói. Năm 1774 quân Trịnh hạ được thành Phú Xuân), thành Phú Xuân trở nên chỗ đầu cùng của miền biên giới và là một thị trấn rất xung yếu. Bởi thế, triều đình mới để ba ngàn quân đóng đồn và ba vạn quân thay phiên canh phòng; lại cử một viên đại tướng, một viên phó tướng, cùng với một viên đốc thị, một viên phó đốc thị trông nom công việc đó. Các nơi trọng yếu từ đèo ải Vân trở ra đều có lập đồn đóng quân. Rồi lấy dân địa phương để bổ sung thêm quân lính. Khai khẩn đất hoang để tăng thêm lương thực. Mở mang việc lưu thông trao đổi hàng hoá. Khai thác các nguồn lợi trên rừng dưới biển. Lấy việc thi cử để kén chọn người tài. Dùng danh vị, tước lộc để thu phục lòng người… Cách khống chế, cai trị thật không còn thiếu sót điều gì. Chỉ đáng tiếc là viên đại tướng Tạo quận công đứng đầu xứ đó lại là một người nhu nhược, chỉ quen lấy miệng lưỡi chống chế người, còn đến khi gặp việc quan trọng xảy ra thì lại không có tài năng đối phó kịp thời. Trước kia, viên đốc thị Nguyễn Lệnh Tân cứ mỗi lần nhắc đến việc phải gấp rút đánh lấy Tây Sơn, thì lại bị quận Tạo gạt đi. Lệnh Tân bèn tâu về triều rằng: “Quận Tạo là kẻ nhút nhát, ít mưu cơ, Thuận Hoá chắc chắn sẽ mất ở tay ông ta; xin hãy bãi chức ông ta và nhắc phó tướng lên làm đại tướng, hoạ may xứ này mới có thể giữ vững được”. Chúa (Trịnh Sâm) nghĩ rằng Thuận Hoá là xứ vừa mới dẹp yên, lại thích tính ôn hoà, thận trọng của quận Tạo, bèn bãi chức đốc thị của Lệnh Tân và cho người khác làm thay.

Bấy giờ bảng nhãn Lê Quí Đôn khảo cứu những sấm ký về đất khởi nghĩa Tây Sơn, nói với chúa rằng: ” Tây Sơn có đất thiên tử, đến mười hai năm nữa thì sức mạnh của họ sẽ không ai chống nổi. Đại tướng Thuận Hoá e không phải là tay đối địch được với họ. Xin chúa hãy lưu ý”. Nhưng chúa cũng chỉ cho là lời nói quá đáng, không để ý gì mấy.

Rồi đó, bờ cõi không có chuyện gì, Nam-Bắc đều yên ổn, Thuận Hoá đang là một miền thái bình, vui vẻ.

Đến tháng tư năm Bính-ngọ (1786), bỗng có chiếc thuyền buôn của người khách phương Bắc đi tới. Người khách vào ra mắt quận Tạo, rồi giở thuật tướng số ra nói rằng: “Hậu vận của ngài rất tốt, phúc lộc không thể kể xiết. Có điều hiện nay ngài đang gặp phải năm xung tháng hạn, cần đề phòng bệnh tật xảy ra. Mùa hè này ngài nên lập đàn mà cầu cúng thì tốt!”. Quận Tạo tin lời, tức thì sai lập đàn chay rất lớn, cúng luôn bảy ngày bảy đêm. Quân lính phải phục dịch liên tục hết đêm này sang ngày khác rất là vất vả.

Thình lình thấy có tin báo bộ binh của địch đã lấy mất đồn ải Vân, tướng giữ ải Vân là Quyền Trung hầu (tức là Hoàng Nghĩa Hồ) bị chết trong khi đánh nhau; hiện nay các đạo thuỷ binh của địch đang theo đường biển kéo ra, chỉ sớm tối sẽ đến đây. Quận Tạo hốt hoảng về thành, không biết nên làm thế nào. Các quân lính vì suốt mấy hôm hầu hạ đàn chay đang mỏi mệt, thốt nghe tin có địch, ai nấy đều không còn hồn vía. Quận Tạo vội cho người đi tìm người khách, thì đã mất tăm không thấy đâu nữa. Bấy giờ, quận Tạo mới biết hắn là thám tử của địch, đến bày mưu để đánh lừa mình.

Nguyễn Hữu Chỉnh khi ở Tây Sơn vốn đã biết quận Tạo là người nhút nhát mà đa nghi, dụ hàng chưa chắc Tạo đã tin. Chỉnh bèn viết một bức thư cho phó tướng Thể quận công (tức Hoàng Đình Thể) đại ý nói rằng: quân Tây Sơn tinh nhuệ lắm, không thể địch nổi. Quận Thể với Chỉnh xưa đều là thuộc hạ của quận Huy, nếu nay Thể chịu đem thành Phú Xuân ra hàng thì Chỉnh sẽ bảo đảm cho được giàu sang toàn vẹn. Rồi Chỉnh lấy sáp bọc kín (xưa các thư từ bí mật đều bọc sáp ong), và mật sai người cố ý đưa lầm phong thư ấy vào dinh đại tướng Tạo quận công. Quận Tạo nhận được thư đâm ra nghi ngờ, sợ hãi, ngầm có ý muốn hàng Tây Sơn, bèn dìm luôn bức thư đi.

Chẳng bao lâu, đại binh Tây Sơn kéo đến. Đại tướng và phó tướng bèn cùng nhau bàn cách chống cự.

Nguyên thành Phú Xuân ở ngay bờ sông, từ mặt nước dưới dòng sông lên chân thành, chiều cao khoảng độ hơn hai trượng. Lúc ấy thuyền Tây Sơn ở dưới sông bắn ngược lên, vì vậy không tới mặt thành. Trong thành, người ta đóng chặt các cửa, rồi dốc tất cả quân sĩ ở trên bắn xuống. Bộ binh của Tây Sơn phải lui cả vào trong thuyền. Trên thành bắn theo, thuyền của Tây Sơn bị chìm một chiếc. Nhờ vậy, tinh thần quân lính trong thành đã hăng hái lên được một chút. Chẳng dè, đêm ấy thuỷ triều lên to, nước sông tràn ngập khắp chân thành. Quân Tây Sơn thừa dịp thả thuyền tiến sát vào, bắn thẳng lên thành, rồi cho bộ binh vây chặt cửa thành.

Quận Tạo tự mình chỉ huy các toán quân giữ cổng thành; rồi sai phó tướng quận Thể cùng các thuộc tướng là bọn Kiên kim hầu (tức Vũ Tá Kiên) ra ngoài thành đón đánh. Hai người con trai quận Thể đều làm quan võ, cũng theo cha ra đánh, cả toán dựa lưng vào bờ thành mà bày trận. Đánh nhau được hơn một canh, tên đạn đều hết, quận Thể cử người vào thành xin thêm. Quận Tạo ngồi trên lầu thành, sai người đóng cửa chặn lại mà cự rằng: “Cơ nào đội ấy, ngoài việc cấp lương khẩu phần, đạn dược cũng đều có cả rồi, giờ lại còn vào đòi hỏi ai?” Quận Thể giận lắm, liền bảo với các tướng:

– Quận Tạo phản rồi! Để ta phá cửa thành vào chặt lấy đầu thằng giặc già trước đã, rồi sau sẽ ra đánh.

Đoạn ngoảnh lại nói với các con:

– Chúng bay hãy đứng phía trước cản địch, ta vào một lát sẽ quay ra.

Rồi quận Thể co đầu voi quay vào. Voi vừa lùi lại, thế trận tức thì rối loạn, quân Tây Sơn thừa cơ sấn đến. Hai con quận Thể phóng ngựa ra trận, múa đao chém chết chừng vài trăm người. Quân địch kéo đến càng đông hơn, họ xông vào chém chân ngựa của hai người. Ngựa quỵ, hai người lại hoa đao đánh bộ, giết thêm vài chục người nữa, rồi bị thương nặng và cùng đuối sức, bèn gọi cha ra cứu.

Quận Thể vội quay voi đến cứu, thì hai người đã bị chém chết ở trước trận. Liền đó, Kiên kim hầu cũng bị giết chết.

Quận Thể thu quân, toan bày trận khác, nhưng ngoảnh đầu nom lên thành thì đã thấy kéo cờ trắng rồi.

Tên quản tượng của quận Thể hốt hoảng, bỏ voi nhảy xuống đất chạy trốn. Quân địch đuổi theo voi mà bắn. Quận Thể chết ngay trên bành voi.

Đại tướng Tạo quận công truyền mở cổng thành, xe quan tài ra hàng (tỏ ý xin ra chịu chết). Bình thả quân vào thành, chém giết bừa phứa. Đốc thị Nguyễn Trọng Đương chết trong trận đó. Còn bao nhiêu lính tráng trong thành chạy trốn ra ngoài, đều bị thổ dân giết sạch.

Trong trận đánh này, mấy vạn mạng tướng sĩ đóng ở thành Phú Xuân đều không còn sống sót lấy một mống.

Chiếm xong Phú Xuân, Bình nhân đà thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ đồn là Vị phái hầu cùng hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã chạy trốn. Thế là mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 tháng 5 năm Bính Ngọ niên hiệu Cảnh hưng (1786).

Sau khi hoàn toàn lấy được Thuận Hoá rồi, Bình bèn họp các tướng bàn việc sửa lại địa giới La Hà; đồng thời sai làm tờ “lộ bố” (thư báo tin thắng trận) báo tin thắng trận về cho chúa Tây Sơn.

Lúc ấy, Chỉnh nói với Bình rằng:

– Ngài vâng mệnh ra lấy Thuận Hoá, đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Phép dùng binh có ba điều cốt yếu, một là “thời”, hai là “thế”, ba là “cơ”; ba điều ấy đều có cả thì đánh đâu cũng thắng. Nay ở Bắc Hà, tướng lười binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói: “Chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong”. Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!

Bình đáp:

– Bắc Hà là một nước lớn, có nhiều người tài. Lời xưa có nói: “Con ong có nọc”, há có thể khinh thường được ư?

Chỉnh nói:

– Người tài ở Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này mà thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cái nước rỗng không, xin ngài chớ nghi ngại!

Bình vốn khéo dùng ngôn ngữ để bẻ người, liền đùa rằng:

– Không nghi ngại người nào khác, chả hoá ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?

Chỉnh tái mặt mà tạ rằng:

– Sở dĩ tôi tự nêu lên cái ngu hèn của mình như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng nước tôi tuyệt nhiên không có người tài đó mà thôi! (ý Chỉnh muốn nói chữa, ngoài Bắc chỉ có Chỉnh là tài mà Chỉnh cũng chỉ xoàng như vậy thì quả là ngoài Bắc không còn có người tài nữa)

Bình lại an ủi mấy câu, rồi tiếp:

Một nước đã trải bốn trăm năm, nay bỗng chốc mình đến cướp lấy, người ta sẽ gọi đạo quân ấy là đạo quân gì?

Chỉnh đáp:

– Nước tôi có vua lại có chúa, đó là một việc hết sức trái ngược xưa nay. Chúa Trịnh tiếng rằng phò Lê, thực ra chỉ là ăn hiếp thiên tử. Người trong nước vốn không phục. Trước đây các bậc anh hùng mỗi khi nổi dậy, chưa từng có ai không lấy danh nghĩa phò Lê. Nhưng số họ Trịnh chưa hết, nên công việc của những người ấy đều không thành. Nay xét ở trong “địa ký” của họ Trịnh có câu: “Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ”. Mà tính từ Thái vương đến Tĩnh vương [địa ký: sách ghi lời dự đoán trước về thế đất để mả. Thái vương là Trịnh Kiểm; Tĩnh vương là Trịnh Sâm. Tương truyền Trịnh Kiểm lúc nhỏ nhà nghèo, thường ăn trộm gà hàng xóm để nuôi mẹ, ai cũng ghét. Họ bèn ném mẹ Kiểm xuống vực sâu ở làng. Qua một đêm, chỗ vực sâu ấy bỗng biến thành một gò đất. Sau có một thầy địa lý đi qua gò đất, đọc bốn câu rằng: Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu tường khởi hoạ (nghĩa như trên). Câu “tộ truyền bát đại” có bản chép “truyền nhị bách niên” (truyền hai trăm năm)] thì đã đủ số tám đời rồi. Nếu ngài lấy cớ “diệt Trịnh phò Lê” mà kéo quân ra, thiên hạ không ai là không hưởng ứng. Đó chính là cái công không mấy đời có vậy!

Bình nói:

– Đó là việc rất hay! Nhưng nay ta vâng mệnh đi đánh Thuận Hoá, không phải vâng mệnh đi đánh nước người. Tự ý thay đổi mệnh lệnh của nhà vua như thế thì ra làm sao?

Chỉnh đáp:

– Trong kinh Xuân Thu có nói: “Thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công!” Như thế thì thay đổi cũng có ngại gì đâu? Huống hồ, ngài há chẳng nghe nói câu “tướng ở ngoài, mệnh vua có khi không cần phải theo” đấy ư?

Bình là một người thông minh, quyết đoán, được lời Chỉnh nói trúng với ý mình, tức thì nghe theo ngay. Bình sai Chỉnh đem đội quân tuyển phong, vượt vào cửa biển Đại An, đánh lấy kho lương Vị Hoàng (xã Vị Hoàng, sau là tỉnh lỵ Nam Định) trước; còn tự mình thì dẫn thuỷ binh theo sau, lại hẹn với Chỉnh hễ đến được Vị Hoàng thì phải đốt lửa lên làm hiệu.

Bố trí xong rồi, Chỉnh liền cầm quân đi trước. Lúc ngang qua mấy trấn Nghệ Anh, Thanh Hoa, Chỉnh sai nhiều toán du binh, mỗi toán chừng vài trăm người, chia ngả đi đánh các đồn để phô trương thanh thế.

Trấn thủ Nghệ An là Đương trung hầu, trấn thủ Thanh Hoa là Thuỳ trung hầu (tức Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thuỳ) đều bỏ thành mà chạy.

Ngày mồng sáu tháng sáu năm ấy (1786) Chỉnh tới Vị Hoàng. Quân ở trong đồn mới trông thấy bóng quân Chỉnh đã bỏ trốn. Hơn một trăm vạn hộc lương ở đây đều bị Chỉnh chiếm gọn. Sau đó, Chỉnh bèn đốt lửa báo tin.

Bình thấy hiệu lửa, lập tức dẫn hơn một ngàn chiếc thuyền theo đường biển đi ra. Dân chúng Nghệ An lên núi, trông bóng lâu thuyền (loại chiến thuyền hạng lớn, khoang thuyền có lầu cao) cùng cờ quạt ngoài biển đều ngậm ngùi than: “Cõng rắn cắn gà nhà, hắn ta thật có tội. Song cũng là một việc không mấy đời có!”

Chỉnh ở Vị Hoàng hợp với quân của Bình, thanh thế rất lớn. Bấy giờ trong nước, những kẻ hai lòng thường hay lui tới dinh quân của Chỉnh, đem hết tình hình nước nhà mà kể với địch. Còn như tình hình quân địch ra sao, thì triều đình lại không hề hay biết gì hết.

Khi Phú Xuân bị vỡ, tin từ biên giới báo về kinh, những người dự bàn đều nói: Thuận Hoá vốn không phải là bờ cõi của triều đình, tiên triều hao phí bao nhiêu của cải trong nước mới lấy được xứ ấy, rồi lại phải đem quân đóng giữ, rốt cuộc chẳng có ích gì. Ngày nay mất đi cũng là một cái may. Bây giờ chỉ nên bàn tính việc đóng đồn ở trấn Nghệ An và định rõ cương giới cũ mà thôi. Ta lấy sự mất Thuận Hoá làm may, ắt họ phải lấy sự lấn đất của ta làm điều đáng ngại. Như vậy hẳn là ta không phải lo gì nữa.

Thế là kẻ trên người dưới, ai nấy đều yên lòng. Chợt nghe tin Nghệ An bị vỡ, quân địch sắp sửa đến nơi; triều đình bấy giờ mới hốt hoảng, bèn sai Thái đình hầu (tức Trịnh Tự Quyền) làm thống lĩnh, đem 27 cơ lính vào Nghệ An chống nhau với quân địch, Thái đình hầu lĩnh mệnh đã hơn mười ngày, mà sửa soạn vẫn chưa xong. Kịp đến khi rời thành được nửa ngày, thì quân địch đã tới Vị Hoàng. Bấy giờ triều đình lại sai luôn Thái đình hầu xuống giữ ở vùng Sơn Nam; và phái thêm Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng đốc lĩnh đường thuỷ, dẫn các đội thuyền Tả-vệ, Hữu-vệ, Ngũ-hầu, Ngũ-thiện, Ngũ-trung cùng với Thái đình hầu thuỷ bộ đều tiến.

Hồi ấy Nhưỡng đang đánh nhau với bọn thuỷ khấu (bọn cướp trên sông, biển) ở vùng Hải Dương; đến lúc này, bọn thuỷ khấu đã hợp cả với quân Nam, vì vậy triều đình liền sai luôn Nhưỡng về đánh giữ mặt Nam.

Nhưỡng là danh tướng ở vùng Hàm Giang, vốn là con nhà dòng dõi, triều đình đem hết công việc thuỷ chiến giao phó cả cho Nhưỡng.

Các thuyền quân của Nhưỡng kéo đến đóng ở cửa Luộc [cửa Luộc, chỗ sông Luộc chảy vào sông Hồng Hà giáp liền với huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) và huyện Hưng Nhân (Thái Bình)], cầm cự với quân Tây Sơn. Bấy giờ gió đông nam thổi rất dữ, quân Tây Sơn ở hạ lưu cho năm chiếc thuyền làm tiền bộ tuyển phong, giương buồm ngược dòng tiến lên, còn đại quân thì từ từ tiến theo sau. Nhưỡng thấy những thuyền tuyển phong của địch xông đến, tức thì đem chiến thuyền chặn ngang sông, dàn thành thế trận hình chữ “nhất”; rồi truyền quân lính nạp súng Bảo-lân, bắn sang thuyền địch. Bắn phát đầu, thuyền địch đứng yên không động. Nhưỡng truyền bắn phát thứ hai, các buồm của thuyền địch đều cuốn lại. Quân bên Nhưỡng mừng rỡ, cho là bên địch có ý sợ. Nhưỡng lại sai bắn luôn ba phát nữa. Lúc ấy bên địch mới bắn trả một phát súng lớn, tiếng nổ như sấm, đạn bay lên cây cổ thụ bên bờ, làm cho thân cây bị gãy làm hai đoạn.

Bấy giờ Trướng trung hầu (tức Đỗ Thế Dận) và viên đốc đồng Nguyễn Huy Bình đều một mình bỏ trốn. Quân của Thái đình hầu đóng ở cửa Kim Động [thuộc Hưng Yên (Hải Hưng)] cũng tự vỡ mà chạy.

Khi ấy, thư báo tin thua trận tới tấp đưa về kinh, các quan văn võ trong triều ai nấy chỉ cuống lên lo thu xếp chỗ nương náu cho vợ con, lo cất giấu của cải, không một ai dám ra nhận lấy việc đánh nhau với quân Tây Sơn.

Chúa thấy tham tụng Bùi Huy Bích ở ngôi tể tướng lâu ngày mà chẳng làm được việc gì, đến lúc này lại không có mưu kế gì để chống địch, trong lòng đã chán ghét. Rồi nhân những người xung quanh lại công kích Bích rất gay gắt, chúa bèn bãi chức tể tướng của Bích và cử ra trận đốc chiến.

Tể tướng đi rồi, lòng người càng nôn nao. Chúa bèn đòi Công Thước (Trần Công Thước, sau đổi là Công Xán) vào phủ, mật bàn xem nên đánh lui địch hay nên tránh địch. Công Thước thưa:

– Giặc kéo quân vào sâu xứ lạ, đó là điều mà trong binh pháp rất kỵ. Nên dử cho chúng tới gần nữa, rồi đánh một trận mà tiêu diệt hết, đó cũng là cái thuật kỳ diệu trong phép dùng binh. Vả lại, kinh sư là cái gốc của thiên hạ, rời bỏ thì sẽ đi đâu? Chẳng những thế, nếu kiệu chúa lật đật ra ngoài thành, tất lòng người sẽ phải lìa tan, ấy là đem nước mà trao cho giặc vậy. Bây giờ chỉ nên xin thái phi và cả sáu cung hãy tạm lánh ra ngoài thành mà thôi.

Chúa nghe theo lời Thước. Lại tự nghĩ rằng, trong hàng võ tướng chỉ có Thạc quận công là tay lão tướng có thể trông cậy được, bèn sai người ra trấn Sơn Tây tức tốc triệu ông ta về triều.

Được lệnh, quận Thạc liền đem ngay năm trăm quân nghĩa dũng về cứu kinh thành. Thấy quận Thạc về, lòng người cũng hơi vững. Khi quận Thạc vào ra mắt, chúa nói:

– Ông bỏ quả nhân hay sao? Bây giờ thế nước như vậy thì làm thế nào?

Quận Thạc khóc mà rằng:

– Thần chịu ơn dày của nhà nước, thề không cùng sống với giặc. Cha con thần tất cả còn có chín người, nếu phải dựa lưng vào thành mà quyết một trận tử chiến, thần xin cầm roi mà theo dưới chân chúa, chúa không lo gì hết!

Chúa bèn bỏ ra năm ngàn lạng bạc, giao cho quận Thạc để chi về việc binh. Thạc lập tức ra lo liệu việc quân, một ngày gọi được hơn một ngàn thủ hạ, toàn là những tên quân hết sức tinh nhuệ. Rồi theo lệnh chúa, quận Thạc tiến quân ra đóng ở hồ Vạn Xuân (tức đầm Vạn Phúc ở làng Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Đông, nay là ngoại thành Hà Nội).

Bấy giờ gió đông nam đang mạnh, đường thuỷ trở nên rất xung yếu. Sau khi các đội thuyền của Liễn trung hầu đã bị đánh bại, quân địch chiếm được cả một dải đất yên ổn chạy dài theo ven sông, rồi thuận đường kéo thẳng lên kinh kỳ. Tông sai cả bốn hiệu lính thuỷ dốc hết quân xuống ngăn địch ở cửa Thuý ái (Cửa Thuý ái nằm ở địa phận bãi Thuý ái, Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội).

Thuyền địch đến bến Nam Dư (cũng thuộc Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội), tức thì bỏ thuyền nhảy lên bộ, đánh úp vào đám lính thuỷ ở cửa Thuý ái. Trước đó, thuỷ binh ở đây nghe tin quân địch còn xa, nên không phòng bị gì hết, cứ cột thuyền lại rồi lên bờ đi tản mát, linh tinh ở các bãi sông. Khi quân địch thình lình kéo đến, thuỷ binh không kịp lên thuyền, bao nhiêu thuyền bè đều bị địch chiếm hết cả. Cả đội duy có viên tiểu tướng họ Ngô (tức Ngô Cảnh Hoàn, theo Cương mục, Hoàn có người thiếp yêu là Phan Thị Thuấn rất trẻ, đẹp. Sau khi Hoàn chết, nàng cứ nhởn nhơ may sắm quần áo và trang điểm như không có chuyện gì, mọi người chê cười cũng mặc. Đến hết giỗ 100 ngày, bấy giờ nàng mới trang điểm đẹp đẽ, bơi thuyền đến chỗ chồng chết mà tự tử. Nhân dân địa phương bèn lập đền thờ, khen là người con gái tiết liệt) là dám vác đao đứng ở đầu thuyền, đánh nhau với địch. Được chừng hơn một khắc, quân Tây Sơn dùng súng lớn bắn vào đầu thuyền, viên tiểu tướng ấy trúng đạn chết tại chỗ. Quân địch bèn kéo ùa lên bộ, xông vào trận của quận Thạc. Quân lính của quận Thạc khi ấy đang ăn cơm, chợt thấy địch ập tới, ai nấy bỏ cả khí giới mà chạy (theo Cương mục, lúc ấy có Mai Thế Pháp dám một mình vác dao ra chặn đường quân Tây Sơn, nhưng giết được mươi người thì bị vây chặt, phải nhảy xuống sông tự tử). Quân Tây Sơn từ hai phía tả hữu cùng đánh dồn lại, chém giết quân của quận Thạc tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang khắp bãi. Những kẻ nhảy xuống hồ Vạn Xuân mà chết, cũng không biết bao nhiêu mà kể.

Quận Thạc chỉ còn hơn mười thủ hạ và tám người con. Bọn họ đều xúm quanh chân voi của quận Thạc, tựa vào voi mà chống cự lại quân Tây Sơn. Sáu người con của quận Thạc ra sức chiến đấu, chết ở trước voi. Quận Thạc liền sai quản tượng cho voi quỳ xuống, rồi ông ta nhảy xuống đất cùng hai người con cướp đường mà chạy tháo thân.

Thuỷ binh của Tây Sơn tiến thẳng đến bến Tây Long. Chúa thân hành ra ngự trên lầu Ngũ-long bày trận. Chia thành năm đạo quân: hiệu Tả-bộ giữ mặt Đông Long, hiệu Hữu-bộ giữ mặt Tây Hổ, hiệu Tiền-bộ giữ mặt cửa thành Tiền Lâu, hiệu Hậu-bộ giữ mặt Hậu Lâu, cạnh bờ hồ Thuỷ-quân, còn hai hiệu Nhưng, Kiệu ở trung quân để hộ giá.

Quân Tây Sơn từ bãi sông tiến vào, chúa ở trên lầu sai nổi hiệu trống trận, hiệu Tiền-bộ liền nổ súng bắn ra. Bắn được một hồi lâu, quân địch khom mình vừa tránh đạn vừa xông vào. Chúa bèn mặc đồ trận, xuống lầu, trèo lên mình voi, cầm cờ đỏ chỉ ba cái, vẫy ba cái, rồi sai thúc trống làm hiệu cho quân lính tiến về phía trước. Quân lính nghe trống giục, trông theo lá cờ liều mạng tiến lên. Bên địch dùng “hoả hổ” (tên một thứ ống phun lửa của Tây Sơn) phun lửa bừa vào, quân lính nhà chúa đều sợ mất mật, bỏ cả khí giới ở bờ sông mà chạy thục mạng.

Chúa thấy quân lính tan tác, ngoảnh nhìn quanh mình, đã không còn một người nào; nhưng quân Tây Sơn không biết đó là chúa, hối hả tranh nhau xông vào phủ chúa, không ai lại gần chân voi. Chúa vội cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt xuống ngồi núp trong ngăn hòm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ. Khi qua cửa Tuyên Vũ, thì thấy tiền binh của địch chừng vài chục người đã vào lọt trong phủ và đang kéo cờ ở phía ngoài phủ; chúa liền quay voi men theo bờ hồ Minh Đường, nhằm phía cửa ô Yên Hoa (tức là ô Yên Phụ, Hà Nội bây giờ) mà chạy.

Bấy giờ Bình đã vào thành [Nguyễn Huệ vào Thăng Long ngày 26 tháng 6 năm Bính-ngọ (1786)], hạ lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc của dân, rồi Bình vào phủ chúa nghỉ ngơi.

Mấy viên cận thần và các thân binh biết chúa chạy về phía tây, bèn lục tục chạy theo. Tới ngoài cửa thành, hãy còn có chín thớt voi hơn mười con ngựa và hơn ngàn người. Lúc qua địa phận Từ Liêm, dân quê thấy bóng gươm giáo, ngờ là địch đến, vội dắt nhau chạy. Quan quân trông đằng xa thấy dân chạy tưởng là địch, quá nửa số người vứt bỏ cả khí giới mà trốn. Đến huyện Yên Lãng, thì có người con trai Nguyễn Thưởng là Nguyễn Noãn, quê ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, vốn là gia thần của chúa, đón chúa ở dọc đường quỳ xuống mép đường bên trái mà thưa rằng:

– Ngày trước tôi vâng mệnh chúa đi mộ quân, hiện đã mộ được năm trăm tên, đang chờ ở phía bờ bắc sông này. Xin chúa hãy ngự giá sang phía bắc, tới làng tôi đóng tạm để lo tính công việc về sau.

Chúa bèn sai gọi đò để sang sông. Bao nhiêu chân sào ở bến đò mỗi người lẩn đi mỗi ngả. Tìm mãi mới được ba chiếc thuyền nhỏ, mỗi chiếc chỉ chở được khoảng 13, 14 người. Chúa vội lên thuyền, chỉ có năm sáu viên quan hoạn trẻ tuổi và Noãn đi theo. Còn bao nhiêu quan quân và voi ngựa đều phải ở lại: khi nhìn thấy chúa đã sang đến bờ bên kia, thì họ cũng bảo nhau trốn chạy tan tác.

Chúa lên bờ, không thấy một tên quân nào, vội hỏi Noãn thì Noãn đáp:

– Lính tráng hiện ở làng tôi, xin chúa hãy quá bộ đi dấn lên phía trước, làng tôi cách đây cũng không xa.

Chúa có ý hối bị Noãn làm lỡ việc, lại sợ đi nữa chưa chắc giữa đường có được yên lành hay không. Bấy giờ quanh mình chẳng có ai đáng tin; chúa nghĩ rằng chỉ có những bậc văn thần tiến sĩ là có thể trông cậy được, bèn hỏi Noãn:

– Những thôn ấp gần đây có viên tiến sĩ nào không?

Noãn thưa:

– ở đây thì chẳng có ai là tiến sĩ. Chỉ có viên thiêm sai tri lại phiên Lý Trần Quán, trước kia phụng mệnh đi chiêu dụ nhân dân, vẫn đóng tạm tại làng Hạ Lôi, nhưng không biết hiện giờ có còn ở đó nữa không?

Chúa nói:

– Người hãy thử đi hỏi xem. Nếu còn thì nên bảo kín tình trạng này để cho viên ấy biết mà lo liệu giúp ta.

Noãn vâng mệnh, đi tới ra mắt Lý Trần Quán kể rõ đầu đuôi, rồi nói:

– Tôi trước vâng mệnh về quê mộ quân, hiện nay đã mộ được một số, đang đợi ở địa giới huyện tôi. Quan lớn hãy liệu cách nào mượn tạm lấy ít binh lính, khí giới hộ vệ cho chúa tới đó, thế là yên ổn.

Quán có người quen là viên tuần huyện Trang (tức Nguyễn Trang) ở làng Hạ Lôi. Trang vốn là một tên tướng cướp, thuở trước đã có học với Quán. Bấy giờ Quán trú ở Hạ Lôi cũng là nhờ có Trang che chở. Nghe Noãn nói thế, Quán bèn cho gọi Trang vào bảo:

– Hiện có quan tham tụng là Kế liệt hầu tránh loạn đến đây, muốn phiền anh hộ tống ra khỏi địa phận.

Trang xin vâng.

Quán liền cùng Trang theo Noãn đến yết kiến chúa.

Nguyên lúc Quán ở chính phủ chỉ là một viên quan nhỏ, chưa từng được thấy mặt chúa, mà chúa cũng chưa hề biết Quán bao giờ. Khi ấy, chợt thấy Quán đến, chúa bèn ngoảnh lại hỏi mấy viên thị thần:

– Đó là người nào?

Bọn thị thần đáp:

– Đó là Lý Trần Quán!

Chúa đang nhún nhường chưa biết nên nói câu gì. Quán khi được tiếp kiến cũng tỏ ra hết sức cung kính, điệu bộ rụt rè, khúm núm. Vô tình chúa và tôi đều lộ rõ chân tướng. Hồi lâu, chúa mới nói tâm sự với Quán.

Quán chỉ vào Trang thưa:

– Tôi có tên này, vốn là học trò cũ của tôi, việc đó hắn rất có thể đảm đương được.

Rồi Quán quay sang bảo Trang:

– Anh phải cẩn thận hộ vệ quan lớn ra khỏi địa giới đấy nhé!

Trang thưa: “Dạ!”.

Quán bèn từ biệt chúa, trở về nhà riêng. Còn Trang thì đem theo năm mươi thủ hạ đi hộ vệ chúa. Lúc đi qua một ngôi nhà mà Quán đã từng ở, Trang giữ chúa lại trong một căn buồng bỏ không và hỏi:

– Ông có phải là Đoan nam vương thì cứ nói thực với tôi. Nếu không, rồi xảy ra việc gì, ông đừng có trách!

Chúa mới đầu còn định giấu giếm, bèn đáp:

– Sao anh lại đoán xằng như vậy? Ta chỉ là quan tham tụng Bùi Huy Bích mà thôi!

Trang nói:

– Ông chớ nói dối người ta. Cái bộ điệu che đậy của chúa tôi nhà ông lúc nãy tôi đã thấy cả rồi, còn che mắt ai được nữa? Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường, ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm gì nữa cho thêm nhọc mình!

Rồi Trang đưa chúa về nhà. Chúa giận lắm, đổi sắc mặt mà nói:

– Vua chúa phải có mệnh trời. Chính thật đại nguyên soái Đoan nam vương là tao đây! Nếu có chết về tay người trong nước thì cũng là mệnh trời. Tha hồ cho mày làm gì thì làm!

Trang bèn sai người đi báo tin cho quân Tây Sơn. Hết thảy những kẻ đi theo chúa đều bị bắt giữ.

Quán nghe tin có việc biến, thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói:

– Làm lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả!

Tông đáp:

– Người ta ai có bụng nấy, khanh có can dự gì?

Quán lui trở ra, bảo Trang:

– Chúa là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế?

Trang đáp:

– Quan lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu chúa trốn thoát ở tay tôi, rồi nữa quân Nam đến hỏi tội tôi, liệu quan lớn có thể biện bạch hộ được không? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu!

Tiếp đó, Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô.

Quán tới lạy chúa, vừa khóc vừa kêu gào rằng:

– ối trời ơi! Tôi giết chúa tôi rồi, trời có hay chăng?

Chúa an ủi:

– Tấm lòng trung thành của khanh, “cô” (lối khiêm xưng của vua chúa đời xưa) đã biết rồi đừng nên tự oán mình như thế!

Quán muốn nèo chúa ở lại chút nữa, nhưng chưa kịp nói thì chúa đã bị Trang đẩy đi rồi.

Đi đến giữa đường, Trang dẫn chúa vào tạm nghỉ trong một cái quán. Chúa vớ được con dao con của nhà hàng, đưa lên đâm ngay vào cổ mình. Trang trông thấy vội giằng lấy dao. Mũi dao đâm vào hãy còn nông, nên vết thương ở cổ cũng nhỏ. Chúa bèn dùng ngón tay chọc vào vết thương xé cho rách thêm ra, nhưng cũng bị Trang ngăn chặn. Một chốc, chúa thấy trong bụng nôn nao, buồn bực, đòi uống nước lạnh. Trang sai người lấy nước cho chúa. Chúa bưng nước uống xong thì chết liền. Trang đưa thi hài chúa đến kinh. Quân Tây Sơn mừng lắm, đem phơi xác chúa ra ngoài cửa Tuyên Vũ để cho thiên hạ cùng biết. Sau đó, sai khâm liệm chúa đúng theo lễ vua chúa, rồi dùng kiệu rồng đưa ra chôn ở lăng Cung quốc công (nơi chôn Trịnh Cán).

Còn Trang, được phong làm Tráng nghĩa hầu thêm chức trấn thủ Sơn Tây. Hôm ấy nhằm ngày 27 tháng 6 quận công năm Bính-ngọ (1786) (theo Trịnh thị thế gia, thì ngoài Trang còn có Nguyễn Noãn tức Ba Đóm cũng tham dự vào việc bắt Tông. Nhưng lúc Noãn đòi thưởng công thì Nguyễn Huệ cho là kẻ bất nghĩa và sai đem chém ngay).

ở Hạ Lôi, Lý Trần Quán sau lúc từ biệt chúa, liền quay về nhà trọ, nói với chủ nhà rằng:

– Bề tôi mà làm lầm vua, tội thật đáng chết! Nếu ta không chết, không lấy gì tỏ được lòng này với trời đất. Vậy hãy sắm cho ta một cỗ quan tài, mười vuông vải trắng, để ta làm theo cái chí của ta.

Chủ nhà hết sức khuyên giải, Quán vẫn không nghe, nói rằng:

– Ta đã muốn chết, tự khắc còn có những cách khác, nhà ngươi không thể ngăn nổi đâu. Nếu quả là yêu mến ta, thì cứ để mặc ta làm gì thì làm.

Qua hai ngày sau, Quán càng phẫn uất, bồn chồn. Chủ nhà ngăn Quán chẳng được, biết lòng trung của Quán không thể lay chuyển, đành phải sắm sửa đầy đủ các thứ theo như lời Quán đã bảo.

Quán sai đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà mình ở đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó, đội mũ mặc áo chỉnh tề, hướng về phía nam lạy hai lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên đầu, lấy dải lưng trắng thắt ngang lưng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại.

Tấm ván vừa đặt lên, bỗng Quán ở trong áo quan nói vọng ra:

– Hãy còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền đọc hai câu rằng:

Tam niên chi hiếu dĩ hoàn,

Thập phần chi trung vị tận (nghĩa là: Đạo hiếu ba năm đã trọn, Chữ trung mười phần chưa xong).

Rồi Quán bảo với chủ nhà:

– Phiền ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta.

Nói xong câu ấy, lại tiếp luôn:

– Đa tạ ông chủ, ta vĩnh biệt ông từ đây nhé!

Chủ nhà và năm sáu tên đày tớ cùng sụp xuống lạy chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và lấp đất lên. Hôm ấy là ngày 29 tháng 6, năm Bính ngọ (1786) sau khi chúa chết hai ngày.

Quán người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766); tính nết giản dị, chất phác và rất hiếu thảo. Trong khi chịu tang mẹ, Quán ở nhà mồ luôn ba năm liền; miệng không ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ còn da bọc xương. Quán thường tự nói: “Ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đã làm trong quãng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm người”. Bởi Quán cư xử không có điều gì đáng phàn nàn như vậy, nên khi sắp chết, Quán mới có lời tự hứa (nghĩa là tự cho rằng mình có điều đáng khen. ở đây chỉ vào câu “Tam niên chi hiếu dĩ hoàn”, ý nói mình đã tận hiếu với cha mẹ) như thế

Sau khi Quán mất, thiên hạ ai cũng thương chúa và kính trọng Quán là bậc nghĩa khí. Rồi nhân đó truy nguyên đến kẻ gây ra tai hoạ, không ai là không oán Chỉnh. Chỉnh cũng cảm thấy điều ấy.

Chỉnh có một người quen là Đỗ Thế Long, quê ở làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, vốn là một kẻ giảo hoạt. Hồi Chỉnh nợ tiền công bị bỏ ngục, Long vì cớ khác phải tội, cũng cùng ở tù với Chỉnh. Long làm các bài từ khúc bằng chữ nôm rất giỏi, so với Chỉnh cũng không kém gì. Kịp đến khi Chỉnh ở Tây Sơn ra, Long vẫn còn bị giam. Chỉnh tới kinh, tức thì sai người thả Long ra, và đãi Long làm bậc khách quý. Mỗi lần có việc nước, Chỉnh đều hỏi han Long. Long biết điều gì, không bao giờ không nói. Đã nói, không bao giờ Chỉnh không theo.

Đến lúc này thấy chúa chết, Chỉnh bèn nói với Long rằng:

– Chúa không tin bụng ta, nên mới đến nỗi tự huỷ hoại đời mình. Nếu chúa còn sống, hẳn ta cũng đặt vào một địa vị thanh nhàn không để đến nỗi phải mất danh lộc.

Long nghe lời lẽ của Chỉnh, thấy Chỉnh đối với chúa cũng có tình, bỗng nhiên Long nảy ra cái ý muốn lập lại họ Trịnh. Rồi nhân ý của Chỉnh, Long bèn xoay chuyển thêm để cho đúng với cơ mưu của mình.

Thật là:

A’c độc than người tàn phá trứng,
Ngây thơ cười kẻ giữ gìn con

Chưa biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.

phá trứng: dịch ở chữ huỷ noãn, nghĩa bóng ý nói Nguyễn Hữu Chỉnh diệt họ Trịnh cũng giống như phá tổ chim đập vỡ trứng chim.

giữ gìn con: tạm dịch ở chữ “Tồn sô” nghĩa đen là bảo tồn con chim con. Nghĩa bóng ý nói Đỗ Thế Long muốn lập lại họ Trịnh cũng giống như tổ chim đã bị phá mà còn muốn bảo tồn con chim con.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ năm

Phò chính thống, thượng công vào điện
Kết duyên lành, công chúa ra xe.

Lại nói, Đỗ Thế Long nghe lời lẽ Chỉnh có ý hậu với chúa, bèn nhân đó nói với Chỉnh rằng:

– Việc ông đã làm, tiếng làm nhân nghĩa, nhưng xét rõ ra thì lại là tàn hại! Ngày nay ông có cái thế nghiêng non lật biển, quả thật là nhờ vào sự giúp đỡ của quý quốc (chỉ Tây Sơn). Nhưng khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, thử hỏi có cái gì không phải là ơn của nhà chúa? Chuyến này ông lấy tiếng “phù Lê, diệt Trịnh” để kéo quân ra, thật là quá lắm! Nếu bảo nhà chúa hiếp chế nhà vua là việc có lỗi, thì sao lại không nghĩ đến cái công tôn phò hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ là bất nghĩa; bới lỗi lầm để lấp công lao là bất nhân. Đã bất nghĩa, bất nhân tức là tàn hại. Kẻ đại trượng phu lập thân, có thể tự mình đứng vào địa vị tàn hại được ư?

Chỉnh nghe nói, sắc mặt tái mét, lặng đi hồi lâu mới đáp:

– Gây dựng là ơn riêng của một người, cương thường là nghĩa lớn của thiên hạ. Tôi làm cái việc tôn phò ấy, là cốt để chống đỡ cho nền cương thường. Đó là một việc nhân nghĩa vô cùng lớn lao, vậy mà ông lại cho là tàn hại, chẳng phải là ông nói nhau quá tệ ư? Nếu tôi không nghĩ sai, thì chắc là ông nói quá lời đấy!

Long nói:

– Nhà vua vốn đã tôn quý sẵn rồi, cần gì đợi ông tôn phò nữa? Chẳng qua ông cũng chỉ mượn cớ ấy để làm cho trôi cái mưu cướp bóc đó thôi. Nhưng mà, nhà nước đang như chiếc âu vàng lành lặn, bỗng dưng vô cớ ông đưa người ngoài đến đây, làm hại chủ suý, làm hại nhân dân; người trong thiên hạ nhất định sẽ còn cho ông là beo, sói, diều quạ. Bảo là tàn hại cũng chưa phải là quá đáng. Nay ông dựa vào thế lực nước ngoài, cũng giống như cáo mượn oai hùm. E rằng lòng người còn nhớ họ Trịnh, chắc sẽ có ngày sinh biến. Vả lại, mai đây người ta bỏ ông mà về; bấy giờ ông lấy cái thân cỏn con để cõng cái tội tầy trời, làm sao mà đứng vững được với thiên hạ?

Chỉnh giận nghiến răng lại, nhưng vẫn còn làm ra vẻ mặt tươi cười mà rằng:

– Vậy thì ông bạn của giống beo, sói, diều, quạ nên làm thế nào bây giờ?

Long đáp:

– Ông ra chuyến này, chẳng qua muốn vì ngài trấn thủ trước (chỉ quận Huy) mà trả thù bọn kiêu binh. Nay kiêu binh đã diệt, ấy là chí ông đã thoả. Nếu ông có thể nhanh chóng xoay lại đường lối đã định, khéo điều đình với quý quốc, khiến cho họ mãn nguyện mà rút quân về rồi ông ở lại, chọn trong tôn thất họ Trịnh lấy một người khá, lập nên làm chúa, còn ông thì sẽ làm phụ chính. Đó thực là cái công không mấy đời có vậy!

Chỉnh nói:

– Đúng! Nhưng để tôi nghĩ xem đã. Bây giờ ông hãy về nhà, đi tìm người nào đáng nói, rồi liệu mà sửa lời nói cho khéo, đợi lúc người ta thích nghe, thì ông có thể dùng lời nói mà làm cho mình được vẻ vang đấy!

Long ra khỏi, Chỉnh bảo với mọi người chung quanh:

– Rồng [nghĩa của chữ “long” (tên Đỗ Thế Long)] thì phải đưa xuống nước, không nên cho ở trên cạn để nó làm mê hoặc thiên hạ.

Rồi Chỉnh sai người chặn bắt Long ở ngoài cửa, trói lại, đem ra dìm xuống giữa dòng sông Nhĩ-hà.

Lại nói, nguyên soái Tây Sơn ngay từ lúc mới đến Vị hoàng, đã làm tờ tâu nói rõ về ý tôn phò và đã sai người bí mật dâng lên nhà vua. Người ngoài cũng nghe phong thanh chuyện đó. Nhưng phần đông đều cho rằng lòng giặc khó lường, lời nói suông chưa thể tin được. Bởi vậy, khi ấy quan, quân, lại, sĩ ở kinh thành ai cũng tranh nhau mà chạy trốn. Người nào còn bận việc quan hoặc còn đang mắc cớ gì khác, chưa kịp ra ngoài thành thì đến ngày 26, cũng hốt hoảng đeo bọc mang hòm chuồn ra nốt.

Nhân lúc rối ren, dân chúng ở xung quanh kinh thành tha hồ rủ nhau đón đường cướp bóc. Ngựa xe, của nả của các họ hàng nhà chúa và của các đại thần, đại phu đều bị họ lấy sạch, không biết bao nhiêu người chỉ còn trơ chiếc mình không mà chạy.

Còn bọn kiêu binh, sau khi tan vỡ đều phải chạy trốn đi các nơi. Nhưng chúng đến đâu cũng bị dân quê kể tội kiêu ngạo lộng quyền ngày trước và làm cho nhục nhã đủ đường, không có ai chứa chấp.

Bữa ấy, có một người cởi trần trùng trục cũng ở trong thành chạy ra, khi qua cửa ô bị dân chúng trông thấy, họ liền chỉ mặt mà nói:

– Thằng bụng phệ kia chẳng phải lính Nhưng, Kiệu (Nhưng và Kiệu là tên của hai cơ lính trong hàng ngũ kiêu binh hồi bấy giờ) là gì, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi!

Người ấy vội đáp:

– Không phải, ta là huyện uý huyện Thọ Xương đây!

Mọi người cùng cười mà rằng:

– Người ta thường nói “bụng to như bụng ông huyện”, thật không sai!

Người ấy cũng cười rồi đi.

Ngày hôm đó lính Thanh-Nghệ dắt díu nhau về quê, bị đói khát ở dọc đường, lại chết thêm đến hàng trăm tên.

Riêng có chi phái nhà vua, các gia thần nội điện, các lính tráng nội điện, cùng dân chúng ở phố phường quanh điện, thì vẫn yên ổn như cũ.

Đến ngày kinh đô bị mất, Bình vào thành, việc trước tiên là sai tỳ tướng đem một đội quân vây giữ cung điện. Lúc ấy hoàng thượng đang ốm, các hoàng tử đều hầu hạ ở trong điện. Thấy sân điện có quân lính đứng vây kín như bức tường, ngờ là địch đến bức bách nhà vua, ai nấy vội vàng nâng hoàng thượng dậy, định dìu ra vườn Tam Sơn ở mé sau điện mà trốn. Chợt thấy có viên tỳ tướng quì giữa sân, hai tay nâng tờ tâu lên trán để tiến dâng; gia thần nội điện vội chạy ra đón lấy và đem dâng vua xem. Trong tờ tâu, đại ý trước nói những lời thăm hỏi sức khoẻ nhà vua, sau xin ngày khác sẽ vào ra mắt. Hoàng thượng xem xong tờ tâu, bấy giờ trong lòng mới yên.

Tinh mơ sớm hôm sau, Bình và Chỉnh cùng vào điện Vạn Thọ để ra mắt nhà vua. Quan hầu vào tâu, hoàng thượng đang ở trong điện, sai người vén màn lên, đưa Bình vào hầu ở sập ngự. Bình sụp xuống đất lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Hoàng thượng sai hoàng tử nâng Bình dậy, và mời đến ngồi vào một chiếc sập khác ở bên trái sập ngự. Bình nhún nhường không dám ngồi. Hoàng thượng phải hai ba lần dụ, Bình mới ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thõng xuống đất.

Hoàng thượng uý lạo hết sức ôn tồn. Bình nói:

– Thần vốn là một kẻ hèn mọn ở đất Tây Sơn, gặp thời nổi dậy, chưa từng được mặc áo của bệ hạ, ăn lộc của bệ hạ. Nhưng vì thánh đức của bệ hạ tràn đi xa rộng, nên thần tuy ở chốn mọi rợ mà cũng vẫn một lòng kính mến. Ngày nay được thấy mặt rồng, cũng là bởi tấm lòng chí thành như hoa quì (Bình muốn nói: lòng luôn luôn hướng về nhà vua như hoa quì luôn luôn hướng về mặt trời) của thần xui khiến ra vậy. Vả lại, cũng vì họ Trịnh vô lễ, lấn ép nhà vua đã lâu, cho nên hoàng thiên mới mượn tay thần diệt trừ họ Trịnh, để tỏ oai quyền của bệ hạ. May được thành công như thế này, thực cũng là nhờ phúc lớn của bệ hạ đưa đến. Nay thần chỉ cầu mong thánh thể khoẻ mạnh, coi trị thiên hạ, cho thần được hưởng nhờ chút phúc thừa.

Hoàng thượng đáp:

– Đa tạ ông có lòng quá hậu đối với quả nhân, trèo đèo vượt suối từ xa đến đây, thật là vất vả cho tôi tớ ngựa xe. Hiềm nỗi quả nhân ở ngôi thanh bạch giản dị, không có gì để biếu tặng.

Bình nói:

– Thần vì nghĩa tôn phò mà đến đây, đâu dám kể công lao. Vả chăng, chuyến này thần ra cũng là bởi ý trời, không phải sức người làm được. Nếu bảo là thần có hậu tình riêng với bệ hạ mà kéo quân ra, thì đành rằng quân lính, thuyền bè, thần có thể điều khiển được, nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió nồm mạnh lên, há phải sức thần làm nổi? Đó thực là mệnh trời muốn bệ hạ thống nhất bờ cõi, để lưu lại nền móng cho ức vạn năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ sắp đặt giường mối, yên kẻ trong, nuôi kẻ ngoài, để đưa cõi đời này lên cảnh thái bình. ấy là thần được ban tặng nhiều lắm vậy!

Rồi Bình ngoảnh về phía Chỉnh nói:

– Kia là bề tôi cũ của bệ hạ đấy!

Chỉnh liền ra trước sập ngự lạy chào.

Hoàng thượng phán cho Chỉnh ngồi.

Bình lại nói:

– Ông này đội ơn tước lộc của bệ hạ tưởng chưa nhiều lắm. Vậy mà tấm lòng trung thành của ông ấy đối với bệ hạ, thật là có một không hai trong nước Nam. Thần được đến đây cũng chính là nhờ vào công sức giúp đỡ của ông ấy một phần lớn.

Hoàng thượng nói:

– Chỉnh biết trung nghĩa như vậy cũng là do ông gây dựng cho.

Chỉnh rập đầu rằng:

– Thật đúng như lời dạy của thánh thượng.

Hoàng thượng vỗ về, an ủi hồi lâu nữa, rồi Bình cáo từ mà rằng:

– Hiện giờ thánh thể không được khoẻ lắm, ứng tiếp mãi e rằng sẽ mỏi mệt. Thần xin tạm lui về nơi đóng quân. Từ nay về sau, thỉnh thoảng thần lại xin vào chầu. Nếu bệ hạ còn muốn hỏi han điều gì, thần xin cung kính đợi chờ thánh chỉ.

Hoàng thượng nói:

– Quả nhân có nước mà không được tham dự, khoanh tay rủ áo đã hơn bốn mươi năm. Nay lại già lẫn, việc nước việc quân đều không quen thạo. Ông đã có lòng tôn phò, thì hãy nên ở lại tệ quốc để giúp quả nhân, xin đừng ruồng bỏ!

Bình đáp:

– Thần chỉ vâng mệnh vua anh đi lấy Thuận Hoá; nay đã trót ra đây cũng là việc nhân tiện mà làm, thần không dám ở lâu. Tuy nhiên, vì bốn phương còn rối loạn, nên thần cũng phải đánh dẹp một phen cho yên đã rồi mới xin về.

Hoàng thượng sai trà đồng pha chè thết Bình. Bình ung dung uống chè, rồi lui ra. Chỉnh cũng ra theo.

Trong lúc ngồi chầu, Chỉnh nhận thấy các quan tản mát chẳng ra sao: Gia thần của hoàng thượng thì không có người nào ứng đối nên lời. Còn về hoàng thân, chỉ có Thanh nguyên hầu Lê Duy Thiều, áng sơn hầu Lê Duy Phục, mà cũng đều là những kẻ tầm thường. Xem chừng không còn ra triều đình nữa. Về hàng quan văn, chỉ còn hai người là Lê Duy Tân và Lê Duy Chiểu thì lại đều là những kẻ lêu lổng ở Trường An, vì cùng khốn quá không cần phải trốn, mới vào nương nhờ trong nội điện, rồi nhân có Thanh nguyên hầu tiến dẫn, nên được hoàng thượng dùng để coi về việc giấy má. Đối với hai người này, bụng Chỉnh cũng đều không ưa. Chỉnh tự nghĩ: “Gần đây, những triều thần có tham dự chính sự và hàng ngày mình cũng đã biết, thì chỉ có Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Kiến xuyên hầu Trương Đăng Quĩ, Thao đường hầu Uông Sĩ Lãng (còn có tên là Uông Sĩ Điển), Luyện đường hầu Trần Công Thước, Thiêm sai Nhữ Công Điền, Hoàn quận công Nguyễn Hoàn, cả thảy sáu người”. Chỉnh bèn tâu xin hoàng thượng ban sắc gọi đến. Hoàng thượng lập tức cho đi vời ngay mấy người ấy vào triều.

Phan Lê Phiên và Nhữ Công Điền bị cách chức, ở nhà đã lâu. Nguyễn Hoàn, Trương Đăng Quĩ, Uông Sĩ Lãng và Trần Công Thước đều ra lánh nạn binh đao ở ngoài thành. Khi có chỉ nhà vua đòi, các viên ấy đều vâng mệnh tới kinh, riêng Nhữ Công Điền lấy cớ mắc bệnh điên để từ chối.

Uông Sĩ Lãng thấy chiếu vua đòi, ngỡ có sự quở trách gì, trước khi vào chầu, vội đem chiếc ấn bộ Binh mà Lãng vẫn giữ, nộp cho Chỉnh để xin hàng. Nhưng Chỉnh trả lại ấn và bảo cứ ra. Thế là từ đó, các viên ấy ngày ngày lui tới triều đình để bàn việc nước. Những viên quan khác nghe tin, cũng đều lục tục đến kinh. Hoàng thượng liền truyền cho tất cả các viên quan trong triều đều phải tuỳ công việc mà giao thiệp với Bình.

Bình tự nghĩ rằng mình ở nước ngoài xa xôi mới đến, chưa am hiểu phong tục tập quán của xứ này; cho nên công việc giao thiệp với các quan trong triều, Bình đều nhất nhất nghe theo Chỉnh.

Một hôm Chỉnh nói với Bình rằng:

– Ngài lấy danh nghĩa tôn phò nhất thống mà ra đây thiên hạ ai cũng mong ngóng. Nhưng danh phải đi đôi với thực. Muốn cho nhất thống, thì những việc quân việc nước đều phải do hoàng thượng quyết định, đó mới là cái thực của sự phò tôn. Ngài nên làm cái gì cho rõ sự thực ấy đi. Hôm nọ, ngài vào ra mắt hoàng thượng ở điện Vạn Thọ, mới chỉ là việc gặp gỡ riêng, chưa được tỏ rõ với thiên hạ. Nay ngài nên chọn ngày lành, cử hành lễ chầu yết cho thiên hạ đều biết. Như thế mới là việc quang minh chính đại.

Bình lấy làm phải, bèn chọn ngày mùng 7 tháng bảy.

Đến ngày, Bình xin hoàng thượng mở cuộc đại triều ở điện Kính Thiên, các quan đều theo thứ tự đứng hầu. Bình tự dẫn các tướng sĩ theo cửa Đoan-môn đi vào. Sau khi đã lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái, Bình dâng lên tờ tâu nói về công diệt họ Trịnh, cùng các sổ sách quân, dân để hoàng thượng sai quan coi giữ.

Hoàng thượng nhận lễ triều yết xong, truyền đưa tiễn Bình ra khỏi cửa điện, rồi bãi triều.

Hôm sau, hoàng thượng sai quan đem tờ chiếu đến tận chỗ đóng quân của Bình, phong cho Bình làm nguyên soái phù chính dực vũ, Uy quốc công.

Bình làm lễ bái mạng nhận phong xong, liền sai sứ vào triều tạ ơn, rất là chu đáo.

Nhưng sau đó, Bình bảo riêng với Chỉnh rằng:

– Ta đem mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ. Một thước đất, một người dân của nước Nam, không có cái gì không thuộc quyền sở hữu của ta. Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương, gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn không ở những ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi! Cái chức nguyên soái, quốc công, với ta có thêm được gì đâu? Phải chăng là nước Nam dùng cái danh hão ấy để lung lạc ta? Nếu ta không nhận thì e hoàng thượng bảo ta là kiêu căng. Song nhận mà không nói gì, thì người trong nước lại bảo ta là mọi rợ. Nên nhân tiện nói chuyện, thì ta cũng nói cho rõ mà thôi!

Chỉnh biết ý Bình không bằng lòng, bèn bịa ra lời riêng của hoàng thượng rồi vờ tiết lộ với Bình rằng:

– Hoàng thượng đã có ý bảo riêng với tôi rằng: nhà vua đơn bạc, không có vật gì đáng tặng. Vẫn biết những cái danh tước nhỏ mọn, không đủ làm cho ngài sang thêm. Song vì tục lệ trong nước vốn chuộng lễ nghĩa, nên cũng gọi là tỏ chút lòng thành của hoàng thượng kính ngài mà thôi. Bản ý của hoàng thượng vẫn cho rằng mình đã cao tuổi, sợ sau khi ngài về, không thể nương tựa vào ai, nên người muốn nối liền tình thân hai họ, để cho hai nước đời đời kết tình thông gia giao hảo với nhau. Nhưng vì chưa hiểu ý ngài thế nào, nên hoàng thượng vẫn còn trù trừ chưa dám nói rõ.

Bình đáp:

– Xưa nay những kẻ chinh phu xa nhà, tình khuê phòng rất là cần thiết. Hoàng thượng cũng xét đến chỗ ấy kia à? ừ! Em vua nước Tây, làm rể hoàng đế nước Nam, “môn đương hộ đối” như thế, tưởng cũng không mấy người đã có được.

Mọi người ngồi quanh Bình đều cười.

Bình lại tiếp:

– Nhưng nói đùa đó thôi! ý nghĩ ấy của hoàng thượng thật là mưu kế già giặn. Người muốn cho hai nước hoà hiếu với nhau đấy mà.

Chỉnh biết là Bình bằng lòng, bèn vào tâu với hoàng thượng, kể hết đầu đuôi như vậy, rồi lại hỏi xem con cái hoàng thượng hiện còn mấy công chúa chưa gả chồng.

Nguyên trong số những người con gái đẻ sau của hoàng thượng, còn có đến năm, sáu nàng công chúa chưa chồng. Nhưng chỉ riêng có một nàng tên chữ gọi Ngọc Hân, là người có sắc đẹp và nết na hơn cả. Hoàng thượng rất yêu quí Ngọc Hân, thường ngày vẫn nói: “Con bé này ngày sau nên gả làm vương phi, không nên gả cho hạng phò mã tầm thường!”

Lúc ấy nghe lời Chỉnh nói, hoàng thượng trong bụng cũng ưng, bèn bảo Chỉnh:

– Con gái chưa chồng của trẫm còn nhiều, nhưng chỉ có mình Ngọc Hân là có chút nhan sắc. Tuy vậy, thói thường yêu con vẫn hay thiên lệch, chưa biết ở mắt người ngoài thì ra sao. Ngươi hãy ở đây, để trẫm đòi cả ra cho mà coi qua, rồi tuỳ người lựa xem người nào xứng đáng thì giúp cho thành việc đi!

Rồi hoàng thượng sai viên quan đứng hầu đi gọi các công chúa. Một lát, tất cả các cô con gái chưa chồng của hoàng thượng đều ra hầu ở trước ngự toạ. Chỉnh liếc nhìn một lượt, rồi nói:

– Được rồi! Mối nhân duyên tốt lành này, thần xin làm mối, mười phần chắc xong cả mười.

Rồi Chỉnh về nói với Bình:

– Câu chuyện riêng hôm qua tôi nói với ngài, nay tôi đã vào tâu với hoàng thượng, Người vui mừng mà bảo tôi rằng: Nếu đã được ngài bằng lòng cho như thế, âu cũng là duyên trời run rủi. Hiện hoàng thượng có nàng công chúa thứ chín, tuổi vừa đôi tám, xin cho nương bóng nhà sau, hầu hạ khăn lược, để cho hai nước thành thông gia, đời đời hoà hiếu với nhau.

Bình nói đùa rằng:

– Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?

Những người cùng ngồi với Bình đều cười ầm.

Chỉnh ra về, Bình lại nói thêm:

– Tôi xin kính lạy dưới bệ hoàng thượng vạn tuế! ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc, thật là một mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng rỡ.

Chỉnh vào điện tâu lại với hoàng thượng. Hoàng thượng bèn gả công chúa Ngọc Hân cho Bình.

Bình chọn ngày mồng mười tháng ấy, sắp sẵn hai trăm lạng vàng, hai ngàn lạng bạc, hai chục tấm đoạn màu, bày biện gươm giáo cờ quạt; rồi sai viên thị lang bộ Hình đem các thứ lễ vật đó cùng một tờ tâu vào điện Vạn Thọ.

Hoàng thượng cho hoàng tử là Sùng nhượng công ra đó nhận lễ vật, làm lễ cáo ở nhà Thái Miếu, định ngày hôm sau thì đưa dâu. Rồi hoàng thượng lại truyền cho các hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ, ai nấy đều phải sửa soạn ngựa xe, sớm hôm đó đợi ở cửa điện, để đưa công chúa về phủ của Bình.

Sáng sớm hôm sau, Bình lại sai quan đem một tờ tâu vào triều, xin cho làm lễ nghênh hôn. Một mặt, Bình khiến quân lính đứng sắp hàng ở hai bên đường, từ cửa điện đến cửa phủ. Trai gái trong kinh nghe tin, rủ nhau đi xem đông như ngày hội. Ai cũng cho là việc hiếm có xưa nay. Khi xe của công chúa tới cửa phủ, Bình ngồi kiệu rồng vàng ra đón, hết thảy mọi thứ lễ nghi đều theo đúng như lệ thường ở các nhà. Sau khi công chúa vào cung, Bình sai đặt tiệc ở bên ngoài để thết các vị hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ đi đưa dâu. Trong tiệc, mọi người đều theo thứ bậc mà ngồi. Tiệc tan, Bình sắp riêng hai trăm lạng bạc, sai quan ngỏ lời kính tặng các vị nhà gái, và đưa tiễn ra tận cửa phủ. Các quan ra về, lại họp ở nhà công đường bộ Lễ, ai nấy đều khen nhà vua kén được rể tốt, và bảo nhau: “Thế là từ nay nước An-nam ta đã có một nước dâu gia”.

Công chúa lúc mới về còn có vẻ bẽn lẽn e thẹn, nhưng sau rồi cũng quen. Hôm vào làm lễ yết các vị tiên hoàng đế ở nhà Thái Miếu, Bình và công chúa gióng kiệu cùng đi, lúc lễ xong lại gióng kiệu cùng về.

Bình vốn có tính kiêu căng, chợt hỏi công chúa:

– Con trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng?

Công chúa đáp:

– Nhà vua ít lộc, các con trai con gái ai cũng thanh bạch nghèo khó. Chỉ riêng thiếp có duyên, lấy được lệnh công (tiếng gọi tôn trọng, chỉ Nguyễn Bình), ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà thôi!

Bình nghe câu ấy, thích thú lắm.

Đến ngày 14, bệnh của hoàng thượng đã nguy kịch. Bình muốn nhân lúc nhà vua đang còn sống, xin nhà vua nhận lễ chúc mừng về cuộc nhất thống để trong ngoài đều biết, cho trọn vẹn cái công tôn phò của mình. Bình bèn chọn ngày rằm để đặt lễ đại triều rồi dâng tờ tâu lên xin với hoàng thượng. Đúng ngày, triều đình bày cuộc đại nhạc ở mé đông và mé tây đan trì (thềm sơn đỏ nơi cung điện nhà vua) Các lễ quan sắp đặt đồ nghi vệ cực kỳ trang trọng, rồi xin hoàng thượng ra ngự chầu. Sau khi các hoàng tử đã dìu hoàng thượng lên ngự toạ, ngoài điện nổ ba phát súng làm hiệu lệnh, trăm quan đều lần lượt làm lễ mừng. Lễ xong, hoàng thượng ban tờ chiếu nói về việc nhất thống sai đem dán ở ngoài cửa Đại hưng. Thần dân thiên hạ thấy vậy đều khen “phúc, lộc, thọ khảo” (Phúc là điều tốt lành, lộc là của cải, thọ khảo là sống lâu) của hoàng thượng thế là hoàn toàn tốt đẹp.

Sau ngày lễ ấy, bệnh của hoàng thượng càng nguy hơn, đã gần hấp hối. Công chúa mời Bình vào thăm, Bình nói:

– Nay tôi với hoàng thượng, nghĩa như cha con. Tôi thành thật muốn kịp thời vào thăm khi hoàng thượng còn sống, để chiêm ngưỡng mặt rồng, cho tỏ tấm lòng lưu luyến. Song, tôi mới từ xa tới đây, người trong nước chưa chắc đã tin hết cả. Hôm qua hoàng thượng ra ngự chầu, ai biết thánh thể mang bệnh? Nếu như tôi vào thăm lại chẳng may đúng lúc Người về chầu giời, há chẳng khiến cho tôi mang tiếng muôn đời với thiên hạ ư? Chi bằng, nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rõ với các anh em như thế, để ai nấy đều hiểu lòng tôi.

Công chúa Ngọc Hân bèn từ biệt Bình về cung thăm vua cha.

Đêm đó, hoàng thượng tinh thần tỉnh táo, bèn cho đòi hoàng tự tôn vào, dặn dò các công việc lớn lao của nhà nước, lại cho đòi công chúa Ngọc Hân vào để dạy bảo về đạo làm vợ. Trối trăng với con gái xong đâu vào đấy, đúng giờ mão ngày 17, hoàng thượng băng ở điện chính tẩm. Bấy giờ hoàng thượng thọ 70 tuổi, ở ngôi vua được 47 năm.

Nhà vua râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non; tính nết hiền từ, giản dị. Khi còn làm hoàng tử, vì việc ông hoàng Lê Duy Mật chống lại họ Trịnh, nên nhà vua bị chúa Trịnh nghi ngờ, đem giam vào nhà viên nội thị Hồng quận công. Đến năm Canh thân (1740) Nghị tổ (tức Trịnh Doanh) lên làm chúa, quận Hồng ra trấn Sơn Nam, chúa liền chuyển nhà vua đến giam ở nhà cậu mình là Bính quận công (Vũ Tất Thận, cậu ruột Trịnh Doanh, em thái phi Vũ thị). Khi chưa có lệnh ấy của chúa, một đêm quận Bính bỗng mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình. Sớm hôm sau liền thấy quận Hồng cho giải hoàng tử đến giam ở nhà mình, quận Bính hết sức ngạc nhiên, nghĩ rằng giấc mộng lúc ban đêm không phải là chuyện tình cờ, bèn vào kể lại với chúa. Bấy giờ bốn phương đang loạn lạc, thế nước ngả nghiêng, chúa thấy điềm lành ấy, muốn nhờ vào phúc đức của nhà vua để dẹp cho yên thiên hạ, liền cho đón về, lập nên ngôi và đặt niên hiệu là Cảnh-hưng.

Sau khi nhà vua lên ngôi, bốn phương dần dần dẹp xong, thiên hạ lại bình yên. Chúa biết phúc của nhà vua rất lớn, nên càng hết sức tôn kính. Nhà vua cũng nhã nhặn, khiêm tốn, tin cậy vào chúa. Thỉnh thoảng chúa lại dâng tiến thức nọ thức kia, vì thế sự chi dùng của nhà vua cũng được thừa thãi.

Lúc nhà vua ở ngôi, chẳng qua chỉ rủ áo khoanh tay, tìm trò mua vui chứ không có việc gì phải lo. Nhà vua lại giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu Nhạc phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng. Thường khi nhà vua lại còn theo tranh Tam quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo mác, chia thế trận ba nước Nguỵ, Ngô, Thục, rồi dạy họ các cách ngồi, đứng, đâm, đỡ, để mua vui trong lúc thư nhàn.

Những năm tuổi già, nhà vua bị Thánh tổ Trịnh Sâm đè nén đủ đường, người khác hẳn phải tức giận không thể chịu nổi, nhưng nhà vua vẫn vui đùa như thường. Những người gần gũi nhà vua thấy vậy đều can ngăn. Nhà vua liền đáp rằng:

– Các ngươi mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà vua đối với nhà chúa, hiện nay đang ở vào cái thế bị ngờ vực; nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận, thì nhà chúa ắt phải ngấm ngầm tính việc chẳng hay. Vì vậy, trẫm phải mượn hứng vui chơi như thường để tránh tai vạ đó thôi!

Có lần, nhà vua lại nói với các cung nữ rằng:

– Trong đời ta, thế nào cũng có phen được trông thấy cuộc nhất thống, nhưng đó chẳng phải là điều mà ta vui mừng.

Các cung nữ hỏi lại:

– Nhà chúa chèn ép như vậy, nếu chúa bại là may cho nhà vua, cớ sao bệ hạ lại không vui mừng?

Nhà vua đáp:

– Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?

Khi Đoan nam vương Trịnh Tông mới lên làm chúa, bọn kiêu binh có lần đã nghĩ đến cái mưu tôn phò nhất thống và lén đến xin ý kiến nhà vua. Những người xung quanh cũng đã khuyên nhà vua nên nghe theo mưu ấy. Nhưng nhà vua nói:

– Ta vì thành thật nghe theo trời nên mới được như thế này. Những chuyện do ở mưu người xếp đặt, ta quyết không làm. Nếu kẻ nào còn dám nói đến chuyện đó, trẫm sẽ lôi sang cho chúa, để theo phép mà làm tội.

Vì thế, mưu ấy mới thôi.

Đến hồi này, thấy Bình làm việc tôn phò, nhà vua bề ngoài tuy mừng nhưng bề trong thì lại lo. Những việc giao thiệp, tiếp đãi đều là bất đắc dĩ.

Kịp đến khi bệnh nặng, nhà vua bảo với hoàng tự tôn rằng:

– Ta chỉ sớm tối là được trút hết gánh nặng, cái lo sẽ dồn cả vào thân mày, mày phải nghĩ tới điều đó!

Lúc sắp băng, nhà vua lại trối thêm:

– Sau khi ta nhắm mắt, việc nối ngôi là việc trọng đại, chuyện gì cũng phải bẩm qua với ông ấy, không được khinh suất.

Nói xong, nhà vua băng. Hoàng tự tôn bèn lên nối ngôi vua.

Trước đó, lúc công chúa Ngọc Hân mới về với Bình, Bình đã hỏi công chúa về đức tính của các vị hoàng tử. Người nào thế nào, công chúa cũng đều kể thật với Bình. Khi Bình hỏi đến nhân phẩm của hoàng tự tôn như thế nào, công chúa chưa thoát khỏi thói thường của người đàn bà, nghĩ bụng anh thân hơn cháu, lại sợ hoàng tự tôn sẽ cướp mất ngôi của Sùng nhượng công, bèn đáp:

– Nhân phẩm của hoàng tự tôn cũng tầm thường thôi!

Do đó, Bình có ý không thích hoàng tự tôn.

Đến khi bệnh của hoàng thượng đã tới lúc hấp hối, triều đình bàn nhau lập hoàng tự tôn, và sai người ra nói với Bình. Bình không nghe. Sứ giả quay về nói lại ý Bình, cả triều bàn bạc phân vân, chưa biết quyết định ra sao. Thình lình trong bọn có một người lớn tiếng nói rằng:

– Tự tôn không được làm vua, thiên hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại công chúa Ngọc Hân. Công chúa thực đã làm hại đến việc lớn của xã tắc, hãy xoá tên trong sổ họ đi, để cho công chúa về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng thiếu gì một con người ấy!

Triều đình nhìn xem ai, thì té ra là hoàng thân Vượng quận công.

Công chúa sợ hãi, bèn về phủ xin với Bình. Bấy giờ Bình mới bằng lòng. Sau khi hoàng thượng băng, trăm quan bèn phò tự tôn lên ngôi.

Hôm ấy, Bình ở trong phủ, nghe tin hoàng thượng băng, liền sai lính thị vệ sắp sửa đồ nghi vệ, xe kiệu, để chờ khi hoàng tự tôn được lập rồi, nếu có ai bên họ nhà vua lại trình và mời sang lo việc tang, thì Bình sẽ sàng đi ngay. Nhưng hoàng tự tôn không hiểu ý đó, nên sợ phiền chẳng dám mời, mãi đến lúc khâm liệm xong xuôi và cho vào quan tài rồi, mới bẩm với Bình.

Bình giận vì không được mời trước, cho là hoàng tự tôn coi mình như người ngoài, bèn sai ngay người vào triều bắt phải hoãn lễ đăng cực (lễ lên ngôi vua), có ý muốn lập người khác. Sứ giả đến nơi thì lễ đăng cực đã xong, triều đình đem cái việc đã rồi ấy báo lại với Bình. Bình càng tức liền đòi công chúa về phủ, rồi mắng rằng:

– Tiên đế là vua chung của thiên hạ, không phải là vua riêng của hoàng tộc. Ta thương mến tiên đế, hôm qua vì tránh sự hiềm nghi không dám vào thăm; hôm nay muốn kịp lúc chưa khâm liệm, tới nơi để được thấy mặt ngọc, cho trọn cái tình bố vợ con rể; song tự dưng ta đến, e rằng không phải phép. Sao hoàng tộc lại gạt ta ra ngoài, không thèm mời? Nếu không có ta, thử hỏi: Triều đình sẽ thành cái gì? Chính sự sẽ ra cái gì? Cớ sao lại dám sơ suất như vậy? Ta thử bỏ đây mà đi, xem hoàng tộc làm ăn ra sao?

Rồi Bình lập tức truyền lệnh cho các quân thuỷ, bộ sửa soạn hành trang, để sớm hôm sau rút quân về nước.

Công chúa khóc lóc xin Bình ở lại, một mặt ngầm sai người tỏ bày ý kiến với tự hoàng. Tự hoàng vội cho người ra phủ tạ lỗi và xin Bình ở lại. Bấy giờ, Bình mới thôi việc rút quân.

Đến ngày làm lễ thành phục, tự hoàng sai quan mời Bình vào tế.

Bình mặc đồ tang, đứng ở trên điện tế, coi xét lễ nghi hết sức chu đáo. Lúc đang tế, có viên tả phiên lại hơi có vẻ cười, Bình sai lôi ngay ra chém. Đại khái đối với việc tang lễ, Bình hết sức kính cẩn như vậy.

Bấy giờ, Bình đã ngấm ngầm có ý định muốn về, bèn nói với các quan trong triều rằng:

– Tôi vâng mệnh vua anh đem quân ra ngoài cõi, đi hay ở không có kỳ hạn nhất định. Tôi vì nghĩa tôn phù mà tới đây, may mắn đã làm xong việc. Nay tôi là chàng rể, muốn ở cho hết đạo hiếu với bố vợ. Làm cho xong sớm việc tang tế kịp khi tôi chưa rút về, để cho trung hiếu vẹn cả hai bề, đó là ước muốn của tôi vậy.

Các quan đều nói:

– Chúng tôi xin vâng mệnh!

Rồi họ liền chọn ngày để đưa tử cung xuống thuyền.

Còn Bình thì suốt ngày đêm sắm sửa cho lễ táng, các đồ tế lễ tuy đơn sơ, giản dị, nhưng lễ nghi thì đều đầy đủ không thiếu sót gì.

Đến ngày đưa đám, Bình tự cưỡi voi, đem ba ngàn quân, hộ tống tử cung đến bến đò, rồi chờ cho lễ rước tử cung xuống thuyền xong xuôi đâu đấy, mới quay trở lại.

Lúc công chúa Ngọc Hân về phủ, Bình nhơn nhơn ra vẻ tự đắc mà rằng:

– Tiên đế có hơn ba mươi người con trai, ngày nay báo hiếu lại chỉ ở một người con gái, nào có ai giúp đỡ cho được mảy may? Người xưa thường bảo “Con gái làm rạng rỡ cho nhà cửa”, quả cũng đúng thật!

Công chúa cảm tạ và nói:

– Nhờ công đức của thượng công, thiếp được báo hiếu với hoàng khảo, mở mặt với anh chị em. Tục ngữ vẫn nói: “Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày chồng”, chính là như thế đó!

Bình nghe nói, thích lắm. Chợt có tin báo vua Tây Sơn sắp ra. Bình vội sai Chỉnh cho dán yết thị khắp kinh thành, nói là: “Thiên vương tuần du ra Bắc để xem xét phong tục, khoảng mười ngày nữa sẽ tới. Vậy bố cáo cho cả trong ngoài đều biết”. Một mặt, Bình sai người tâu với tự hoàng, xin cho văn võ trăm quan ra ngoài cửa ô đón tiếp.

Ngày mồng năm tháng Tám, vua Tây Sơn đến kinh thành (ở một bản khác, thấy có thêm một đoạn như sau: “Hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa Nam-giao và sai quan khâm mạng đứng ở bên đường, sau đó ngỏ lời chào mừng, rồi đi về. Chúa Tây Sơn sai người đáp lại, rồi truyền đánh xe vào thành”).

Vua Tây Sơn chẳng quản muôn dặm đường xa tới đây, mà coi bộ lại hết sức hối hả, vội vã; mọi người đều không hiểu duyên cớ làm sao?

Thật là:

Cá kình vượt biển giương vây nhảy,
Cọp dữ lìa rừng mượn cánh bay.

Chưa biết vua Tây Sơn đến về việc gì? Xin xem hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ sáu
Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước
Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa phò vương

Lại nói, khi Thuận Hoá mới vỡ, vua Tây Sơn nhận được thư báo tin thắng trận của Bình. Đại ý bức thư viết như sau: “Lũ thần vâng theo mưu mô của miếu đường, lại kính nhờ về oai trời thiêng liêng, Thuận Hoá, đã dẹp yên, thiên hạ đều rung động. Nay ở Bắc Hà quân kiêu tướng lười, thế có thể lấy được. Thần cúi xin mạn phép tuỳ tiện, đã uỷ cho hữu quân Nguyễn Chỉnh đem tiền bộ thuỷ binh đi trước, thẳng tới Sơn Nam. Riêng thần hiện đang chiêu mộ nhân dân các vùng ven biển, chọn lấy đinh tráng để tăng thêm thế lực cho quân ta. Hẹn trong ít ngày sẽ dẹp yên xứ Bắc Hà. Còn quan ải, thành quách xứ Thuận Hoá, hiện đã giao cho Đông định công (tức Nguyễn Lữ, em thứ ba của Nguyễn Nhạc) coi giữ. Vậy xin bề trên ban cho chiếu chỉ để thần tuân theo”.

Vua Tây Sơn xem thư, mừng rằng việc đã thành công, nhưng lại ghét cái chỗ tự chuyện của Bình. Vả lại, vua Tây Sơn vốn đã biết Bình là người khôn ngoan, giảo quyệt, sợ Bình lấy được Bắc Hà, lúc trở về ắt sinh ra kiêu căng, khó kiềm chế. Vua Tây Sơn lại còn nghĩ rằng: “Nhà mình đời đời vẫn ở Nam Hà, được xứ Thuận Hoá là nơi bờ cõi cũ, đủ rồi; không cần lấy thêm một nước lớn nữa làm gì. Ví dụ có lấy được, chưa chắc đã giữ được, vạn nhất vấp ngã một cái, thì sự tai hại không phải là nhỏ”. Do đó, vua Tây Sơn liền sai người hoả tốc mang thư ra ngăn Bình. Nhưng khi người đưa thư tới nơi, thì Bình đã thân hành đem đại quân, thuận theo gió nồm trẩy ra Bắc rồi. Tiếp được tin này, vua Tây Sơn càng không hài lòng.

Qua ngày hai mươi sáu tháng sáu khi kinh sư bị vỡ, Bình lại gửi thư báo tin thắng trận về Tây Sơn. Trong thư đại khái nói rằng: “Trước đây thần vâng mệnh cho phép tuỳ tiện đem quân ra dẹp Bắc Hà, trông nhờ vào oai danh của vương huynh, chỉ đánh một trận mà thắng. Nay nhà Trịnh đã diệt, thiên hạ thu về một mối, thần thể theo lòng ước muốn của người trong nước, phò lập nhà Lê, cho họ yên lòng. Bây giờ trong nước mới tạm yên, thần xin để cho quân lính được nghỉ ngơi, tạm đóng tại kinh đô nước họ, để vỗ yên dân chúng và cắt đặt mọi việc cho đâu vào đấy. Chờ đến dịp thu đông thuận gió, thần lại xin kính cẩn đem quân về nước”.

Bức thư đến Tây Sơn vào ngày mười bốn tháng bảy. Vua Tây Sơn tiếp được thư, hết sức lo ngại, nghĩ bụng: “Bình luôn luôn lập được chiến công, đã làm cho hắn thêm kiêu ngạo. Huống hồ trong tay hắn lại nắm giữ đạo quân lớn, chuyên chế ở ngoài muôn dặm. Rồi Võ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, những viên tướng dũng mãnh, mưu trí lại đều thuộc quyền sai khiến của hắn. Nếu cứ buông lỏng cho hắn bay nhảy ở ngoài, lâu dần ắt phải sinh ra những việc không hay. Nhưng khí thế của hắn như thế, không thể dùng một lá thư mà gọi về được. Nếu mình không thân hành ra Bắc, bắt hắn phải về, ấy là thả hùm ra khỏi cũi, không bao giờ còn có thể nuôi dạy được nữa vậy. Thế rồi, luôn trong bữa đó, vua Tây Sơn tự đem năm trăm tên lính thị vệ ra thẳng Phú Xuân. Tới nơi, lại lấy thêm hơn hai ngàn quân Phú Xuân đi gấp ra kinh sư. Đoàn quân tất tưởi kéo đi, dáng dấp tiều tuỵ, người ta không còn nhận ra đó là đám quan quân nào nữa.

Lúc vua Tây Sơn tới cửa biển Hội Thống ở trấn Nghệ An, có người dân quê đem ít đồ biển xin ra mắt, nói rằng:

– Chúng tôi thấy quan lớn đi qua, nhân có chút quà mọn, gọi là tỏ tấc lòng thành kính.

Vua Tây Sơn tính vốn thật thà, không quen ăn nói văn hoa, thấy vậy, liền đáp:

– Tôi không phải là quan lớn, tôi là họ ngoại của chúa Nam Hà (Chúa Nam Hà chỉ vào họ Nguyễn, vì Nhạc gả con gái cho thế tử Dương của chúa Nguyễn, nên tự xưng là họ ngoại), vẫn quen gọi là biện Nhạc ấy mà! Các người hậu tình, thấy tôi đi xa, lương khô, ăn nhạt, mà đem cho những món ngon lành thế này, cám ơn lắm, cám ơn lắm!

Rồi lại hối hả đi luôn.

Thình lình thấy một bọn chừng vài chục người, kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn ống, mình trần trùng trục đứng ở ven đường. Chờ cho vua Tây Sơn đi qua, bọn đó liền kêu lớn lên rằng:

– Chúng tôi về Nam, bị Chưởng Tiến (một lục lâm hảo hán ở Nghệ An hồi ấy) đòi tiền mãi lộ, lấy hết của cải rồi.

Vua Tây Sơn hỏi:

– Nó đâu?

Bọn đó đáp:

– Nó lấy được của xong, vội vàng chạy vào trong dãy núi kia!

Vua Tây Sơn liền sai một tốp lính đuổi bắt. Vừa đến một chỗ núi hiểm, mấy chục người đó đều rút dao kiếm trong đòn ống ra và reo lên:

– Chúng bay đã biết bọn tao hay chưa; bọn tao đều là các bậc đàn anh trong đám thủ hạ của Chưởng Tiến. Hôm nay đến để chặt cái đầu của lũ “lông đỏ” (không hiểu sao lại gọi Tây Sơn là “lông đỏ” (hồng mao), chưa tra cứu ra. Trong Đại nam quốc sử diễn ca thấy có câu tả cách ăn mặc của quân Tây Sơn như sau: “Quân dung đâu mới lạ nhường; Mão mao áo đỏ chật đường kéo ra”. Có lẽ tác giả đã căn cứ vào cách ăn mặc đó (mũ lông áo đỏ) mà gọi Tây Sơn là “hồng mao” chăng?) chúng bay đây.

Vừa reo họ vừa xông vào đâm chém, dao kiếm vung lên tua tủa, quân Nam bị đánh bất ngờ, thua chạy liểng xiểng.

Vua Tây Sơn cả sợ, từ đó, trên đường hành quân không dám vào ngủ trong nhà dân nữa; tối đâu giăng màn ra giữa đồng ruộng ở đó mà ngủ, còn các quân sĩ thì đều ngủ ngoài trời.

Bởi lẽ đó, khi tới kinh sư, cả đoàn quân chỉ còn là một lũ nửa người nửa ngợm, mặt mũi hốc hác, coi không ra bộ quân của vua chúa nữa.

Thấy vậy, thiên hạ đều đồn đại lung tung. Kẻ thì bảo thành Tây Sơn đã bị nhà Nguyễn phá vỡ, vua Tây Sơn vì không giữ được nữa nên phải chuồn ra đây. Người thì nói Bình dùng mưu chước gian dối, mượn một kẻ khác giả làm vua anh để thêm thanh thế cho mình. Hào kiệt thiên hạ và những kẻ coi giữ châu quận ngầm nuôi binh mã, đều muốn dò xem thực hư thế nào, để tìm cách bắt lấy; nhưng rốt cuộc cũng không ai biết rõ tình hình.

Lúc vua Tây Sơn mới đến kinh, Bình ra tận ngoài ô đón tiếp và tạ cái tội tự chuyên của mình. Vua Tây Sơn nói:

– Tướng ở bên ngoài, nếu gặp việc có ích lợi cho nước nhà thì cứ tự ý mà làm cũng được. Bắc Hà có thể lấy, mà ông lấy ngay được, đó là chỗ thần diệu trong phép dùng binh. Vả lại, ông trèo đèo lội suối đi hàng muôn dặm để mở mang bờ cõi cho đất nước rộng thêm; thủ đoạn anh hùng như vậy, anh thực không thể nào sánh kịp. Nhưng mà, mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế; tránh sao khỏi sự thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.

Rồi hai anh em cùng gióng ngựa đi vào thành.

Tới phủ, Bình dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn khen:

– Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, “môn đương hộ đối” mối nhân duyên đẹp thật!

Rồi lại bảo công chúa rằng:

– Người quí giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.

Hai người ôn tồn trò chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy.

Hồi lâu, công chúa cáo từ lui ra. Bình sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ; còn tự mình thì chuyển ra ngủ ở gác Kỳ-lân.

Quân lính của Bình đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi một lượt. Đến lúc này, Bình đem binh phù nộp cả cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ, còn sự thay đổi mới đây của Bình thì vờ như không hay biết gì cả. Thế là từ đó, bao nhiêu tướng sĩ lại đều chỉ nghe theo mệnh lệnh của “ông vua lớn”.

Được ít bữa, vua Tây Sơn liền bí mật cùng với Bình bàn chuyện rút về. Bình đành phải vâng theo. Các tướng tá chỉ riêng có Võ Văn Nhậm được biết việc kín này, còn Chỉnh thì không được dự nghe.

Lại nói, lúc mới tới kinh, Chỉnh và Nhậm đều đóng ở lầu Ngũ-long. Nhậm đóng trước lầu, Chỉnh đóng sau lầu.

Chỉnh vốn là người bản quốc, nhiều kẻ quen thuộc, nên người trong nước chỉ biết có Chỉnh. Quan lại, dân chúng, ai đến ra mắt đều vào cửa Chỉnh. Sau lầu thường đông như chợ; mà trước lầu nơi Nhậm ở thì chẳng có lấy một ma nào lui tới. Việc ấy làm cho Nhậm có vẻ không thích. Thấy vậy, Chỉnh phải sai một tên thư lại mới vào làm việc, ngày ngày ngồi chực ở cửa Nhậm để mời khách đến chỗ Nhậm, nhưng khách vẫn không đến, Chỉnh bất đắc dĩ lại phải xoay cách khác. Hễ khách nào tới thăm Chỉnh, sau khi đã thù tiếp xong. Chỉnh lại sai đưa người khách kèm theo đồ lễ đến cửa Nhậm. Nhưng rốt cuộc Nhậm vẫn không bằng lòng. Chỉnh bèn dời chỗ ở sang chùa Tiên Tích (ở xóm Nam Ngư, huyện Thọ Xương. Nay là đường Nam Bộ, Hà Nội).

Sau chuyện này, Nhậm bèn đem những lời gièm pha Chỉnh mà nói với Bình rằng:

– Hắn là một kẻ bầy tôi đi trốn, chạy về với mình, muốn mượn sức của mình trả thù cho thầy, để hả cái lòng căm tức với nước cũ. Nay mình rong ruổi hàng muôn dặm, đưa hắn về nước, vẽ mày vẽ mặt cho hắn. Thế mà khi hắn đã đạt được chí nguyện, những người trong nước vào hùa với hắn, có kẻ lại đem hai câu đối: “Hổ tự Tây Sơn xuất, Long tòng Đông-hải lai” (hổ từ non Tây ra; rồng ở biển Đông lại) ở tháp chùa Thiên Mụ của nhà Nguyễn, để bảo ông là hổ, hắn là rồng. ý nói: “Hổ lìa khỏi núi thì thất thế, rồng ra khỏi biển vẫn vẫy vùng”. Thế là chẳng những hắn không chịu để mình dùng, mà lại còn có chí ngang tàng nữa. Bây giờ mình giam mấy vạn người ngồi ăn không ở đây, để giúp cho hắn gây nên thế lực, nghĩ cũng khờ dại quá! Tôi nghe người trong nước này oán hắn rất sâu sắc, sở dĩ họ chưa nổi dậy là vì còn sợ mình đó thôi. Nếu mình bỏ hắn mà về, người nước này hẳn sẽ tranh nhau nhai thịt hắn. Và hắn thường nói: “Nhân tài Bắc Hà chỉ có mình hắn”. Để cho hắn chết, mình lấy Bắc Hà sẽ càng yên ổn.

Bình tin lời Nhậm, nên từ đó đối với Chỉnh tuy ngoài mặt vẫn như thường, nhưng trong lòng thì rất ngờ vực.

Quân Nam vì đi xa cũng rất oán Chỉnh, ngày đêm mong cho Bình giết Chỉnh. Rồi họ biết thế nào Bình cũng đưa Chỉnh đến chỗ chết, nên họ khinh Chỉnh ra miệng. Một hôm, bọn người trong nước vào hùa với Chỉnh, có kẻ mang binh phù của Chỉnh cấp băng qua khu đất cấm; khi bị quân Nam gạn hỏi, người ấy đáp:

– Tôi có binh phù của quan hữu quân cấp cho đây!

Quân Nam bèn nói:

– Hữu quân là ai? Có phải Hữu Chỉnh không? Được, cứ đợi đấy nửa tháng nữa mà xem hữu quân của các anh!

Chỉnh nghe được chuyện đó, bèn sinh ra hai lòng với Bình. Vả Chỉnh cũng đã tính toán, biết rằng sớm muộn thế nào rồi Bình cũng phải đi, mình sẽ không thể ở lại kinh sư một mình được. Vì vậy, Chỉnh ngầm có ý muốn chiếm cứ Nghệ An, bèn mật tâu với hoàng thượng rằng:

Thần đem hắn ra, chỉ vì việc tôn phù. Bây giờ việc đã xong, thần quyết không theo hắn nữa. Chắc thế nào hắn cũng rút về, mà khi hắn đã về rồi, thì trấn Nghệ An tức là một bức phên giậu ở bên cạnh giống sài lang. Vậy xin bệ hạ cho thần vào đấy trấn thủ, một mặt Nam Hà thần xin đương cả!

Kịp đến khi nghe tin vua Tây Sơn ra. Chỉnh lại đoán là vua Tây Sơn sẽ cướp ngôi của hoàng thượng và chiếm cứ đất nước. Rồi muốn dựa vào vua Tây Sơn để tránh tai vạ, Chỉnh bèn khuyên hoàng thượng nên sắp sẵn ngọc tỷ mà ra hàng, lại giục các quan trong triều thảo gấp một tờ biểu xin hàng. Triều đình bàn bạc mấy ngày liền chưa quyết không ai dám hạ bút trước. Lúc vua Tây Sơn tới nơi hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa ô phía Nam. Ngài đứng ở trong cửa ô, sai hoàng thân là Thanh nguyên hầu quỳ ở mé bên trái đường đi, để chào và nói thay hoàng thượng. Vua Tây Sơn khi qua cửa ô không đáp lễ, cứ giục ngựa đi thẳng và cho một người quay lại nói rằng:

– Quả quân thấy nhà vua lễ độ quá, sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ, hoặc giả làm phiền cho quý thể phải quỳ lạy mệt nhọc, rồi quả quân lại mang tiếng là thất lễ. Bởi thế, quả quân phải vội vã đi ngay. Xin ngự giá hãy cứ về cung, ngày khác thong thả sẽ cùng gặp nhau.

Hoàng thượng thấy vậy, biết vua Tây Sơn còn ưu đãi mình, nên khi về cung không bàn đến việc đầu hàng nữa.

Hôm sau vua Tây Sơn sai bày ở phủ đường ba chỗ ngồi. Chiếc sập của vau Tây Sơn kê ở chính giữa, bên trái là ghế của hoàng thượng, bên phải là ghế của Bình. Hai bên có hai hàng giáp sĩ đứng hầu cực kỳ nghiêm chỉnh.

Cuộc hội kiến này dùng lễ “hai vua gặp nhau”, không ai phải lạy ai. Khi hoàng thượng ngự giá đến cửa phủ, vua Tây Sơn sai viên quan hầu ra đón. Hoàng thượng đi bộ vào trước thềm; vua Tây Sơn đang ngồi vội bước xuống đất và đứng sang bên cạnh sập để tỏ ý kính lễ; rồi sai Bình xuống dưới thềm đón tiếp và mời hoàng thượng vào ghế. Mọi người đã ngồi yên chỗ, vua Tây Sơn liền hỏi:

– Hoàng thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?

Viên quan đi theo đáp thay hoàng thượng, rồi nhân đó nói tiếp rằng:

– Quốc quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thế, mũ dép đảo lộn đã lâu. May nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc quân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ. Hiện nay đất đai cùng dân chúng nước Nam đều là do thánh thượng gây dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một vài quận ấp của nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, thì quốc quân chúng tôi xin nhất nhất vâng mệnh.

Vua Tây Sơn đáp:

– Tôi nghe ngày xưa đức Thái tổ mở mang ra nước Nam Việt, công đức như trời. Tôi tuy ở xa khuất tại miền biển phương Nam, song cũng là đất của đức Thái tổ khai thác. Tôi vì giận kẻ cường thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn phò. Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để; còn đất của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không dám lấy. Tôi nghĩ rằng nước ta đây mới dẹp yên, còn có nhiều việc cần phải sửa sang, vì vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn phương đã phẳng lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua chấn chỉnh giường mối triều đình, giữ yên bờ cõi, cùng nước tôi đời đời kết nghĩa láng giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy.

Viên quan theo hầu hoàng thượng lại thay lời mà rằng:

– Thánh thượng nghĩ đến công đức của tiên hoàng đế, ra ơn nối lại dòng dõi, khiến cho cơ đồ của tiên hoàng đế không đến nỗi tuyệt diệt; ơn ấy của thánh thượng thật là vô cùng. Quốc quân chúng tôi và các bề tôi xin đời đời giữ tình láng giềng hoà hiếu, không dám sai trái.

Vua Tây Sơn sai trà đồng pha trà đệ lên các ghế. Hoàng thượng uống trà xong, ung dung cáo từ ra về.

Vua Tây Sơn đứng dậy từ biệt. Bình tiễn hoàng thượng xuống thềm, vua Tây Sơn đi theo một quãng, rồi né mình bước giật lùi về chỗ, sai viên quan hầu đi hộ vệ hoàng thượng ra khỏi cửa phủ.

Hoàng thượng lên kiệu về cung, rồi sai các quan trong triều tới ra mắt vua Tây Sơn. Vua Tây Sơn lần lượt hỏi hết quan chức, họ tên từng người. Các quan trả lời xong, vua Tây Sơn liền nói rằng:

– Tôi nghe nói ở nước An Nam, tiến sĩ là quí nhất. Thế các ông có phải là tiến sĩ không? Tôi sẽ nói với nhà vua cho xin may ông đem về để dạy dỗ người trong nước. Vậy các ông có chịu đi theo tôi không?

Các viên quan trong triều đều thưa:

– Quốc quân chúng tôi bảo sao chúng tôi phải nghe làm vậy. Dẫu rằng sang đông, sang tây, sang nam, sang bắc, đi đâu chúng tôi cũng không dám chối.

Vua Tây Sơn lại hỏi:

– Các ông lúc mới thấy tôi đột ngột ra đây như thế, có ngờ tôi không?

Các viên quan đáp:

– Thánh thượng đã sai thượng công ra phò lập nhà Lê, việc ấy rõ ràng lắm rồi, lũ chúng tôi đâu còn dám ngờ.

Vua Tây Sơn nói:

– Ai ngờ tôi, kẻ ấy là người ngu! Chúa Trịnh bắt quân đi hàng muôn dặm, cố chiếm lấy đất Thuận Hoá, lấy nước lớn làm hại nước nhỏ, nên mới dẫn đến cái vạ ngày nay. Gương ấy há có xa đâu? Tôi nếu tham đất nước Nam, như vậy là lấy nước nhỏ mà hại nước lớn, còn mong lâu bền sao được? Giả sử đời tôi giữ được đi nữa, thì đến đời con cháu tôi cũng không thể nào giữ nổi. Tôi có ngu gì mà lại nuôi cái mầm vạ ấy? Chẳng bao lâu nữa anh em tôi sẽ về, các ông nên giúp rập nhà vua cho yên thiên hạ. Hai nước chúng ta sẽ kết nghĩa láng giềng, giữ vững tình hoà hiếu, để cùng hưởng phúc thái bình!

Các quan đều ca ngợi:

– Sách có nói rằng: “Bậc thánh nhân không chăm lo đến việc lập công ở phương xa”. Thánh thượng nghĩ tới chỗ đó, thật là vượt quá người thường đến muôn vạn lần. Nhưng quốc quân chúng tôi hiện còn trẻ tuổi, nhiều việc chưa quen thạo, lũ chúng tôi lại đều là những kẻ tài hèn; thánh thượng nếu đã giúp cho nước tôi được còn, xin hãy tạm lưu lại đây, để vua tôi nước chúng tôi nhờ cậy vào oai linh của thánh thượng. Bao giờ bốn phương đều yên, giường mối đã dựng lại, bấy giờ ngự giá hãy về cũng chưa muộn.

Vua Tây Sơn nói:

– Có về cũng còn hàng năm hàng tháng, há phải đâu là chuyện ngày một ngày hai? Các ông chớ vội lo!

Các quan lạy tạ lui ra, rồi cùng bàn riêng với nhau: kẻ thì cho lời vua Tây Sơn nói là thật, người thì bảo lời vua Tây Sơn nói là giả; đại để cũng chỉ đoán có hai việc là ông ta đi hay ở lại, mà cứ hư hư thực thực, chẳng ai biết đích xác như thế nào cả.

Nhưng người trong nước biết rõ hay không biết rõ, vua Tây Sơn cũng chẳng cần. Chỉ riêng có Nguyễn Hữu Chỉnh là người trong bọn, lại là tay quỷ quyệt, nên vua Tây Sơn mới phải tìm đủ mọi cách để kiềm chế mà thôi.

Lúc này, trong bụng vua Tây Sơn rất nôn nóng muốn về, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra vẻ ung dung, thư thái. Sau lễ tiếp kiến, vua Tây Sơn sai Chỉnh chọn ngày tốt, để vào làm lễ ra mắt ở nhà Thái-miếu. Chỉnh xin chờ đến sau tết Trung thu, vua Tây Sơn cũng bằng lòng. Rồi nhân nói đến chuyện hôn nhân của Bình, vua Tây Sơn bảo Chỉnh:

– Chú hai ra đây, được ngươi làm mối cho cô vợ đẹp; riêng ta lại không ư?

Chỉnh thưa:

– Chỉ sợ thánh thượng chê gái Bắc Hà quê mùa mà thôi. Nếu như thánh thượng rộng lượng bao dong, thì sự đó cũng chẳng phải là khó!

Vua Tây Sơn cười mà rằng:

– Thế thì ngươi còn nợ ta đấy, phải trả mau đi nhé!

Chỉnh thấy lời lẽ của vua Tây Sơn có vẻ ung dung thong thả, do đó cũng yên lòng, bèn xin lui về.

Ngày 17 tháng ấy, vua Tây Sơn bí mật hạ lệnh cho tất cả các quân thuỷ, bộ đều phải sửa soạn hành trang nai nịt gọn gàng. Rồi sợ Chỉnh ở ngoài thấy rõ tình hình sinh nghi, vua Tây Sơn bèn cho đòi Chỉnh vào hầu, giữ chân Chỉnh từ sáng đến tối, người ngoài không được vào, tin ngoài không cho tới. Vì thế nên mọi việc xảy ra ở bên ngoài, Chỉnh đều không biết gì hết. Đến khuya, vua Tây Sơn mới thả cho Chỉnh ra. Kịp đến khi Chỉnh về nhà, người nhà có kẻ báo cho Chỉnh biết việc vua Tây Sơn sắp về, thì Chỉnh còn nửa tin nửa ngờ nói:

– Ta suốt ngày ngồi hầu, chuyện trò rất thư thái, làm sao lại có sự lật đật như vậy được?

Đến canh hai đêm ấy, vua Tây Sơn cho người vào gõ cửa điện, ngỏ lời từ biệt hoàng thượng, nói là sớm mai rút quân về Nam. Vậy mà Chỉnh cũng vẫn không biết gì cả.

Trước đó hơn mười ngày, đêm nào ở trại quân Nam cũng nổi chiêng trống vang trời, nhưng sang đến đầu canh hai thì chỉ còn thưa thớt vài tiếng, rồi từ canh ba trở đi thì lặng như tờ, không còn tiếng nào nữa. Vì thế, mỗi hôm cứ vào quãng nửa đêm, người trong kinh lại tưởng là quân Tây Sơn ngầm rút đi rồi; nhưng đến sáng ngày mai thì lại thấy doanh trại vẫn y nguyên. Từ đó về sau ai cũng cho là thường, không hề để ý. Mà tiếng trống canh cũng không còn lấy gì làm chuẩn xác nữa.

Phép quân Tây Sơn, lệnh cấm ban đêm rất ngặt. Thám tử của Chỉnh mọi đêm đều không được ra ngoài. Đêm ấy, khoảng đầu canh năm, bọn thám tử của Chỉnh liều mạng xông ra đường không kể gì lệnh cấm; khi vượt qua mấy điếm canh, vừa đi vừa nghe ngóng thì thấy tất cả đều vắng lặng không có tiếng người. Chúng đi vòng đến cửa phủ, ngó khắp bốn phía cũng không thấy có người nào, mà chỉ thấy gáo mẻ nồi vỡ vứt bừa bãi trên đường. Chúng vội vàng đi ra bến sông, thì ở đó chỉ có trời nước mênh mông, hàng trăm vạn lâu thuyền trước đấy, không biết đi đâu hết cả. Lập tức chúng chạy về báo với Chỉnh.

Chỉnh được tin ấy, trong bụng cực kỳ hoang mang, tự biết mình đã thất thế, ở lại thì không dám, mà bỏ đi thì cũng dở: đường thuỷ không có thuyền, đường bộ không có quân, muốn trốn không có chỗ trốn, không biết nên đi đường nào.

Người nhà Chỉnh khi ấy cũng rất sợ hãi. Nhưng Chỉnh trong lúc sống chết nguy cấp như vậy, vẫn còn dở giọng bông đùa mà rằng:

– Ta đã đi khắp bốn biển chín châu, chẳng lẽ khi trở về xó bếp, lại bị chuột chù gặm chân ư? Không sợ! Không sợ! Ta cứ ở đây xem sao?

Bấy giờ bọn người nhà mới hơi vững dạ. Chỉnh bèn bí mật sai người chạy gấp ra bến Cơ Xá tìm thuyền. Tảng sáng, kiếm được một chiếc thuyền buôn. Chỉnh cùng bọn tay chân độ vài chục người đi đến cửa ô Tây Long thì bị dân chúng ở kinh kỳ từ tứ phía kéo ra đuổi bắt. Chỉnh một mình một đao quay lại đón đánh, mọi người phải chạy tán loạn. Thừa cơ, Chỉnh liền cướp đường chạy xuống bến sông, nhổ neo buông thuyền, thuận dòng xuôi thẳng ra cửa biển để theo quân Nam. Còn ngựa xe, khí giới, đồ đạc, của cải của Chỉnh đều bỏ lại ở chùa Tiên-tích, không biết bao nhiêu mà kể.

Khi trời sáng rõ, có người đem chuyện đó tâu vơí hoàng thượng, hoàng thượng vẫn không tin. Sau cho người đi tra xét, mới biết là thật, hoàng thượng hết sức kinh ngạc, vội cho đòi các quan vào triều hỏi rằng:

– Anh em hắn cướp hết của nước ta mà đi, để cái nước rỗng không lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống chế?

Các quan ngơ ngác nhìn nhau, chưa biết nên nói thế nào. Chợt viên quan hầu cận tâu rằng:

– Hôm qua vâng chỉ truyền sớm nay thiết triều. Bây giờ ngự giá đã cột ngựa rồi, dám xin tâu lại.

Hoàng thượng bèn hỏi các quan:

– Phiên chầu này hãy thôi chăng?

Các quan đều nói:

Hoàng thượng ra triều để ban chiếu chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn, sao lại thôi?

Hoàng thượng bèn ra ngự triều, rồi ban tờ sắc công bố việc đổi niên hiệu, lấy năm sau tức năm Đinh mùi (1787) làm năm đầu niên hiệu Chiêu-thống. Trong tờ sắc đó, chỗ nào cũng một rằng nhờ đức vua của quý quốc, hai rằng nhờ thượng công của quý quốc, giọng văn đại để đều là những câu viết trong lúc vua Tây Sơn còn ở kinh sư; vả lại, những chỗ kể tội của họ Trịnh cũng hơi nhiều. Vì thế có người bàn rằng: Nay họ đã về rồi, nên đổi lại hết cả đi! Song trong khi vội vàng không làm kịp, nên lại cứ để như cũ không sửa đổi gì.

Tan chầu, hoàng thượng bảo các quan ở lại triều đường họp thêm để bàn việc.

Nguyên hoàng thượng là người anh minh, quả quyết, từ lâu vẫn căm tức về việc bị nhà Trịnh chèn ép. Vả hoàng thượng với Thịnh vương lại có mối thù không đội trời chung (đây chỉ vào việc Trịnh Sâm giết Lê Duy Vỹ, tức là cha Lê Duy Kỳ), nên khi được Tây Sơn ra diệt Trịnh, hoàng thượng rất mừng. Lúc Đoan nam vương chết, hoàng thượng đang còn là hoàng tự tôn; tiên đế sai hoàng thượng đem các hoàng tử đến chỗ Bình ở tỏ lời chúc mừng, hoàng thượng đã nói với Bình rằng:

– Tôi có thù cha chưa trả, nay ông trả thù thay cho tôi, đời tôi không còn mong gì hơn thế. Nếu thân này có phải chết ở quý quốc, tôi cũng không hề phàn nàn. Huống chi ông còn phò dựng họ Lê, khiến cho được thờ phụng tôn xã lâu dài, công đức ấy thật không nói sao cho xiết.

Bình đáp:

– Đạo trời vẫn hay đền bù. Đấng thái tử xưa bị hại, thì nay hoàng tự tôn cố nhiên là phải được hưởng phúc thái bình, thống nhất.

Kịp đến khi tiên đế băng, hoàng thượng lên nối ngôi, liền hăng hái tự gánh lấy việc nhất thống. Lại muốn nhân dịp quân Nam tôn phò, tự mình gây lấy uy thế, cho nên trong khi quân Nam chưa về, hoàng thượng đã nuôi ngầm vây cánh. Ngoài việc sai các hoàng thân ai về quê ngoại của nấy, để chiêu tập binh mã phòng khi dùng đến, hoàng thượng còn cho người tìm kiếm các nho sĩ, mời vào giúp việc cho mình. Về mặt quan văn, lúc ấy đã thu dùng được bọn Ngô Vi Quý, Vũ Trinh, Nguyễn Nễ. Hoàng thượng ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo.

Bấy giờ, danh tướng trong thiên hạ thì có Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ, Liễn quận công Đinh Tích Nhưỡng. Còn văn thần mà có binh lực mạnh mẽ thì có Dương Trọng Tế (còn có tên là Trọng Khiêm, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đỗ tiến sĩ).

Hoàng Phùng Cơ từ khi thua trận ở Thuý ái, phải chạy về Sơn Tây, vẫn còn nấp náu chưa dám ra.

Nhưỡng từ khi bị tan đạo quân ở Sơn Nam, liền về Cẩm Giàng, đem hết cả họ hàng ra chiếm luôn lấy trấn Hải Dương. Trấn này lúc trước chưa bị binh đao, trong thành còn có năm vựa thóc công, Nhưỡng bèn đem số thóc ấy ra nuôi quân. Nhờ đó Nhưỡng chiêu mộ được hơn một ngàn dũng sĩ, thanh thế lẫy lừng. Lúc ấy lại có một tên cướp biển là Thiêm Liên, nghe tiếng Nhưỡng cũng đem đồ đảng xin theo, thành ra Nhưỡng có trong tay cả thảy tới vài vạn quân.

Hồi Chỉnh mới về kinh sư, đã có viết thư gọi Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng với Chỉnh đều là môn hạ của quận Việp, hai người vốn ăn ý với nhau. Nhưng khi viết thư trả lời Chỉnh, thì Nhưỡng lại kiếm cớ từ chối không đến, Chỉnh cũng chưa có thì giờ hỏi đến việc ấy. Do đó, Nhưỡng được chuyên giữ một lộ, ngày đêm ra sức luyện tập quân lính.

Còn viên văn thần Dương Trọng Tế thì vốn không biết việc binh. Nhưng Tế có Dương Vân là con trai người anh ruột, tính rất hung tợn, vẫn thường tụ tập những phường vô loại, hoành hành ở các làng xóm, ai cũng phải khiếp sợ. Lúc quân Nam ra, Vân ngầm cho gọi thợ rèn đến rèn đúc khí giới. Bình sai người tìm thợ rèn, nhân biết việc đó, bèn cho tróc nã bọn Vân. Vân đóng cổng làng, bắt hết những người của Bình đem giết đi. Trọng Tế cả sợ, bất đắc dĩ mới phải khởi binh, kéo cờ, chiếm cứ huyện Gia Lâm. Chỉ trong mười ngày, quân của Tế đã lên trên một vạn. Quân tuần tiễn của Tây Sơn sang đánh không hạ nổi.

Lúc quân Tây Sơn còn ở kinh thành, người trong kinh đồn rằng: hai đạo đông tây đã hợp quân làm một chẳng bao lâu sẽ tới dưới thành. Đến lúc quân Nam lén rút đi, trong thành trống rỗng, các quan bàn nên gọi các hào kiệt vào giữ hoàng thành. Bấy giờ ai có người nào quen biết, đều xin nhà vua ban chỉ đi vời. Trong một ngày, chỉ dụ đưa đi đến hơn mười đạo. Nhưỡng và Tế cũng đều ở trong số những người bị gọi.

Hoàng thượng cho rằng Tế là quan văn, nghe mệnh nhà vua tất phải đến ngay; còn Nhưỡng là quan võ, lại có chút tiếng tăm, nếu mời mọc không trịnh trọng, chưa chắc Nhưỡng đã chịu đến. Bởi vậy, hoàng thượng mới sai thảo một tờ sắc, lời lẽ cực kỳ ôn tồn, và trong sắc lại có các lời hứa như “nguyên huân” “đồng hưu”, v.v… (“Nguyên huân” là người có công lao cao cả trên hết, “Đồng hưu” là hưởng chung mọi sự tốt lành) Rồi sai người đem sắc đưa cho Nhưỡng.

Nhưỡng đọc tờ sắc vừa khóc vừa nói:

– Nhà tôi mười tám đời quận công, ơn nước thật cao dày, đội trời đạp đất há dám quên ơn? Nay tôi còn có dăm ba người theo, cũng là nhờ về oai đức của nhà vua. Bây giờ đã có chiếu mệnh ra đòi, đáng lý tôi phải lập tức đến ngay trước cửa khuyết. Nhưng vì tôi còn đang bận kiểm điểm binh mã, sắm sửa hành trang chưa thể đi được; vậy xin hãy hoãn cho tôi chừng năm ba ngày nữa, tôi sẽ vào triều sau.

Đoạn Nhưỡng thảo tờ tâu và sai người theo sứ giả về kinh dâng vua.

Lúc Nhưỡng chưa đến kinh, người ở đây đồn rầm lên rằng Nhưỡng đem thuỷ binh đánh úp quân Nam, bắt được không biết bao nhiêu mà kể. Lại có tin nói rằng Nhưỡng đã tóm được Chỉnh, chặt hết chân tay làm hình “lợn người”, chỉ trong sớm tối sẽ đưa tới kinh. Chợt lại có tin rằng con “lợn người” ấy đã được đưa đến kinh rồi. Thế là người ta tranh nhau đi xem. Một ngày có đến bốn năm lần háo hức, ồn ào lên, và cứ như vậy luôn trong mấy ngày liền.

Bởi lẽ đó, hễ ai nghe tên Nhưỡng cũng đều khiếp phục và trông ngóng.

Hoàng thượng nhận được tờ tâu của Nhưỡng, thấy lời lẽ chan chứa lòng trung vua yêu nước, thì rất mừng, cho rằng Nhưỡng tất là người có thể tin cậy được, nên trong bụng cũng đỡ lo.

Lại nói, sau khi họ Trịnh bị diệt, quân Tây Sơn giết chết Đoan nam vương rồi kéo về Nam, những gia đình quan lại cũ và những bầy tôi còn sống sót ai nấy đều tiếc cho vương không khéo lẩn núp để đến nỗi bị nạn. Lòng họ vẫn còn chưa tuyệt vọng đối với họ Trịnh.

Bấy giờ con đầu lòng của Đoan nam vương hãy còn nhỏ, vương thân Khanh quận công Trịnh Kiều thì đã già nua; chỉ còn có Côn quận công Trịnh Bồng và Thuỵ quận công Trịnh Lệ khi ấy đều khoảng bốn mươi tuổi, là có thể đảm đương được công việc.

Côn quận công là con trai Dụ tổ (tức Trịnh Giang), tính nết hiền từ khoan hậu, được nhiều người yêu mến. Cuối đời Thịnh vương, vì việc con thứ lôi thôi chúa đã muốn cho Thị Huệ nuôi Côn quận công Trịnh Bồng làm con, để nếu bệnh của vương tử Cán không khỏi, thì sẽ lập Côn quận công làm chúa. Nhưng rốt cuộc ý định ấy vẫn chưa thực hiện được. Đến lúc thế tử Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò dựng Côn quận công, họ vào tận nhà để thúc ép và đón rước ông ta, khiến ông ta phải lẩn vào phủ chúa kể rõ đầu đuôi với Đoan nam vương, rồi mới dám về nhà.

Còn Thuỵ quận công là con trai Nghị tổ (Trịnh Doanh) là em ruột Thánh tổ (Trịnh Sâm), vốn là người khôn ngoan và thông minh. Lúc Nghị tổ còn sống, quận Thuỵ thường vẫn có ý muốn cướp quyền con cả. Đến khi Nghị tổ mất, Thánh tổ lên làm chúa, quận Thuỵ bèn cùng với một người gia thần là Phạm Huy Cơ, tiến sĩ khoa Đinh sửu (1757) mưu toan việc cướp ngôi. Chẳng may bị Dương Trọng Tế phát giác, Thánh tổ lấy tình anh em ruột thịt tha tội chết cho quận Thuỵ, và bắt giam vào một nơi. Kịp khi Đoan nam vương lên ngôi, vương nghĩ nể mẹ quận Thuỵ là bà dì mẫu của mình, liền thả quận Thuỵ ra khỏi ngục. ít lâu sau, gặp lúc bọn kiêu binh oán giận vương, quận Thuỵ lại thừa cơ cùng với bọn này mưu cướp ngôi

của vương. Nhưng việc cũng bị lộ. Mẹ Đoan nam vương vì lẽ quận Thuỵ là con trai của chị ruột mình, nên phải đứng ra cố xin với vương, vương nể lời mẹ, lại tha cho quận Thuỵ.

Lúc quân Tây Sơn kéo ra, quận Côn chỉ đem theo một con đòi, một tên đày tớ, lánh vào huyện Chương Đức, lẩn lút trong đám dân gian làm kế ở ẩn lâu dài. Còn quận Thuỵ thì trốn về huyện Văn Giang, cùng với Thần trung hầu (tức Trương Tuân, người xã Như Quỳnh, huyện Văn Giang) ngầm chiêu tập binh mã, hòng có dịp là sẽ nổi lên.

Thần trung hầu là con trai của công chúa Quỳnh Anh, đối với quận Thuỵ và chỗ con cô con cậu. Thần trung hầu đỗ tạo sĩ, đã từng coi cấm quân, lại từng làm trấn thủ trấn Kinh Bắc. Khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút, Thần trung hầu bèn dựng cờ viết hai chữ “cần vương”, rước quận Thuỵ qua sông, rồi theo bến Thanh Trì đi thẳng lên cung Tây-long. Lúc này, quân của Dương Trọng Tế vâng chỉ hoàng thượng từ Gia Lâm vượt sông sang, tình cờ chạm trán với quân của quận Thuỵ.

Nguyên trước kia, Tế mới đỗ tiến sĩ và ra làm quan được ít lâu, thì đã phải bãi chức quan hơn mười năm vì tội ăn của đút; mãi sau nhờ công phát giác việc quận Thuỵ mưu phản, mới được phục chức. Bấy giờ gặp quận Thuỵ, Tế vô cùng sợ hãi, bèn đem quân xin hàng để chuộc lỗi xưa. Quận Thuỵ tức thì sai luôn Tế và Thần trung hầu đóng quân ở ngoài thành, khua chiêng đánh trống, thanh thế rất là lừng lẫy.

Khi ấy, hoàng thượng nghe tin Thần trung hầu đang lảng vảng ở bên ngoài, bèn sai người ra gọi vào. Thần trung hầu vào yết kiến, hoàng thượng liền bảo rằng:

– Ngươi là danh tướng con nhà dòng, nay dấy quân gìn giữ kinh thành, tấm lòng trung nghĩa ấy trẫm rất ngợi khen. Vậy ngươi cứ mang quân vào, trẫm sẽ tuỳ việc mà dùng.

Thần trung hầu quỳ tâu:

– ở trong bốn biển, ai chẳng là tôi nhà vua. Bệ hạ khoanh tay rủ áo không làm việc gì, thì còn cần chi binh lính bảo vệ? Duy có nhà chúa chẳng may bị lũ lính mọi làm hại, thì mới cần kíp phải dùng đến binh lính mà thôi!

Nói đoạn, Thần trung hầu lạy tạ đi ra.

Hoàng thượng giận, sai quan trấn điện đem quân đuổi chém. Mọi người phải cố sức can ngăn, hoàng thượng mới thôi.

Thần trung hầu về nói với Trọng Tế rằng:

– Xưa nay nhà chúa truyền ngôi, nối ngôi, có bao giờ phải xin mệnh lệnh nhà vua đâu? Thường thường khi công việc đã làm xong rồi, bấy giờ mới đệ tờ tâu vào triều. Ngay cả những tờ sắc dụ, sách phong, cũng đều do nhà chúa thảo sẵn trước, sau đó đệ lên hoàng thượng ngự lãm qua, rồi đưa trả về phủ chúa để tuyên bố thi hành, thế là thành mệnh (mệnh lệnh của vua làm thành từ trước), cần gì phải xin phép nhà vua cho thêm rắc rối?

Rồi hai người bèn tức tốc chỉnh đốn hàng ngũ binh lính, rước quận Thuỵ vào thành. Bấy giờ trời đã xẩm tối, chừng đến canh hai mới vào tới phủ. Họ bèn thắp đèn sáng trưng khắp cả phủ, đánh ba hồi chín tiếng trống, rồi phò quận Thuỵ lên ngôi. Thần trung hầu và Trọng Tế tự chia làm hai ban đứng ra lạy mừng. Lạy xong, họ lại bảo các quân sĩ cùng hò reo cho thêm rầm rộ.

Sau đó, hai người chia quân đi đóng giữ các cửa thành cùng các điếm canh trong kinh đúng như lệ cũ. Đến sớm mai, họ mới cho người đi gọi các quan văn võ.

Các quan văn là Hoàng quận công, Tứ xuyên hầu, Thao đường hầu, Kiến xuyên hầu, Luyện đường hầu, cùng vài ba viên tiến sĩ, khi ấy đang ở trong triều, thấy có giấy đòi, liền bảo nhau rằng:

“Quận Thuỵ từ trước đến giờ, đã từng ba lần gây việc mà đều không thành. Con người mà tâm địa như vậy, hẳn không phải là “của quý”. Thần trung hầu là hạng công tử ăn chơi, bình sinh chỉ biết ban đêm uống rượu say mềm, rồi lăn ra ngủ đến khi mặt trời sắp xuống núi mới dậy. Như thế, trong một ngày còn được mấy giờ để lo việc nước mà còn muốn làm đại thần? Trọng Tế hồi trước phản quận Thuỵ, nay lại theo quận Thuỵ, há cũng là “đồ vật ở chốn miếu đường” được ư? (câu này ý nói Trọng Tế không phải là người xứng đáng làm một vị đại thần ở triều đình) Huống chi, một việc lớn lao như vậy, mà trên không xin mệnh lệnh của nhà vua, dưới không thu góp ý kiến của mọi người, chỉ cắm đầu nhắm mắt để tự làm với nhau, lẽ nào lại thành việc được? Hoàng thượng vốn anh minh, quả quyết, chắc chắn bọn ấy không thể lấn ép được. Chúng ta chớ nên hấp tấp, nhẹ dạ mà đến với họ, kẻo sau này có hối lại cũng không kịp!”.

Thế rồi, mấy người sai viên thư lại trả lời cho bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, đại để như sau: “Các quan trong triều vì chưa vâng mệnh của hoàng thượng, cho nên không dám tự tiện tới phủ chúa. Xin hai quan lớn trình chúa hãy thảo giấy tâu xin mệnh lệnh của hoàng thượng, thì các quan sẽ xin vâng mệnh hoàng thượng sang phủ lạy mừng”.

Trọng Tế bèn tự ý làm một tờ tâu rằng: “Thần là Trịnh Lệ kính tâu: Nhà thần đời đời nối nghiệp chúa, tôn phò nhà vua. Vừa rồi nhân vì quân mọi vào cướp, tôn miếu nghiêng đổ. Mây nhờ trung thần nghĩa sĩ một lòng giúp rập, giặc mọi nghe tin, đang đêm phải hốt hoảng chạy trốn. Hôm mồng mười tháng này, thần đã vào ở trong phủ. Vậy cúi xin ban cho sắc dụ, khiến thần được nối ngôi chúa, đời đời tôn phò, để giữ vững lấy cái cơ nghiệp vua, chúa trong ngàn vạn năm”.

Hoàng thượng coi tờ tâu, cả giận nói:

– Nhà Trịnh là kẻ dưới mà dám lấn người trên, nên mới chuốc lấy cái nạn bại vong. Thế mà nay nó lại vẫn đi theo cái vết xe đổ ấy. Nó định khinh trẫm ít tuổi hay sao?

Khi ấy, quân của hoàng thượng chiêu mộ, đã có tới vài ngàn người, hiện đã đến ở trước cửa khuyết. Các quan tả hữu bèn khuyên hoàng thượng rằng:

– Chẳng qua hắn cũng giương to thanh thế đấy thôi! Ta cứ doạ cho hắn sợ, ắt là có thể nhân đó mà đè bẹp được hắn. Hắn có một vạn thủ hạ, quân ta cũng hàng mấy ngàn; nếu như hai bên đánh nhau, hắn muốn nuốt ta cũng chưa dễ đã nuốt trôi. Vả chăng nhân dân trong nước tuy nơi nào theo sự kêu gọi của hào kiệt nơi ấy mà nổi lên, và cố nhiên lại có chia ra đám nọ đám kia khác nhau, nhưng cái lòng tôn vua thì đều như nhau cả. Nếu lấy việc chống lại nhà vua để nổi dậy, thì quyết không một người nào dám theo. Nay quận Thuỵ không chịu vào triều để bái yết, lại nghênh ngang ngồi trong phủ, chưa được mệnh vua mà đã xin sắc dụ, nếu ta dễ dãi cho hắn ngay, sau này khí thế của hắn mạnh thêm, sẽ có nhiều điều khiến ta không thể chịu nổi. Vậy xin cứ bắt hắn phải vào lạy trước đã rồi mới được lập, chắc chắn là hắn sẽ không dám tới. Hắn không tới, thì việc sách lập sẽ chậm, mà thế lực của hắn tất nhiên sẽ tan vỡ. Thần trung hầu, Dương Trọng Tế hai người ngồi suông trong phủ mà đóng vai quan võ, quan văn phường chèo, thì rốt cuộc cũng chẳng được mấy lúc.

Hoàng thượng theo lời, sai thảo một tờ chỉ, truyền dụ cho Trọng Tế, nói rõ lệ cũ mỗi khi lập ngôi chúa, thì chúa mới phải thân hành vào triều vâng mệnh nhà vua; rồi nhà vua mới hậu đãi bằng cái lệ “vào triều không lạy, tờ tâu không xưng tên”. Thảo xong, hoàng thượng sai viên nội hàn là Lê Hữu Cáo đem tới phủ đường.

Trọng Tế xem rồi, tức thì xé tan tờ chỉ dụ ngay trước mặt sứ giả mà nói:

– Lạ thay, ta chưa từng thấy triều nào, đời nào lập ngôi chúa mà vua lại dám ngăn trở như vậy! Chắc là mấy thằng rồ dại đã lạy quân mọi hôm nọ, sợ rằng sau khi lập chúa, chúa sẽ hỏi tội chúng nó, cho nên chúng nó mới xúi bẩy nhà vua đấy thôi. Ta cần gì phải xin xỏ, cứ việc đem quân đến bắt hết mấy thằng xúi bẩy ấy đi, cho trơ cái ngai gỗ ra. Xem vua có cho lập hay không cho lập?

Đoạn, Trọng Tế lại bảo sứ giả:

– Ông về tâu với hoàng thượng, chúa vẫn làm chúa, nhà vua có thiệt hại gì đâu? Xin hãy cứ lập đã, rồi sẽ vào lạy sau:

Sứ giả về triều tâu hết đầu đuôi, hoàng thượng càng tức giận mà rằng:

– Nó khinh ta quá lắm! Như thế nó còn phải xin mệnh của ta làm gì? Thôi mặc cho nó tự làm lấy, ta cũng không khiến nó lạy nữa!

Các quan trong triều thấy vậy, thảy đều run sợ. Giữa lúc ấy, bỗng có tờ tâu của quận Côn đệ vào, đại ý nói rằng: “Tổ tiên nhà thần giúp đức tiên đế gây nghiệp trung hưng, đội ơn thiên tử xét công ban thưởng rất hậu, phong cho ngôi chúa. Đến đời gần đây, vì chuyên quyền lâu ngày, đâm ra kiêu lộng, làm những việc trái với lẽ thường, đến nỗi sụp đổ mất cơ nghiệp của tổ tông. Nay thánh thiên tử thống nhất thiên hạ, đùm bọc che chở, tấm lòng rộng mở bao la như trời đất, chẳng nỡ làm tuyệt diệt tôn miếu nhà thần. Thần may được là dòng trưởng họ Trịnh, lánh nạn nấp ở dân gian, cái bụng mến nhớ tông miếu, bâng khuâng suốt cả đêm ngày, chỉ vì chưa được chiếu chỉ, cho nên thần vẫn chưa dám tự tiện vào thành. Vậy dám đánh bạo tâu lên hoàng thượng xem xét”.

Hoàng thượng coi hết tờ biểu, rất hài lòng, khen:

– Trẫm nghe nói quận Côn là người hết sức lễ độ, khiên tốn, quả nhiên không sai!

Rồi ngài sai giao tờ biểu đó xuống cho triều đình bàn bạc. Các viên quan triều nghe tin quận Côn ở vùng Chương Đức, hiện có cái thế nổi lên được, ai nấy đều ngầm có bụng ngả theo, nên đều khuyên hoàng thượng xuống chỉ vời vào.

Quận Côn tiếp được chiếu chỉ, lập tức phân chia hàng ngũ người ngựa, luôn trong bữa ấy lên đường về kinh. Quan quân lại sĩ nghe tin, tranh nhau đi đón.

Thần trung hầu và Trọng Tế thấy vậy đều sợ hết hồn hết vía, đám người đi theo cũng hơi ngã lòng. Cả hai bấy giờ mới chịu lép vế cúi mình, sai người vào triều tâu xin cho quận Thuỵ tới lạy. Hoàng thượng ưng lời.

Khi sứ giả ra khỏi, hoàng thượng bèn sai lính phục sẵn ở bên cầu Cận-thiềm, chờ quận Thuỵ và bọn Thần trung hầu, Trọng Tế tới nơi sẽ bắt lại để hỏi tội.

Nhưng quận Thuỵ rốt cuộc cũng không dám vào. Trọng Tế biết việc không xong, bèn nói với quận Thuỵ, xin để mình và Thần trung hầu chia quân chống chọi với quận Côn. Quân của Trọng Tế ra đóng ở cửa ô Trường-bắn (ở vào khoảng Giảng Võ, Voi phục trên đường Đại La, Hà Nội bây giờ), còn quân của Thần trung hầu thì đóng ở cửa ô Xã Đàn [nay ở vào khoảng làng Xã Đàn và Nam Đồng (Hà Nội)].

Rồi thừa cơ, Trọng Tế bèn bí mật sai Nguyễn Mậu Nễ đem một cánh quân lẻn đi xin hàng.

Nễ tới làng Nhân Mục, vừa gặp tiền quân của quận Côn. Nễ liền sai quân lính cắm ngược gươm giáo xuống đất, hai tay chắp lên trán, đứng ở bên trái đường. Khi kiệu của quận Côn đến nơi, Nễ quỳ xuống, thuật rõ ý của Trọng Tế. Quận Côn bằng lòng, sai ngay Nễ làm tiền bộ tuyển phong. Đi đến dưới lầu Trường Thi, gặp quân của Thần trung hầu chĩa súng bắn thẳng vào, quân của Nễ liền ngồi thụp cả xuống đất để tránh đạn. Quân của Thần trung hầu kéo ùa tới. Quân của Nễ bấy giờ mới nhất tề đứng dậy, xông bừa vào đám quân của Thần trung hầu. Quân Thần trung hầu thấy quân Trọng Tế đã đầu hàng như thế, liền vất bỏ cả gươm giáo mà chạy. Quân Nễ và quân của quận Côn thừa thế đuổi thẳng đến trại Nam Đồng, chém được chừng vài trăm người, quân của Thần trung hầu thua to phải chạy vào thành. Thế là tất cả đều tan vỡ. Quận Thuỵ, Thần trung hầu, Trọng Tế không còn dịp nhìn nhau, nhắm thẳng phía cửa ô Ông Mạc, mạnh ai nấy chạy lấy thân mình.

Quận Côn kéo quân vào thành. Khi ấy đám tàn quân của Trọng Tế ở cửa ô Trường Bắn, phía ngoài bị quân của quận Côn chẹn ngang, phía trong bị lính thị vệ của nội điện chặn giữ, thành ra chúng không còn đường nào mà chạy, phải liều chết cố đánh.

Chúng đâm một hoàng thân ngã ngựa chết. Hoàng thượng cả giận, liền sai quân bổ vây, bắt hết cả bọn đem chém, máu chảy lênh láng, ngập đến mắt cá chân. Hôm ấy là ngày 14 tháng chín.

Lại nói, bấy giờ thanh thế của quận Côn rất là ghê gớm. Nhưng vì thấy y có vẻ cung kính, hoà thuận, nên hoàng thượng định hãy cứ vỗ về y, rồi sẽ ngấm ngầm uốn nắn dần.

Đến lúc quận Côn đã vào trong thành, hoàng thượng liền sai dẫn y tới ra mắt ở điện Vạn Thọ. Quận Côn lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Lễ xong hoàng thượng cho ngồi và bảo:

Nhà chúa trải hai trăm năm tôn phò, công lao đối với nhà vua không phải là nhỏ. Trẫm muốn đền ơn thật hậu. Xét trong họ hàng nhà chúa, không ai được hiền như ông, vả ông lại là ngành trưởng, nên việc nối dòng tế tự trẫm vẫn để dành cho ông.

Quận Côn tâu rằng:

– Thần vốn là kẻ hèn mọn, tính lại ưa sự điềm tĩnh. Gặp lúc vận nhà suy bĩ, thần đành cam phận bỏ đi, những toan khoác áo cà sa mà sống cho trọn quãng đời thừa. May sao, nhờ hoàng thượng sẵn có mưu mô thần thánh, xoay lại vận hội trời đất, nên nạn nước lại yên, thần lại được trông thấy mặt trời. Bây giờ, hoàng thượng lại nghĩ đến tiên tổ nhà thần, mà không nỡ dứt bỏ thần, thần kính xin được về triều để đợi mệnh. Gây dựng cho thần kiếp này, đều là ơn của hoàng thượng vậy!

Hoàng thượng khen phải, rồi hỏi luôn:

– Thế đã chọn nơi nào để đóng quân hay chưa?

Quận Côn đáp:

– Toà lượng phủ (phủ cũ của thế tử họ Trịnh) còn có thể che mưa che gió, thần xin ở đấy.

ý hoàng thượng không muốn cho quận Côn ở trong phủ, bèn nói:

– Nhà cũ của ông không việc gì chứ?

Quận Côn thưa:

– Nhà thần ở chỗ hẻo lánh, lửa binh không lan tới, nhưng cũng bị người kẻ chợ cướp bóc, tàn phá, không còn chỗ nào nguyên lành.

Hoàng thượng lại hỏi:

– Thái phi và các vương tử của Đoan nam vương bây giờ ở đâu?

Quận Côn đáp:

– Trong lúc hoảng hốt vội vàng, mỗi người chạy đi mỗi ngả, đến khi tạm yên mới kịp dò hỏi. Nay vừa được biết, họ đều ở nhà Ngạn lĩnh hầu trên trấn Sơn Tây. Nghe đâu ba vị vương tử đã chết mất hai, giờ chỉ còn vị con cả mà thôi!

Hoàng thượng nói:

– Đoan nam vương xưa cũng có hậu tình với trẫm, trẫm rất thương xót, thường vẫn cho người thăm viếng phần mộ, sửa lễ cúng vái, để an uỷ hương hồn. Trẫm cũng thường hay hỏi thăm tin tức thái phi và các vương tử, đến nay mới biết đích xác. Vậy hãy cho người đón về đây, trẫm sẽ hậu đãi!

Quận Côn đáp:

– Dạ!

Hồi lâu, quận Côn lạy tạ xin lui. Khi qua cửa phủ, vào thăm cung miếu, quận Côn gào khóc một chặp, rồi lại sai xe đưa về lượng phủ. Nhưng bọn tay chân nói:

– Thần dân thiên hạ rước ngài đến đây, chỉ muốn ngài ở phủ làm chúa, để họ lập chút công danh. Nay ngài lại nhường phủ không ở, chắc họ sẽ bảo ngài là “vương tử lại hoàn vương tử”. Rồi đó lòng người chán nản, đại binh sẽ tan, khó mà thu thập lại được. Nếu về ở lượng phủ, thà rằng cứ ở Chương Đức làm một người thanh nhàn, còn phải lôi kéo bao nhiêu người tới đây làm gì cho nhọc?

Quận Côn nghe lời, bèn lưu lại trong phủ, vào ở tại Trạch Các, rồi làm tờ tâu lên hoàng thượng, đại ý nói rằng: “Thần vào thăm gia miếu, trông thấy lửa hương nguội lạnh, quang cảnh tiêu điều, lòng bồi hồi không nỡ bỏ mà đi. Vậy xin tạm chọn một ngôi nhà cạnh miếu để ở, cho tiện sớm hôm quét dọn thăm nom, để cho linh hồn tiên tổ được yên”. Hoàng thượng xem tờ tâu, hiểu ý ngay, nhưng thế chưa ngăn cấm được, liền bảo với các quan tả hữu rằng:

– Nếu muốn ở phủ, tức là lại muốn được làm chúa rồi. Như thế thì cái nạn quận Thuỵ cũng vẫn chưa trừ được vậy. Cái ổ đã vỡ đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại, ồn ào bụi bậm làm dơ bẩn con người. Trẫm giận mình, lúc Tây Sơn mới đi, đã không kịp cho ngay nó một mồi lửa cho rảnh!

Hôm sau, hoàng thượng sai các quan trong triều bàn việc sách phong cho quận Côn. ý hoàng thượng chỉ muốn phong làm quốc công rồi cho hưởng lộc hậu hơn mà thôi. Nhưng các quan triều thấy quận Côn giữ binh ở phủ, chắc y không chịu ngồi suông; vả lại, coi cái thế thiên hạ hùa theo y bây giờ, thì có đè nén cho y khỏi to lớn cũng chẳng được nào. Bởi vậy, không có người nào dám bàn trước. Chợt có kẻ xin với vua rằng:

– Nhà chúa từ khi Văn tổ (tức Trịnh Tráng) bắt đầu được phong là chức tiết chế thuỷ bộ chư doanh, bình chương quân quốc trọng sự và tước quốc công. Bây giờ, xin theo như lệ cũ ấy mới là có căn cứ.

Hoàng thượng bèn sai lấy quốc sử xuống để tra xét cho rõ, rồi bắt bớt đi hai chữ “tiết chế”. Các quan triều đều phân vân chưa dám quyết định.

Giữa lúc ấy, chợt có tin báo Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng vâng sắc hoàng thượng đã tới. Nhưỡng có ba ngàn bộ binh đóng ở Bát Tràng, nói thặng lên là ba vạn, và ba trăm chiến thuyền đóng ở bến Thuý ái, nói thặng lên là ba ngàn; lại lấy hiệu quân là Đông-giang. Người trong nước bấy giờ, nghe thanh thế của Nhưỡng, đua nhau đi theo rất đông.

Nhưỡng đem vài trăm khinh kỵ vào thành, dương dương tự đắc có vẻ coi khinh cả thiên hạ.

Hoàng thượng thấy Nhưỡng đến vừa lúc quận Côn cũng đến, e cuộc gặp gỡ ấy làm cho Nhưỡng bất bình, mới sai người dẫn Nhưỡng vào ra mắt, vỗ về an ủi cực kỳ ôn tồn. Nhưỡng cũng giãi tỏ hết tấm lòng trung ái của mình. Hoàng thượng bảo Nhưỡng:

– Nhà ngươi nay đã đến đây, nên đem hết quân vào thành để bảo vệ kinh sư.

Nhưỡng lạy tạ rồi lui ra.

Hoàng thượng lại bảo Nhưỡng ra triều đình để cùng các quan bàn việc.

Các quan đem lệ cũ ở quốc sử ra nói với Nhưỡng. Nhưỡng nói:

– Tôi là kẻ võ biền không biết văn học; chẳng hay hoàng thượng đãi nhà chúa như thế là hậu hay bạc?

Các quan ngập ngừng chưa dám trả lời ngay. Chợt có Nguyễn Hàn đáp rằng:

– Nhà chúa không thể giữ nổi tôn miếu, hoàng thượng bảo tồn cho, như thế kể cũng đã là hậu.

Nhưỡng nhìn Hàn chòng chọc và hỏi:

– Ông là tiến sĩ phải không?

Hàn thưa:

– Phải!

Nhưỡng lại hỏi:

– Đỗ khoa nào?

Hàn trả lời:

– Khoa Kỷ hợi (1779).

Nhưỡng nín lặng đi ra.

Các quan cũng đều lui về.

Hôm ấy, thủ bạ của quận Côn vì muốn dựa vào uy thế của Nhưỡng cho chóng thành việc, mới khuyên quận Côn mời Nhưỡng đến để phó thác công việc.

Nhưỡng từ chối mà rằng:

– Tôi là bề tôi nhà Lê nhà Trịnh, chỉ biết có nhà Lê nhà Trịnh, há lại có bụng dạ kia khác nào? Nay ông đến đây, việc phong tước còn chưa xong, tôi lại vừa mới đem quân tới, nếu tôi vào ra mắt ông, e khi ông được làm chúa, rồi nay mai hội bàn ở triều đình, tôi có điều gì không đồng ý kiến với họ, người ta sẽ ngờ cho tôi là tư túi với ông. Vậy xin hãy cứ chờ đến khi nào có mệnh lệnh nhất định của hoàng thượng, bấy giờ tôi sẽ đến lạy chào cũng chưa muộn gì.

Hôm sau, hoàng thượng xuống chỉ phong Nhưỡng tước quận công, rồi sai nội hàn Lê Hữu Cáo khuyên Nhưỡng một lòng giúp rập nhà vua cho thành công cuộc nhất thống.

Nhưỡng nói:

– Tôi vâng chiếu đến đây, chỉ mong thánh thiên tử ở trên cầm quyền, nhất thống bốn biển, ấy là phúc của thiên hạ. Tôi đâu dám chẳng ra sức để làm cho tỏ hết lòng ngu của mình? Nhưng trước kia tôi trót phạm quân luật, làm tan vỡ cả một đạo quân, để cho việc nước đến nông nỗi này; mà nay hoàng thượng lại tha tội cho, như thế cũng đã là may mắn lắm rồi. Còn bây giờ, trong lúc ngôi chúa vẫn chưa định, mà tôi lại đi nhận phong tước trước, thì dư luận của mọi người sẽ bảo tôi ra sao? Tôi thờ bệ hạ còn về lâu về dài, vậy nay hãy xin trả lại mệnh phong tước.

Tiện thể, Cáo đem việc hoàng thượng muốn phong cho quận Côn tước quốc công để dò ý Nhưỡng. Nhưỡng bèn đáp rằng:

– Thánh thiên thử chẳng thiếu gì trí tuệ, cứ đãi ngộ thế nào cho xứng với công đức của nhà chúa là được.

Cáo về triều, thuật lại ý Nhưỡng, và xin theo đúng như lệ phong Văn tổ khi trước. Hoàng thượng lại sai các quan triều bàn bạc rồi phong quận Côn làm tiết chế thuỷ bộ chư doanh, bình chương quân quốc trọng sự, tước Côn quốc công, cấp ba ngàn tên lính, năm ngàn mẫu ruộng, hai trăm xã dân để cung phụng về việc tế tự nhà chúa. Sau đó, các quan lại đem ý của hoàng thượng nói với Nhưỡng. Nhưỡng chẳng có ý kiến gì khác. Các quan bèn đem lời bàn của triều đình tâu lên hoàng thượng. Hoàng thượng nghĩ rằng: Văn tổ ngày xưa lúc mới phong thì thế, mà rồi về sau, lại tiến lên đến ngôi chúa. Bây giờ nếu không nói trước rõ ràng, e rằng lâu dần sẽ lại sinh ra những chuyện khác. Bởi vậy, khi đã quyết định việc phong tước quốc công cho quận Côn, hoàng thượng bèn bắt các quan triều làm tờ sắc dụ, nói rõ từ nay về sau cứ đời đời nối tiếp tước công mà thôi. Các quan triều vâng mệnh hoàng thượng làm đúng như vậy. Mấy chữ ấy ghi trong sắc dụ. Nhưỡng không được biết gì hết.

Hôm sau, hoàng thượng, sai quan đem sắc đến phủ ban cho quận Côn, rồi lại sai đem dán bản sao ra ngoài cửa Đại hưng cho thiên hạ đều biết.

Nhưỡng xem tờ yết thị, thấy có chữ “đời đời nối tiếp tước công” liền hằm hằm mà rằng:

– Lấy tước công làm cái mệnh lúc đầu, còn có lý. Nay lại nhất quyết hạn định ở tước công, bắt con cháu nhà chúa đời đời kiếp kiếp cứ phải noi theo như thế mãi thì còn có lý nào nữa? Vừa rồi giặc đến, nhà vua được tôn phò, các quan văn võ không một người nào phải mất tước vị; riêng nhà chúa thì có tội tình gì mà lại bị thụt chức? Thử coi những kẻ tai mắt ngồi ở trong triều, ai không chịu ơn sâu của nhà chúa? Thế mà bây giờ người ta lại dùng những câu văn khéo léo để chiều ý nhà vua như vậy, thật là khinh bạc quá lắm! Được! Họ đã nổi tiếng vì câu văn khéo léo, thì ta cũng lại lấy câu văn khéo léo mà chọi lại, thử xem ai thắng ai?

Rồi Nhưỡng làm luôn một tờ yết thị như sau:

“Hàm-giang, Đinh mỗ kính đạt các quan văn võ quý đài:

Nay vâng sắc chỉ lập quốc công để nối dòng dõi nhà chúa. Nếu như lòng người đều đã thoả thuận, thì nên đến phủ lạy mừng. Nhược bằng ai còn nghĩ đến công đức nhà chúa, riêng có ý tâu xin thế nào, thì hãy đến cùng họp ở cung Tây-long, bàn với mỗ về việc thảo biểu dâng lên hoàng thượng, để cúi chờ thánh thượng xét định, cho thoả lòng mong mỏi của thiên hạ”.

Khi mệnh ban tước quốc công mới ban xuống, ai nấy đều nghĩ rằng việc đó hẳn chưa hết miệng tiếng. Đến lúc này Nhưỡng đã đi trước mọi người, lập ra cuộc họp để tranh công đầu. Tuy nhiên, để phòng ngừa vì lỗ mãng thô bạo mà hỏng việc như bọn Thần trung hầu, Dương Trọng Tế, nên Nhưỡng cũng không dám dùng uy thế mà ăn hiếp các viên triều thần hiện đang theo nhà vua. Ngược lại, các viên triều thần khi mới gặp Nhưỡng, cũng chỉ ngồi im để xem Nhưỡng ngả về bên nào mà cân nhắc nặng nhẹ. Lúc thấy Nhưỡng kêu gọi hội họp, mọi người tuy không dám theo Nhưỡng, nhưng trong bụng lại sợ Nhưỡng, vì thế việc theo phò nhà vua cũng có phần chểnh mảng. Còn nhà vua, tuy vẫn quyết tâm giữ mệnh cũ, không chịu thêm bớt nửa chữ, xong cũng chỉ xoay xở một mình, không ai là người giúp đỡ.

Bấy giờ, trong hàng quan văn đến họp với Nhưỡng có Ngô Trọng Khuê, Nguyễn Gia Lịch (có bản chép Nguyễn Văn Lịch), Nguyễn Tông Điển, Nguyễn Huy Chiểu, Nguyễn Đình Thiều, Phan Huy ích… cả thảy sáu, bảy người.

Các quan đến dự cuộc họp, được Nhưỡng đặt tiệc rất to để thết đãi. Tiệc xong, Nhưỡng hỏi mọi người rằng:

– Cái mệnh “quốc công” các ông cho là thế nào?

Ngô Trọng Khuê đáp:

– Hai trăm năm nay có vua có chúa, công đức nhà chúa không thể vì một lần thất bại mà hết sạch. Nhà vua còn ít tuổi, nghĩ ngợi chưa chu đáo. Phụ hoạ với ý nhà vua để làm việc vô lý này, đó là lỗi của bọn chúng tôi. Phen này chỉnh đốn lại, phi ông thì không xong.

Nhưỡng nói:

– Tôi họp các ông cũng chính vì việc đó. Bây giờ tôi muốn làm tờ tâu để xin với nhà vua, vậy các ông có hiệp ý không?

Mọi người đều đáp:

– Không hiệp ý thì đã chẳng đến đây; đã đến đây tức là không ai không hiệp ý.

Nhưỡng nói:

– Nếu các ông đã hiệp ý, thì nên thảo ngay tờ tâu để tôi đem dâng hoàng thượng. Hoàng thượng dẫu muốn chẳng cho, tôi cũng cứ cố xin, đến bao giờ được mệnh lệnh nhất định thì mới thôi.

Một viên quan võ là Nguyễn Gia Quán nói rằng:

– Thần trung hầu, Dương Trọng Tế cũng có tờ tâu hẳn hoi, vậy mà chỉ đợi xin mệnh, cho nên rốt cuộc mới hỏng việc. Nay có đủ cả quan văn, quan võ cùng hội họp như thế này, cứ kéo tuột vào trong phủ là tự khắc thành triều đình. Triều đình đã thành, thế lớn ắt phải trở về với nhà chúa. Kìa hãy thử nhìn hai điếm tả hữu (trước kia Trịnh Cương đặt tả điếm và hữu điếm ở ngoài cửa phủ đường, để làm chỗ trăm quan tra xét kiện tụng), không lại vẫn hoàn không. Đã đến nước ấy, cần gì còn phải đợi xin mệnh nữa?

Nhưỡng đáp:

– Tôi muốn làm thế, kể cũng không khó. Nhưng thiết nghĩ chúa không chịu mệnh của nhà vua, bảo là thuận thì chưa lấy gì làm thuận. Vả lại tục ngữ đã nói: “Chẳng ai mặc áo qua đầu”. Vì vậy, tôi muốn cứ theo con đường ngay thẳng cho phải lẽ. Tôi không phải là quân ô hợp như bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, để đến nỗi bị người ta bỏ rơi. Nếu tôi đã tâu xin, hẳn là mấy ông thầy già ngồi trong triều có muốn làm rầy tôi cũng không thể được.

Sau đó, mọi người bèn thảo tờ tâu, đại ý nói rằng:

“Nay kính vâng hoàng đế bệ hạ đoái nghĩ đến nhà chúa, muốn cho được bảo tồn dòng dõi, phong làm tước công, đời đời giữ việc cúng tế. Thần dân thấy vậy, chẳng ai không cảm kích. Nhưng nhà chúa từ đức Thái vương về sau vẫn được thiên tử ban cho tước vương. Mới rồi gặp cơn quốc biến, tiên chúa Đoan nam vương đã phải đem thân chết theo nước. Bây giờ nạn nước đã qua, vâng được thánh thượng bao dong, các bề tôi đều không ai bị mất quan tước, riêng có nhà chúa lại phải giáng phong. Như thế, thần dân nghĩ không đành lòng. Vậy dám cúi xin cho Côn quốc công được phong lên tước vương, cho thoả lòng mong mỏi của thần dân”.

Hoàng thượng xem xong tờ tâu liền nói:

– Cứ nằng nặc đòi phong vương để ăn hiếp ta mới sướng hay sao? Nếu yên phận làm tôi, thì công với vương phỏng có khác gì? Vả lại, mệnh vừa mới ban xuống mà đã muốn đổi, mệnh thiên tử đâu phải là trò trẻ con?

Các viên quan triều thấy vậy, tự nghĩ phò chúa đã không dự, giúp vua lại không xong, ai nấy đều muốn tháo thân mà đi. Tứ xuyên hầu vào tâu với vua:

– Lấy chúa hiếp vua, đó là cái gốc sinh loạn. Loạn đã đến thế, họ vẫn còn noi theo vết cũ mà làm, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến ra như vậy. Nhưỡng là kẻ vũ phu, không thể lấy nghĩa lý mà nói cho hiểu. Thần xin vâng chỉ đến nói thẳng với quận Côn, khuyên y hãy từ bỏ chuyện xin phong vương, may ra việc nước còn có thể làm được. Nếu không, phen này mà loạn thì lũ thần không sao xoay chuyển nổi. Dám xin hoàng thượng hãy tha tội cho thần!

Hoàng thượng bằng lòng, Tứ xuyên hầu bèn đến phủ nói với Côn quốc công rằng:

– Tôi chịu ơn sâu của nhà chúa, không phải là không muốn hậu với ông. Nhưng mà biến cố của nước nhà lần này, chính là một cơ khép mở rất lớn của trời đất; do đó, mọi việc đều không câu nệ vào nếp cũ. Nay nếu theo lệ nối ngôi ngày trước mà lập, để ép thiên tử phải làm cái việc không muốn làm, thì thật là quá ư vô đạo. Lũ chúng tôi, nghĩa không thể nín, cho nên phải nói với ông. Ông nếu bỏ qua lời nói của tôi, thì loạn lạc sau này, sẽ không thể cứu được nữa. Trong sách đã nói: “Nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo thì ở ẩn.” Lũ chúng tôi đành xin đi từ nay.

Côn quốc công đáp:

– Tôi vẫn tự biết là kẻ hèn mọn, đâu dám mong những điều quá đáng? Việc này là do Liễn trung hầu gây ra, tôi thật không dự, xử trí thế nào tuỳ lượng bề trên. Xin ông hãy vì tôi tâu lên hoàng thượng, soi xét cho tấm lòng ấy của tôi.

Tứ xuyên hầu thấy lời lẽ Côn quốc công có ý thoái thác, bèn về tâu với vua rằng:

– Việc này thần không thể nào xoay chuyển được nữa. Hoàng thượng dùng thần cũng là vô ích!

Rồi Tứ xuyên hầu từ biệt mà đi.

Nhưỡng nghe tin ấy, nói với mọi người:

– Lão rậm râu sâu mắt bỏ đi rồi, thế là bớt được một tên cáo già!

Lúc ấy, hai điếm tả hữu đều bỏ không. Những kẻ hội họp trước kia nay về ngồi trong triều, đều là bè đảng của Nhưỡng. Hoàng thượng thấy vậy, than thở với bọn gia thần rằng:

– Ta nay không còn ai giúp rập nữa rồi! Tuy vậy, nó cũng không thể cậy đông người mà ăn hiếp ta được. Ta cứ không nghe, thử xem nó làm thế nào?

Thế rồi, sau khi Tứ xuyên hầu đã đi khỏi, hoàng thượng vẫn cứ giữ nguyên mệnh cũ, ngay cả số quân dân, cũng đều không cấp thêm cho Côn quốc công một người nào cả.

Các quan văn trong toà nội hàn ở luôn bên cạnh vua sợ bị Nhưỡng quở trách, nhiều người khuyên vua nên ưng cho lời xin của hắn. Nhưng vua đều không nghe.

Nhưỡng thấy nhà vua cương quyết, cũng có ý chờn, bèn làm một tờ tâu kín, xin vua cứ cho Côn quốc công mang danh hiệu tước vương, còn các quyền bính thì vẫn thuộc về nhà vua. Trong tờ tâu ấy, lời lẽ của Nhưỡng cực kỳ mềm mỏng. Rồi Nhưỡng lại thân vào chầu để xin với vua. Vì thế, nhà vua mới nguôi lòng mà nghe theo, phong cho Côn quốc công làm nguyên soái phụ quốc chính, tước án đô vương. Rồi vua sai viên quan trong triều là Nguyễn Du (Nguyễn Du quê ở xã Văn Xá, huyện Thanh Oai, Hà Đông, đỗ tiến sĩ khoa ất tỵ (1785) năm Cảnh hưng) đem sắc chỉ đến ban cho Côn quốc công.

Côn quốc công vâng mệnh, thân hành vào triều lạy tạ; đoạn về phủ sai người đánh ba hồi chín tiếng trống, làm lễ lên ngôi chúa. Hôm ấy là ngày mười chín tháng chín.

Sau khi án đô vương được lập, các quan tả hữu khuyên vương nên theo lệ cũ, đặt ra các viên tham tụng, bồi tụng, chưởng phủ, thự phủ, để dựng riêng một triều đình. Rồi họ lại trông mặt mấy viên đến họp ở cung Tây-long hôm nọ mà chỉ định người này làm chức này, người kia làm chức kia, sắp đặt rõ đâu vào đấy. Nhưng Nhưỡng tự nghĩ hôm trước mình tâu với hoàng thượng như thế, mà nay đã vội tự ý tráo trở, lật lọng, e rằng như vậy là lừa gạt bề trên quá chừng. Vì vậy, Nhưỡng vẫn còn trù trừ, chưa dám xin vương ra mệnh.

Còn hoàng thượng, thì cứ giữ theo mệnh cũ, đổi chức tham tụng làm bình chương, bồi tụng làm tham tri, thiêm sai làm thiêm thư, hai điếm tả hữu làm hai nhà nghị sự. Rồi bắt Nhưỡng phải kíp chọn lựa các quan, xin chỉ hoàng thượng, rồi định ngày họp ở nhà nghị sự để chia đặt mọi việc. Nhưng ý Nhưỡng chưa quả quyết, thành ra công việc cứ dùng dằng, lẩn quẩn luôn trong mấy hôm.

Đang khi ấy, chợt có tin báo Thạc quận công ở trấn Sơn Tây đã thu thập hết binh lính các huyện, đông đến vài vạn người, lại đem cả thổ binh của bọn phiên mục đất Phù Sùng ở vùng Hưng Hoá là Đinh Công Hồ và Đinh Công Trinh đi theo, nay mai sẽ tới kinh sư.

Thật là:

Đã mạnh lại còn tay mạnh nữa,
Bất ngờ phòng chuyện bất ngờ hơn.

Chưa biết quận Thạc đến kinh sư làm gì? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ bảy

Phò Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân
Đốt Trịnh cung, chúa án đô phải bỏ nước.

Lại nói, Thạc quận công (Hoàng Phùng Cơ) sau khi thua trận ở cửa Thuý ái, liền chạy về vùng Hưng Hoá, nương nhờ ở nhà một phiên mục là Đinh Công Hồ. Kịp khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút về Nam, quận Thạc bèn tới trấn Sơn Tây, thu nhặt binh lính để về bảo vệ kinh thành. Khi ấy hoàng thượng vẫn thường cho người qua lại chỗ quận Thạc, vua tôi rất là ăn ý với nhau.

Đến lúc này được tin quận Thạc đã tới, nhà vua liền sai ông ta đem quân vào đóng ở cửa ô Trường Bắn để bảo vệ hoàng thành. Lúc vào thành, quận Thạc đến lạy chào nhà vua, rồi sau mới ra chào án đô vương.

Bấy giờ, người trong kinh nhao nhao đồn rằng: “Thạc vào bè với vua; Nhưỡng vào bè với chúa. Hai người sẽ có ngày dàn quân đánh nhau. Cả hai đều là tướng mạnh chưa biết ai thua ai được?”. Hoặc có người lại nói rằng: “Vua với chúa thế lực cũng ngang nhau, nhưng vua có phần mạnh hơn một chút”.

án đô vương thường sai người đến uý lạo quận Thạc, khuyên Thạc nên giúp đỡ nhà chúa. Nhưỡng cũng hay cho người đi lại biếu xén để liên kết với quận Thạc.

Thủ hạ của quận Thạc có người tên là Nguyễn Liên, thấy thế lớn trong thiên hạ đang có chiều ngả về phía chúa, nên cho rằng việc Nhưỡng phò chúa khó mà có thể xoay chuyển được. Rồi nhân đó, muốn cho quận Thạc hợp vào với Nhưỡng, Liên bèn cố khuyên quận Thạc bỏ vua mà theo chúa. Quận Thạc trả lời:

– Người ta khó nhọc mới làm được mâm cỗ ngon, mình bỗng xông đến, chọc ngay đũavào mà ăn, còn ra cái mặt mũi gì nữa?

Liên nói:

– Hiện nay ngôi chúa tuy đã lập, nhưng quyền chúa chưa định xong. Ông Nhưỡng vì đã trót hứa với hoàng thượng là quyền bính thuộc về nhà vua, nên bây giờ không dám hé răng nói lại. Chúa ngồi chồm chỗm ở trong phủ, mà hoá ra chính phủ chẳng có người nào, dân không biết theo ai. Việc ấy không có ông thì không xong. Người xưa có câu: “Làm việc thì dễ; làm cho nên việc mới khó”. Bây giờ nếu ông gánh lấy cái khó ấy, thì công nghiệp chẳng kém gì ông Nhưỡng đâu!

Quận Thạc hỏi:

– Thế thì nên làm ra sao?

Liên đáp:

– Người ta có thể họp được các quan, sao ông lại không chịu họp? Nay ông hãy định ngày hội họp các quan để bàn về việc đặt tên các quan chức rồi sau đem những lời bàn ấy mà tâu xin với nhà vua, hẳn là nhà vua phải nghe theo.

Quận Thạc khen phải, rồi sai thảo tờ hiểu thị các quan văn võ, đại ý nói rằng:

“Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đưa giặc vào cướp nước, mỗ vâng mệnh dẹp giặc, chẳng may đã sai phạm quân luật và làm tan vỡ quân đội, đến nỗi kinh thành không giữ được, thật là đáng chịu tội muôn lần. May nhờ lòng trời hối hoạ (một quan niệm cũ cho rằng, mọi tai hoạ ở trên đời đều là do trời gieo rắc, khi tai hoạ hết, ấy là lúc trời đã hối lại), quân giặc phải lẻn trốn về. Nay non sông lại y nguyên, vua chúa vẫn như cũ. Nhưng giường mối đã đổ, triều chính lại càng rối bời. Tướng võ, quan văn, há nên một mực im lặng? Vậy xin định đến ngày này tháng này, hội họp ở bộ Lễ, cùng nhau bàn định, rồi sẽ tâu lên hoàng thượng và trình lên vương thượng biết; sau đó xin giao xuống cho thi hành, để chỉnh đốn lại thể thống của triều đình”.

Mọi người thấy tờ hiểu thị đó, đều cho rằng quận Thạc vì nhà vua mà mở ra cuộc họp ấy, để báo thù lại cuộc họp của Nhưỡng ở Tây-long trước đây. Đến ngày đã định, quận Thạc kéo quân từ hoàng thành ra, Nhưỡng dẫn quân từ phủ chúa lại, người ta chắc là hai tướng sắp sửa đánh nhau, có kẻ sợ vạ lây đã phải lánh đi nơi khác. Nhưng đến khi thấy hai tướng đã gặp nhau mà không xảy ra chuyện gì, thì người ta lại đồ rằng quận Thạc lừa cho Nhưỡng ngồi vào họp rồi mới bắt, tướng trẻ tất phải mắc mưu tướng già. Rút lại, chẳng ai hiểu được ý định của quận Thạc như thế nào?

Kịp đến lúc các quan văn võ đến họp, chào hỏi nhau xong, quận Thạc nói:

– Chúa lên ngôi đã hơn một tuần, mà chính sự vẫn chưa ra đầu ra mối gì cả, các ông có ý kiến gì xin cứ bày tỏ, rồi cùng lựa chọn những điều đáng làm để đem tâu xin với bề trên.

Mọi người còn chưa biết nói thế nào. Trong đám có Ninh Tốn là tay lắm mưu mẹo giảo quyệt, định dùng lối nói lập lờ nước đôi để dò ý quận Thạc, bèn lên tiếng mà rằng:

– Từ khi sáng nghiệp về sau, quyền ở nhà vua. Từ ngày trung hưng lại đây, quyền ở phủ chúa…

Tốn vừa mở miệng đến đấy, đã bị Nhưỡng hỏi vặn ngay:

– Bây giờ là sau đời sáng ngiệp hay là sau đời trung hưng? Làm sao lại còn nói đèo thêm đời sáng nghiệp vào nữa? Xem viên ấy là quan chức gì mà nói dốt đến vậy?

Tốn vốn có tài đối đáp nhanh nhẹn, liền nói luôn:

– ấy là tôi cũng chỉ viện dẫn ra để tỏ rằng, từ sau đời trung hưng thì như thế đó mà thôi!

Nhưỡng nói:

– Nếu vậy thì mời ông ra thảo bản nghị sự.

Tốn bèn thảo một bản nháp, đại ý như sau:

“Nhà vua, nhà chúa, vẫn là một thể. Nay tên gọi các chức quan ở phủ chúa phải theo như chỉ ý của nhà vua vừa mới định, nhưng cũng nên giữ cả tên gọi cũ. Vậy xin để chức bình chương kiêm chức tham tụng, tham tri kiêm bồi tụng, thiêm thư kiêm thiêm sai, đô cấp sự kiêm lục phiên tri phiên. Về hàng quan võ thì những chức chưởng phủ, thự phủ, sẽ thêm vào những chữ ngũ quân đô đốc phủ, tả hữu đô đốc. Còn nhà nghị sự ở ngoài cửa phủ đã quen tai mắt thiên hạ, xin cứ để nguyên như tên cũ. Các việc chính sự sau khi bàn xong, trước hết phải trình cho chúa biết, rồi sau mới tâu vua để xin nhà vua quyết định”.

Nhưỡng coi bản nháp của tờ nghị sự, thấy lời văn chứa đựng những ý từ khôn khéo, tiếng rằng theo vua mà kỳ thực là xem trọng ở chúa, bèn đổi ra giọng vui mừng mà rằng:

– Người ta khen ông là tay lão luyện về nghề từ hàn, quả thật là không sai! Vừa nãy tôi nói lỡ lời, xin ông đừng giận.

Rồi Nhưỡng bảo Tốn chép thành bản tâu để dâng lên nhà vua. Lúc bản tâu đã chép xong, Nhưỡng tự thấy rằng việc làm ấy và lời hứa của mình với nhà vua trước đây là trái ngược nhau, nên không dám giáp mặt vua, bèn cáo từ các quan mà về dinh. Các viên quan võ cùng đều theo Nhưỡng ra về hết. Chỉ còn lại quận Thạc và mấy viên quan văn vào điện để xin mệnh của nhà vua.

Hoàng thượng lúc đầu tưởng quận Thạc hẳn phải thuận theo ý mình, nên rất mừng, cho người dẫn ông ta vào ra mắt. Đến khi coi hết tờ tâu, hoàng thượng nổi giận mà rằng:

– Tham tụng, bồi tụng cứ việc tham tụng, bồi tụng, hà tất phải đèo thêm bình chương, tham tri? Chưởng thự cứ việc chưởng thự, can gì phải đèo thêm ngũ quân đô đốc? Bọn các ngươi lấy hư văn mà đánh lừa ta; bịp bợm, xảo trá như vậy, há phải là lễ thờ vua?

Quận Thạc nghĩ xưa nay mình với nhà vua vốn có ân tình sâu xa, bỗng dưng vô cớ thay đổi thì thật là xấu hổ, vì vậy, không dám hé răng, chỉ cúi rập đầu tạ tội mà thôi.

Ninh Tốn quỳ tâu:

– Nay ở ngoài thành đều là bãi chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn, mà chính sự trong triều đình thì vẫn còn rối bời. Lũ thần trót phạm oai trời, thật là sợ hãi khôn xiết. Dám xin hoàng thượng soi xét.

Hoàng thượng nói:

– Ngoài thành đều là bãi chiến trường, vạ ấy hỏi tại nhà ai gây ra? Đâu phải là lỗi ở trẫm? Thôi đừng nói lắm, lũ ngươi tưởng rằng bè đảng đông, có thể ăn hiếp được trẫm, thì cứ việc làm đi! Cần gì mà phải xin mãi?

Bọn quận Thạc đều sợ hãi, bồ hôi toát ra khắp lưng, không dám nài xin gì nữa; bèn cùng nhau phủ phục ở sân rồng, mãi đến đầu canh một chưa dậy.

Hoàng thượng thấy họ cứ nằm lỳ ở sân, nghĩ rằng người ta đã có bụng khác với mình, không thể trông cậy được nữa, dầu có cố giữ ý mình cũng là vô ích, bèn ưng cho lời tâu của họ.

Bọn quận Thạc xin được mệnh lệnh rồi, liền lạy tạ mà ra.

Hôm sau, họ cùng vào phủ để lựa chọn các quan. Mọi người bàn bạc cho rằng, chúa mới được lên ngôi, những người mà hoàng thượng tin dùng như loại Tứ xuyên hầu, chưa nên gạt bỏ vội. Rồi họ bèn lấy Tứ xuyên hầu (tức Phan Lê Phiên) làm chức bình chương kiêm tham tụng; Kế liệt hầu (tức Bùi Huy Bích) và Khuê phong hầu (tức Phan Cận) cùng làm chức đồng bình chương sự kiêm hành tham tụng; quận Thạc làm trung quân đô đốc phủ, tả đô đốc chưởng phủ sự, tước Thạc vũ công; Nhưỡng làm đông quân đô đốc phủ, hữu đô đốc thự phủ sự, tước Liễn quận công; Ngô Trọng Khuê, Ninh Tốn đều làm tham tri chính sự kiêm bồi tụng; Nguyễn Huy Chiểu, Phan Huy ích, cả bọn gồm sáu người đều làm chức đô cấp sự trung, kiêm thiêm sai tri phiên trong sáu khoa.

Mệnh đó được ban xuống. Tứ xuyên hầu từ chối không nhận. Kế liệt hầu thì tự thẹn mình không làm được công trạng gì, nói:

– Ta làm tể tướng không được tốt lành (trỏ việc Bùi Huy Bích trước kia làm tham tụng (tướng quốc) nhưng bất lực, để Tây Sơn lấy được Bắc Hà). Việc trước hãy còn tấm gương sờ sờ ra đấy. Một đời lại định mấy lần làm hại nước người ta nữa? (người ta đây chỉ vào nhà vua; quan niệm phong kiến cho nước là của vua).

Rồi Kế liệt hầu cũng không chịu nhận chức. Chỉ có Khuê phong hầu một mình gánh vác công việc. Nhưng bấy giờ quyền bính trong nước đều ở tay Nhưỡng. Còn quận Thạc thì già nua dốt nát, chẳng biết gì đến chính sự, chỉ giữ một chức quan cho đủ số mà thôi:

Quan liêu trong chính phủ đã đầy đủ, họ bèn ngày ngày bàn mưu tìm kế để đè nén nhà vua, muốn cho tất cả quyền hành về việc binh, việc dân đều thuộc về phủ chúa. Riêng có bổng lộc của nhà vua, thì họ bàn nhau đãi hậu hơn các triều trước một chút. Nhưng hoàng thượng cũng không chịu lép vế, cứ mỗi việc mỗi giằng giữ co kéo, thành ra các việc binh, dân, chính đều rối tung chẳng đâu vào đâu. Rồi đó hoàng thượng lại ra sức mộ thêm binh mã để tự vệ, và ngấm ngầm lập mưu chế ngự nhà chúa.

Lệ cũ, nội điện nhà vua có một viên quan phụ tá. án đô vương bèn sai một hoàng thân tin cẩn của mình đến sung vào chức đó. Hoàng thượng bảo với vị hoàng thân ấy rằng:

– Ta vừa cho lên làm chúa, sập ngồi còn rung rinh, thế mà đã vội sai người đến dòm dỏ, làm như nền nếp lúc thái bình ấy. Ông về bảo chúa án đô rằng, chúa đã sai ông đến làm phụ tá cho trẫm, thì trẫm cũng khiến ông trở lại làm phụ tá cho chúa.

Vị hoàng thân ấy lui ra, hoàng thượng bèn dặn mấy người tả hữu:

– Các ngươi hãy nhớ lấy, hễ mà người này còn lại đây nữa, thì cứ chặt chân hắn đi cho ta!

Thế là từ đó, vua chúa đâm ra thù nhau.

Hồi án đô vương mới vào kinh thành, Trọng Tế trốn về huyện Gia Lâm. Vương vốn mến tư cách của Trọng Tế, lúc này bèn cho sứ giả đi mời. Khi Tế đến nơi, vương nói:

Trong lúc giặc mọi vào cướp kinh kỳ, các quan văn võ hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng, riêng ngươi là nho thần lại dám lập đồn bên cạnh kinh thành để chống nhau với giặc; cái tiếng nghĩa khí của ngươi đã làm rung động cả nước, bọn giặc càn rỡ sở dĩ phải trốn đi, cũng chính là sợ về oai phong của ngươi. Điều đó, quận Thạc quận Liễn không thể sánh kịp. Vả lại, ngươi mới thoạt vào thành đã lấy ngay việc lập chúa làm điều trước nhất. Tuy việc quận Thuỵ không thành, nhưng thanh thế nhà chúa lại nhen nhúm lên được cũng là từ đấy. Nay ta mới được lên ngôi, nhà vua với ta lại chưa hoà thuận, mà thiên hạ thì đang còn rối ren, vậy ngươi hãy cố ở lại giúp ta.

Sau đó án đô vương bèn cho Tế trông nom về việc tài phú. Nguyễn Mậu Nễ, học trò của Tế, cũng được cất nhắc lên làm chức tiến triều.

Tế vốn có bụng oán giận nhà vua, liền nói với án đô vương:

– Cái thuyết nhất thống (tập trung quyền bính vào tay nhà vua) do ở giặc Chỉnh xướng ra, thật không nghĩa lý gì hết. Xưa nay nhà vua vẫn uỷ quyền cho nhà chúa, mà nhà chúa thì phò giúp mối giường của nhà vua; có hề “nhị thống” (quyền lực thuộc vào cả vua và chúa) bao giờ? Nhà vua đã chẳng chịu chung tai nạn với nhà chúa, trái lại còn lấy sự thất bại của nhà chúa để làm lợi cho mình. Bọn Tứ xuyên hầu đã cúi mình theo giặc, giờ lại hùa theo nhà vua mà không biết chi đến chúa. Đó đều là những việc mà lẽ trời, tình người đều không thể dung tha. Dạo nọ vì chúa đến chậm, thần bất đắc dĩ mà phải phò Thuỵ quận công. Nếu chúa đến sớm, thì thần há lại để cho bọn đầu hàng giặc tới nay vẫn còn trốn khỏi hình pháp? Tôn thất nhà vua hãy còn nhiều, tìm một vị khác làm người khoanh tay rủ áo, tưởng cũng không thiếu gì. Chúa mà đến sớm hơn nữa, ông vua “lông đỏ” hẳn đã phải đi theo bọn giặc “lông đỏ” từ lâu rồi!

Đoạn, Tế xui án đô vương cho quân vây điện vua ở, bắt hết bọn gia thần của vua giết đi, rồi bỏ vua này mà lập vua khác.

Mưu mô đã định xong, Tế bèn sai Nguyễn Mậu Nễ đem quân chẹn ở phía trước điện, đồng thời ngầm cho Nhuận trạch hầu (Bùi Nhuận) lẻn vào cửa Đông Hoa để đánh úp mé sau.

Hoàng thượng nghe tin có biến, liền sai các hoàng thân đem hết binh lính đã mộ ra chống giữ. Nễ cưỡi voi đến ngoài cửa Đại Hưng, khí thế rất mạnh, khiến cho trong điện ai nấy đều run sợ, cơ hồ muốn tan vỡ. Thình lình thấy quận Thạc ngồi trên đầu voi từ phía sau điện xông tới cửa Đông Hoa, ngăn Nễ không được vào nữa và quát:

– Mày muốn sống thì mau mau thu quân về, bằng không, tao sẽ chặt đầu mày trước để bêu ra cho thiên hạ coi, rồi sau sẽ bắt nốt những tên trong đảng nghịch.

Nguyên quận Thạc vốn ghen với danh vọng của Tế, vả lại trong bụng cũng không ưng cái việc đại nghịch ấy; mặt khác, lúc bấy giờ, quận Thạc đang làm chức đề lãnh chính hiệu, phải gìn giữ hoàng thành, e rằng trong điện có biến thì mình cũng mang tội, vì vậy quận Thạc phải kíp ngăn cản.

Nghe Thạc quát, Nễ sợ hãi lùi ngay, Nhuận trạch hầu cũng không dám vào nữa. Thế là trong điện được vô sự.

Hoàng thượng giận lắm, bảo các quan tả hữu rằng:

– Đảng ác đã đông, gốc hoạ khó mà nhổ nổi. Nếu không có hữu quân (chỉ vào Nguyễn Hữu Chỉnh) trở lại, thì việc tất không xong.

Rồi đó, hoàng thượng bèn bàn tính việc vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra bảo vệ kinh sư.

Lại nói, sau khi quân Nam lén lút về, Chỉnh cướp được chiếc thuyền hối hả đuổi theo, ra đến biển lại bị gió cản lại luôn mấy ngày, chừng hơn một tuần mới vào đến cửa biển Hội Thống. Lúc thuyền của Chỉnh đậu ở dưới bến Động Hải (tức xã Đông Hải, quê Chỉnh. Nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), thì cũng vừa gặp lúc anh em Tây Sơn đi đường bộ đã vào tới Vĩnh Doanh (tức vùng thị xã Vinh-Bến Thuỷ bây giờ) Bình nghe tin Chỉnh đã trốn thoát và theo về đến đó thì cả kinh mà rằng:

– Thằng chết tiệt này khéo tìm đường sống, thật chẳng khác gì mười lăm giống quỉ dạ xoa luân hồi làm hại, cắt cũng không đứt đi cho.

Tuy vậy, lúc Chỉnh vào ra mắt, Bình vẫn vỗ về yên ủi. Chỉnh xin theo Bình cùng về, Bình nói:

– Nay quận Thạc quận Liễn chưa trừ xong, nước An Nam phi ông không ai trị nổi; ông hãy tạm ở đây đã!

Rồi Bình sai người san sẻ các thứ súng đồng, súng sắt, cùng những khí giới, đồ lề thu được ở Bắc Hà, đem đến Đông Hải cho Chỉnh.

Chỉnh từ chối không nhận.

Bình lại cho Chỉnh hai mươi lạng vàng, hai trăm lạng bạc, và để lại một trăm tên lính để hộ vệ cho Chỉnh, Chỉnh nghĩ để số lính ấy cũng chẳng dùng được bèn nhận vàng bạc, trả lại lính và nói:

– Tôi xin được tự mộ lấy quân địa phương mà dùng. Nếu như sức tôi không đủ, phải đưa thư cáo cấp, thì bấy giờ mong ông hãy chú ý sai tướng sĩ giúp đỡ tôi.

Bình ưng lời, rồi về Phú Xuân, lưu Chiêu viễn hầu đóng lại ở Kỳ Hoa để hưởng ứng với Chỉnh. Nhưng Bình về rồi thì Chiêu viễn hầu cứ đóng lỳ ở Kỳ Hoa không hề liên lạc gì với Chỉnh.

Chỉnh ở dưới thuyền, thủ hạ chỉ có hơn ba chục người, thành thử không dám bỏ thuyền lên cạn.

Người xứ Nghệ biết Chỉnh đang lúc thân cô thế cùng liền bàn nhau định ngày khởi binh bắt Chỉnh.

Chỉnh được tin, vội gọi người anh rể là Nguyễn Kim Khuê xuống thuyền để bàn cách đối phó. Chỉnh bảo Khuê:

– Nay trong nước rối loạn, tôi muốn chiếm cứ lấy trấn này để tính việc lấy thiên hạ. ý anh thấy thế nào? Mưu mẹo của anh sắp đặt ra sao?

Kim Khuê người làng Đặng Điền, huyện Chân Phúc, từng làm chức tri huyện, là bậc túc học và có mưu trí. Thấy Chỉnh hỏi vậy, Khuê liền bày mưu rằng:

– Tên tuổi ông, thiên hạ không ai là không sợ! Sức ông lấy Nghệ An, chẳng qua chỉ như trở bàn tay. Nay người trong trấn này tuy biết ông thân cô thế cùng, song họ vẫn chưa biết rõ hư thực thế nào. Tờ hịch của họ mới truyền đi, chỉ là những lời đưa đẩy lẫn nhau, chưa kẻ nào dám thò đầu ra trước. Nếu ông làm trước để chặn họ, hẳn họ sẽ trở tay không kịp. Hiện nay ông mà có được một ngàn thủ hạ, thì ông có thể dọc ngang khắp thiên hạ vậy!

Chỉnh nói:

– Anh nói rất hợp ý tôi.

Rồi đó, Chỉnh bèn làm tờ hịch lông gà (dịch chữ “vũ hịch”. Thời xưa, trên tờ Hịch văn mộ quân người ta thường cắm chiếc lông gà, để tỏ ý phải thi hành thật mau, phải làm gấp như bay) để điều động quân lính. Hịch phát bắt đầu từ làng Chỉnh ở. Ra lệnh hễ chậm một khắc sẽ chém liền.

ở làng bên cạnh có hai tên lính già, nguyên là lính ở các đội Nhưng, Kiệu mãn về, thường vẫn hống hách với dân làng, thấy hịch của Chỉnh đến, chúng liền ra ngăn dân làng và bảo họ đừng nhận.

Chỉnh được tin, tức thì đêm sai bọn thủ hạ sang cướp phá làng đó, đâm chết hai tên lính già, chém lấy đầu, rồi truyền hai cái đầu ấy đi khắp các thôn ấp, rao cho nhân dân biết.

Thế là cả huyện Chân Phúc, không ai dám trái mệnh của Chỉnh. Chỉ trong mười ngày, Chỉnh đã mộ được hơn một ngàn quân.

Các hào mục ở huyện bên cạnh, thấy Chỉnh dấy binh vội vàng tính việc đánh Chỉnh. Họ tôn viên trấn thủ cũ là Đương trung hầu (Bùi Thế Toại) lên làm thủ lĩnh, rồi ai nấy đều kéo quân đi theo.

Chỉnh lúc đó bị vây hãm tứ phía, tình thế hết sức nguy ngập.

Bấy giờ, ở kinh đô có Khuê phong hầu là người Nghệ An, thường được người làng cho biết Chỉnh hiện đang ở vào tình thế rất dễ bắt. Khuê phong hầu liền đem việc đó tâu trình với án đô vương; rồi xin cho Đương trung hầu ra làm trấn thủ như cũ, lại xin cử con là Phan Huy ích làm chức đốc thị, và viên trấn thủ Thanh Hoa là Mãn trung hầu (tức Lê Trung Nghĩa, người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) sung chức tham lĩnh, thu nhặt các tàn binh ở Thanh Hoa đem vào Nghệ An, rồi lại triệu tập binh xứ Nghệ và các hào mục, thổ dân sở tại để đánh Chỉnh. án đô vương bằng lòng.

Lúc lĩnh mệnh lên đường, ích hung hăn nói với mọi người rằng:

– Các ông hãy chờ đó, để tôi vào xứ Nghệ lấy đầu Hữu Chỉnh về cướp ấn quận công cho mà coi!

ích lại còn sai bọn thủ hạ làm chiếc trống trận và dặn:

– Phải làm cho rõ lớn, có thể chứa được người vào trong, để khi ta thúc đội tiền quân xông vào bắt được Chỉnh rồi, thì sẽ chọc thủng mặt trống, nhét hắn vào đó mà khiêng về dưới cửa khuyết.

Ngày ích xuất quân, ai cũng cho rằng sự thành công có thể đứng mà chờ đợi.

Hồi Chỉnh ở Nghệ An, lúc nghe tin án đô vương mới lên ngôi, bèn đặt câu nói lái mà đùa rằng: “yến đô là đố yên” (âm Hán đọc án đô hay yến đô đều được). ý Chỉnh muốn bảo: nhà chúa có muốn yên cũng không thể yên được.

Kịp đến lúc nghe tin ở kinh thành các tàn quân đã họp thành cơ ngũ như cũ, lại nghe tin án đô vương đã sai người vào đánh mình; Chỉnh bèn viết thư báo gấp vào Phú Xuân, nói là Thạc, Nhưỡng lại lập họ Trịnh, định chiếm cứ đất nước để báo thù xưa, xin cho quân cứu viện ra để chống nhau với chúng.

Bình được thư ấy, tức thì sai viên tả quân đem binh ra ngay.

Cùng lúc ấy, Chỉnh lại viết thư cho Đinh Tích Nhưỡng. Trước hết Chỉnh nhắc lại tình xưa nghĩa cũ; rồi nói rằng mình hiện đã đoạn tuyệt với Tây Sơn, xứ Nghệ An tiếp giáp xứ Thuận Hoá, chưa biết quân Nam sẽ ra đánh lúc nào. Tiếp theo, Chỉnh xin hãy cho ở đó để đương lấy một mặt: sau khi bình yên rồi, nếu Nhưỡng có thể bảo toàn cho Chỉnh, thì chẳng bao lâu, Chỉnh cũng sẽ về triều.

Nhưỡng coi thư xong, liền gọi con rể của Chỉnh là Siêu Vũ vào dinh mà bảo rằng:

– Ông anh với chú trước đây cùng ở trong cửa cụ Huy, cụ lớn đều coi như con đẻ. Chẳng may cụ lớn bị nạn, ông anh đã trả thù được cho ngài; riêng chú chẳng có công trạng gì, chú thẹn với ông anh nhiều lắm. Song ông anh ta, nói về nghĩa thời đã đủ rồi, mà nói về trung thời hãy còn chưa trọn. Nay chú phò nhà chúa, dựng lại cơ đồ; ông anh đã ngỏ ý muốn đóng giữ trấn Nghệ An lẽ đâu chú dám chẳng chiều ý? Nhưng ông anh chớ có lừa ta, rồi mà bất thình lình nổi dậy kéo quân về… Tuy nhiên, chú cũng nói thế thôi, chứ chú còn ở đây, thì dù ông anh có muốn về chú cũng chẳng nghe đâu. Anh về phải thưa lại ý chú như thế nhé!

Từ đó, Nhưỡng không để ý gì đến việc Chỉnh nữa.

Bấy giờ án đô vương đang ngày ngày mưu sự chuyên quyền, không nghĩ gì đến các việc khác.

Có người thấy vậy, nói với Nhưỡng rằng:

– Hiện nay giặc dữ mới đi, bờ cõi còn chưa yên ổn, mà giặc Chỉnh ở Nghệ An thế lực càng ngày càng lớn mạnh. Nhân trong lúc này lòng người đang phấn chấn, hãy xin chúa ngự giá thân chinh để diệt hữu quân, đuổi Chiêu Viễn, lấy lại bờ cõi cũ của đất Nghệ An; thì như vậy cũng chẳng kém gì cái công dựng nghiệp trung hưng của các bậc tiên vương. Khi đã lập công mà về, quyền lớn tự nhiên sẽ vào tay. Cần gì chúa cứ phải quẩn quanh tranh giành những chuyện cũ rích, mà bỏ quân giặc không lo nghĩ đến? Vạn nhất Chỉnh lại đem binh ra, thì lúc ấy lấy gì mà chống chọi?

Nhưng Nhưỡng chỉ làm thinh.

Giữa khi ấy Chỉnh lại sai anh ruột là giám sinh Nguyễn Ban lẻn ra kinh đô yết kiến hoàng thượng, để xin mệnh làm trấn thủ Nghệ An. Hoàng thượng liền hỏi kín Ban về tình hình quân lính của Chỉnh. Ban được thể, nói thêm lên để phô trương thanh thế cho Chỉnh. Hoàng thượng mừng lắm, bèn nói rằng:

Việc ấy, trước mặt trẫm hữu quân đã từng tâu xin, mà trẫm cũng đã hứa cho rồi. Nay lại xin nữa thì sẽ làm cho tờ sắc ban xuống. Vậy ngươi hãy ở đó mà đợi mệnh!

Các quan tả hữu thấy thế, khuyên nhà vua rằng:

– Hữu quân ở xa mà chúa thì gần. Chưa biết sau này hai bên thua được ra sao? Nếu như mệnh này ban ra, mà việc của hữu quân không thành, thì chúa sẽ có cớ mà nói.

Hoàng thượng nghe theo, bèn thôi không dám hạ mệnh cho Chỉnh.

Ban lật đật ra về, nói dối là đã có sắc của vua cho Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, được mở dinh quân Trung-hùng, thăng tước Bằng lĩnh hầu, đồng thời khiến Chỉnh phải đem quân về bảo vệ kinh sư.

Chỉnh cũng vờ làm lễ bái mệnh, rồi truyền hịch đi kêu gọi các hào mục và thu thập các quân lính tản mát trong vùng.

Do đó, các tay hào mục đều bảo nhau:

– Hắn dẫu đáng ghét thật, nhưng nay đã chịu mệnh vua, nếu chống lại hắn tức là chống mệnh triều đình, hắn sẽ vin vào cớ đó mà nói, thì mình khó tránh khỏi tội.

Rồi họ bỏ Đương trung hầu mà theo Chỉnh chỉ trong khoảng mươi ngày, Chỉnh đã thu nhặt được hàng vạn quân. Chỉnh bèn cho người bà con là Nguyễn Kim Khuê làm chức thị sư, đặt ra những hiệu quân Tứ đột, Tứ thành, lấy danh nghĩa là vâng sắc tôn phò nhà vua mà hẹn ngày xuất quân. Quân của Chỉnh tuy mới mộ, song đội ngũ chỉnh tề, hiệu lệnh nghiêm túc.

Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng đang tức vì bị bọn Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra. Hoàng thượng bèn ngầm ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.

Chỉnh nhận được mệnh, vội hội họp đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:

– Bọn Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản nghịch. Ta nay vâng mật chỉ đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên cạnh nhà vua. Vậy các ngươi phải nên chung lòng gắng sức để cùng giúp nhà vua trong lúc khó khăn.

Khi quân Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở huyện Quỳnh Lưu, thì gặp tham lĩnh Mãn trung hầu và đốc thị Phan Huy ích, hai người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh Chỉnh. Chỉnh lập tức sai đội thiết kỵ bất thình lình đón đánh. Hai bên giao chiến ở địa phận Ngọc Sơn (một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Kết quả, Mãn trung hầu bị thua, chết tại trận, còn Phan Huy ích thì bị bắt sống.

Chỉnh mắng ích về những tội vào bè với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:

– Nghe nói nhà ngươi làm cái trống lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người phải không?

ích run sợ mà xin lỗi.

Nguyễn Kim Khuê vì chỗ quen biết nên hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:

– Hừ! Cái bộ thầy đồ nói khoác, giết cũng vô ích.

Đoạn Chỉnh tha cho ích và bắt phải đi theo mình.

Sau khi Chỉnh thắng được trận ấy, thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương, vương liền cho đòi Nhưỡng vào phủ để bàn cách chống cự.

Lúc này, hoàng thượng đã hạ mật chỉ sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt trừ họ Đinh. Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải Dương và Yên Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.

Dân chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ tàn bạo, nên khi được mật chỉ của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành từng đoàn, đưa hịch kể tội ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín thành trấn.

Nhưỡng liệu sức mình không ngăn nổi, bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ vòng vây, chạy về giữ Hàm Giang.

Khi ấy, ở kinh kỳ người ta đồn rằng Nhưỡng đã bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm tối hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành bãi chiến trường. Trong một ngày, người ta nhốn nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Lòng người nơm nớp lo sợ. Dân chúng trong thành khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy trốn về các vùng thôn quê; quan quân ngăn cấm cũng không được.

Quận Thạc biết sự thế không thể làm gì được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:

– Vua chúa thù ghét nhau, việc nước không có chủ. Quận Liễn đã đi mất rồi mà giặc Chỉnh lại sắp đến, ta đóng mãi ở đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn Tây, chiếm cứ miền thượng du, giữ vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung dung xem việc thiên hạ, chờ cơ hội mà nổi dậy, sau này ắt phải ký công. Các ngươi đều ở dưới cờ của ta, roi cung giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc trẩy quân, cần phải đánh dẹp trộm cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng có bắt chước quận Liễn, đi đâu làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ đông đều phản lại mình.

Bọn thủ hạ đều nói:

Chúng tôi đâu dám chẳng nghe theo tướng lệnh?

Quận Thạc liền thu quân trở về xứ Đoài (tức Sơn Tây).

Thế là quận Liễn đi, quận Thạc lại đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng. Hoàng thượng truyền cho các hoàng thân đốc thúc những lính đã mộ được đêm ngày tuần phòng, canh giữ cung điện. Còn ở bên phủ chúa thì chỉ có viên quyền phủ sự Bùi Nhuận, viên hành tham tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế, hàng ngày ngồi trong phủ đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ huyện không một ai chịu làm theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp đều bị dân quê đánh đập, lột quần áo, chỉ còn cái mình trần chạy về.

Chúa án đô thấy vậy rất lo, nói với Trọng Tế:

– Việc lớn hỏng mất rồi! Nếu không phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu Khang là chắt vua Hạ Vũ; Thần My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp mất nước, Thiếu Khang và Thần My đã khôi phục được) thì không thể cứu vãn được tình thế. Ta không tự lượng sức mình, trót đã làm chúa. Nhà ngươi quá đỗi trung thành, trót đã giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế lực cực kỳ mạnh mẽ.

Tục ngữ có nói: “ở vào thế cưỡi hổ không thể xuống được”. Muốn cho xong việc này, phi nhà ngươi không còn ai.

Rồi chúa bèn sai Tế làm chức trấn thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc dĩ phải xin vâng mệnh. Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh thì Tế đã mất cả hồn vía. Kéo quân ra đến ô Cầu Dền, Tế còn trùng trình đóng ở đó hai ngày, chưa chịu lên đường. Sau chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế vừa mới đến làng Bình Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), thì có tin báo Chỉnh đã vượt sông Thanh Quyết, Tế giật mình mà rằng:

Trừ phi có Phù Đổng thiên vương sống lại, còn ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn, quận Thạc thật là biết thời cơ. Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại không bằng mưu trí của bọn võ biền! Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn mất rồi!

Liền đó, Tế thu quân qua bến Thanh Trì, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch thẳng sang vùng Kinh Bắc, rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương cho lĩnh chức trấn thủ Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi dậy khác.

Chúa án đô thấy tờ khải của Tế, sợ hãi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bùi Nhuận đã đem cả gia quyến trốn đi từ ban đêm rồi. Chúa lại cho đòi Sỹ Uông. Uông cũng thác bệnh xin về nhà riêng. Chúa khóc mếu nói:

– Ta chẳng may đẻ ra ở nhà chúa, lại bị một lũ tiểu nhân làm cho lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này, thà cứ ở Chương Đức làm ông sư già, chống cây thiền trượng (gậy của nhà sư) ở dưới cửa chiền mà lại hoá hay!

Rồi chúa ngoảnh lại hỏi bọn tả hữu:

– Bây giờ nên đi đâu?

Có người trong họ quê ở huyện Quế Dương tâu rằng:

– Xin chúa cứ trấn tĩnh, hãy vào nhà Thái-miếu làm lễ cáo biến, thu xếp thân chủ của tiền vương, để tôi ra sông tìm thuyền, chờ đến đêm khuya, tôi xin phò chúa qua sông sang bắc, đi về làng tôi. Nhà tôi đã trải mấy đời làm tướng cầm quân, hào mục vùng Từ Sơn đều ở trong cửa mà ra, nếu tôi lấy điều trung nghĩa mà kêu gọi, chắc hẳn không ai là không theo. Đinh Tích Nhưỡng ở Cẩm Giàng làm cánh tay trái; Dương Trọng Tế ở Gia Lâm làm cánh tay phải; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây làm ngoại ứng; còn chúa cứ việc đóng tại huyện Quế Dương mà hiệu triệu quân cần vương, đồng thời dựa vào thế hiểm của sông Nhị Hà để cố thủ. Chỉnh tuy hung tợn, há dám sang sông đánh nhau cùng ta? Xin chúa đừng lo!

Chúa mừng rỡ mà rằng:

– Có lẽ trời chưa nỡ làm mất họ Trịnh, nên mới đem ngươi mà ban cho ta. Nếu quả như lời ngươi nói, thật là phúc lớn cho xã tắc vậy!

Đồng hồ (đây là đồng hồ ngày xưa: người ta dùng một cái bình đựng nước có khắc từng độ, và có lỗ cho nước nhỏ giọt dần dần, rồi cứ xem mực nước mà biết giờ giấc) nhỏ giọt xuống đến trống canh ba. án đô vương bèn lẻn sang bắc, quan quân theo hầu chỉ chừng vài chục người. Tàn binh Thanh-Nghệ ở trong bốn đội quân thị vệ không một tên nào đi theo.

Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết là án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.

Thế là hai trăm năm lâu đài cung khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành ra bãi đất cháy đen! Xa gần nghe thấy tin đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính-ngọ (1786).

Lại nói, khi qua khỏi sông Thanh Quyết, Chỉnh trước hết cho ngay bộ hạ là Lê Giốc đem biểu tới dâng nhà vua.

Trong biểu đại ý nói rằng: “Thần vâng chỉ kéo quân vào bảo vệ kinh sư, đã kính cẩn xuất quân từ tháng trước. Khi tới huyện Ngọc Sơn, Lê Trung Nghĩa (tức Mãn trung hầu) và Phan Huy ích dám ra chống cự, thần vẫy toán thiết kỵ tiến đánh, chém chết Trung Nghĩa, bắt sống Huy ích. Nhờ về oai trời, lòng hăng hái của quân sĩ tăng lên gấp trăm lần. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc, thần đi tới đâu dân chúng vui mừng đón rước tới đó. Đến chỗ nào thần cùng đều kính cẩn tuyên bố oai đức của nhà vua, khiến cho đâu đấy đều yên nghiệp làm ăn. Thần nay thân mang giáp trụ, hồn mơ tưởng quân thiều (khúc nhạc của vua Thuấn. ở đây mượn để chỉ vào nhà vua), tấc lòng khôn xiết nhớ mong cửa khuyết.

Hoàng thượng xem xong tờ biểu, mừng lắm, liền hỏi thăm về tình trạng khi ở trấn Nghệ An, Giốc cứ thực mà tâu. Hoàng thượng khen Chỉnh đã khéo quyền biến; rồi phong cho Giốc làm chức nội hàn viện cung phụng sứ thiêm thư khu mật viện sự, trông coi cơ Tả oai.

Khi Chỉnh tới làng Thịnh Liệt, hoàng thượng sai các quan triều ra ngoài cửa ô đón tiếp. Lúc Chỉnh vào triều hoàng thượng cho ra mắt ở điện Trung Hoà và ân cần an uỷ. Chỉnh tâu rằng:

– Gần đây, kiêu binh làm loạn, đại thần (chỉ quận Huy) gặp nạn, thần bấy giờ đang cầm quân ở ngoài, vì chúa Trịnh không dong, nên phải bỏ nước trốn đi. Thần đã nghĩ kỹ, nguồn gốc của sự rối loạn ấy, là do cương thường sai trái, mũ dép đảo lộn mà ra. Khoảng năm Canh thân (1740), Tân-dậu (1741), những kẻ trung nghĩa trong nước đều căm tức về chuyện ấy, người thì phò hoàng thân mà nổi dậy, người thì giữ quận ấp mà mộ binh. Công việc của họ tuy không thành, nhưng cái tiếng nghĩa khí cũng đã lan rộng. Coi đó đủ biết, người ta ai cũng chung một bụng ấy, không phải thần vì mưu riêng của thân mình mà gây ra hiềm khích. Vả chăng thần lấy điều nghĩa mà cảm động lòng người, là cốt để chỉnh đốn lại cơ đồ nhà vua, làm sáng tỏ đạo quân thần cho hợp với lẽ trời đất. Chớ còn đối với chúa Trịnh, thần có thù oán gì đâu? Nay nếu lòng trời đã hối việc gieo hoạ, mọi người đều biết sửa lỗi lầm; đó há chẳng phải là phúc lớn của nước nhà sao? Tiên đế thương tấm lòng ấy của thần, đã dùng những lời lẽ ôn tồn để dụ thần, thần thật cảm kích khôn xiết. Vậy mà người trong nước, những kẻ không hiểu thần, lại cho thần là có tội. Họ muốn mưu đồ bước theo vết xe đã đổ, rắp tâm giết chết thần để quấy rối chính sự buổi đầu của bệ hạ. Cúi xin bệ hạ xét kỹ lo xa, không có điều gì là không soi đến. Thần chẳng dám đổ vạ cho người để che lỗi của mình. Người xưa đã nói: “Biết tôi là vua”. Mong ở lượng trên soi xét.

Hoàng thượng nói:

– Trẫm đã biết rồi! Ngày nay giúp trẫm dẹp yên loạn lạc, làm cho nước được thái bình, chỉ nhờ nhà người mà thôi!

Rồi đó, hoàng thượng thăng cho Chỉnh làm chức bình chương quân quốc trọng sự, tước Bằng trung công. Một người thân cận với Chỉnh là Nguyễn Kim Khuê và con trai Chỉnh là Nguyễn Hữu Du đều được phong tước hầu, được cầm quân và cùng thuộc vào trong tướng phủ. Ngoài ra, bao nhiêu bộ hạ, tướng sĩ của Chỉnh, cũng đều được theo thứ bậc mà thăng chức tất cả.

Khi Chỉnh mới chạy về Nghệ An, trong triều có viên quan văn là Nguyễn Đình Giản, thường vẫn nói mãi về tội Chỉnh dắt quân nước ngoài về phá nước nhà; lại xin gánh vác việc đánh Chỉnh để giết tên giặc của nước, và thề không cùng sống với Chỉnh. Bấy giờ triều đình cũng cho là người hăng hái, nhưng không dám chuẩn y lời xin của Giản.

Viên quan Nguyễn Đình Giản ấy, người làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), là người chất phác, cương trực, hay công kích lỗi lầm của người khác. Kẻ có lỗi dẫu là bậc quyền quý, là bạn bè gần gũi hay là bà con thân thuộc, Giản cũng đều vạch lỗi ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi người đều khen Giản là thẳng thắn.

Đến lúc Chỉnh vào kinh, thì Giản đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các quan bàn riêng với nhau: Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu khuất phục, nhất định Giản sẽ lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu Giản về triều, chắc Chỉnh sẽ không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để giết Giản. Hai sự việc ấy không biết rồi sẽ ra sao?

Kim Khuê nghe được những lời bàn ấy, bèn hỏi Chỉnh:

– Ông cho Nguyễn Đình Giản là hạng người như thế nào?

Chỉnh đáp:

– Cuồng trực! (thẳng thắn đến mức cuồng dại)

Khuê lại hỏi:

– Có thể dùng được không?

Chỉnh trả lời:

– Chẳng những dùng được mà thôi, con người ấy còn đáng trọng nữa là khác!

Khuê lại hỏi tiếp:

– Ông không giận Giản, có phải là thật tình chăng?

Chỉnh nói:

– Ông chẳng thấy quận Hoàn là bố vợ hắn, vậy mà hắn còn ngồi tại giữa triều kể tội ông ta rằng quỳ gối theo giặc, huống chi là người khác? Nếu mình có lỗi, hắn nói đúng. Còn như mình không có lỗi mà hắn nói, thì cũng không hại gì cho mình. Con người như hắn thực không nên giận. Mà có giận cũng không làm gì hắn tốt. Chẳng qua chỉ tổ để cho người ta nhòm thấy chỗ nông sâu của mình thôi!

Khuê nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên vời Giản về dùng, để thu phục lòng người trong nước. Chỉnh nghe theo, liền sai người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết sức ôn tồn, mềm mỏng.

Giản trở về, vừa gặp lúc triều đình đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử làm bình chương sự; Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng bình chương sự; Nguyễn Huy Trạc, Phạm Đình Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đình Giản làm phó đô ngự sử.

Khi mọi việc đã tạm yên, Chỉnh liền sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.

Năm ngày Chỉnh mới vào chầu một lần, tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn bạc công việc. Còn những ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều phải tới dinh thự riêng của Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.

Từ đó, quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.

Bấy giờ, tiền tệ trong nước phần nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ về nạn khan tiền, hàng hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với triều đình, ra lệnh thu vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem về kinh sư, mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc chuông tượng của các thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức thì bị chúng tra khảo, trừng trị. Chỉ riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía bắc kinh thành, là chúng không dám lấy mà thôi.

Thấy Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa Đại Hưng hai câu đối như sau:

Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại?

Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc còn đâu nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi! Chữ “đỉnh” (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp của nhà vua)

Chỉnh nghe hai câu đó, lấy làm căm ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng, những việc mình làm đều không được dư luận đồng tình. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn thế ra oai, để hòng khoá miệng mọi người.

Hồi Chỉnh trốn theo quân Nam, có viên quan võ là Hoàng Đình Xước vâng chỉ đốc lính coi giữ kinh thành. Khi đó, Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên đường, liền bắt lại hỏi. Người ấy xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho đi. Đến khi Chỉnh tới kinh sư, Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra mắt Chỉnh để trả lại thanh gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói nhà Xước có nhiều đồ quý lạ, Chỉnh bèn đòi lấy kỳ hết, rồi mới tha.

Những việc làm của Chỉnh đại loại đều như thế thực là tàn bạo và không còn kiêng sợ gì cả.

Muốn thêm oai thế, Chỉnh lại tự đặt tên quân đội của mình là đạo Vũ Thành. Trong đạo chia ra năm doanh; nội quân gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ chia làm năm đội; khí giới, màu sắc quần áo đều trang bị theo hình thức của triều nhà Thanh, để cho phân biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở của Chỉnh, nhà cửa, lâu đài, kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới, có ý muốn sánh ngang với nhà vua. Trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì chiếm quyền trấn thủ các trấn, phàm những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của Chỉnh chia nhau lĩnh chức. Tất cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước rồi sau mới tâu vua. Thậm chí có việc đã bàn định tại triều mà vua cũng không được biết.

Uy quyền của Chỉnh ngày càng to lớn như vậy, nên hình tích của hắn cũng lộ ra hết. Người ta bàn tán sôi nổi, ai cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp chế nhà vua sẽ còn tệ hơn chúa Trịnh ngày xưa.

Hoàng thượng thấy thế cũng hơi ngờ Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi nói kín với hai viên nội hàn là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp rằng:

– Chỉnh tuy có công bảo vệ, nhưng dần dà đã thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể chặn ngay lúc đầu, khiến hắn không thể càn rỡ được nữa, thì mới đúng với thuật nuôi chim ưng (đời Tam quốc, Trần Đăng nói với Lã Bố rằng: “Tào công nói nuôi Lã Bố như nuôi chim ưng, cáo thỏ chưa hết thì không dám cho ăn no, nếu ăn no ưng sẽ bay đi mấtv.v…”. ở đây dùng ý ấy). Nếu để khi thế lực của hắn đã thành, thì hắn sẽ khó trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các ngươi hãy nên tính hộ trẫm!

Bọn Quý, Hợp tâu:

– Như lũ thần đã xem xét, thì Chỉnh là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là một kẻ bầy tôi hiền tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là vật có thể dạy dỗ; giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ còn có một cách là giết đi mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hãy nên coi hắn như người tâm phúc, đãi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm, không tỏ vẻ gì nghi kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn việc, luôn thể đặt tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen đi mà coi là thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới khỏi lộ, biến loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ý ngu của lũ thần, chỉ có mẹo ấy là hay hơn cả!

Hoàng thượng nói:

– Chuyện này ra ở miệng các ngươi, vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh Dịch có câu rằng: “Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện thời mất thân mình”. Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao giờ gặp cơ hội có thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi.

Thực là:

Âu quen trên biển chừng không lạ
Thỏ mắc trong vòng hẳn khó ra.

Chưa biết việc này như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.

Theo sách Liệt sử: xưa trên biển có người chơi với chim âu đã quen thuộc. Một hôm anh ta theo ý người cha định bắt chim âu về cho cha chơi, chim âu bèn không chịu đậu xuống nữa. Câu này ý nói việc vua Lê định lừa Nguyễn Hữu Chỉnh uống rượu cho quen để đánh thuốc độc cũng giống như thế.
Kinh Thi có bài thơ “Thỏ ta” ý nói đời Văn vương đến những người làm nghề bẫy thỏ cũng có thể dùng làm quan. “Thỏ ta” là cái bẫy đánh thỏ. ở đây tác giả chỉ mượn hai chữ ấy để nói một khi Nguyễn Hữu Chỉnh đã mắc vào cạm bẫy thì khó mà trốn khỏi.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ tám

Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học
Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở ngoài Tây thành.

Lại nói, sau khi vua đã lập mưu giết Chỉnh, một hôm viên nội hàn là Vũ Trinh có việc riêng vào yết kiến, vua bèn đem việc ấy bảo kín với Trinh, Trinh giật mình, nói:

– Người nào bày cho bệ hạ cái mưu ấy, thần trộm lấy làm nguy hiểm. Hiện nay ở ngoài có giặc mạnh, tin tức ngoài biên ải đang báo về khẩn cấp, ở trong triều đình thì mọi người còn nghi ngờ nhau. Bệ hạ đã dựa vào Chỉnh làm nanh vuốt, thì nên đối đãi bằng cách thành thực, để cho y được vui lòng thần phục. Hễ mà biết cách giá ngự, thì kẻ loạn thần có thể thành kẻ lương thần. Sao lại đón trước sự dối trá của người ta để đoán chừng một việc chưa chắc đã có? Hình tích chưa lộ mà nghi kỵ đã sinh. Họ hàng bè đảng của Chỉnh đều cầm nhiều quân và ở nơi trọng yếu, la liệt trong ngoài, một khi xảy ra biến cố, bọn ở kinh thành sẽ làm việc có hại cho xã tắc, bọn ở các ngoại trấn sẽ chạy theo quân giặc. ấy là mình tự cắt vây cánh của mình để giúp cho kẻ thù vậy.

Vua liền đổi sắc mặt mà rằng:

– Nếu nhà ngươi không nói, thì có lẽ trẫm bị lầm rồi.

Tức thì vua đòi Vi Quý, Xuân Hợp vào quở trách và bảo mau mau thôi ngay việc ấy đi.

Về sau Chỉnh biết chuyện ấy, rất oán vua bạc bẽo và muốn hại ngầm những người bày ra mưu đó.

Chỉnh bảo với viên tướng bộ hạ là Nguyễn Như Thái rằng:

– Ta đi khắp bốn biển, không kẻ nào dám ngó thẳng vào mặt ta. Mấy thằng học trò chưa thông hiểu việc đời ấy là cái thá gì mà dám cả gan như vậy? Chờ khi nào ta xuất quân đánh giặc, sẽ đem chúng để thử gươm xem có sắc không, rồi tống cổ chúng xuống âm ty cho chúng gây chuyện với Diêm Vương.

Thái hỏi người nào, Chỉnh trả lời:

– Chính là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp, bọn bề tôi thân cận của nhà vua đấy!

Từ đó, Chỉnh cứ ở luôn trong dinh thự riêng, không vào triều yết. Mọi việc quân, việc nước, đều sai người vào tâu. Vua có ý kiến nên chăng thì lại sai các đại thần như bọn Phan Lê Phiên, Trần công Xán, Vũ Trinh đến dinh của Chỉnh để biện bạch cho rõ.

Một hôm, trời rất rét, bọn Phiên ở trong triều, cử Trinh tới nhà Chỉnh.

Trinh người làng Xuân Liên, huyện Lang Tài, nổi tiếng là người có tài và nhanh nhẹn, Chỉnh cũng có ý kính mến. Vua thường dặn Trinh nếu có dịp thuận tiện thì nên biện bạch với Chỉnh về chuyện hiềm nghi trước đó.

Hôm ấy, Trinh đến nhà Chỉnh là để phúc tư về việc quân, ngồi chờ trên linh các mãi không được vào. Một viên công sai nói với Trinh.

– Thượng công đang ở nhà trong uống rượu không phải là giờ tiếp khách, quan lớn hãy về đã.

Trinh nói to lên rằng:

– Việc quân khẩn cấp, không thể báo chậm. Thượng công ngồi chơi, chỉ cách hai tấm cánh cửa, mà tắc tịt không thông; trên nhà dưới nhà mà xa nhau hơn hai ngàn dặm, thế là cớ làm sao? Tôi có việc công đến đây không phải là để gặp riêng, về cũng không được!

Chỉnh nghe tiếng, vội sai người dẫn Trinh vào.

Sau khi nói xong. Trinh xin lui, Chỉnh nói:

– Việc ấy đã có bọn tỳ tướng của quận Thái trông nom, sẽ phát binh phù ngay, không phải phiền đến sứ thần nhà vua phục mệnh. Ông hãy ở đây cùng uống chén rượu đã. Rồi Chỉnh rót một chén rượu lớn đưa cho Trinh.

Trinh cố từ không nhận, Chỉnh nói:

– Quan nội hàn nghi tôi chăng?

Trinh đứng dậy tạ lỗi, xin uống, và nói:

Tôi là kẻ bất tài, được thu dùng đã là quá lắm. Việc gây dựng cho tôi đều là nhờ ở nhà vua và quan tể tướng, dám đâu có bụng nghi ngờ như chuyện “cung treo rơi bóng” đời xưa (theo Tân thư: xưa Nhạc Quảng mời bạn uống rượu, cái cung treo ở trên tường soi bóng vào trong chén, người bạn tưởng là con rắn, uống xong về nhà thành bệnh. Sau Quảng phải mời bạn đến uống rượu một lần nữa ở chỗ ngồi trước kia và chỉ cho bạn biết rõ là bóng cái cung, soi vào trong chén rượu bấy giờ người bạn mới khỏi bệnh. – Đây mượn ý để chỉ sự nghi ngờ).

Chỉnh im lặng không nói gì. Tan tiệc. Trinh ra bảo với viên thị sư của Chỉnh là Nguyễn Khuê rằng:

– Gần đây lắm kẻ bịa đặt tin nhảm, trăm điều không có một điều thật. Bọn gian đó thêu dệt ra những việc không có căn cứ, để gây sự nghi hoặc cho cả trong và ngoài. óc suy xét của người tầm thường có khi không khám phá nổi. Nhưng người cao minh như ông lớn nhà ta, chắc là không để những câu nói ấy vào tai. Tuy vậy, về phần hình tích, có lẽ ngài cũng chưa khỏi lầm lẫn; tôi sợ rằng vì thế mà họ lại bịa ra nhiều chuyện. “Cọp ở chợ” (theo Chiến quốc sách: Bàng Thống nói với vua nhà Nguỵ rằng: một người nói ở chợ có cọp thì vua không tin, nhưng hai ba người nói ở chợ có cọp thì vua sẽ phải tin, – ý nói tuy lời gièm pha không thật, nhưng nhiều người nói thì người nghe cũng phải tin) là việc không thể có, nhưng đến ba người nói thì người nghe cũng không rõ là có hay không. Huống chi những kẻ bịa chuyện, lại không phải chỉ có ba người mà thôi. Vì thế, tôi muốn nói rõ sự tình ấy, để dứt mối hiềm nghi từ lúc còn nhỏ bé, khiến cho giữa vua và tôi, tình ý thông suốt, trên dưới yên ổn với nhau, há chẳng hơn hay sao?

Khuê trả lời:

– Vâng! Ông hãy cứ về.

Sáng mai, nhân lúc rảnh, Khuê đem lời Trinh thuật lại với Chỉnh. Chỉnh nói:

– Lời người ta nói cố nhiên không thể tin cả, nhưng cũng không thể hoàn toàn không tin. Ta đã xem kỹ, nhà vua là người nhẫn tâm và đa nghi, việc ấy chắc có. Tuy vậy, dù có dù không, cũng chẳng làm gì được ta. Vả chăng, trong lúc bốn cõi còn nhiều giặc giã, hãy gác chuyện đó lại, khoan nói đến.

Lại nói, Dương Trọng Tế từ khi ở làng Bình Vọng rút quân chạy sang Kinh Bắc, liền cùng cháu là Dương Vân, học trò là Nguyễn Mậu Nễ, đắp đồn luỹ ở huyện Gia Lâm để chống giữ và lo tính việc khởi bính. Vừa lúc ấy, chúa Trịnh chạy đến làng Quế ổ (nay thuộc huyện Quế Võ, Hà Bắc), cho người đến gọi Tế, Tế nói:

– Vừa rồi, việc đi Thanh Hoá, trong phủ có Bùi Nhuận là võ tướng, Mai Thế Uông là thổ quan, chúa không sai hai người ấy mà lại dùng ta trước để thử quân giặc. Đó là chúa muốn đem ta mà cho giặc vậy. Bởi chúa đãi người không thật cho nên mới đến thế này. Bây giờ cùng chúa mưu tính việc lớn, đã có một lũ võ biền ở làng Quế ổ, vời ta làm gì?

Rồi Tế chối là việc quân khẩn cấp, không thể đến được. Tế tự mộ lấy vài ngàn người tráng đinh, đắp luỹ từ làng Như Kinh đến làng Phú Thị (Như Kinh nay thuộc Văn Giang, Hưng Yên. Phú Thị thuộc Gia Lâm, Hà Nội), dựng lên ba đồn, chia quân đóng giữ. Tế cho Vân làm chức bình địch tướng quân, Nễ làm chức tham tán quân vụ. Lại đưa hịch đến các quận bên cạnh, kể cái tội nhà vua dựa vào Chỉnh mà đuổi chúa. Lời hịch đại lược như sau:

“Trong hồi nguỵ Mạc, nhà Lê đã không còn nước. Nhờ có Thái vương họ Trịnh giúp cuộc trung hưng, công nghiệp thấu đến trời đất, phúc khánh để cho con cháu. Hai trăm năm nay, vua Lê chỉ việc khoanh tay rủ áo, chúa Trịnh coi hết mọi việc chính sự; thần dân trong ngoài cùng tôn phò và kính mến, không ai có lòng nào khác. Tên Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là một kẻ vong mạng, thoát chết, mưu đồ làm việc càn rỡ, đem giặc ngoài vào phá phách nước nhà, giết chủ cũ mà làm hại nhân dân, xướng ra câu “diệt Trịnh”, mượn cái tiếng “phò Lê”. Vua Chiêu thống là người do quân Nam và Chỉnh lập lên. Nể giặc lập mình, quên ân nghĩa tám đời chủ suý; đốt phủ đuổi chúa, tựa vào sức một lũ loạn thần. Đã không xứng đáng làm vua, lấy gì tiêu biểu cho nước. Tôi là viên đài thần (chức ngự sử) của tiên triều, nghĩa không thể nín. Nay sắp dấy quân giết Chỉnh, tìm lấy người hiền trong họ vua cháu chúa mà lập lên để nối cơ nghiệp vua, chúa thuở trước. Hẹn đến ngày mồng một tháng nọ sẽ kéo quân qua sông Nhĩ Hà. Các vị hào kiệt bốn phương người nào đồng chí với tôi, đều nên đúng hẹn họp quân, hợp sức tiến đánh, công khôi phục kíp sớm hoàn thành, nghĩa đồng hưu cùng ghi vĩnh viễn… ”

Các thổ hào ở vùng Từ Sơn, Thuận Thành thấy lời hịch chỉ trích nhà vua, giọng nói ngược ngạo, họ bèn nói với nhau rằng: “Danh đã không chính thì lời nói cũng không thuận, mà việc sẽ không thành. Chúng mình đều là bề tôi của nhà vua, không nên theo y để chuốc lấy vạ”. Bởi vậy, chẳng một người nào hưởng ứng với Tế; mà những người đã nhóm họp với Tế rồi cũng rút về dần dần, thành ra người giúp Tế càng ngày càng ít đi. Vả chăng bọn Tế, Vân sẵn có tính tàn bạo, hay cướp bóc của nhân dân, Nễ lại là tên ty bỉ dung tục, không hiểu biết gì, nên ai cũng chán ghét.

Lúc bấy giờ có người giám sinh ở huyện Văn Giang, bắt được tờ hịch của Tế, chạy lên báo với vua. Vua xem hịch giận lắm, vội vàng cho gọi Chỉnh mà bảo rằng:

– Trọng Tế xuất thân ở hàng tiến sĩ, sao lại được khinh vua. Trước đây y đã gọi trẫm là vua “lông đỏ” (ý nói Chiêu Thống theo Tây Sơn) và xé tờ chỉ dụ của trẫm trước mặt sứ giả. Nay y lại viết ra tờ hịch, không kiêng sợ gì cả. Thằng giặc ấy mà không giết thì lấy gì để răn kẻ khác. Vậy phải cho quân đi đánh ngay.

Chỉnh lạy hai lạy, vâng mệnh lui ra, rồi sai Nguyễn Như Thái và Hoàng Viết Tuyển đem quân đi đánh Tế.

Lúc sắp đi, Chỉnh dặn họ rằng:

– Trọng Tế chiếm giữ vụng trộm mấy thôn ấp ở quê mình, chẳng khác con cáo nương nơi gò cũ. Thứ quân nhà quê của y cũng như bầy dê chăn ở ngoài đồng, cầm roi mà đuổi là chạy, có cần gì phải đánh! Các ông cứ gióng trống mở cờ, đến thẳng dưới luỹ. Chắc hắn chỉ có hai cách: không hàng thì chạy. Hắn hàng thì điệu ngay về, không được cướp bóc làng xóm. Hắn chạy thì không cần đuổi tới cùng, sợ sinh ra việc rắc rối khác. Ta nghe nói người vùng Kinh Bắc oán hắn đến tận xương, hắn chạy đến đâu chắc không có ai chứa chấp, sớm muộn thế nào họ cũng bắt hắn đến cửa quân cho hắn nộp đầu mà thôi.

Thái, Tuyển vâng mệnh dẫn quân qua sông.

Tế nghe tin báo, liền gọi bọn Vân và Nễ bàn việc chống cự. Vân nói:

– Giả sử Chỉnh tự đến đây, cũng không phải là kẻ đối thủ của cháu, huống chi mấy thằng thiên tỳ (những quan võ giúp việc cho chủ tướng) kia thì làm được trò trống gì? Cứ cho chúng nó đến để chịu chết. Chém đầu hai đứa ấy trước, rồi kéo tràn qua sông, bắt Chỉnh và dựng nước đều ở cả một chuyến này. Quan chú không phải lo lắng làm gì!

Tế mừng lắm, cho là phải, rồi cười nói:

– Cửa chùa đã có thiên thần hộ pháp, khắp ba ngàn thế giới, mười lăm loài quỷ, tự nhiên đều phải lui bước nghe theo. Đức Phật Thế tôn chỉ việc chắp tay ngồi trên toà sen nhận lễ dâng cúng mà thôi.

Mậu Nễ cũng nói:

– Tôi xin sắp sẵn trâu rượu, chờ khi tới kinh mở tiệc uống cho thật say. Lần này quan thầy sẽ là đức Phật sống của nước Nam Việt, trăm nghìn Phật La-hán chắc đều phải hiện chân thân để nghe ta chỉ vẽ.

Chú cháu, thầy trò tâng bốc, khoe khoang lẫn nhau, không còn để ý gì đến việc binh nữa. Chợt có tin báo quân của Thái, Tuyển đã đến. Tế bèn lấy thanh gươm trao cho Vân và nói:

– Kinh thư nói rằng: “Nãi ngôn để khả tích” (nghĩa là: Lời ngươi đưa đến thành công). Phải nhớ lấy nhé!

Vân lạy hai lạy, nhận gươm lui ra, rồi dẫn quân lên mặt luỹ, phấp phỏng dòm ngó. Thấy thế quân của Thái, Tuyển rất mạnh, Vân bắt đầu tỏ vẻ lo sợ. Vả chăng, quân của Vân mới mộ, đều là hạng người ô hợp chưa qua trận mạc bao giờ, tai mắt chưa quen thuộc với chiêng trống cờ xí, họ tưởng đó cũng như những đám rước thần, cúng Phật ở thôn quê mà thôi.

Vân tựa vào luỹ mà dàn trận. Thái, Tuyển chia quân làm hai đường cùng đánh ập lại. Súng và hoả hổ cùng nổ ran một lúc, xa gần rung động, khói lửa ngút trời. Quân của Vân kinh hãi, tan vỡ, không sao ngăn được. Vân hoảng hốt, cuống quít, không biết làm thế nào, bèn cởi bỏ áo trận, rồi chạy trốn.

Trọng Tế ở trong đồn Lạc Đạo (tên xã, thuộc Gia Lâm, Hà Nội) cho người đến dò, thì Vân đã bỏ đi đâu mất, chỉ thấy hai đạo quân của Thái, Tuyển đang trèo lên luỹ, chém giết tứ tung.

Người do thám sợ hãi chạy về báo tin, Tế nghe nói, vội vàng đứng dậy, ruột gan rối bời, chưa biết tính liệu ra sao? Lại thấy quân lính tan tác, mỗi người chạy mỗi ngả, Tế trông trước, nhìn sau, chẳng biết làm thế nào, bèn ngửa mặt lên trời, mà kêu rằng:

“Trời ơi, chỉ tại trời không phù hộ nhà chúa cho nên mới đến thế này đây!”.

Rồi Tế dẫn vài tên tay chân vượt luỹ chạy trốn. Chập tối, Tế chạy đến làng Ngọc Xá (sau đổi là Yên Xá, thuộc huyện Cẩm Giàng, Hải Dương (Hải Hưng)) thì Vân theo kịp. Đêm ấy chú cháu bàn với nhau vào ngủ nhờ ở nhà một người dân trong làng. Vân nói với Tế:

– Xin chú trước hết hãy vào Quế ổ ra mắt chúa, chúa vốn tin và trọng chú, thấy chú chắc là mừng. Hơn nữa, ở đó đều là những người võ biền, được chú là văn thần bày mưu lập kế, chỉ huy mọi việc cho, thế nào chúa cũng nghe theo. Nhân cơ hội ấy, mình sẽ thu thập tàn quân để tính việc về sau. Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, thanh thế nổi lên là lại có thể làm nên việc.

Tế nói:

– Không được! Trước đây chúa cho gọi ta, ta chối không đến. Bây giờ thua trận mà đến, thì lấy cớ gì mà nói! Vả chăng như thế thì còn mặt mũi nào? Mà rồi những người ở Quế ổ còn coi ta ra gì? Trước đây ta đã cộng sự với quận Nhưỡng, rất là tương đắc. Nay nghe ông ta chiếm giữ vùng Hàm Giang, và hiệu triệu nhân dân vùng Hải An, thủ hạ có tới vài vạn, thuyền bè đầy sông. Ông ta là tay tướng giỏi, ta nên đến ngay Hàm Giang, mưu tính với ông ta, rồi xin chúa dời xa giá về đó, bọn người ở Quế ổ không thể không theo chúa tới họp. Nhân đó ta bảo họ nổi lên ở xứ bắc, cháu đem một cánh quân đi cùng họ; quận Nhưỡng thì nổi lên ở xứ đông; ta thì phò chúa đốc chiến. Các đạo hẹn nhau cùng cất quân trong một ngày, việc lớn chắc có thể thành. Không như trước đây, chỉ một toán quân chơ vơ, đến nỗi bị giặc uy hiếp.

Vân nói:

– Phải lắm! Nhưng từ Ngọc Xá đến Hàm Giang, đường sá xa xôi, mà mình chỉ có năm sáu người lủi thủi đi đường, bộ dạng tiều tuỵ, trông chẳng ra sao. Vả lại, vạn nhất xảy ra biến cố gì, giữa đường tay không, lấy chi mà chống đỡ. Vậy cháu xin mộ lấy dăm sáu chục tên lính, khí giới sắc bén, mở cờ gióng trống mà đi; sớm lên đường chiều tới nơi, quận Nhưỡng thấy thế cũng không đến nỗi khinh mình.

Tế nói:

– ý kiến của cháu cũng đúng. Cháu nên gấp rút đi mộ quân lính, hẹn chiều tối hôm nay phải đến đây ngay.

Không ngờ chú cháu y bàn luận cả đêm như thế, đều bị người trong nhà nghe thấy hết và biết rõ chuyện. Nửa đêm, họ liền đi báo với viên ấp trưởng. Sáng dậy, khi Vân đã đi rồi, viên ấp trưởng liền đem vài chục bộ hạ cầm khí giới và khiêng một cái cũi đến, bảo với Tế rằng:

– Mời quan lớn vào trong này! Đã có quân của quận Tuyển chờ ở gần đây, xin sẵn sàng hộ tống ngài về kinh yết kiến cụ Bằng trung công.

Tế vờ thất kinh mà rằng:

– Các ông lầm rồi! Tôi là học trò xứ Hải Dương, tới Như Kinh kiếm nơi dạy học, thình lình gặp việc binh đao, nên lại trở về xứ đông, có việc gì mà phải yết kiến bậc quý nhân trong triều?

Người ấp trưởng cười mà nói:

– Quan lớn đừng có dùng miệng lưỡi nói dối người ta! Trước kia ngài đã bay lượn ở vùng Thăng Long, gầm hét ở hạt Kinh Bắc, tự cho là người tài giỏi độc nhất trong nước Nam. Học trò Hải Dương đâu có khí thế ấy? Bây giờ xin mau mau vào cũi để họ khiêng đi cho sớm. Đừng nhiều lời làm gì, mệt sức vô ích!

Rồi họ đẩy Tế vào cũi, giải đến dinh quân của Tuyển. Những nơi cũi Tế đi qua, nhân dân đều đổ xô ra hai bên vệ đường để xem. Có người gọi Tế mà bảo:

Ông nghè sao lại đến thế; tức thay thằng kẻ cướp vô loại kia sao lại lọt lưới? (chỉ Dương Vân)

Trước đó, khi bọn Tuyển cầm quân ra đi, Chỉnh đã có lời răn bảo. Đến lúc bắt sống được Tế rồi, Tuyển liền đem quân thắng trận trở về, hết thảy đúng như lời Chỉnh đã dặn.

Các quan trong triều đến dinh Chỉnh. Mừng việc thắng trận, ai cũng tấm tắc khen ngợi và khâm phục. Riêng Trần Công Xán lại nói:

– Không phải ông có tài tính liệu tình hình địch mà chỉ vì Tế vô mưu “Giống vật thương tình đồng loại” (dịch câu: “Vật thương kỳ loại”, câu này do ở thành ngữ Thố từ hồ bi, vật thương kỳ loại, nguyên nghĩa là: “Con thỏ chết con cáo buồn, giống vật thương tình đồng loại”. ý nói người ta thấy kẻ đồng loại gặp nạn thì cũng buồn thương. Đây chỉ vào ý Xán mượn câu này để ngầm tỏ ý nói Tế cũng là kẻ đáng thương) thật là đáng buồn!

Chữ “vô mưu” ở đây là Trần Công Xán ám chỉ việc Trọng Tế viết tờ hịch chỉ trích vua Lê trước kia.

Vua nghe tin đã bắt được Tế, liền sai thảo bản kể tội của Tế, để làm cho nghiêm chỉnh pháp điển. Chỉnh tâu:

– Xin kéo hắn ra cửa Bắc mà chém đi là xong, chẳng cần phải làm bẩn bút mực!

Phan Lê Phiên nói:

– Với tên giặc khác, cố nhiên nên như vậy. Nhưng Tế là người học hành thi đỗ, xuất thân trong hàng tiến sĩ mà dám làm việc phản nghịch như thế, thật là kẻ tội nhân trong danh giáo. Sao được chết một cách im lặng như vậy? Bởi thế, cần vâng theo chỉ ý của hoàng thượng, nêu rõ tội ác của y, để cho người khác thấy y mà biết răn mình, thì bọn ngang ngược kia mới dẹp đi được.

Rồi Phiên cầm bút thảo lời “Luận tội” dâng lên rằng:

“Làm tôi phản vua, trời đất không còn chỗ chứa; mang tên là giặc, người nước cùng được giết đi. Vậy phải đục bỏ tên trong bia tiến sĩ, dâng tù trước nhà Thái-học, để tỏ rõ rằng y đã bị đuổi ra ngoài hàng kẻ sĩ, khiến cho không làm nhơ danh của nhà nho”.

Vua truyền “được”, rồi lập tức sai bọn Tuyển mặc quần áo trận, bắt Tế đưa đến nhà Thái-học phủ phục chịu tội, rồi điệu đến Trường thi võ mà chém.

Sau đó, vua lại thăng thưởng quân công cho bọn Tuyển, Thái, và theo thứ bậc mà ban cấp tiền bạc cho các tướng sĩ.

Nhân việc này, triều thần lại kiến nghị tâu với vua thăng cho Chỉnh lên tước công một chữ (theo quan chế đời xưa, tước “một chữ” (nhất tự) là cao quý hơn tước có nhiều chữ. Ví dụ; Bằng công to hơn Bằng trung công), cho phép mở ra phủ quân Vũ thành, đúc con dấu Vũ thành và để Viện xu mật thống thuộc vào đấy. Chỉnh nhân dịp, liền tâu xin cho con trai là Hữu Du làm chức doanh tướng, coi lĩnh toán quân ấy.

Vua ưng cho.

Từ đó, những việc thuộc về quân sự, Chỉnh đều để cho Du điều khiển lấy. Chỉnh lại xây dựng một toà phủ ở phía đông chỗ ở của mình, nhà cửa rất mực lộng lẫy để cho Du ở, theo như lệ “thế tử ra ở phủ riêng” của chúa Trịnh ngày xưa. Bộ hạ của Chỉnh nhân đó cậy thế làm nhiều điều phi pháp. Bất cứ là nha môn nào hay việc gì, hễ đã thấy những giấy tờ đưa đến, có đóng dấu quân Vũ thành, là không ai dám trái lệnh. Vì thế, triều đình không còn kỷ cương gì cả, mà lòng người cũng sinh ra chia lìa. Người hiểu biết đều cho là thế nào cũng có loạn. Có người cáo bệnh bỏ quan, tìm chốn nhàn tĩnh ở nơi xó rừng, góc biển để tránh tai vạ.

Chỉnh cũng biết dư luận không ưa gì mình, muốn mượn con đường khoa mục, thu nhặt nhân tài, để mua chuộc lòng người làm chước yên lành về sau. Chỉnh bèn bàn với Lê Phiên tâu xin theo phép “kén học trò theo mười khoa” của Tư Mã Quang nhà Tống, đặc cách mở một chế khoa (Chế khoa là khoa thi do nhà vua tự ra đầu bài và tự chấm lấy văn. Nhưng đời sau, những khoa thi mở bất thường cũng đều gọi là chế khoa. – Đời Tống Triết-tông, Tư Mã Quang xin vua cho đặt mười khoa (10 điều) để làm tiêu chuẩn kén nho sĩ. Mười khoa đó đại để như sau: Có nết; có tiết tháo; có mưu trí và sức khoẻ; thông minh; ngay thẳng; thông kinh sử; học rộng biết nhiều, v.v…). Các quan văn từ tam phẩm trở lên đều phải tiến cử những người mình biết, rồi cho phép họ vào trong sân điện, đối đáp những câu văn sách của nhà vua hỏi. Khi ấy, các danh sĩ trong nước ai cũng trau dồi chữ nghĩa và đức hạnh để chờ đợi ơn trên. Cả những người làm quan rồi cũng đều hăng hái ứng cử. Bấy giờ là tháng giêng mùa xuân, năm đầu niên hiệu Chiêu-thống (1787).

Lúc đó có viên hiến phó là Ngô Tưởng Đào được cử vào khoa “hiền lương phương chính”, dâng biểu cố từ như sau:

“Hiện nay, nhân sau khi sụp đổ, những việc đáng cảm đáng than trong nước, kể không thể xiết. Không phải chỉ có “một đau, hai khóc, ba thở dài” (nói theo lời của Giả Nghị trong bài nói về tình hình trị an đời Hán Văn-đế) mà thôi. Nếu không có tài hơn đời thì sao có thể xoay chuyển được thời thế. Nhưng những bậc kỳ tài, kỳ ngộ, phải đâu hết thảy đều do khoa cử mà ra. Đời nếu có người tài, bệ hạ nên dùng lễ mà mời ra như vua Thang mời Y Doãn ở đất Sằn, vua Văn vương thăm Lã Thượng ở sông Vị (Y Doãn là công thần đời nhà Thương, từng cày ruộng ở đất Sằn, vua Thang ba lần đến mời ông mới chịu ra giúp. – Lã Thượng tức Lã Vọng, công thần đời nhà Chu, từng câu cá ở bờ sông Vị, vua Văn vương đi săn bắt gặp, hết sức kính trọng, đón lên xe mời về triều làm quân sư), ngõ hầu mới mời được họ đến. Còn như thần đây lạm giữ một chức còn sợ chưa nổi, dám đâu làm nhơ đến việc long trọng này, để thương tổn đến sự sáng suốt trong việc cất nhắc nhân tài của thánh triều”.

Lê Phiên nghe bài biểu ấy nói với Công Xán rằng:

– Ông ta bảo cần phải có người có tài lạ, là muốn nói nước giặc đang nhòm ngó ở bên ngoài, chẳng bao lâu sẽ có nạn binh đao. Mình bỏ việc ấy không lo, mà lại đi mở khoa thi kén học trò, để vờ làm ra vẻ thái bình. Sợ khi quân Nam trở lại, không biết dùng chước gì mà chống đỡ? Đó thật là cái lo trước mắt!

Năm ấy, những kẻ vào điện thi để đối đáp văn sách, có đến hai trăm người. Chỉnh muốn kén chọn cả loạt để thu nhặt danh sĩ trong nước. Nhưng đến khi xướng tên, thì hạng đúng tư cách thì đỗ chỉ có hai người là Trần Bá Lãm và Nguyễn Gia Cát mà thôi. Chỉnh có ý không bằng lòng, cho nên mùa đông năm ấy, Chỉnh lại xin thi hội ở lầu Ngũ phượng, lấy bọn Bùi Dương Lịch vào hạng tiến sĩ, tất cả mười lăm người. Nguyễn Khuê là người bà con của Chỉnh, đỗ vào thứ tư, dự luận trong ngoài có ý chê là tư vị.

Nhắc lại, khi Chỉnh ở Nghệ An về triều, được vua trọng dụng, các thân thần, cựu thần của nhà vua chẳng ai được ở trên Chỉnh. Vì vậy, Chỉnh làm việc gì cũng trôi chảy, không còn lúc nào nghĩ đến tình hình nước địch và công việc ở ngoài biên cương nữa.

Lúc ấy, những người ở ngoài đối địch với Chỉnh, thì phía tây có quận Thạc, phía đông có quận Nhưỡng, Chỉnh đều xem khinh. Mỗi khi chuyện trò với ai, Chỉnh vẫn thường nói:

– Nhưỡng tuy là dòng nhà tướng, nhưng là người thô lỗ, không thạo mưu cơ làm tướng. Xưa kia ở dưới cửa tiên công (chỉ quận Huy), y vẫn coi ta là bậc anh. Về sau vì sự gặp gỡ khác nhau, thành ra mỗi người một ngả. Chắc Nhưỡng không dám tranh giành với ta, mà ta cũng không nỡ đánh nhau với Nhưỡng, hãy để y ra ngoài đã. Đến như quận Thạc thì chỉ là người dũng mãnh, mà lúc gặp việc cần ứng biến thì lại không phải là giỏi. Vả nay y đã tuổi già sức yếu, nên cũng không đáng sợ nữa.

Vừa lúc ấy, có người thân của Chỉnh là Lệ Vũ ở Sơn Tây về, nói với Chỉnh rằng:

– Quận Thạc trước đi Hưng Hoá, chiêu dụ mấy viên quan Mường, mở lò đúc khí giới. Hiện nay đồ đảng ở bốn trấn có đến vài vạn, ông ta đang truyền hịch cho các thổ hào trấn Sơn Tây, hẹn ngày đem thủ hạ vào kinh. Nghe đâu ông ta có sai người đem tờ biểu bí mật dâng lên nhà vua, ông có biết không?

Chỉnh nói:

– Ta biết rồi. Trong tờ biểu, quận Thạc trình bày rằng: “Trước đã trái luật làm tan mất quân đội, sau vào bảo vệ kinh thành lại không nên công trạng gì, nhờ hoàng thượng có lòng bao dong, lại cho làm chức trấn thủ để cho bù lại tội xưa. Ngày nay có lòng luyến nhớ cửa khuyết, lại sợ ý ấy chưa được rõ ràng, kẻ không ưa sẽ được thế chỉ trích, đổ cho tiếng xấu, nên còn dùng dằng chưa dám tới ngay…”. Hoàng thượng có đưa tờ biểu cho ta xem. Ta đã đoán ngầm được ý của Thạc, chắc y không dám dùng quân sự chống cự lại ta, mà chỉ muốn giảng hoà. Y ở ngoài lâu ngày, tình thế cách trở, đâm ra nghi hoặc, sợ hoàng thượng không tin dùng. Mà đột ngột về kinh, thì lại sợ có ta ở trong triều, chưa biết hoạ phúc thế nào, nên mới dâng trước tờ biểu ấy để dò xem ý tứ của triều đình đó thôi. Ta cũng muốn tâu xin hoàng thượng giáng chỉ triệu y, nhân tiện ta gửi cho y một lá thư, nhưng khó kiếm được người xứng đáng để sai đi. Người đã biết rõ tình hình thì nên theo sứ giả của nhà vua mang thư cùng đi.

Lệ Vũ xin vâng lời. Chỉnh bèn viết thư gửi cho quận Thạc, đại lược như sau:

“Trước đây tướng quân lên miền thượng du, xếp đặt công việc ngoài bờ cõi, trèo đèo vượt suối, thật là vất vả. Nếu tướng quân có ý chuyên giữ một phương để che chở cho miền tây, thì tôi xin đề đạt ý ấy lên nhà vua, cho phép tướng quân tuỳ ý mà làm. Nếu tướng quân cho rằng ở trong quân ngũ đã lâu, sức lực suy yếu, muốn nghỉ việc quân cơ, thì tôi dám đâu không giúp đỡ tướng quân chọn một địa vị tốt đẹp để cho tướng quân giữ trọn công danh, làm bậc túc tướng (vị tướng cũ đời trước còn lại) của tiên triều? Kẻ đại trượng phu ở đời chỉ có hai con đường là “hành” và “chỉ”, cần phải sơm sớm chọn lấy một. Mong tướng quân tính liệu lấy”.

Lúc mới nghe có mệnh lệnh nhà vua đòi, quận Thạc liền ra ngoài sân để bái nhận và hạ lệnh cho tướng tá kiểm điểm binh mã chờ ngày lên đường. Đến khi mở thư Chỉnh ra, quận Thạc bỗng nổi giận bảo Lệ Vũ:

– Mày là người riêng của Chỉnh phải không?

Sứ giả đỡ lời:

– Thư này Bằng công đã trình lên hoàng thượng xem; như vậy, người đưa thư tức là do hoàng thượng sai đi, không phải là người riêng.

Thạc nói:

– Tục ngữ có câu: “Bò con mới đẻ không biết sợ cọp”. Chính là bảo hạng người như Nguyễn Hữu Chỉnh đây! Ta là con nhà võ biền, không biết văn hoa che đậy, việc gì cũng cứ thẳng băng mà làm. Điều gì không bằng lòng, chỉ biết có lưỡi gươm mà thôi. Này ta nói cho các ngươi nghe: Nguyễn Hữu Chỉnh trước thì phản bội nước nhà mà giúp Tây Sơn, sau lại ở hai lòng với Tây Sơn mà chiếm giữ đất Nghệ An. Đến khi Tây Sơn không nhìn nhận, người Nghệ An không dong, mới quay về với hoàng thượng. Các vị văn quan lại bị hắn lừa dối, để cho hắn có thể mượn mệnh lệnh của nhà vua, sai khiến người trong nước. Riêng có Dương Trọng Tế chống cự với hắn, nhưng vì không rõ nghĩa lớn, cho nên hắn có cớ mà nói. Quận Nhưỡng lại là bạn quen của hắn, thành ra chỉ bay lượn ở vùng Hàm Giang, không dám vượt lên một bước, tiến về kinh đô mà hỏi tội hắn. Hiện nay, riêng ta thề lấy việc đánh Chỉnh làm trách nhiệm của mình. Các ông hãy về bảo với Chỉnh rằng: hắn quen dùng thói gian trá, giảo quyệt để lừa dối người trong nước, nhưng lừa dối thế nào được ta đây. Ta nay vâng chỉ về triều hỏi tội hắn. Nếu hắn có thể đánh với ta, thì nên ra ngoài thành vài dặm để chọi nhau cho tiện, đừng để kinh động đến cung khuyết. Bằng không thì hắn nên ra chịu tội ở ngoài cửa Đại Hưng, đã có triều đình xử trí.

Rồi đó, quận Thạc tiễn sứ giả về kinh, lại viết tờ biểu “xuất sư” dâng lên nhà vua, đại lược nói:

“Trước đây, thần vâng mệnh ra trấn Sơn Tây, vừa lúc ấy Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào chầu. Bệ hạ cho là Chỉnh có công tôn phò, nên giao việc chính trị trong nước cho hắn. Đứa tiểu nhân đắc chí, dần dà mưu đồ làm việc không hay. Cứ như ý ngu của thần, thì Chỉnh không phải là người bề tôi thuần thục, mà là một đứa tự mưu lợi riêng. Xem việc hắn làm, giống như ma quỷ; xét bụng hắn nghĩ, độc hơn hùm beo. Cúi xin bệ hạ xét rõ, cho phép thần được trị hắn ngay từ lúc đầu, để hắn không thể rông rỡ làm ác về sau, thì thật là phúc cho xã tắc…”.

Tiếp đó, quận Thạc đưa tờ hịch đến các lộ Quốc Oai, Quảng Oai, kể rõ tội ác của Chỉnh, gọi Chỉnh là tên giặc ở cạnh nhà vua, nguyền thế nào cũng giết Chỉnh để triều đình được trong sạch.

Chỉnh nghe tin quận Thạc đem quân đến nổi giận nói:

– Tên giặc già này thật đáng giết! Không muốn làm người công danh ở thế gian, lại muốn theo gót thằng Trọng Tế làm con ma phản nghịch ư?

Rồi Chỉnh vào tâu với vua, xin sai bộ tướng là Lê Duật đem quân đi đánh quận Thạc: còn tự mình đốc suất đội quân lớn theo sau tiếp ứng.

Duật đến làng Đại Phùng (thuộc huyện Đan Phượng, Hà Đông, nay thuộc Hà Nội) thì quân quận Thạc cũng vừa tới đó. Hai bên mới giao chiến được một trận thì quân Duật chống không nổi đã vứt bỏ khí giới mà chạy.

Con trai quận Thạc là Gia Vũ xin thừa thắng đuổi tràn, khiến hậu quân của Chỉnh kinh sợ, để có thể giữ được toàn thắng.

Quận Thạc không nghe và nói:

– Quân lệnh sớm nay đã truyền là đúng trưa họp ăn ở làng Đại Phùng. Các quân lính đang đói mệt, chờ đợi nghỉ ngơi ăn uống, thì quân giặc thình lình kéo đến; ta mới vẫy quân một cái mà đã đánh lui được chúng, bây giờ nên nhân đấy mà truyền cho quân lính ăn cơm là phải. Nếu lại khua cho họ tiến lên, chiều tối đến kinh thành, giặc tất nhiên dốc hết quân ra liều chết mà đánh, lúc đó quân ta vừa mệt vừa đói, lấy sức đâu mà chống? Binh pháp có nói: “Quân đi hàng trăm dặm để kiếm lợi, sẽ què thượng tướng”; đó là con đường nguy hiểm. Hãy cứ nghỉ quân mà ăn uống, ăn rồi thúc trống tiến lên, gặp giặc là đánh. Ăn no khí mạnh, lo gì không thắng địch? Vả lại, ta bắt Chỉnh như bắt trẻ con, có cần gì mà phải gấp vội để cho thất tín với quân lệnh.

Quận Thạc bèn truyền lệnh khua chiêng cho quân tạm nghỉ. Duật chạy đến nửa đường, ngoảnh lại trông biết là quận Thạc không đuổi; lại sợ Chỉnh đến sẽ bị quở phạt, liền thu quân, dàn thành trận, quay trở lại đánh quận Thạc. Quân của quận Thạc đang ngồi lên khí giới mà ăn, hàng ngũ lộn xộn chẳng đâu vào đâu. Thấy quân Duật ào đến, quân quận Thạc không kịp đánh lại, sợ hãi, tan vỡ, chạy tứ tung. Lúc ấy quận Thạc đang ngồi trên đình Đại Phùng, vội vàng trèo lên mình voi, thủ hạ chỉ còn vài chục người, xúm quanh thân voi, ra sức mà đánh. Quận Thạc ngồi trên bành voi, ném lao giết chết quân Duật chừng vài trăm người. Duật không dám lại gần. Chốc lát thấy Chỉnh đem đại quân kéo đến tiếp ứng, Duật liền vẫy quân vây quanh voi của quận Thạc, lấy giáo dài mà đâm. Quận Thạc co voi vào bãi cát, rồi xuống voi nhảy phốc lên ngựa, múa đao chém vung tàn tán, người ngựa qua lại như bay. Gia Vũ ở phía sau trận phi ngựa hô tới, xông lên phía trước, lăn xả vào đánh giết, làm bị thương quân địch rất nhiều. Một viên tỳ tướng của quận Thạc là Hoàng Đăng, tập hợp được vài trăm tên lính tản mát, cũng quay trở lại hợp sức mà đánh, Chỉnh trông thấy thế, sợ quận Thạc thoát thân được thì sẽ phi ngựa trốn mất, bèn vẫy quân Thiết đột vây kín bốn mặt, nhắm vào ngựa quận Thạc mà bắn. Ngựa què, quận Thạc bị Duật bắt sống. Gia Vũ, Hoàng Đăng liệu chừng không thể chống nổi, đều theo lối Thượng Hiệp (tên xã, thuộc Sơn Tây. (Cũng ở gần vùng Đan Phượng)) mà tháo lui.

Trận này, quận Thạc tự mình đốc suất các phiên thần Hưng Hoá, thổ mục Sơn Tây, lại hợp với quân của cả hai trấn, khí giới rất là sắc bén. Sau khi thua một trận, hết thảy đều bị thu bắt, không còn sót một tý gì. Do đó, oai danh của Chỉnh rung động khắp thiên hạ.

Tin thắng trận về đến kinh thành, các quan vào mừng. Vua Lê miễn cưỡng ra ngự triều, rồi nói riêng với Ngô Vi Quý rằng:

– Quận Thạc không phải là bề tôi bạo nghịch của trẫm. Quận Thạc còn sống thì tên gian hùng kia (chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh) còn e sợ, nay chẳng may mà chết, trẫm rất thương xót, còn mừng nỗi gì?

Tiếp đó, Chỉnh rút quân về và giải quận Thạc vào kinh thành tâu xin đem chém.

Vua khuyên Chỉnh rằng:

– Quận Thạc trọng về phần nghĩa nhiều, mà ít hiểu về phần lý, cho nên danh với thực không xứng với nhau, hình tích khó mà rõ rệt. Nay thua trận bị bắt, phép vẫn nên chém. Nhưng nghĩ lại lúc Trọng Tế thả quân vây bức kinh thành, trẫm đứng chơ vơ một mình trong điện suýt nữa mắc phải tai biến bất trắc; nếu không có quận Thạc, làm gì có ngày nay? Theo như phép “Bát nghị” (theo sách Chu lễ, hình phạt có “Bát nghị” (tám phép bàn), chia ra tám loại người thân của vua, người có công, người có tài, người quý hiển v.v… để xét xử phân biệt khác nhau mà định cách giảm tội) Lòng trẫm thật không nỡ, nên bài lại để cho tỏ rõ cái ơn nghĩ đến công trạng hồi xưa.

Chỉnh đối với quận Thạc từ trước vốn không có hiềm thù gì, nay đánh một trận mà thắng, khí tức cũng đã hả, lại nghe lời vua khuyên dụ, bèn xin giao cho triều đình bàn lại.

Ngự sử là Ngô Trọng Khuê thảo lời nghị tội khác, trong có câu:

“Làm quan chống lại mệnh lệnh của triều đình, tội vẫn đáng chém; nhưng đem công mà bù với tội, thì sự chết cũng nên có lễ…”.

Vua bèn sai đưa quận Thạc ra ngoài cửa Tây, cho uống thuốc độc.

Quận Thạc lạy hai lạy, rồi uống thuốc độc mà chết.

Lúc quận Thạc mới bị giải vào thành, nhân dân kinh đô xúm lại xem. Quận Thạc nói:

– Ta là tên tướng già Hoàng Phùng Cơ đây. Cha con một nhà đã có sáu người chết vì việc nước. Phải, trái đã có công luận. Thành, bại là bởi lòng trời. Ta không giết được Nguyễn Hữu Chỉnh, thế nào Tây Sơn cũng sẽ giết hắn. Đạo trời báo ứng không bao giờ sai; chỉ tiếc rằng ta không kịp trông thấy mà thôi.

Sau khi quận Thạc chết, thi hài được đem về chôn ở Sơn Tây, quân và dân ai cũng chảy nước mắt.

Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nắm hết quyền bính trong nước, việc gì cũng tự tay của y mà ra. Càng ngày y càng lộng hành, lòng người lìa tan, quan văn quan võ, ai cũng chán nản. Người nào theo lẽ công, giữ phép nước, đều bị bọn tướng sĩ cơ Vũ thành của Chỉnh quấy nhiễu. Người nào khảng khái dám nói thì nhiều khi bị chúng làm hại, tai hoạ xảy ra bất ngờ không sao mà lường được. Bởi thế, thường thường ai cũng kiêng nói. Cũng có người đã cáo bệnh, trả lại ấn tín, bỏ về nơi làng xóm.

Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của bọn trộm cướp.

Vua Lê lấy thế làm lo, bèn vời viên tham tụng cũ là Bùi Huy Bích vào triều để hỏi về việc thiên hạ. Bích sợ Chỉnh không dám nói gì, chỉ từ tạ mà rằng:

– Thần may được thi đỗ, nhưng không có tài giúp đời trị nước. Chúa Trịnh xưa cất nhắc thần làm việc trong chính phủ; lính kiêu dân oán, quân giặc lấn cướp, thần không có một chước gì để cứu vãn. Kinh thành bị hãm, chúa soái mắc nạn, cái tội làm lầm lỡ việc nước ấy, thần thật khó lòng mà trốn tránh. Nay nước nhà đã nhất thống, chính sự ban đầu đang sáng suốt, bệ hạ hãy nên tìm lấy những người tài giỏi khác. Còn như thần đây, thì dám đâu lại làm nhơ đến triều đình, để lỡ việc thiên hạ? Cúi xin bệ hạ cho thần được lui về nơi ruộng đồng, làng xóm.

Lúc lui ra, Bích bảo riêng với người thân tín rằng:

– Thiên hạ sắp loạn mất rồi! Từ đây ta cũng bỏ mà đi thôi.

Rồi đó, ông ta đem cả gia quyến dời sang xứ đông.

Viên đốc đồng trấn Nghệ An là Phạm Huy Khiêm cũng bỏ quan đi lên vùng thượng du huyện Thanh Chương mưu đồ việc khởi quân cần vương. Khiêm có đưa tờ hịch kể tội của Chỉnh, nhưng việc chưa thành thì đã chết (Huy Khiêm (có người đọc là Vĩ Khiêm, tức Phạm Nguyễn Du)).

Bấy giờ, trong bọn sĩ phu tại chức, lại có hạng người khác, nặng lòng công danh, lấy việc dẹp loạn, phò nguy làm trách nhiệm của mình. Họ tụ tập các người đồng chí, chiêu mộ quân lính nghĩa dũng. Hào kiệt bốn phương, khi nhận được chỉ thư, cũng theo lời hiệu triệu mà đến với họ. Những đám như vậy, khắp nơi đều có.

Viên đốc trấn Cao Bằng là Lưu Tiệp (có bản chép là Lưu Côn, Lưu Tiệp quê ở làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội) nhận tờ mật chỉ của chúa Trịnh. Còn viên đốc đồng là Nguyễn Hàn (Nguyễn Hàn quê ở xã Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, Tiệp và Hàn đều đỗ tiến sĩ) lại nhận tờ mật chỉ của vua Lê. Cả hai đều khuyên dỗ bọn phiên mục ở trấn ấy giúp sức, rồi lại cấp phát phù tín, sắm sửa khí giới cho họ, và dặn họ sẵn sàng chờ lệnh đòi gọi. Lúc bấy giờ một trấn Cao Bằng, chia làm hai đảng. Kẻ theo tiết chế của viên đốc trấn, thì không biết có viên đốc đồng. Người theo ước thúc của viên đốc đồng, thì lại không biết có viên đốc trấn. Hai người ai ở dinh nấy, không chịu họp chung với nhau. Tiếng là đồng liêu với nhau, thật ra chỉ là thù địch.

Tiệp ngầm sai viên phiên thuộc của mình đem thủ hạ về trá hàng Nguyễn Hàn, rồi lại cho người tới cầu hoà để đòi lại viên phiên thuộc cùng bọn đầu hàng ấy. Hàn không biết là mẹo lừa, cứ nhận bọn đầu hàng mà cự lời xin của Tiệp. Tiệp liền đem quân vây đánh Hàn. Bọn trá hàng bấy giờ mới nổi lên làm nội ứng cho Tiệp, quân của Hàn tức thì rối loạn tan vỡ. Hàn hoảng sợ vội vàng bỏ chạy, bị giết chết liền. Vợ con của Hàn ở trong dinh cũng đều bị giết tất cả. Do đó, trấn Cao Bằng rối loạn lung tung. Bọn hào mục kẻ nào giữ ấp trại của kẻ nấy, rồi đem quân đánh giết lẫn nhau. Tiệp cũng không thể ngăn nổi.

Cùng lúc đó, Hà Quốc Ký ở Lạng Sơn, Triệu Văn Khương ở Thái Nguyên, Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang, Đinh Văn Hồ ở Hưng Hoá và các tù trưởng ở vùng Phù Sương, Tây Lĩnh cũng đua theo, đâu đó đều chống lại mệnh lệnh của triều đình, quan lại ở trấn có người cũng bị chúng đuổi. Khắp trong bốn cõi không còn có chỗ nào yên tĩnh.

Thật là:

Quạ cáo tranh nhau, không đáng ngại.
Cọp, rồng đánh lộn, mới ghê thay!

Chưa biết đại thể ra sao? Hãy chờ hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi thứ chín

Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cõi
Quan bình chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn việc biên cương

Lại nói, khi ở Cao Bằng bắt đầu nhóm lên việc binh đao, Lưu Tiệp, Nguyễn Hàn đều có sai trạm đưa thư về kinh cáo biến. Tiệp bảo Hàn là phản nghịch, Hàn bảo Tiệp là phản nghịch, và cả hai đều nói “hiện đã điều quân vây đánh, chỉ khoảng mươi ngày sẽ bắt được kẻ có tội”.

Quan Bình chương là Phan Lê Phiên thấy thư ấy, rất kinh hãi mà rằng:

– Hai người đều là bậc thanh cao trong hàng triều sĩ, ra ngoài gánh việc phiên trấn, đáng lẽ phải vì việc công mà quên việc riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo nhau, lại đi cầm đầu cho cuộc quấy rối? Đồng loại làm hại nhau, đó cũng là một biến cố lớn! Đáng ghê! Đáng sợ!

Vừa lúc ấy, các viên trấn thủ ở bốn lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng đều lần lượt gửi thư hoả tốc về cáo biến.

Vua Lê bèn bàn với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh thưa:

Các trấn đem quân đánh nhau, cũng là thói thường của bọn tù trưởng ở ngoài bờ cõi, chỉ cần hạ một bức thư, báo cho họ biết đường hoạ phúc, chắc họ sẽ nghe theo; dẹp yên việc ấy, không có gì khó. Riêng việc biến cố ở Cao Bằng thì lại do các viên quan trấn gây ra, bọn tù trưởng trên ấy đều không đáng trách. Cái tội tự tiện đánh nhau, giết nhau, triều đình sẽ phải có phân xử, vậy xin giao xuống cho các quan họp bàn.

Quan đồng bình chương Trương Đăng Quỹ và quan tham tri Nguyễn Diệu đều xin gấp rút chọn hai viên đốc trấn, đốc đồng khác có tài cán lên coi thay việc trấn và luôn thể hạ chiếu chỉ triệu bọn Tiệp, Hàn về triều, may ra mới dẹp được cuộc rối loạn.

Phan Lê Phiên nói:

– Phải đấy! Rễ chùm, mấu cứng, phải dùng đồ sắc! Viên quan cử lên coi trấn ấy, không thể dễ dàng muốn sai ai cũng được.

Quan đồng bình chương Trần Công Xán nói tiếp:

– Việc loạn ở Cao Bằng hồi xưa, viên đại thần đã qua đời là Nghĩa thành vương (tức Nguyễn Đình Bá) vâng mệnh lên vỗ về, ở luôn trên trấn ấy bảy năm, nhân dân các bản đều mến phục. Sau ông mất tại đó, dân địa phương vì thương tiếc mà nghỉ mấy phiên chợ liền, lại dựng đền mà thờ. Quan xu mật hiện nay là Nguyễn Đình Tố (người ở Khoái Châu, Hưng Yên (Hải Hưng)), chính là con của Nghĩa thành vương. Ông ta là người rộng rãi có độ lượng, tài xử sự cũng nhanh, vậy xin gấp rút sai đi ngay.

Vua Lê bèn dùng Nguyễn Đình Tố làm đốc trấn Cao Bằng, lại sai Nguyễn Huy Túc làm phó đốc trấn. Rồi hạ lệnh giục hai người lên đường đi nhậm chức. Tố nói:

– Cha thần sinh ở Cao Bằng, mất ở Cao Bằng, thần cũng sinh ở Cao Bằng, nay lại lên đó, việc sau này có thể biết rồi. Vậy xin cho phép mười ngày để thần xếp đặt việc nhà.

Khi hai người lên đến giáp giới tỉnh Lạng Sơn thì nghe tin Hàn đã bị hại, Tố giật mình nói:

– Thương thay! Chết cũng bởi số, nhưng cũng lỗi tại ta đi chậm quá.

Rồi Tố lập tức giục trạm đi dấn lên. Khi trạm đầu báo tin quan đốc trấn mới là Nguyễn Đình Tố đến, thì tù trưởng các nơi đều vui mừng chờ đón. Lúc Tố đến Cao Bằng thì Lưu Tiệp còn đang đóng cửa thành, đánh nhau với dư đảng của Hàn. Tố vâng lệnh tuyên bố uy đức của nhà vua, bảo hai bên phải giải tán quân lính, rồi thong dong xếp đặt mọi việc, trong cõi lại yên ổn như thường.

Một hôm, vừa gặp lúc đến yết kiến đền thờ Nghĩa thành vương, Tố bảo Nguyễn Huy Túc:

– Tôi nay có lẽ sắp đi với tiền nhân, trách nhiệm ở bờ cõi rất nặng, rồi đây sẽ có những việc khó khăn, lớn lao. Trấn này thông với đất Trung Quốc, trước đây tôi đã đi sứ, cũng hơi thuộc đường lối, chỉ giận rằng không ở đây nữa. Ông còn ở đây, hãy nên cố gắng mà đương lấy mọi việc.

Tố lại ngoảnh sang các phiên trưởng mà dặn rằng:

– Sau khi tôi đi rồi, các ông chỉ nên nghe lệnh quan phó đốc trấn, chớ như vừa rồi, gây ra nhiều việc, thì thế nào cũng có vạ lớn.

Mọi người đều lấy làm lạ mà hỏi, thì Tố nói:

– Điều đó rất khó nói.

Chiều hôm ấy, Tố về doanh rồi chết.

Huy Túc một mặt lo liệu việc ma chay, một mặt viết thư báo tin cho triều đình, rồi vâng chỉ của vua lĩnh chức đốc trấn Cao Bằng.

Lại nói vua Tây Sơn từ lúc rút quân về Nam, đến Nghệ An ở lại mười ngày, giao cho phó tướng Nguyễn Duệ giữ đất này, cùng đô đốc là Chiêu Viễn đóng quân ở doanh Hà Trung (thuộc Hà Tĩnh).

Sau đó, vua Tây Sơn lại đổi Chiêu Viễn vào đóng ở châu Bố Chánh, Nguyễn Duệ coi doanh Kỳ Hoa, tả quân Võ Văn Nhậm đóng một đạo binh quan trọng ở Động Hải (Bố Chánh thuộc Quảng Bình. Kỳ Hoa thuộc Hà Tĩnh. Động Hải tức Đồng Hới Quảng Bình (Bình Trị Thiên)) để làm thanh viện và nương tựa lẫn nhau.

Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp, thượng công (tức Nguyễn Huệ) ngỏ lời yên uỷ dỗ dành, và bảo ở lại Nghệ An làm việc với Duệ. Bề ngoài tuy thượng công hứa hẹn với Chỉnh bằng những lời ngon ngọt, nhưng lại dặn riêng Duệ rằng:

– Chỉnh vốn người Bắc, trốn về với ta. Xem bộ hắn ta là kẻ phản phúc gian dối, không thể tin cậy. Vả chăng người Bắc oán hắn rất sâu. Ta định bỏ hắn, để cho hắn chết. Không ngờ hắn lại trốn chết cố theo. Nghệ An là quê hương của hắn. Nay để nhà ngươi ở lại đây, ngươi nên xem xét kỹ lòng người xứ này, xem theo ai chống ai và tình hình động tĩnh của hắn ra sao. Chiêu Viễn ở gần đấy, gọi một tiếng là đến. Tả quân cũng không xa đây lắm, có việc nên chăng, ngươi phải viết thư báo tin cho mau, và cùng bàn định với ông ta. Sống ở nước ngoài đất khách, ngươi phải để ý đề phòng cẩn thận, chớ có dễ dàng tin theo Chỉnh mà mắc mưu của hắn. Ngươi phải cẩn thận lắm mới được!

Sau khi thượng công về Nam, Chỉnh liền được chiếu chỉ nhà vua vời đưa quân ra Bắc. Lúc đi, Chỉnh để đồ đảng của mình là Nguyễn Duật ở lại làm việc với Duệ. Ngày chia tay lên đường, Chỉnh hai ba lần dặn dò và mong mỏi Duệ đối xử tử tế với mình; Duệ cũng tiễn đưa Chỉnh rất ân cần, tử tế.

Sau khi Chỉnh nắm được chính quyền, thường thường gửi thư qua lại với Duệ và biếu tặng rất hậu. Rồi Chỉnh lại ngầm sai người gọi Duật về kinh thành, để hỏi tình hình Tây Sơn và dò ý tứ của Duệ. Khi đã biết vua Tây Sơn và thượng công gây ra việc binh đao, anh em đánh lẫn nhau, tiếp đó lại được thư của Duệ hẹn cùng chung sức đánh vào phương Nam, thì Chỉnh rất mừng, cho là có thể mưu đồ lấy lại Nghệ An. Chỉnh bèn thu xếp mười lạng vàng và mười tấm đoạn, sai Duật đem vào biếu Duệ, nhân tiện lấy việc lợi hại hoạ phúc mà doạ hắn ta, lại dỗ dành hắn ta giữ lấy Nghệ An, ngăn chặn Chiêu Viễn, đắp lại luỹ cũ Hoành Sơn, và vạch sông Gianh làm nơi biên giới như việc cũ trước đây (chỉ vào cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn (1627-1672), sau lấy sông Gianh làm giới hạn để phân chia Đàng trong (Nam) và Đàng ngoài (Bắc)).

Lúc đó, người do thám của Võ Văn Nhậm ở Nghệ An biết rõ việc ấy, vội vàng về báo với Nhậm. Nhậm lập tức đưa binh phù triệu Duệ về. Duệ chống lại và nói:

– Tướng ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có khi không cần phải theo. Lúc thượng công về, giao cho tôi đóng giữ đất này, nay tôi không dám tự tiện rời khỏi trấn này.

Nhậm được thư ấy, liền nói:

– Quả nhiên Duệ làm phản rồi!

Tiếp đó, Nhậm lập tức gửi thư cáo biến với thượng công; trong thư có đoạn viết: “Ngày trước dùng Chỉnh tức là nhốt hổ gầm giường; ngày nay để Duệ, ấy là nuôi ong tay áo. Xin kíp phát quân ra Bắc, trước hết giết Duệ ở Nghệ An, rồi sau bắt Chỉnh ở Thăng Long. Dẹp loạn và bình định đất nước ở một chuyến này, cơ hội không nên bỏ lỡ…”

Trong lúc ấy, thượng công và vua Tây Sơn đang có việc xích mích, cuộc binh đao giữa hai anh em chưa dàn xếp xong, việc nội chiến ở miền Nam so với mối lo ở miền Bắc còn cần kíp hơn nhiều. Bởi vậy thượng công không quả quyết thi hành, bèn sai người báo cho Nhậm biết, và giục Nhậm tiến quân ra Nghệ An bắt Duệ; rồi sau đó sẽ kiểm điểm quân lính, thu góp lương thực, chia đi đóng đồn ở các nơi hiểm yếu và viết thư hỏi Chỉnh về tội thông mưu với Duệ, xem Chỉnh trả lời ra sao. Nếu Chỉnh còn biết sợ hãi, cố tình chối cãi, thì nên để đó sau này sẽ liệu, chưa nên đánh vội. Bằng Chỉnh ra mặt chống lại, thì như thế là đã có cớ, lúc ấy cứ việc tiến quân ra đánh cũng không muộn gì.

Nhậm vâng lệnh, tự mình đem đại quân đi gấp. Chỉ trong một ngày một đêm. Nhậm đã đến doanh Kỳ-hoa nhưng Duệ không còn ở đó nữa.

Số là mùa đông năm trước, thượng công nghe tin Chỉnh đem quân ra bảo vệ vua Lê, sợ có biến cố gì khác xảy ra, liền sai Nguyễn Văn Đức đem quân giữ phủ Diễn Châu cùng làm chức trấn thủ với Duệ, để nương tựa lẫn nhau. Kịp đến khi nghe miền Nam đánh nhau, Duệ và Đức đều gửi thư cho Chỉnh, mưu đồ hợp lực kéo quân về Nam, để thừa cơ làm loạn. Hai người hẹn rằng, sau khi đắc thắng, sẽ trả các đất từ Hoành Sơn ra Bắc, nhưng Chỉnh còn chần chừ chưa quyết định. Đến khi bị Nhậm phát giác, hai người bèn bỏ xứ Nghệ đem quân theo mạn ngược trở về Nam. Duệ về với vua Tây Sơn. Còn Đức vốn là một đại thần của chúa Nguyễn, bị quân Tây Sơn bắt, phải miễn cưỡng theo, chứ thực ra cũng không thích làm việc cho họ. Lúc đó, Đức bèn theo đường núi tây nam, trốn thẳng sang nước Tiêm La. Đức đi đã lâu, thượng công mới nhận được thư hoả tốc của Nhậm, vội sai quân đón bắt, nhưng cũng không kịp.

Nhậm đến Nghệ An, kiểm điểm binh lính, trưng thu lương thực, sửa soạn khí giới, rồi đưa thư ra Thăng Long, trách móc Chỉnh gay gắt.

Chỉnh được thư, giấu giếm không cho vua Lê biết, đoạn viết thư tạ tội, đại ý nói:

“Trước kia tôi bỏ nước cũ về với chúa công, nhờ ơn cho vào nơi mạc phủ, hầu hạ túi cung roi ngựa đến bốn năm năm. Mùa thu năm ngoái, đại quân về Nam không cho tôi biết, tôi cũng hiểu là thượng công muốn dùng cách đó thử tôi, để xem tôi lui tới ra sao. Lúc bấy giờ người Bắc cố lưu lại, nhưng tôi quả quyết bỏ họ mà đi. Nghĩ rằng lòng này không có đổi thay như thế, bậc cao minh hẳn đã soi xét đến. Lúc vào yết kiến thượng công ở Vĩnh Dinh, tôi xin đi theo quân đội về Nam, ngài bảo tôi rằng: “Quận Thạc, quận Nhưỡng còn làm ngang trở không thể không trừ khử, nhà ngươi hãy ở lại đây, lo liệu một phen”. Tôi dám đâu không theo mệnh lệnh? Tôi đã đem thân mình mà ruổi rong theo chúa (chỉ vua Tây Sơn) thì còn dám tiếc gì? Vì thế, tôi tự mình xông pha tên đạn, quyết chiến với bọn Thạc, Nhưỡng. Chỉ mong trừ được hai tên ngang ngược ấy, thì sẽ lập tức quay ngựa về Nam. Nhưng, tháng trước đây đánh ở Sơn Tây, mới bắt được có quận Thạc. Riêng Nhưỡng thì vẫn đang vùng vẫy ở miền Hải Dương, còn cần phải đánh dẹp vất vả. Bởi vậy cho nên tôi chưa về triều được. Những kẻ ghét tôi, thấy tôi ở lại đất Bắc, liền đặt lời gièm pha. Sao họ không xét rằng, sau khi thượng công về Nam, tôi chỉ ở lại Nghệ An hơn mười ngày, rồi lại ra Bắc ngay, thì còn thời giờ đâu mà mưu toan với Duệ? Từ đó kẻ Nam người Bắc, ai làm việc nấy, tôi có hề đi lại gì với Duệ đâu? Nếu xét rõ tình cảnh ấy, hẳn không cần phải chờ tôi biện bạch gì thêm. Vả chăng, cái ngày mà tôi làm việc chung với tướng quân, không phải không lâu. Nếu quả là tôi có lòng gì khác, hồ dễ đã giấu được cho khỏi lộ? Tướng quân nên chuyển đạt lời tôi đến trước chúa công, thì tôi đội ơn nhiều lắm!”.

Nhận được thư ấy, biết Chỉnh còn có ý sợ, Nhậm bèn viết bức thư khác, dùng lời nói khéo, vỗ về khuyên giải làm cho Chỉnh yên lòng, để mình còn có thì giờ sắp đặt công việc ở trấn Nghệ An. Tiện thể Nhậm cũng không quên buộc Chỉnh phải mau chóng dẹp yên quận Nhưỡng, rồi rút quân về Nam, để khỏi trái với ý định.

Chỉnh tiếp thư, không hiểu rõ ý của Nhậm, cho rằng Nhậm có thể dễ lừa phỉnh, chắc không phải lo gì về mặt Nam.

Lúc bấy giờ, trong ngoài đều đồn đại rằng tướng của Tây Sơn là tả quân Nhậm, kéo quân ra Nghệ An, kén chọn lính tráng, định kỳ xuất phát, chẳng bao lâu quân Tây Sơn lại tới, Thăng Long sẽ thành nơi chiến trường. Vì thế, trong kinh nhốn nháo, người chuyển vận đồ đạc, người bồng bế con cái, tranh nhau đi lánh nạn, lính Kim Ngô (tên một đội lính bảo vệ trật tự ở kinh đô) ngăn cấm không nổi. Nhiều viên đình thần đem việc đó tâu với vua Lê. Vua Lê liền triệu Chỉnh vào hỏi. Chỉnh tâu:

Người ta đồn nhảm, không cần phải tin. Thần đã cho người đi xem xét biết hết sự thật rồi. Vua Tây Sơn từ khi ở đất Bắc về Nam, liền vào thẳng chỗ quốc thành (tức Qui Nhơn). Còn thượng công thì đóng ở Phú Xuân, nghỉ quân để vui chơi, ban bố hiệu lệnh, sửa sang thành luỹ. Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy được ở Bắc về, thượng công đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên triệu, thượng công không chịu về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí này khác, thượng công đều tự tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn phong thượng công làm Bắc bình vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ chúa Trịnh. Thượng công cũng chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận lắm. Vì thế, anh em mới gây ra cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau còn dữ dội hơn là đối với nước thù địch. Ngay trong bọn họ với nhau cũng không đủ thì giờ để cứu vãn được tình thế cấp bách, đâu còn dám ra khỏi Hoành Sơn một bước để tranh quyền với ta? Ta cần làm sao cho việc nội trị có quy mô yên ổn, thế là sẽ được thái bình. Đến như trấn Nghệ An, thì chỉ cần sai một sứ giả đem bức quốc thư sang, bàn bạc với họ, một lời nói là xong. Ta cùng họ đã thành thông gia, ta cũng không cần lo xa làm gì.

Quan ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:

– Xưa nay tình hoà hảo thông gia, nói chung đều không thể tin cậy. Chỉ có bằng vào chước tự cường của mình, làm sao cho bờ cõi được vững chắc, ngăn chặn sự dòm dỏ của kẻ địch, thì như vậy mới có thể tin cậy được. Bắc bình vương cũng là một bậc anh hùng, xem thường ông ta không được đâu!

Chỉnh nói:

– Tôi đã từng cộng sự với ông ta, há lại không biết? Ông ta quả thật là bậc anh hùng, nhưng nhân tài xứ Bắc ta đây cũng không thua lắm. Vạn nhất xảy ra việc binh đao, tôi xin chọi với ông ta, còn như bọn Võ Văn Nhậm đã chiếm giữ đất Nghệ An, nhưng cứ mặc y. Quân nước ngoài ở trọ, chẳng qua cũng như bọn Chiêu võ, Thuận nghĩa hồi xưa chiếm đóng bảy huyện phía nam Nghệ An, không bao lâu rồi cũng lại về ta (chỉ việc các tướng của họ Nguyễn là Thuận nghĩa hầu, Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu võ hầu Nguyễn Hữu Dật, đánh chiếm được bảy huyện ở nam sông Lam hồi xưa (1655-1660), trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Về sau, các miền ấy, lại bị họ Trịnh giành lại).

Vua Lê nói:

– Nhân tình lo sợ, nghi ngờ, họ đang coi việc động tĩnh ở phương Nam để định sự thể khinh trọng của nước nhà. Ngươi nên tính kỹ liệu trước cho lòng trẫm được thư thái.

Chỉnh tâu:

– Đó là việc trong chức phận của thần, dám đâu không hết lòng hết sức?

Ngoài mặt, Chỉnh tuy nói năng khuếch khoác để trấn áp mọi người, nhưng kỳ thực, từ khi được thư của Nhậm, trong lòng Chỉnh rất đỗi lo sợ.

Một hôm vào chầu, Chỉnh đuổi người chung quanh ra mà nói kín với nhà vua rằng:

– Võ Văn Nhậm tuy là tả tướng trong soái phủ của Bắc bình vương, nhưng vốn là rể vua Tây Sơn. Lâu nay chỉ huy việc quân, y vẫn đóng vai con rể của nước. Nay thấy anh em Tây Sơn xích mích nhau, Nhậm là kẻ đứng giữa, cố nhiên là phải tuân theo tướng lệnh, nhưng trong lòng lẽ nào lại hoàn toàn không nghĩ gì đến bố vợ? Vừa rồi có tên do thám nói rằng: “Nhậm ở Động Hải nghe việc biến cố ấy, bèn xin về hầu. Nhưng Bắc bình vương không cho mà bảo ra thẳng Nghệ An. Nay Nhậm đang ở vào địa vị nguy ngập và bị ngờ vực, nên không thể không có ý trông về bên trong. Thần xin nhân cơ hội này để thương lượng về việc bờ cõi Nghệ An. Hết sức nhắm nhe vào ân tình của họ, lại lễ nhiều, lời ngọt, ngoài có Văn Nhậm tâng bốc, trong có công chúa đỡ lời; Bắc bình vương dù có lòng nào chăng nữa cũng không thể không gượng theo mình.

Vua Lê khen phải.

Sáng hôm sau, nhân buổi chầu sớm, vua nói với các quan rằng:

– Nghệ An liền kề với Thanh Hoa, là một quận phụ vào đất “thang mộc”. Con em đất ấy vẫn được lựa chọn vào quân túc vệ, làm nanh vuốt cho nước nhà. Đất ấy không thể để cho người khác chiếm giữ mãi. Trẫm sắp sai người đi Phú Xuân để bàn với Bắc bình vương một phen. Vậy các ngươi hãy chọn xem người nào có thể sung vào sứ bộ?

Trương Đăng Quỹ thưa:

– Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư là người ngay thẳng có thể làm được việc ấy.

Phan Lê Phiên nói:

– Giản cương trực có thừa mà mềm mỏng ôn hoà thì không đủ. Dư tuy nghị luận vững vàng, nhưng xét việc hơi chậm. Bắc bình vương là người rất quỷ quyệt, hay dùng mưu khôn lung lạc người ta. Trong lúc bàn bạc, khi nén xuống, khi nâng lên, không biết đường nào mà dò. Thần sợ rằng hai người ấy tranh biện với ông ta, thế nào rồi cũng làm hỏng việc nước.

Đình thần bàn mãi việc cử người, luôn mấy ngày vẫn chưa ngã ngũ. Chỉnh bèn tâu để Trần Công Xán đi.

Vua Lê nói:

– Được đấy!

Nhà vua bèn đòi Công Xán vào triều mà bảo rằng:

– Người là người trung trinh vì nước, lòng trẫm đã biết. Ngày xưa Phú Bật sang sứ Khiết Đan, làm cho nước địch phải kính trọng, công việc xong xuôi (Khiết Đan là một nước ở phía đông bắc Trung Quốc, thường hay xâm phạm bờ cõi. Đời vua Tống Nhân tông, quân Khiết Đan đến đóng sát biên giới và bắt nhà Tống phải cắt đất. Phú Bật được đi sứ, đã hết sức biện bạch, kết quả làm cho quân Khiết Đan phải lui và từ đó hai nước hoà bình được đến vài chục năm). Chuyến đi này, cũng giống như thế. Ngươi cố vì trẫm vâng mệnh ra đi, cũng là Phú Bật của nước Nam đó. Một vị hoàng thân cùng đi, trẫm đã sai Duy án (Cương mục chép là Duy Hiên), còn một viên phó sứ nữa thì tuỳ ngươi chọn lấy.

Xán hăng hái xin đi, và nói:

– Vua phải lo thì bề tôi mang nhục; thần đâu dám sợ khó khăn? Trong những người từng làm việc chung với thần mà thần đã biết, thì có Ngô Nho là có thể dùng được.

Vua ưng lời, rồi ban mệnh lệnh xuống. Cả triều đình đều khen là chọn được người xứng đáng.

Duy án là con thứ sáu của vua ý tông, và là ông chú họ nhà vua. án tính người cẩn thận, nho nhã và trung thực. Công chúa Ngọc Hân khi chưa lấy chồng, vẫn thường tôn kính án, mọi việc nên chăng đều hỏi ý kiến của án. Kịp đến khi công chúa về với Bắc bình vương, án thường nhân có việc tới gặp, Bắc bình vương cũng khen án nói năng lui tới có lễ độ. Lúc đó vì muốn luôn tiện hỏi thăm công chúa, cần chọn người hoàng thân xứng đáng, nên mới sai án đi.

Trần Công Xán, người làng Yên Vỹ, huyện Đông An, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm thìn (1772) đời Cảnh Hưng. Hồi Đoan nam vương còn coi giữ việc nước, Xán đang ở chức tả thị lang bộ công, được sung chức hành tham tụng. Trong cuộc biến loạn năm Bính ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến sát kinh kỳ, quân quận Thạc tan vỡ, các quan văn vỡ đang đêm đua nhau bỏ trốn, riêng có mình Xán xin với chúa quyết liều một trận sống chết. Xán bận quần áo trận, tay cầm gươm, hộ vệ chúa Trịnh ở lầu Ngũ Long.

Lúc Bắc bình vương vào kinh đô, vua Lê trước sai các quan lần lượt tới yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc bình vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng, riêng có Xán là tiến thoái như thường, không mất phong thể của bậc đại thần. Bắc bình vương lấy làm lạ, đã mấy lần mời Xán đến, hỏi việc Bắc Hà. Hỏi đâu Xán đáp luôn đấy, nói như suối chảy, không có chỗ nào ngập ngừng, ấp úng.

Có lúc Bắc bình vương cố ý hỏi vặn, nhưng Xán vẫn lật qua lật lại, tranh cãi nhiều lần, không mảy may chịu khuất phục.

Bắc bình vương bảo với tả hữu rằng:

“Ta nghe Bắc Hà rất nhiều nhân tài, nay đến tận nơi thì chỉ thấy Trần Công Xán là có khí sắc con người mà thôi!”.

Công Xán vốn được Bắc bình vương kính trọng là như vậy.

Xán đã từng làm thượng thư bộ Hình, được vào chầu ở toà Kinh-diên, rồi lĩnh chức đồng bình chương quân quốc trọng sự. Trong triều đình, Xán là người cương trực, gặp việc có tài ứng biến, lại thêm có học thuật, vì vậy ai cũng tôn trọng. Xán lại là thầy học của Chỉnh. Mỗi khi Chỉnh có tâm sự gì, không thể nói với người ngoài thì không khi nào không hỏi Xán để quyết định. Vì thế, chuyến này Chỉnh mới xin vua để sai Xán đi.

Ngô Nho người làng Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên. Trước kia Xán làm đài quan (tức là chức ngự sử) coi việc chấm thi, đã lấy Nho đậu tiến sĩ khoa ất-tỵ (1785), nên Nho vẫn theo lễ thầy học mà đối đãi với Xán, thường tới nhà Xán luôn. Nho thấy Xán là người khảng khái, có khí tiết lớn lao, không thèm xu phụ quyền thế, nên hai bên thanh khí hợp nhau. Xán cũng yêu và trọng Nho, vì thế bảo Nho đi với mình.

Khi Nho mới nghe lệnh ấy, liền vào gặp Xán. Xán bảo Nho rằng:

– Nước địch đè lấn, tin báo ngoài bờ cõi đang gấp. Nay chỉ biết ra đi chưa biết ngày về. Tôi là đại thần của nước nhà, nghĩa phải ra đi, sống thác không cần tính đến. Ông mới làm quan, ngôi thứ còn thấp, ở nhà lại có mẹ già. Trung hiếu không thể vẹn cả đôi đường, hãy thử nghĩ cho kỹ, tôi không dám ép ông đâu.

Nho trả lời:

– Tướng công chịu ơn dày của nước, tôi thì chịu ơn trí ngộ cao cả của tướng công. Đại thần gánh việc cho nước nhà, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, đều là nghĩa phải như thế, ngoài ra không biết đến việc gì khác.

Xán mừng mà rằng:

– Mạnh mẽ thay! Kẻ sĩ như thế đáng gọi là “đạt” vậy.

Rồi đem Nho vào yết kiến vua. Vua cho Nho lạy ở nội điện và hỏi:

– Nhà ngươi đã ôm ấp kinh luân, từng trải việc đời thử liệu xem chuyến đi này ra sao?

Nho tâu:

– Ngửa trông phúc lớn của nhà nước và mưu sâu của miếu đường, công việc xong xuôi tưởng cũng không khó. Vả lại lúc ấy đã có vị lương thần chuyên việc ứng đối, chắc sẽ không để nhục đến mệnh vua. Thần làm người giúp việc chỉ biết làm hết chức phận mà thôi.

Nhà vua gật đầu, rồi sai quan bình chương Phan Lê Phiên cùng với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh họp nhau bàn việc thảo quốc thư. Trong thư đại lược nói rằng:

” Nghệ An là đất nền móng trong cuộc trung hưng của bản triều, cùng với Thanh Hoa, đều là quận chân tay của nhà nước, quan văn tướng võ phần nhiều ở đó mà ra. Quân lính túc vệ cũng đều kén chọn đinh tráng ở xứ ấy sung vào. Nếu như dùng người mà bỏ đất, để họ cách trở quê hương, xa lìa thân thích, xét về nhân tình, rất là trái ngược. Đức vua quý quốc trọng điều tín nghĩa, hoà với láng giềng, “suy bụng ta ra bụng người”, chắc rằng không việc nhỏ mọn nào mà không soi thấu, huống chi là việc rõ ràng như thế. Nghĩ lại đức vua quý quốc lúc mới ra Bắc, vốn lấy việc tôn phò làm nghĩa thứ nhất. Tiên đế lúc sinh thời, từng mời ngồi trên giường, cầm tay cùng trò chuyện. Tiếng ngọc còn văng vẳng bên tai, vội quên sao được? Kịp đến khi tiên đế tựa ghế trối trăng mọi việc, ân cần lo cho kẻ tiểu tử này tuổi còn trẻ nhỏ, muốn nhờ vào phúc ấm của quý quốc, để làm nơi nương tựa. Gần đây nghe tin quý quốc sai tướng ra đóng ở Nghệ An, lòng người ngờ vực, có kẻ cho rằng đó là do bọn bề tôi ở biên giới gây việc, không phải bản ý của quý quốc vương. Đến lúc tiếp được bức thư tư ra, mới biết thật là vâng mệnh lệnh của quý quốc vương. Trong thư vin vào cớ mùa thu năm ngoái bản quốc đã hứa cắt đất khao quân. Kẻ tiểu tử này mới lên ngôi, chưa được rõ nguyên nhân việc trước, đã sai đình thần tra cứu lại cái ước cắt đất, thì là hai châu Bố Chánh, Minh Linh (Bố Chánh nay gồm các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá thuộc Quảng Bình. Minh Linh nay là Vĩnh Linh, Do Linh thuộc Quảng Trị (Bình Trị Thiên)), chứ không liên can gì tới bờ cõi xứ Nghệ An. Vả lại, hồi đó đã vâng lời quý quốc vương dụ rằng: “Quả là đất đai của nhà Lê, một tấc cũng không lấy”. Nay nếu khao quân bằng đất thì không bằng khao quân bằng của. Vậy xin tính số thu nhập hàng năm của đất ấy, dùng làm chi phí khao quân; rồi cứ hàng năm đưa đến biên giới, làm thành định lệ lâu dài. Xa trông quý quốc vương xét cho, để trọn tình hoà hảo của hai nước. Cả nước chúng tôi đều lấy làm may lắm!”.

Thư thảo xong, đệ lên vua xem. Vua sai lấy ở kho nội phủ một số vàng, đoạn màu, và lụa vải thổ sản làm đồ biếu tặng. Rồi vời Trần Công Xán vào trước mặt để dặn dò và giao cho mang đi. Ngay hôm đó, bọn Xán lên đường. Trăm quan đều tiễn chân đến ngoài kinh thành. Riêng Nguyễn Hữu Chỉnh thì cùng Xán ngủ đêm ở chùa Thịnh Liệt. Xán bảo Chỉnh rằng:

– Bắc bình vương là người hiểm sâu khó lường, chuyến đi này vị tất ông ta đã nghe theo. Nhưng tôi đã vâng mệnh nhà vua thì cứ liệu chiều biện luận, liều chết mà cãi. Còn công việc phòng bị thì sau khi tôi đi, ông phải chú ý thêm, chớ có sơ suất. Dọc theo địa phận miền núi Thanh Hoa, phải gấp rút chia đồn đóng giữ các nơi hiểm yếu đề phòng quân bộ. Cửa biển trong trấn Sơn Nam cũng nên đóng cọc ngang dòng sông, để chặn quân thuỷ. Nếu họ trái lời hẹn, mà tới đánh, thì ta đã có phòng bị trước, không đến nỗi để việc tới nơi mới hấp tấp.

Chỉnh nói:

– Xin thầy cứ đi, không cần phải quá lo. Lời nói của thầy ai chẳng nghe theo? Nếu không thì việc điều khiển quân lính của trò đây cũng chẳng kém ai. Vạn nhất có biến, há lại không làm nổi một trận sấm vang chớp giật, nghiêng biển, lật núi cho sướng bụng hay sao? Họ dù kiệt hiệt, cũng chẳng làm được gì.

Xán không cho lời nói của Chỉnh là phải.

Khi sứ thần đến đầu huyện Quỳnh Lưu thì có viên tướng của Võ Văn Nhậm sai ra đóng đồn ở đấy đón vào trong đồn. Xem xét đồ vật xong rồi, y chỉ cho ba viên sứ thần và mười tám người tôi tớ cùng đi, còn bao nhiêu đều bảo về.

Đến doanh trấn Nghệ An, Nhậm sai thết tiệc khoản đãi, rồi thong thả hỏi Xán rằng:

– Quan văn quan võ ở Bắc Hà như cụ phỏng được mấy người? Vua Lê giao nước cho tên giặc Chỉnh, ý ngài tự nghĩ ra sao? Tôi nay đã lĩnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long, trước chém đầu giặc Chỉnh sau hỏi tội vua Lê sao lại bội ơn dong nạp đứa làm phản? Rồi báo cáo rõ ràng với sĩ dân Bắc Hà, cho họ biết tại sao chúng tôi phải dùng quân? Vua Lê đã không giữ nổi nước nhà thì các trấn từ Thanh Hoa trở ra, chúng tôi không lấy, người khác cũng sẽ lấy. Nghệ An là một mảnh đất cỏn con, cắt hay không cắt có quan hệ gì đến việc mất còn của nước nhà mà phải đi xa xin xỏ cho mất công trèo non lội suối. Tôi chỉ e rằng con chim đã lìa tổ, đến lúc bay về lại không có cành để đậu nữa mà thôi!

Xán im lặng, mọi người nghe nói đều sợ hãi. Đến lúc trở ra, Xán bảo Nho rằng:

– Người Tây Sơn hành binh như bay, tiến quân rất gấp. Xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa hề nghe có giặc nào như thế. ý tôi đã lo xa, phải đề phòng trước, lúc đi đã dặn ông Bằng phải như thế, như thế, không biết ông ấy có nhớ không? Nếu hơi chậm trễ, việc sẽ không kịp.

Nói xong, than thở hồi lâu rồi đi. Nho bèn nói với Xán rằng:

– Xem mưu kín của chủ tướng họ, thì việc thôn tính nước mình họ đã sắp đặt sẵn sàng. Việc tôn phù năm trước chẳng qua chỉ là mượn cớ mà thôi. Bọn lang sói vốn sẵn bụng ác, quyết không thể nói bằng nhân nghĩa. Bây giờ xe sứ thần đã ra khỏi bờ cõi, kinh thành sắp bị nạn đinh đao, sự thế quá gấp, phải tính đường quyền biến để làm cho được việc, không nên câu nệ. Vả xem ông Bằng từ khi đắc chí đến nay, đai vàng ngang lưng, bộ dạng nhơn nhơn tự đắc, không còn như hồi trước “nhá rễ cây mà làm nên việc”. Tôi e rằng ông ta lính quýnh ra trận, thế nào cũng bị Võ Văn Nhậm bắt mất. Lúc đó vua ta đi hay ở lại, cũng chưa dám chắc. Chúng ta phải trù tính thế nào để ngấm ngầm xoay lại then máy, may ra mới có thể cứu vãn được. Chỉ cần cho nước được yên, dầu có tự tiện cũng không hề gì. Nếu cứ vâng chỉ cũ, cố tranh cãi về việc Nghệ An, thì đúng như người ta vẫn nói: “Cướp đã vào nhà còn sửa phên dậu”. Như thế thật là thất sách. Vậy xin chữa lại quốc thư để mang đi.

Xán nói:

– Chữa! Chữa như thế nào?

Nho nói:

– Chữa rằng: “Họ Trịnh chuyên quyền, vua Lê đã không còn nước. May nhờ quý quốc vương tôn phò. Nếu trời còn phù hộ nhà Lê, tiên đế đâu đến nỗi qua đời. Tôi là cháu kế tự còn nhỏ tuổi, nghĩ rằng gánh vác không nổi, để nhục cho xã tắc. Kinh thư có chữ “làm khách”, Kinh thi nói rằng “có khách” (hai câu này đều có nghĩa là muốn nhường nước cho người khác. ở đây, tỏ ý nhường cả nước cho Tây Sơn, và chỉ xin cắt lại cho một mảnh để vua Lê lấy chỗ thờ cúng tổ tiên mà thôi), đều là việc cũ đời xưa. Kính xin cắt cho một phần đất để được nối đời thờ phụng tổ tiên. Thật là thuận mệnh trời để mà sống còn, cầu lòng thương của trời về dài lâu vậy!”. Nếu họ chỉ muốn giữ nước, không có bụng làm hại mình, thấy nói như thế chắc hẳn phải mừng rỡ, thế nào họ cũng thả sứ thần về nước và chia đất cho ta. Nhân thế ta có thể khuyên vua ta hãy tạm ở đất ấy. Họ không có lòng ngờ ta, thì sẽ không đến dòm giỏ nữa. Bấy giờ ta sẽ lo tính dần dần như vua Thiếu Khang ở Luân ấp, vua Câu Tiễn ở Cối Kê, tự nhiên sẽ có ngày trung hưng. Nếu không thế, họ đã tức giận mà ra tay hung tàn, thì bọn mình chỉ làm ma biển khơi. Điều đó tuy chẳng đáng kể nhưng vua ta sau khi phiêu bạt, long đong, không còn tấc đất để nương tựa, thì dẫu đến tài như Khổng Minh cũng khó lòng mà trở tay.

Xán nói:

– Không được! Ông Bằng theo việc quân từ lúc đầu còn để chỏm, là tay lão luyện trong chốn trận mạc, nếu như đô thành mắc nạn binh đao, tưởng cũng không đến nỗi khốn đốn lắm. Hai nước đánh nhau, chưa biết ai thua ai được. Chúng ta vâng mệnh đi sứ, mới ra khỏi cõi mà đã chữa quốc thư, mạo lời chúa, chẳng những bị tội với nước mình, mà nếu bên địch khám phá ra chỗ lừa dối đó, họ cũng không dong mình; tai vạ càng lớn, tiếng cười không biết bao giờ mới hết. Chi bằng cứ minh bạch mà làm, việc thành hay bại là tại ông trời, ta có lo gì.

Từ đó Nho không dám nói nữa.

Khi đến Phú Xuân, các sứ thần bày lễ vật vào yết kiến Bắc bình vương. Xán trình quốc thư lên. Bắc bình vương xem qua một lượt, rồi vứt xuống đất mà nói to:

– Thư này ai làm? Nói ra toàn điều vô nghĩa lý. Người Bắc quen dùng lời lẽ để dử người. Ta không phải trẻ con mà lừa dối được đâu!

Xán vẫn không đổi nét mặt, ung dung trả lời:

– Xin đại vương hãy bớt giận, để tôi nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một lời rồi chết.

Bắc bình vương vốn trọng Xán, liền đổi nét mặt mà rằng:

– Ngày xưa ta vượt biển ra Bắc, phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước khiếp sợ, trong triều ngoài nội đều chịu bó tay, không ai dám làm gì. Lúc bấy giờ nếu ta chiếm giữ đất nước, xưng đế, xưng vương, gì mà chả được? Nhưng vì ta xa mến đức của tiên đến, nên đem cả cõi đất nguyên vẹn trả lại ngài. Cơ đồ thống nhất đều do tay ta gây dựng lại. Bắc triều lại dùng chế sách “thượng công” để đền đáp ta. Chẳng biết “thượng công”? là danh hiệu gì? Đối với ta có thêm được cái gì không? Kịp đến khi tiên đế chầu trời, lễ cả sơn lăng, ta giúp đỡ cho: tự vương nối ngôi, lễ lớn sách lập, ta chủ trương cho. Nay không cảm ơn những việc của ta làm, lại chứa chấp kẻ phản ta, chống cự với ta, mưu đồ dành lại đất Nghệ An. Xử sự như thế, nhân tình có ai nín nhịn được không? Ta đã phái ra hai vạn binh mã, sai tả quân Võ Văn Nhậm thống lĩnh, thẳng tới Thăng Long, chặt đầu cha con giặc Chỉnh về dâng. Chắc rằng khi Chỉnh nghe tin quân ta kéo ra, thế nào cũng kèm tự tôn bỏ chạy. Bấy giờ ở dưới gươm đao, ngọc đá lẫn lộn, không biết tự tôn có giữ được yên lành hay không? Nếu có làm sao, người trong nước lại qui oán về ta thì thật phiền.

Xán thưa:

– Xưa đức Lê Thái tổ dẹp yên quân Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh tông tự mình làm nên thái bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi Thạch Bi ra bắc, từ dẫy Đại Lĩnh (Thạch Bi ở Quảng Nam (Quảng Nam-Đà Nẵng) Đại Lĩnh ở Khánh Hoà (Phú Khánh)) vào nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn kính, trải qua hàng trăm năm. Họ Mạc tiếm ngôi, cả nước đều giận. Đấng tiên vương hội họp những người đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo cũng vì có công phò Lê, cho nên mới sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng ứng. Từ mấy đời nay, chúa Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không đổi thay, chuông khánh vẫn ở đấy (Chính sóc là ngày mùng 1 tháng giêng; xưa các vua sáng nghiệp khi lên ngôi thường đổi chính sóc, đây mượn ý đó để nói đến quyền vua. Chuông khánh (nguyên văn là chuông và giá khánh) là những đồ thờ của nhà vua; đây ý nói miếu đường của nhà vua vẫn tồn tại), thiên hạ vẫn là thiên hạ của nhà Lê. Đại vương ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng oai danh đã vang dậy khắp nơi, nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta tin phục, mới được như vậy. Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng như thế. Tiên đế thoạt thấy đại vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban sách mệnh làm tước công, rồi sau sẽ phong vương, đó là điển cũ của bản triều, không phải trả ơn không hậu, chớ nên thấy như thế mà cho là bạc. Một nước đã trải hơn ba trăm năm, trời cao chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem cả cõi đất trả lại nguyên vẹn, là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có thể lấy đấy làm ơn. Tiên đế mất đi, hoàng thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm trước với đại vương. Đại vương không làm chủ thì ai làm chủ nữa. Lý đã đến thế, đừng cũng chẳng được. Tôi không dám khen ngợi để dâng lời ton hót. Đại quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi theo, đại vương để hắn ở lại Nghệ An, sao lại bảo hắn làm phản? Nghệ An vốn là đất cũ của bản triều, bản triều phải giữ lấy bờ cõi, sao lại nói là tranh giành? Đại vương phái binh mã ra, nếu là để thăm hỏi, bản triều đã có lễ nghênh tiếp. Bằng không, thì như người xưa đã nói: “Nước lớn có quân đánh dẹp, nước nhỏ có cách chống giữ”. Tôi nay đã ra khỏi cõi, việc ấy không còn dám biết đến. Tự hoàng của nước tôi, trời đã sai làm vua, đế vương có chân mệnh, gươm đao cũng phải lựa chọn, đại vương chớ có lo. Nếu như đại vương cứ thuận lẽ trời mà làm, gây lại nước đã suy, nối lại họ đã dứt, để cho nước của nhà họ Lê được yên ổn, thì những người làm tôi làm dân trong cả nước ai chẳng cảm đội công đức, còn có oán gì? Nhược bằng làm trái lại, thì sự thế thay đổi khác thường, tôi đây ngu dại, không thể nào mà thấy trước được.

Xán cứ cãi đi cãi lại mãi, không chịu khuất phục một lời nào. Đến lúc trời sắp tối, Bắc bình vương bảo:

– Hãy ra nhà trọ mà nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ!

Xán nói:

– Nghĩ lắm luẩn quẩn lại dễ lầm lẫn, một chết là xong!

Bắc bình vương nổi giận, sai đem giam Xán vào ngục. Bọn án và Nho cũng đều bị chia ra giam ở các nơi khác.

Xán vào ngục, cười nói như thường, Bắc bình vương sai người đến dò, thấy Xán viết ở chỗ giam đôi câu đối như sau:

Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.

Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu? (nghĩa là: Đạt đức có ba, dù chẳng làm nên xin học. Giữ lòng như một, noi theo chí cũ, oán gì?)

Tư mã Ngô Văn Sở xin giết chết bọn Xán. Bắc bình vương còn tiếc tài của Xán, bèn bảo trung thư Lê Văn Kỷ và viên quan bộ Lễ là Vũ Văn Trụ rằng:

– Nhân vật Bắc Hà, Xán cũng vào bậc giỏi đấy! Ta muốn thu phục hắn để dùng, nhưng mà chắc hắn không chịu. Các ngươi thử hiểu dụ hắn một phen nữa xem sao?

Hai người bèn đến chỗ giam Xán, thấy Xán mang gông nằm sấp, liền nói:

– Ông già sao lại tự mình làm khổ mình như vậy?

Xán trả lời:

– Cũng là số mệnh đấy thôi!

Kỷ nói:

– Quân tử có khi không cần theo số mệnh, chế ngự được số mệnh là cốt ở mình. Ví như đánh bạc, đồng tiền một sấp một ngửa; ta theo kẻ được mà đánh, thiên hạ sẽ khen ta là người đánh bạc giỏi.

Xán nói:

– Bởi thế cho nên đó chỉ là phường cờ bạc, chứ không phải đạo của người quân tử. Tôi nghe nói: “Kẻ làm bề tôi phải chết vì chữ trung”. Đấy là lời dạy của người xưa!

Hai người biết là không thể làm lung lay được ý chí của Xán, liền đi ra và nói với nhau:

– Nhà Hán có Tô Tử Khanh (tức Tô Vũ đời Hán Võ đế. Khi đi sứ Hung Nô, Tô Vũ bị Hung Nô giữ lại, bắt nuôi dê ở Bắc Hải 19 năm ròng, mà Tô Vũ vẫn giữ khí tiết không chịu khuất phục) nhà Lê có Trần Công Xán. Đáng thương, nhưng cũng đáng ghét thay!

Vừa gặp lúc đó, vua Tây Sơn gửi thư ra kể tội lỗi của Bắc bình vương và sắp phái quân tới đánh. Tướng sĩ dưới cờ của Bắc bình vương có kẻ trốn đi, Bắc bình vương liền bảo Trần Văn Kỷ rằng:

– Nay nước ta có việc lôi thôi, lòng người còn phân vân. Việc biến trong nhà không nên để nước láng giềng nghe biết. Sứ Bắc ở đây, tai vách mạch rừng. Họ ở xa đến để dò xét ta, giữ họ ở lại thì họ biết rõ tình hình trong nước, hoặc giả nhân đó họ xúi giục, gây ra việc không hay. Thả họ về thì lại bị họ rêu rao làm lộ việc, người Bắc Hà mà biết, thì lại sinh lòng khinh rẻ ta. Bởi thế, ta định ném bọn họ xuống biển, để cho hết tiếng tăm dấu vết, vậy cứ theo chước đó mà làm.

Rồi Bắc bình vương sai đô đốc là Võ Văn Nguyệt sắp sẵn vài chiếc thuyền biển, nói phao là đưa sứ thần về Bắc.

Lúc bọn Xán vào từ giã, Bắc bình vương nói:

– Các ông hãy về trước, chờ lúc tôi ra ngoài ấy vời vào gặp mặt, sẽ có cách xử trí việc Nghệ An.

Rồi Bắc bình vương lại đem tặng họ một trăm nén bạc và bảo:

– Đây là của công chúa gửi tặng, các ông đừng chối từ.

Tiếng gọi là đưa họ về, nhưng thật ra Bắc bình vương đã ngầm bày mưu cho Nguyệt, người ngoài không ai được biết.

Tháng ba, mùa xuân năm Đinh vị (1787) thuyền từ cửa Tư Dung (thuộc Thuận Hoá, nay là cửa Tư Hiền) giương buồm ra đi, không mấy ngày đã đến cửa biển Đan Nhai thuộc thị trấn Nghệ An. Nguyệt cùng bọn sứ thần ghé thuyền vào bờ, rồi cùng lên bộ.

Lúc ấy có người học trò của Xán là giám sinh Nguyễn Hiên, người huyện Chân Lộc, nghe tin thầy học được về, vội mừng rỡ đến chào. Chợt thấy nét mặt Nguyệt có vẻ khác thường, Hiên ngầm đoán được ý của hắn, bèn nói kín với Xán hãy xin đổi đi đường bộ.

Nhưng Nguyệt nói:

– Tôi vâng mệnh đưa sứ giả đi đường biển, thuận tiện mà ổn thoả, không nên đi đường bộ, trèo non vượt suối vất vả.

Rồi đó, cả bọn lại lên thuyền ra biển.

Vừa ra đến ngoài khơi, Nguyệt liền bảo bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, dìm cả bọn sứ thần xuống biển. Hiên đứng trong bờ trông ra xa gào khóc hồi lâu mà về. Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng 4, mùa hè năm Đinh vị (1787).

Xong việc, Nguyệt lại ghé thuyền vào bờ, nói phao cho trong ngoài biết rằng, thuyền gặp sóng gió bị đắm, để tránh cái tiếng giết hại sứ giả. Lúc bấy giờ, có người làm hai câu thơ rằng:

Tên lưu vũ trụ bia ngàn thuở,

Nghĩa nặng cương thường biển vạn năm.

Từ lúc bọn Xán đi Nam, Chỉnh cho rằng việc thế nào cũng xong, nên đã nói toạc ra ở trong triều rằng:

– Tình hình Tây Sơn như ở trong tầm con mắt của ta. Họ sẽ mừng là ta đã không gây sự, để họ có thể chuyên tâm vào việc nước họ. Hiện nay cuộc nội chiến của họ đang rối ren, thì giờ đâu mà lo đến việc bên ngoài. Còn Võ Văn Nhậm thì chơ vơ ở Nghệ An ngoảnh về bên trong không có quân cứu viện, có làm được gì? Bắc bình vương thấy thư của ta đưa đến, thế nào cũng mừng mà nghe theo, xin đừng lo gì việc miền Nam!

Vì thế, những lời Xán dặn lúc ra đi, Chỉnh đều không để ý tới, chỉ tâu xin cho Nguyễn Duật làm trấn thủ Thanh Hoa mà thôi.

Lúc Duật sắp đi, Chỉnh dặn rằng:

– Chỉ nên giữ gìn bờ cõi cẩn thận, chớ có sinh sự để bên địch nghi ngờ. Đợi khi Trần bình chương trở về, sẽ dời vào làm trấn thủ Nghệ An, sửa lại luỹ cũ ở Hoành Sơn, giữ vững bờ cõi để làm chước lâu dài.

Quan bình chương Phan Lê Phiên nghe được chuyện ấy, liền đến nhà Chỉnh mà nói:

– Ông Trần đã già giặn việc đời, xét đoán công việc rất nhanh. Ngày thường ông ấy bàn bạc tính liệu như thần, đến lúc sự việc xảy ra, không việc gì là không đúng. Ông chớ nên xem thường!

Chỉnh cũng không cho là phải. Phiên ra ngoài nói với người bạn đồng liêu là Trương Đăng Quỹ rằng:

– Ông Bằng vốn có tiếng là biết việc binh, thế mà không nghe lời can, coi thường quân giặc, sợ rằng quốc đô mới qua một cuộc tàn phá, không thể chịu nổi một trận giày đạp nữa. Chúng ta gánh chức phụ bạt đã lâu, nếu “đổ mà không giữ, nguy mà không phò” thì còn dùng hạng tướng quốc như chúng ta làm gì?

Hai người than thở cùng nhau hồi lâu, rồi Phiên nói:

– Nghĩ lại công đức của tiên đế rất lớn, mà nay ngài chưa có miếu hiệu, không bàn định cho kịp lúc này, rốt cuộc điển lễ vẫn thiếu.

Hai người bèn cùng bàn với các quan, dùng sách vàng tôn xưng tiên đế làm Vĩnh hoàng đế, miếu hiệu Hiển tông. Rồi tâu với vua xin làm lễ cáo miếu. Chỉnh nói:

– Theo lễ, việc tôn xưng miếu hiệu phải chờ sau ngày đại tường, khi đã rước linh vị vào miếu rồi mới cử hành, làm gì mà gấp thế?

Phiên nói:

– Việc đời chưa biết thế nào, bây giờ chính là lúc cần phải tôn mỹ hiệu của tiên đế cho xong ngay đi!

Chỉnh nghe nói cũng im lặng.

Lại nói, lúc Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào kinh. án đô vương Trịnh Bồng chạy qua sông, sang trấn Kinh Bắc, vào tạm lánh ở làng Quế ổ. ở đấy có viên võ biền tên là Nguyễn Đình Toại (Cương mục chép là Nguyễn Trọng Mại) vâng mật chỉ của chúa kêu gọi các thổ hào vùng Thuận Thành, Từ Sơn mộ quân nghĩa dũng, mưu đồ đánh Chỉnh để dẹp yên nạn nước và khôi phục nghiệp cũ. Rồi đó, Toại lại đưa hịch cho các phiên thần ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, bảo họ họp quân lại, làm việc cần vương.

Chỉnh thấy vậy, luôn luôn tỏ ý muốn đánh, nhưng vì có Dương Trọng Tế chiếm giữ huyện Gia Lâm, đắp luỹ chống nhau với Chỉnh, đường đi còn bị ngáng trở một lối, nên Chỉnh đành phải tạm gác việc ấy lại chưa làm vội. Kịp đến khi Trọng Tế đã bị giết, Chỉnh bèn hối hả cho việc đánh chúa Trịnh là điều cần thứ nhất, liền tâu xin tự mình đem quân bản bộ tiến đánh.

Vua Lê nghĩ chúa Trịnh vốn có lòng kính thuận không nỡ đánh, vả trong bụng đang hết sức ghét Chỉnh, không muốn cho hắn đắc chí, sợ sẽ thành cái thế lấn át vua, nên muốn ngăn việc ấy lại. Nhưng rồi khó nói ra lời, nhà vua bèn sai viên nội hàn là Vũ Trinh tuyên rõ chỉ ý của vua và truyền cho Chỉnh biết rằng:

– Gia đinh họ Trịnh trải qua nhiều đời, thực có công lớn, nếu để người như Tử Văn mà phải tuyệt tự thì lấy gì mà khuyến khích điều thiện? (Tử Văn tên thực là Đấu Cốc Ô Đồ, người đời Xuân thu, làm quan nước Sở, có công lớn trong việc trị nước. Sau người em họ là Đấu Việt Thục làm loạn, đáng lẽ phải tru di cả họ, nhưng Sở Trang Vương tha tội cho người cháu của Tử Văn, và nói: “Người như Tử Văn mà bị tuyệt tự thì lấy gì mà khuyến khích điều thiện”). Chỉ bằng trước hãy làm bài cáo văn hiểu dụ rõ đường phúc hoạ cho y. Nếu y cứ u mê không tỉnh, sau đó ta hãy đem quân đánh. Ta cứ giữ niềm trung hậu, để cho người ngoài không nói vào đâu được, há không hơn hay sao?

Chỉnh không nghe, nói:

– Nếu tôi không đem quân ra, để cho việc Trọng Tế giúp chúa được thành, xem y có xử hậu với hoàng thượng không? Anh hùng làm việc, há lại theo lòng nhân đức của đàn bà?

Rồi Chỉnh cố xin ra quân, vua Lê bất đắc dĩ phải cho Chỉnh đốc suất các quân qua sông, thuyền bè chật cả mặt nước, khí thế rất là lẫm liệt đáng sợ.

Chúa Trịnh nghe tin, vội vàng sai Toại đốc suất người trong họ ở Quế ổ làm quân tiền phong, thổ hào Yên Dũng là Nguyễn Trọng Linh làm tướng chống bên tả, thổ hào Gia Bình là Trần Quan Châu làm tướng chống bên hữu, bày trận chờ sẵn.

Quân Chỉnh tới nơi, hai bên đánh nhau từ sáng đến trưa, chưa phân được thua; sau đều rút quân để nghỉ ngơi.

Chỉnh sai người đưa tờ chiếu của vua tới dụ chúa, khuyên nên qui thuận, không nên chống cự. Chúa cười mà nói:

– Hữu Chỉnh đến đây lần này, ý muốn bắt sống ta, nếu nuốt trôi được, chắc không chịu nhả ra. Nay lại lấy lời ngon ngọt dỗ ta, thằng nghịch tặc này quỉ quyệt đáng ghét thật. Tuy vậy, hắn đã mượn mệnh lệnh hoàng thượng đưa ra, ta không thể im lặng không trả lời.

Chúa bèn tự thảo một tờ biểu trần tình, kể tội ác của Chỉnh và nói nhân dân ai cũng nghiến răng tức giận, xin hãy giết Chỉnh đã, rồi sẽ về triều, lời lẽ có nhiều câu gay gắt.

Thật là:

Sống mái ngoài đồng còn chửa quyết,
Trai cò trong ruộng vẫn giằng co

Chưa biết thua được ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 10

Lân dương hầu phò chúa vượt biển đến Yên Quảng
Bằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn

Lại nói, Chỉnh thấy lời lẽ trong tờ biểu, gọi mình là thằng giặc, thì nổi giận đùng đùng, vung gươm quát to:

– Cái quân mất nước kia mà chưa biết sợ, còn dám múa bút khua lưỡi để lừa người trong nước! Hôm nay ta thề với hắn một sống một thác. Tướng sĩ các ngươi đều phải trông cờ nghe trống, ra sức xông vào trận mạc, chỉ có tiến không có lùi. Kẻ nào không nghe mệnh lệnh đã có thanh gươm này!

Rồi Chỉnh vận đồ trận, lên mình voi, cầm lá cờ đỏ vẫy các quân sĩ tiến về phía trước.

Nguyễn Như Thái tế ngựa vào trận hò reo “giết giặc”. Súng nổ, cung bắn, tên đạn bay tới tấp như mưa rào.

Quân bên tả của chúa chống không nổi cơ hồ sắp vỡ. Chúa bèn sai đội tiền phong hợp với hai đội tả hữu vừa đánh vừa lui vào trong luỹ, rồi chia quân để cố thủ.

Chỉnh dàn quân giáp liền với luỹ, bốn mặt đánh vào, suốt nửa ngày không lấy được luỹ. Đến tối, mưa dầm rả rích, gió thổi ào ào, trời đất đen ngòm, cách gang tấc không trông thấy gì. Chỉnh hạ lệnh cho quân lính vây sát luỹ của chúa. Chúa bèn chia quân làm ba toán. Những người dũng cảm thì làm hai cánh quân trước và sau, do Toại và Châu đốc suất. Những người già yếu thì cho làm cánh giữa, chúa tự dẫn đi.

Đêm đã yên lặng, chiêng trống im bặt, đèn lửa tắt hết. Ngoài luỹ súng bắn liên thanh không ngớt, mà trong luỹ im lặng như tờ. Chỉnh sai quân do thám ngầm đến dưới luỹ nghe ngóng, hình như trong luỹ không có người, nhưng cũng không lường được hư thực ra sao.

Đến canh tư, mưa và sấm sét lại nổi lên dữ dội.

Chúa sai mở rộng cửa luỹ, bảo Toại, Châu ra trước, mỗi người đem năm mươi tên dũng sĩ, đánh thẳng vào doanh của Chỉnh; Toại đánh mặt tả, Châu đánh mặt hữu, mở một đường ở giữa. Tiếp đó chúa dồn quân ra, nhằm phía đông mà chạy, để Toại và Châu làm đội chặn hậu.

Đêm ấy, quân của Chỉnh không phân biệt ai với ai, bắn nhau đâm nhau lộn bậy. Sáng ra mới biết rõ sự thật, thì đuổi theo không kịp nữa rồi. Chỉnh dồn quân vào luỹ, chỉ thấy nhà cửa rỗng không, sai quân tìm kiếm khí giới lương thực, chẳng được gì hết. Chỉnh rầu rầu không vui, liền rút quân về kinh.

Chúa Trịnh chạy đến Hàm Giang, nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng. Bao nhiêu quân lính già yếu, chúa đều cho về, chỉ để hai tướng Châu, Toại và hơn một trăm thủ hạ ở lại với mình. Nhưỡng sai dọn riêng một trại để cho chúa ở.

Tính Nhưỡng nóng nảy, lại không thông thạo nghề làm tướng, và cũng không phải thật thà có lòng trung nghĩa. Lời nói, việc làm thường ngày của Nhưỡng cũng đều là giả dối, cốt lấy tiếng mà thôi. Từ khi xuất thân tới nay, Nhưỡng chỉ quen thuỷ chiến, chứ chưa từng đốc suất lính bộ. Sau trận thua ở huyện Kim Động, Nhưỡng bỏ hết thuyền bè, thất thểu chạy về miền đông, giữ trấn thành Hải Dương. May nhờ ở đấy sẵn có quân lương, nhưng Nhưỡng không khéo vỗ về trăm họ, lại thả lỏng cho bộ hạ cướp bóc xóm làng, nên dân chúng hai phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng đều căm giận. Hào mục các nơi hùa nhau nổi lên đánh lại, Nhưỡng phải bỏ chạy về Hàm Giang. Khi nghe tin Tây Sơn đã về Nam, Nhưỡng lại kéo quân vào kinh, định mưu lập quận Thuỵ để chống vua Lê. Đến khi quận Thuỵ thua chạy. Nhưỡng bất đắc dĩ lại phải bám vào chúa Trịnh Bồng. Lúc nghe tin Chỉnh lại ra Bắc, sợ Chỉnh không dong mình, Nhưỡng bèn dẫn quân về đông, xin lĩnh hai trấn Hải Dương, Yên Quảng để tránh tai vạ. Khi chúa chạy về Quế ổ, Nhưỡng vẫn vẫy vùng ở phía đông, chưa hề lần nào đến thăm chúa. Đến lúc này, chúa đến Hàm Giang, Nhưỡng luôn luôn tỏ vẻ nhạt nhẽo, lễ ý xem chừng cũng đơn bạc. Toại và Châu đêm ngày ở bên cạnh chúa. Đối với Toại thì Nhưỡng ghen ghét là con nhà tướng; đối với Châu thì Nhưỡng khinh rẻ là kẻ bạch đinh. Hai người dò biết ý Nhưỡng, sợ có điều gì bất trắc, nên đều từ giã chúa và ra đi cùng một ngày.

Chúa khóc lóc tiễn đưa hai người và nói:

– Tục ngữ có câu “chết đuối vớ phải bọt”, bám cũng không được, chẳng bao lâu nữa ta cũng đi thôi, giữ các ngươi lại làm gì cho nhục!

Chúa ở lại hơn 10 ngày. Nhưỡng không hề nói đến việc quân, việc nước. Chợt một đêm, Nhưỡng tới chỗ chúa ở mà nói:

– Trời thanh trăng sáng, vẻ thu rất đẹp, thần đã đem rượu lên thuyền chờ đợi, xin chúa đi chơi một lúc, ngắm xem phong cảnh, cho khuây nỗi buồn.

Chúa tỏ vẻ sầu não mà rằng:

– Phong cảnh vẫn như thường mà ngước mắt thấy non sông khác lạ. Ta chưa giết được quân thù, không nên quên ngồi trên áo giáp. Bơi thuyền uống rượu không phải là việc của ta ngày nay. Tướng quân hãy đi mà chơi!

Sau khi Nhưỡng đi, chúa rầu rầu tựa ghế, bảo bọn người hầu:

– Quan võ đều không thể trông cậy, hoặc giả bọn quan văn có khá hơn chăng? Chúa bèn viết bức thư, sai người ngấm ngầm đưa cho quan bình chương là Trương Đăng Quỹ. Thư nói rằng:

“Kiếp này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nhà nước lắm nạn; lạm dự vào dòng đích nhà chúa, rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, may được hoàng thượng cho về triều kiến. Lúc mới về, chỉ muốn giữ lấy việc thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo hiếu, thực không có bụng chuyên quyền giữ nước. Sự thế đổi thay, lại bị chư tướng ép buộc, thành ra trái ý hoàng thượng. Lúc Chỉnh vào kinh, cung khuyết liền bị tiêu huỷ. Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu. Vì thế phải phiêu bạt giang hồ, không dám về nơi kinh khuyết. Nay Quế ổ, mai Hàm Giang, chỉ vì lo tìm nơi trú ngụ, bèn vướng lấy hình tích chống chế triều đình, khiến kẻ ghét mình có cớ mà nói. Mảnh lòng kính thuận, không có cách nào thấu đến bề trên. Ông hãy dùng lời lẽ khéo léo, tâu bày giúp cho. Lần này, dù tiến dù lui, tuỳ theo mệnh lệnh của hoàng thượng”.

Quỹ tiếp thư ấy, liền đem tâu vua. Vua ngậm ngùi mà rằng:

– Tấm lòng thật thà của chúa, trẫm đã lường biết. Chỉ vì không khéo xử sự trong lúc gặp biến cố nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi, trẫm sẽ có cách đỗi đãi, chẳng những giữ được dòng dõi, mà cũng không mất địa vị giàu sang.

Luôn dịp, vua Lê bèn sai Quỹ làm sứ thần đi nghênh tiếp, đón chúa về triều.

Lúc đó, chúa ở Hàm Giang, nghe nói Nhưỡng và Chỉnh ngấm ngầm thông tin tức với nhau, ngỡ rằng bọn chúng có mưu đồ gì khác, liền than rằng:

– Đây không phải là chỗ yên lành có thể ở được. Ta thà vượt biển vào núi còn hơn là ngồi lại mà chịu nhục.

Rồi chúa sai người hầu bí mật mượn mấy chiếc thuyền buôn, đang đêm đem cả đồ đảng, thuận gió giương buồm chạy thẳng tới Sơn Nam. Sáng ngày Nhưỡng mới biết, rất lấy làm kinh sợ mà nói:

– Chúa đi sang nam mà không bảo cho ta biết trước, phải chăng là có ý ngờ ta? Nếu không theo chúa, lòng này không sao bộc bạch ra được, thiên hạ sẽ cho ta là người thế nào?

Tức thì, Nhưỡng cũng cưỡi chiếc thuyền binh chạy theo chúa.

Chúa đến huyện Chân Định thì có Phạm Tôn Lân (Cương mục chép là Phạm Đình Thiện) lên thuyền yết kiến.

Lân quê ở làng Bác Trạch, huyện Chân Định (nay là huyện Kiến Xương, thuộc Thái Bình), vốn dòng dõi thế phiệt; ông tổ đời trước là Phạm Tôn Nhậm, một danh tướng của Trịnh Doanh, khoảng đầu niên hiệu Cảnh hưng từng lập được nhiều chiến công, trong quận ấp ai cũng kính phục. Tính Lân hào hiệp, khách ăn trong nhà thường có hàng trăm, khí giới cất giấu đầy đủ. Trong đám thổ hào của trấn Sơn Nam hạ, Lân là bậc nhất.

Lúc ấy gặp chúa, Lân bàn việc binh cùng chúa, và vạch chước tiến thủ. Chúa rất mừng và nói:

– Tiếc rằng ta gặp ngươi muộn quá! Ngươi hãy gắng giúp ta để nối công đức của tổ tiên ngày xưa.

Lân nói:

– Tuần vốn không có tài gì. May được nhờ oai linh của chúa, dám đâu không hết lòng hết sức.

Rồi đó, Lân mời chúa về nhà, nhóm họp đồ đảng, hộ vệ cho chúa.

Hôm sau, Nhưỡng cũng đã theo đến nơi. Trước hết. Nhưỡng sai người đưa một tờ khải cho chúa, trong nói:

“Nhà thần bao đời được đội ơn dày, một lòng với nhà chúa. Nay thần với Chỉnh, nói về tình tuy có quen thuộc, nhưng nói về thế thì không thể nào đứng đôi. Cả nước ai cũng biết điều đó, thần dám có lòng nào để nhục đến tổ tiên đời trước, xin chúa soi xét cho, khiến thần có thể lập được chút công, bù lại lỗi trước…”.

Chúa xem khải rồi hỏi ý Lân, Lân vốn nghe tiếng tăm của Nhưỡng, thường coi là tay cự phách xứ đông, nay may được chung sức làm việc thì rất lấy làm mừng, nên cố khuyên chúa đem lòng thành thực mà dùng Nhưỡng để thêm thế lực. Chúa nghe lời, Lân lập tức tự mình ra đón Nhưỡng cùng vào gặp chúa. Do đó, hai người rất là tương đắc. Họ liền đưa hịch đi các phủ Thái Bình, Kiến Xương, Thiên Trường (Thái Bình, Kiến Xương sau đều thuộc tỉnh Thái Bình. Thiên Trường sau là Xuân Trường thuộc Nam Định (Hà Nam Ninh)), hẹn cùng dấy quân đánh Chỉnh. Trong khoảng mười ngày, người theo về có đến vài vạn. Họ định ngày cùng tiến quân, thuyền bè đầy sông, thanh thế lừng lẫy xa gần đều hưởng ứng. Nhiều người cho rằng, nghiệp chúa có thể tính ngày mà khôi phục. Con em nhà quan lúc trước, như bọn Đoàn Nguyễn Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Nhữ Toản cũng đều chiêu mộ người làng đến họp. Các xứ đông tây cùng nổi dậy trong một lúc.

Bấy giờ Trương Đăng Quỹ vâng mệnh đi đón chúa, đến huyện Tiên Hưng, đường bị nghẽn, phải trở lại.

Vừa lúc ấy có người từ kinh thành tới yết kiến chúa, nói rõ việc Chỉnh chuyên quyền kiêu ngạo, lòng người không phục, vua cũng nghi kỵ, và khuyên chúa nên kíp tiến binh đánh Chỉnh. Chúa nói:

– Ta có viên tướng cũ là Bùi Nhuận, hiện ở kinh thành, coi quân Kim-ngô, lĩnh chức tứ thành đề lĩnh, có thể bảo y làm nội ứng. Chức trách của Nhuận là việc tuần phòng, chắc không ai nghi ngờ.

Rồi chúa bèn sai người đưa tờ chỉ bí mật cho Nhuận, nói về việc ấy.

Tiếp chỉ, Nhuận liền bàn với người thân tín. Đổi hết các quân canh giữ cửa ô. Con Hữu Chỉnh là Bái xuyên hầu dò biết việc đó, lập tức sai quân bắt Nhuận; rồi sai tướng của Chỉnh là Nguyễn Viết Tuyển hiện làm chức trấn thủ Sơn Nam đem quân đánh chúa.

Lúc lính thuỷ của Tuyển tới sông Ngô Đồng (thuộc huyện Giao Thuỷ, Nam Định (Hà Nam Ninh)), mà lính bộ chưa đến cửa Đại Hoàng (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), có người dò biết về báo với chúa. Nhưỡng đem hai chục thuyền biển lớn nhất, dàn ngang sông thành trận chữ “nhất”, trên đầu thuyền bày đặt các thứ súng, trông như bức thành. Quân Tuyển đến đánh, vì thuyền nhỏ không thể chống cự, nhiều chiếc bị súng Bảo-long bắn chìm xuống sông, Tuyển sợ, định lui giữ Hoàng-giang (tên sông, thuộc phủ Lý Nhân, Hà Nam (Hà Nam Ninh)) để cùng bộ binh nương tựa lẫn nhau.

Thình lình có gió đông nam nổi lên, Nhưỡng liền sai các hải thuyền tản ra, ghé sát vào hai bờ, rồi buộc thuyền lại mà lên bộ. Tiếp đó Nhưỡng chỉ huy quân lính từ trên bờ theo chiều gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Nhưng quân của Nhưỡng toàn là quân ô hợp, đứng, ngồi, tiến, lui chưa quen hiệu lệnh, lại hờ hững không có chí chiến đấu; nên sau khi lên bộ, hàng ngũ lộn xộn, chẳng ra sao. Tuyển ở dưới sông trông thấy vậy, liền hô to:

– Quân Nhưỡng thua rồi!

Thế là quân lính của Nhưỡng đâm nghi hoặc, rồi hoảng sợ, tan vỡ, đua nhau cướp đường mà chạy, giày xéo lẫn nhau, không sao ngăn cấm được nữa. Thuyền bè bỏ bừa ven sông, đều bị quân Tuyển bắt được.

Quân Lân ở sau, trông thấy quân của Nhưỡng thua chạy tan tác, lại nghe nói Nhưỡng đã bị giặc giết rồi, nên đều kinh ngạc run sợ. Riêng Lân cũng không thể kiềm thúc được nữa, thế là cùng lúc ấy, đám quân tan vỡ luôn. Lân bèn hộ vệ chúa, cưỡi một chiếc thuyền, xuôi dòng chạy sang phủ Thái Bình. Chừng nửa đêm, đến huyện Đông Quan, chợt nghe tiếng súng đùng đùng, giống như hiệu lệnh hành quân. Có người bảo quân Tuyển đuổi theo. Có người ngờ là bọn kẻ cướp. Sau Lân sai người đi dò, mới biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông.

Trần Mạnh Khuông là một người hào mục ở huyện Đông Quan, gia tư giàu có, lại có nghĩa khí. Khi mới tiếp được tờ hịch, lập tức tụ tập quân lính trong huyện để hưởng ứng việc nghĩa, hẹn ngày hôm ấy xuất quân ra đi. Lúc này quân Khuông đóng ở Bái Hạ, cách đấy không xa.

Nghe nói, chúa bèn vội vàng sai người đến gọi Khuông. Khuông theo sứ giả tới yết kiến, chúa nói:

– Quả nhân tài hèn, đức kém, không biết tự lượng sức mình, hễ hành động gì liền bị vấp ngã. Bây giờ nên làm thế nào?

Khuông nói:

– Thua được là sự thường của nhà binh, dù là đạo quân thắng trận luôn, cũng phải có một lúc thua trận. Cho nên tướng giỏi đời xưa trước hết phải xem hình thế, đắp doanh luỹ, chứa lương thực, phòng bị sẵn những khi xảy ra việc cần kíp, làm cho khi tiến có thể đánh, khi lui có thể giữ. Đó chính là cái chước vạn toàn, không làm gì đến nỗi thua một trận mà đã phải bẹp hẳn. ở huyện tôi có làng Bái Hạ, bốn mặt đều là đồng lầy, phía trước có sông lớn chặn ngang, chỉ có một lối ra vào, lại có khe nhỏ quanh co thông với con sông, có thể dùng để chuyển vận quân lương. Cuộc loạn lạc năm trước, địa phương đây ở vào chỗ xung yếu của hai vùng đông và nam, nên tôi đã cho sửa sang lại, nay hào rãnh đều đã bền vững. Chỉ hiềm luôn mấy năm mất mùa, thóc lúa tích trữ chưa được đầy đủ mà thôi. Xin chúa hãy tạm dời xa giá về đó, rồi thong thả sẽ tính chuyện sau.

Chúa Trịnh nghe theo, bèn phong cho Lân làm quân phủ trưởng sử. Khuông làm chức hành doanh sứ, dẫn quân vào đóng ở ấp Bái Hạ.

ở đó mới được vài đêm, Khuông sai người đi trưng thu lương thực chưa về, thì Chỉnh đã lại sai Nguyễn Như Thái đem lính bộ đến, hợp với quân của Tuyển, hai đường thuỷ bộ tiếp nhau, hai mặt trước sau đánh dồn lại. Trong đồn dựa vào tình thế hiểm yếu mà giữ, quân Chỉnh đánh luôn mười ngày không hạ được. Tuyển bèn đắp luỹ dài để tuyệt đường lương thực của quân chúa. Quân chúa hết lương đến nỗi phải đào cả củ chuối mà ăn, tình thế rất là khốn quẫn.

Lân và Khuông vội gọi các thủ hạ mà bảo rằng:

– Ngồi đây để làm con ma chết đói của làng Bái Hạ, sao bằng quyết một trận tử chiến, giết lấy vài trăm tên giặc cho sướng tay? Các ngươi ai là người có thể chung lòng góp sức với ta, để ta khỏi mang tiếng phụ chúa mà các ngươi cũng không mang tiếng phụ ta. Dẫu có chết còn được làm con ma trung nghĩa. May mà không chết, rồi đây công lao sự nghiệp sẽ không biết đến đâu mà lường!

Mọi người nghe nói đều cảm động, có hơn trăm người xin theo. Đêm đến, bốn bề đã vắng lặng, họ bèn cưỡi thuyền nan, theo đường khe mà đi ra. Nhân lúc Tuyển và Thái sơ ý, họ liền phóng hoả đốt doanh trại. Hai người hoang mang không kịp chống cự. Lân và Khuông tức thì phá vỡ vòng vây, đem chúa ra, cướp mấy chiếc thuyền, rồi theo cửa biển chạy thẳng về phía đông. Tuyển đem quân đuổi theo, nhưng không kịp. Thái thả quân vào làng Bái Hạ, chém giết lung tung, trai, gái, già, trẻ, không sót lại một người. Từ khi dấy cuộc binh đao tới lúc này, không chỗ nào không có nạn chém giết, nhưng chưa có đâu bị chém giết thảm hại như ở đây.

Lại nói, sau trận thua ở sông Ngô Đồng, Nhưỡng một mình chạy về phía đông, thuyền bè và đồ quân dụng bỏ mất gần hết.

Đến khi đồn Bái Hạ bị vỡ, chúa chạy về Hải Dương, lại cùng bọn Lân vượt biển tới đất Quảng Yên, giả làm khách buôn, chia nhau ở trọ trong các nhà dân ở châu Vạn Ninh (nay là đất Móng Cái (Quảng Ninh)). Chẳng bao lâu, Lân vì có việc nhà, cáo từ xin về, người theo hầu chúa chỉ còn lại Mạnh Khuông mà thôi. Sau đó hơn một tháng, Khuông lại mắc bệnh, rồi chết. Lúc bấy giờ, bên cạnh chúa không còn có ai, chúa một mình sống lẩn lút ở vùng ven biển, tình cảnh rất là điêu đứng.

Chúa nghĩ bụng: “Giầu sang ở kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy, ngày xưa đã có người xin thề đời đời đừng sinh vào nhà đế vương… Phật thương hết thảy chúng sinh bị chìm đắm trong biển khổ. óc Người thông suốt, ý kiến Người thông suốt, thật như gương sáng muôn đời. Từ lúc ta ở trọ đất Chương Đức đã có ý nghĩ như thế. Bây giờ nên quay đầu lại là hơn”.

Thế rồi chúa Trịnh gột sạch ma chướng ở đời, tự xưng là Hải đạt thiền sư, dạo khắp các chùa ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng.

Bấy giờ có người học trò đất Kinh Bắc tên là Vũ Kiền, chạy loạn lên ở Lạng Sơn. Một hôm Kiền gặp Hải đạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, nhân trong lúc đàm kinh thuyết pháp, Kiền ngầm biết đó là chúa, bèn báo với bọn phiên thần ở đó là Hà Quốc Ký, và Nguyễn Khắc Trần (có bản chép là Nguyễn Khắc Lâm).

Hai người bèn vờ nói là có việc làm chay, đón Hải đạt thiền sư về nhà, rồi đuổi hết người nhà ra mà bảo với nhà sư rằng:

– Chúng tôi nối đời làm bề tôi ở chốn biên cương. ở xa vẫn mến oai đức của triều đình, thường chỉ nghe người ta nói vua Lê chúa Trịnh như ở trên trời. Nếu như thiên hạ vô sự, bọn chúng tôi làm gì được trông thấy chúa. Chẳng may nhà nước có nạn, xe chúa phải tới nơi biên ải, thần dân ai chẳng đau lòng. Lúc này chính là dịp cho kẻ trung thần nghĩa sĩ ra tài linh luân. Vậy chúng tôi xin rước chúa về ở Đoàn Thành (tức thành trấn Lạng Sơn), xướng nghĩa cả, để lo việc hưng phục. Trông nhờ vào phúc hồng của chúa, thành được công lớn thì may chăng lũ tù trưởng nhỏ mọn ở xứ mọi rợ này được dự vào hàng cuối ở vân đài (Vân Đài: Đài cao chạm mây, nơi vua Minh-đế nhà Hán sai vẽ hình 28 người công thần), ấy là ý nguyện của chúng tôi.

Nhà sư nhắm mắt chắp tay, khoan thai trả lời:

– Sư già này xuất gia theo Phật, không can dự gì đến việc đời. Các ông chớ có nhận lầm, khiến cho đương lúc yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu nỗi phiền não. Trong thiên hạ, ai là vua, ai là chúa, đã có mệnh trời; sư già này chỉ biết một lọ một bát, tu hành ở cửa thiền, làm môn đồ đức Phật Như lai mà thôi.

Vũ Kiền lúc ấy cũng thưa rằng:

– Thần tuy chưa được vào chầu phủ chúa, nhưng khi du học ở kinh sư cũng đã từng trông trộm dung nhan của chúa. Người trong nước còn có lòng ấy, chúa cũng không nên từ chối. Thần nghe nói, nghiệp vương phải khó nhọc, không thể ngồi yên mà làm nên được. Bởi vậy, Quang Võ đã phải bạc cả tóc đầu, Tiên chúa (Quang Võ là vua đầu nhà Đông-Hán. Tiên chúa tức Lưu Bị, là vua nhà Thục đời Tam-quốc) thì phải mòn hết thịt vế. Những cơn nguy hiểm ở Quế ổ và Bái Hạ gần đây, cũng giống việc Tuy Thuỷ, Hô Đà đời Hán (theo Hán thư, sau khi Hán vương là Lưu Bang vào chiếm Bành Thành, Sở vương là Hạng Võ đem quân trở về, phá tan quân Hán trên sông Tuy Thuỷ và vây Hán vương ba vòng, may gặp có gió lớn nổi lên, thổi tan quân Sở, Hán vương mới chạy thoát.

Cũng theo Hán thư: Khi vua Quang Võ đi đến trạm Khúc-Dương, phía sau có quân Lương Vang theo đuổi, mọi người đều kinh sợ, Quang Võ cho người đi dò đường thì họ nói, trước mặt có sông Hô Đà nước chảy mạnh lắm, không thể qua được. Quang Võ lại bảo Vương Bá đi xem lại. Vương Bá e quân lính hoảng sợ, bèn nói dối là ở sông băng giá đóng rất chắc, có thể đi qua được. Quang Võ bèn bảo Bá hộ vệ mình qua sông, nhưng mới qua được mấy người thì băng đã tan. ở đây, mượn hai điển này để nói làm nên nghiệp lớn thế nào cũng phải trải qua nhiều gian nan, nguy hiểm thì mới đi tới thành công), chỉ vì không nản chí, không ngã lòng, rốt cuộc họ đã làm nên nghiệp lớn. Thần chưa từng bao giờ thấy ai đường đường là một vị vương giả mà lại lui về làm nhà sư nhàn hạ. Xin chúa hãy nghĩ lại!

Nhà sư khóc và nói:

– Cái cảnh “Thử ly” “Mạch tú” (“Thử ly” là một bài thơ trong Kinh Thi nói về cảnh cung điện nhà Chu bị tan hoang thành ra ruộng lúa. “Mạch Tú” là bài hát của Cơ tử nói về việc nhà Thương mất nước, cung điện thành ruộng cấy lúa mạch. – ở đây chỉ cảnh tang thương của họ Trịnh) ở đâu cũng đều cảm động. Ta không phải là loài gỗ đá, sao không căm hờn. Nhưng đã biết sức của ta, mà vẫn không thể dành được với trời, nên đành phải nín nhịn để giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn lần nữa?

Chúa đã nói lộ bản tướng, liền bị mọi người vin lấy mà bắt buộc phải truyền sắc lệnh ra để điểm quân, thu lương.

Bọn Ký và Trần đều là kẻ tầm thường, không nghiêm cấm nổi thủ hạ, để chúng làm bừa những việc phi pháp. Nhân dân không thể chịu đựng được, họ bèn nổi lên làm loạn, giết bọn Ký và Trần, rồi đuổi chúa đi. Chúa chạy về đất Hữu Lũng (nay thuộc Lạng Sơn) rồi từ đó nấp náu trong chốn núi rừng, cả nước không còn thấy mặt chúa ở đâu nữa.

Họ Trịnh từ Thái vương là Trịnh Kiểm thụ phong, truyền đến Thịnh vương là Trịnh Sâm, vừa được tám đời thì xảy ra biến loạn. Rồi đến Đoan nam vương là Trịnh Khải, án đô vương là Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết. Tất cả trước sau gồm 243 năm (theo Lịch triều hiến chương lại chí thì tất cả là 248 năm, gồm 11 đời chúa, kể từ Trịnh Kiểm năm Kỷ hợi (1539) đến Trịnh Bồng năm Bính ngọ (1786)).

Xét trong địa ký chép về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh có lời đoán rằng:

“Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ”.

Xem thế đủ biết, cái lý hưng vong tuy là việc của người, mà cũng tự có số mệnh vậy.

Lại nói sau khi Chỉnh đưa Tây Sơn vào nước, dân chúng oán Chỉnh thấu đến xương tuỷ. Lúc Chỉnh tất tả chạy về Nghệ An, người cả một xứ ai cũng muốn giết Chỉnh cho hả dạ. May được vua Lê có chỉ vời, Chỉnh bèn lấy việc dấy quân ra bảo vệ nhà vua mà thoát khỏi tai nạn. Rồi Chỉnh lại được nhà vua mở lòng tin dùng, cho nên mọi người trong ngoài chỉ dám oán mà không dám nói. Các quan văn võ trước kia chạy trốn ra ngoài, đều dấy quân và lên tiếng giết Chỉnh. Chỉnh mượn nhà vua để sai khiến cả nước, tự tiện làm oai làm phúc, luôn luôn đem quân đi trừ khử những người muốn làm hại mình. Thế rồi, bắt Trọng Tế, giết Phùng Cơ, đem quân đánh mãi án đô vương, làm cho vương phải chạy trốn lang thang không dám về kinh.

Việc Chỉnh làm phần nhiều là càn bậy, nhưng đụng đâu là thắng đấy, nên chẳng ai biết làm thế nào. Vì thế, Chỉnh càng ngày càng làm lắm điều bạo ngược, Chỉnh tự cho rằng người đời chẳng ai bằng mình. Thậm chí Chỉnh coi nhà vua như đứa trẻ con, khi bảo làm thế này, khi bảo làm thế kia, không còn kiêng sợ gì cả. Bụng Chỉnh còn e dè, chỉ một Bắc bình vương mà thôi. Chỉnh thường nói riêng với người thân tín rằng:

– Bắc bình vương là người anh hùng hào kiệt ở miền Nam ta cũng không thua. Hắn quỷ quyệt hơn ta, nhưng ta khôn ngoan hơn hắn. Năm trước ta từng cộng sự với hắn, nên ngày nay hãy nhường hắn một nước cờ, đợi khi trong nước tạm yên, ta sẽ chuyên tâm lo việc phương Nam. Lúc đó ta có thể tập hợp binh mã, cùng hắn giao phong trong một trận lớn lao. Đã trừ khử được vật ngăn trở rồi, thì từ dải đèo Ngang trở về Nam, lại là bờ cõi của nước nhà. Nay Trần bình chương vào Nam bàn việc bờ cõi, dù bất đắc dĩ mà phải nhường đất Nghệ An cho họ, thì cũng như cái mưu khôn xưa nước Tấn đem ngọc bích và ngựa tốt đút cho nước Ngu, Hán Cao tổ đem đất Quan Trung nhường cho Hạng Vũ đấy thôi (thời Xuân thu, nước Tấn lấy ngựa hay và ngọc quý đút lót cho nước Ngu để mượn đường sang đánh nước Quắc; đến khi diệt được nước Quắc rồi, Tấn liền quay lại diệt luôn cả nước Ngu, thu lại ngựa và ngọc đã biếu-việc Hán Cao-tổ cũng tương tự, tạm nhường đất Quan Trung cho Hạng Vũ rồi sau lại lấy lại). Đúng như lời sách xưa đã nói: “Định lấy của nó hãy tạm cho nó” (câu này nguyên văn chữ Hán là “Tương dục thủ chi tất cô dữ chi” Trong Đạo đức kinh của Lão Tử cũng có câu tương tự là: “Tương dục đoạt chi, tất cô dữ chi” (muốn chiếm đoạt của nó, hãy tạm cho nó). Có thể tác giả dẫn câu này là thoát thai từ câu của Lão Tử). Điều đó người thường không thể biết được!

Vì thế, đối với việc Nghệ An, Chỉnh mới dùng lễ vật nhiều, lời nói ngọt, mong sao cho được vô sự; lại đem hết những điều uỷ khúc trong lòng mà dặn dò Trần Công Xán. Chỉnh cho rằng chuyến đi ấy thế nào cũng dẹp yên được việc binh đao, nên không còn để ý đến việc quân lữ và việc bờ cõi nữa. Không ngờ rằng Bắc bình vương lập tâm bắt Chỉnh đã lâu, nhưng cơ mưu giấu kín quá nên Chỉnh không biết. Hoặc có người nhắc đến việc biên cương thì Chỉnh cũng xem thường, cho là kẻ hiếu sự đoán mò hay cho là tin đồn nhảm ngoài đường sá mà thôi. Tới lúc sứ bộ chết đắm ở biển, nhiều người trong triều bảo đó là do Bắc bình vương sợ lộ việc tranh chấp ở miền Nam mà giết ngầm đi, khi nội biến đã yên, thế nào họ cũng sẽ mưu đồ đánh ta; Chỉnh cũng vẫn không cho là phải…

Sau khi Bắc bình vương đã hoà với vua Tây Sơn (theo các tài liệu lịch sử, thì hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giảng hoà với nhau ở thành Qui Nhơn (Nghĩa Bình) liền trở về Phú Xuân mở đại hội các tướng mà bảo họ rằng: “Nguyễn Chỉnh là người đã chết, ta lại vẽ mặt vẽ mày cho. Nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê để sai khiến cả nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ giành đất Nghệ An, đặt làm một trấn quan trọng, để bắt chước việc chúa Trịnh xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết. Không biết hắn đã sắp sẵn được bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận hay không?”

Tức thì, Bắc bình vương sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, kéo quân ra Nghệ An, họp cùng Võ Văn Nhậm tính việc đánh dẹp phương Bắc. Tiếp đó lại cho Võ Văn Nhậm lĩnh ấn tiết chế, các tướng đều phải ở dưới quyền. Khi sắp đặt đã xong, Bắc bình vương hạ lệnh giục họ tiến quân. Bấy giờ đúng vào tháng mười một mùa đông năm Đinh vị (1787).

Khi Văn Nhậm kéo quân qua Thổ Sơn, trấn thủ Thanh Hoa là Lê Duật không dám chống cự, rút quân lui giữ Trinh Giang (sông Trinh Giang thuộc xã Trinh Sơn, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá), rồi cho người phi ngựa về kinh cáo cấp. Tin cáo cấp một ngày đến chín lần, làm cho kinh thành nhao lên, nhân tình tan rã, vội vàng mang xách, bồng bế nhau ra ngoài thành để trốn tránh: phố phường đều đóng cửa thôi buôn bán đường sá cũng ít người đi lại, trong chốn đài sảnh chỉ còn người có chức vụ ở lại mà thôi.

Vua Lê sai các quan cùng họp ở dinh của Chỉnh để bàn cách đánh giữ. Chỉnh nói:

– Đời nhà Tấn, khi quân nhà Tần ập đến bờ cõi, Tạ An vẫn cười nói như thường; đời Tống, khi quân Khiết Đan vào sâu trong nước, Khấu Chuẩn vẫn điềm nhiên như không. Các vị đại thần, cần phải trấn tĩnh, không nên tự mình bối rối trước, chỉ tổ làm cho lung lay lòng người. Chức trách của Lê Duật là giữ đất đai, thấy giặc đến không thể không báo cáo, nhưng y cũng là một tay tướng giỏi. Võ Văn Nhậm vị tất đã dễ dàng nuốt sống được y. Vả chăng, sông Trinh Giang, sông Thanh Quyết (sông Thanh Quyết tức khúc sông Đáy thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), sông sâu nước lạnh, dù có thiên binh vạn mã chưa dễ đã vượt qua được một cách yên ổn. Công việc đánh hay giữ, đã có định cục, làm gì mà phải luống cuống.

Quan phó đô ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:

– Thanh Hoa là đất “thang mộc”, lăng tẩm mấy triều đều ở đấy. Nay người Tây Sơn tới đánh, cả vùng Tĩnh Gia đã bị chiếm mất, còn các vùng Thiệu Thiên, Hà Trung đều thành chiến trường, xã tắc nguy như treo trên sợi tóc. Ông làm vị quan đầu triều, binh quyền ở trong tay, định cục thế nào, thử nói ra cho rõ ràng, để chúng tôi đều đem hết ý kiến nông cạn, cùng ông lo liệu. Việc thiên hạ không phải là chuyện riêng một nhà, sao không nói cho mọi người đều biết? Ngày xưa người Nguyên cười người Tống rằng: “Đợi khi chúng bay bàn bạc ổn thoả thì ta đã qua sông rồi”. Nay không lo liệu cho sớm, chờ khi quân giặc đã đến ô Cầu Dền thì giả sử Tạ An, Khấu Chuẩn (Tạ An, người đời Tấn, làm Đại đô đốc, có tài chỉ huy, đã cứu nguy cho kinh đô trong lúc đang bị hàng trăm vạn quân Bồ Kiên uy hiếp. – Khấu Chuẩn, người đời Tống, khi quân Khiết Đan xâm phạm bờ cõi, được vua Chân Tông giao cho chỉ huy quân sự, ông đã dùng kế buộc địch phải rút về nước) có sống lại, họ cũng không thể trấn tĩnh được!

Ninh Tốn và Nguyễn Bá Lan (có bản chép Nguyễn Nhuận) cũng đều nói:

– Quan ngự sử nói rất đúng.

Ngày thường Chỉnh quen dùng miệng lưỡi để lấn át người ta, người ta cũng sợ khí thế của y, nên không dám tranh cãi lại. Nhưng lúc ấy, tin tức về quân địch gấp rút đưa đến, trong bụng rối beng, lại bị Giản bẻ, nên Chỉnh chưa biết trả lời ra sao. Quan bình chương Phan Lê Phiên nói:

– Không cần nói nhiều, quân giặc đến chỉ có đánh mà thôi. Bộ hạ của ông, người nào có thể làm tướng, xin tâu với hoàng thượng cho làm tướng; toà Xu mật sẽ cấp binh bài, toà Độ chi sẽ cấp lương thực, ngày nay vào bái mạng, ngày mai tức tốc lên đường, không thể chậm trễ!

Chỉnh nói:

– ý tôi cũng vậy, nói trấn tĩnh là nghĩa như thế!

Chỉnh liền tâu vua cho Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ, đem quân cùng họp với Duật, chống địch ở trấn Thanh Hoa.

Lại nói, Duật đóng quân ở Trinh Giang, Nhậm bèn sai người đến báo rằng:

– Ngày mai đại quân qua sông, ngươi dám đánh nhau thì bày trận chờ đợi. Nếu không có thể đánh nhau thì mau mau tới đầu hàng.

Lúc đó Nhậm đóng quân ở phía nam Trinh Giang, trước tiên sai Ngô Văn Sở đem quân men theo chân núi đi về phía tây, cất lẻn qua sông Tất Mã, đánh úp phía sau quân Duật. Duật không hề biết, tối hôm ấy rút quân chạy cả đêm; hôm sau tới Cao Lũng, đã thấy quân Sở ở đấy, quân Duật sợ hãi, chạy tan tác ra tứ phía. Duật bị quân Sở giết chết. Khí giới, lương thực, hết thảy đều bị địch thu lượm.

Quân Nguyễn Như Thái đi đến Châu Cầu (nay là thị xã Phủ Lý, Hà Nam (Hà Nam Ninh)), nghe tin Duật đã thua và chết, vội gọi Ninh Tốn cùng bàn, Tốn nói:

– Binh pháp dạy rằng: “Tranh được núi thì thắng, giữ chỗ hiểm thì vững”. Giữa Thanh Hoa nội và Thanh Hoa ngoại có núi Tam Điệp (tục gọi là núi Ba Dội, ở chỗ giáp giới giữa Thanh Hoá và Ninh Bình ngày nay) ngăn cách, ấy là chỗ trời đất xây dựng, rất là hiểm yếu. Ta nên tiến quân gấp để giữ lấy, chớ để quân giặc chiếm trước. Được như vậy thì từ Trường Yên (tên phủ, sau đổi là Yên-Khánh, thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) về bắc còn là của mình. Nếu núi Tam Điệp mà mất, thì lộ Nam Sơn thênh thang với những cánh đồng bằng phẳng rộng rãi, e khó tranh nhau với giặc, việc nước sẽ không thể làm thế nào được nữa.

Thái cho là phải, lập tức chỉnh đốn đội ngũ, đang đêm gấp rút tiến quân. Mờ sáng, quân Thái qua sông Giản Khẩu (tức sông Gián, cũng thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) thì nghe tin quân Nhậm đã vượt qua núi Tam Điệp, Phan Văn Lân đã đem quân tuyển phong đóng ở Hàm Mai (có sách chép là Đa Mai), cách đấy chỉ có vài dặm. Thái vỗ ngực kêu to mấy tiếng, rồi đem quân bày trận trên bờ sông Giản để chờ địch.

Quân Tây Sơn đến, chia hai ngả đánh kẹp vào. Quân Thái lẻ loi không có quân cứu viện, cố sức đánh nhau từ sáng đến trưa, tên đạn đều hết sạch. Bọn lính ở đằng trước trở giáo hàng địch. Thái biết thế không thể chống nổi, bèn cùng vài chục người bộ thuộc, phi ngựa chạy về phía bắc. Quân địch đuổi theo, bắn chết hết. Ninh Tốn chạy trốn vào nhà dân, được thoát nạn.

Văn Nhậm đã thắng trận, tức thì dẫn quân tiến lên.

Chỉnh đang ăn thì tin báo đến nơi, luống cuống vứt đũa, chạy vội vào nhà, gọi Hữu Du và bảo:

– Chiến tướng của ta chỉ có bốn người. Thái và Duật chẳng may chết rồi. Tuyển ở Sơn Nam, Thước ở Kinh Bắc, gọi về không kịp. Tình thế gấp rút ta phải tự ra cầm quân. Con nên sắp đủ binh lính, lương thực, cùng đi với ta. Quân cha, con cùng dốc một lòng mới có thể nên việc được.

Du nói:

– Sách có câu: “Thờ cha phải hết sức, thờ vua phải liều mình”. Con xin đi trước, đánh với giặc một trận lớn, không dám để cho vua và cha phải lo vì giặc. Cha cứ đi thong thả mà đốc thúc việc chiến trận, con sẽ lấy đầu thằng Võ Văn Nhậm đem về cho cha xem.

Lúc Chỉnh sắp ra đi, người hầu yêu nắm vạt áo của y mà nói:

– Thiếp nghe đâu các quan trong triều đều đã đem vợ con đi trốn trước rồi, đài sảnh hiện bỏ không tất cả. Bây giờ quan lớn lại ra đánh giặc, tướng sĩ cũng đều theo đi hết, riêng thiếp ở đây một mình, chịu làm sao được? Vậy xin cho thiếp một chiếc kiệu nhỏ để thiếp đi theo quan lớn.

Chỉnh nói:

– Trong vòng tên đạn, không phải nơi đàn bà nên đi, đừng làm cho người ta thêm rối ruột nữa!

Rồi Chỉnh tự mình vào cung điện tâu xin xuất quân.

Vua bèn ngự ra điện Cần-chánh, truyền chỉ ban tiết việt (tức “phù tiết” và “phủ việt”. Phù tiết: vật làm tin, thường làm bằng thanh tre viết chữ vào đó, rồi chẻ đôi mỗi người giữ một nửa, sau kháp lại để làm tin. Cũng có khi làm bằng vàng, ngọc hoặc gỗ… Phủ việt: lưỡi búa. Đời xưa khi đại tướng ra trận được vua ban tiết việt để trao quyền hạn và làm tin) cho Chỉnh và dụ rằng:

– Trẫm dựa vào ông như dựa bức trường thành. Chuyến đi này quan hệ đến sự an nguy của nhà nước. Nhất thiết chớ có khinh giặc đánh tràn, phải tuỳ cơ mà làm, mau đưa tin thắng trận về để yên lòng trẫm!

Chỉnh tâu:

– Thần đã biết rõ tình hình của giặc. Võ Văn Nhậm mạnh mà không có mưu khôn, làm tỳ tướng thì dư sức, mà làm chủ tướng thì không đủ tài. Ngày thường hắn vẫn sợ thần, nay thấy thần, nay thấy thần đến, chắc là không dám chống chọi. Thần chỉ lấy khí thế mà đè nén, không cần phải đánh cũng thắng. Chuyến đi này, không quá năm ngày, sẽ có thư trạm tâu tin thắng trận, xin bệ hạ chớ lo!

Tâu xong, Chỉnh bái từ mà ra. Vua Lê thân hành tiễn đến ngoài cửa Đoan môn, rồi sai các hoàng thân và trăm quan tiễn đưa ra ngoài kinh thành.

Chỉnh đem quân đến trạm Hoàng Mai (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sai Hữu Du lĩnh các đội quân của cơ Ngũ-nhuệ đi trước.

Du đi đến sông Thanh Quyết, liền đắp luỹ đất chạy theo bờ sông, chia đồn mà cố thủ.

Lúc bấy giờ, khí trời rét buốt, quân lính của Du đêm ngủ giữa trời, túm năm tụm ba đốt củi để sưởi. Quân đi tuần của địch trông vào ánh lửa, thấy rõ tất cả, bèn về báo với Văn Nhậm.

Nhậm cho quân cưỡi bè, sang thẳng bãi sông, ngầm bắn xuyên qua các khe hở trên bờ luỹ, nhắm chỗ có lửa làm đích, bắn phát nào trúng phát ấy. Quân ở trong luỹ hoảng sợ, bối rối, tự nhiên tan vỡ, Du rút quân về giữ Châu Cầu. Quân sĩ mười phần chỉ còn hai ba, không dám đón đánh, cũng không dám chạy về, phải vừa lui vừa dừng để đợi hậu quân (sự kiện này, Cương mục chép hơi khác; thuyền súng đạn của Du đậu ở bờ bắc sông, không phòng bị gì: nửa đêm quân Tây Sơn ngầm bơi sang, buộc thừng vào các thuyền của Du, rồi kéo về phía bờ nam, tước đoạt hết súng đạn do đó Du thua…).

Lại nói, Chỉnh đem quân đến trạm Bình Vọng (tục gọi làng Bằng, thuộc Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), tạm dừng lại nghỉ. Chợt thấy gió nam thổi vù vù, có đám mây đen chạy suốt từ tây nam đến. Chỉnh ngồi trong kiệu, giở sách bói ra xem, vừa gặp một quẻ, có lời đoán rằng: “Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua trận”, Chỉnh tỏ ý buồn rầu, đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi, thình lình lại có đàn ong rừng vo vo bay đến, đua nhau đốt vào cổ Chỉnh. Chỉnh giật mình ngã xuống, sực nghĩ toàn là điềm gở, chần chừ không muốn tiến quân.

Chốc lát, thấy quân bại trận của Du tan tác chạy về nói:

– Quân ta đã vỡ, quân giặc đuổi theo sắp sửa đến nơi!

Chỉnh nghe nói, mặt mày thất sắc, tiến lui hai đường đều khó khăn. Tướng sĩ, bộ hạ cũng đều mất vía, đua nhau nói: “Thế giặc rất mạnh, chưa thể giao tranh với chúng được. Kinh thành ít quân, khó mà giữ nổi. Chi bằng dẫn quân về, lui giữ đất Kinh Bắc, chặn ngang sông Nhĩ Hà cho vững; rồi sau sẽ từ từ tính chước công thủ, thế là tiện hơn”. Chỉnh nghe theo.

Sau một lúc, Hữu Du đến, Chỉnh kéo quân tức tốc về kinh. Xẩm tối, vừa về tới thành, Chỉnh liền bảo quan tham tri chính sự là Nguyễn Khuê vào tâu với vua, xin đến ngày mai, xa giá đi sang Kinh Bắc (theo Cương mục thì vua Lê cho gọi mấy lần nhưng Chỉnh không đến, cuối cùng mới cho Nguyễn Khuê đến thay…). Rồi Chỉnh vào thẳng lượng phủ là chỗ mình ở, sắp xếp hành trang, sai người hộ vệ vợ con gia thuộc sang sông trước.

Lính Kim ngô biết chuyện, vội vàng vào điện tâu với vua rằng: “Gia quyến ông Bằng đi rồi!”

Vua Lê lật đật chạy đến dinh của Chỉnh. Lúc bấy giờ Chỉnh đang chạy đi chạy lại trước sân, dặn dò những người ra đi. Vua cầm lấy tay Chỉnh mà hỏi:

– Sự thể đã đến thế này thì làm thến nào?

Chỉnh thấy vua, thẹn thùng, run sợ, bèn lạy mà thưa rằng:

– Bệ hạ giao nước cho thần, thần không xứng đáng với chức vị, làm lầm lỡ việc nước, tội ấy không dám chối cãi: hai mặt tây nam kinh sư, không còn có gì để nương tựa, thành trì cũng chưa đào đắp, chỉ có cửa ô mà thôi. Quân giặc thừa thắng ruổi dài, không có thành luỹ nào ngăn cản; đánh thì không được, giữ cũng không xong, lấy gì để bảo đảm cho được toàn vẹn? Nay bệ hạ hãy nên đi sang phương bắc, để lo tính công việc sau này. Quân giặc từ xa đến đã mệt nhọc, lại bị sông lớn ngăn trở, thế nào cũng không dám đuổi ta. Trong khoảng mười ngày, ta được thư thả, rồi sẽ lo sâu tính xa, há lại không có cơ hội tốt để khôi phục? Bệ hạ hãy về cung, tâu với hoàng thái hậu, xin đưa từ giá (xe của mẹ vua) đi trước, thần sẽ thân đem lính và voi đợi ở bến sông.

Dứt lời, Chỉnh nhớn nhác đảo mắt ngó quanh một lượt, rồi đi. Vua cũng lập tức đi bộ về cung. Trên đường, đã thấy dân chúng dắt díu nhau cùng chạy. Bọn vô loại thừa cơ cướp giật, tiếng kêu khóc oai oái. Có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không có gì, mới tha cho đi. Vua vội vàng đi về phía cửa Chu Tước, rồi vào cửa Tả Khúc. Vừa tới nơi đã nghe thái hậu và các phi tần tìm nhà vua không thấy, đang gọi luôn miệng: “Thừa dư (chỉ nhà vua) ở đâu?”. Vua vội trả lời: “ở đây! ở đây!”. Rồi nhà vua lập tức gọi lính thị vệ, nhưng chỉ được mười bảy, mười tám người, còn thì đều lẩn trốn không đến. Vua vội vàng sai lấy võng đòn tre cáng thái hậu và nguyên tử (con đầu của vua mà chưa lập làm thái tử thì gọi là nguyên tử) đi. Các tôn thất và phi tần đều phải đi bộ. Những đồ ngự dụng chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu đều bỏ lại trong điện. Những đồ riêng tây cùng quần áo quí báu của bọn thị vệ, cũng đều bỏ rơi dần ở dọc đường.

Đến bến sông, phải giành giật lấy đò mà qua, bất cứ kẻ sang người hèn, ai mạnh thì được qua sông trước. ở trong bãi cát, mọi người giẫm đạp lẫn nhau, có người bị ngã rồi bị xéo đến chết. Các tay lái đò chèo không kịp, hoặc có thuyền vì chở nặng quá mà bị đắm. Tiếng kêu khóc vang trời động đất. Kinh thành rối loạn lung tung. Bọn vô loại ùa vào trong cung, phủ, cướp bóc bừa phứa. Nhưng những vật lấy được, chúng cũng không dám chuyên chở ra ngoài thành, mà phải giấu ở các phố.

Gần tối, Võ Văn Nhậm đến nơi đem quân vào thành thì thấy cung điện, kho tàng chỉ còn trơ lại xác nhà không mà thôi. Nhậm nói:

– Vào chợ còn được cái kim, huống chi là vào một nước. Ta nghe đất Bắc Hà giàu có, sao lại sạch trơn thế này? Ta ở xa đến mà lại không kiếm được một đồng tiền nào đưa về thì nói ra con nít cũng không nghe được.

Ngày hôm sau Nhậm bèn thả lính lùng khắp các nhà dân ở phường phố, lấy được của báu rất nhiều, đến cả của tư cũng đều lấy hết.

Có người dân đến cửa quân kêu rằng:

– Đời xưa hành quân, không hề chạm đến một mảy may của dân. Có người lấy lấy cái nón của dân để che áo giáp của quan, cũng không dung thứ. Sao nay dân gian lại bị hại đến như thế?

Nhậm quát to:

– Những vật quân ta lùng được đều là tài sản trong cung phủ nhà Lê, phải đâu là của nhà dân? Chẳng qua chúng bay nhân lúc rối loạn, tranh nhau ăn trộm, đại quân ập đến, không kịp cất giấu đấy thôi. Thằng này chính là bè đảng của bọn côn đồ, không thể tha thứ được!

Lập tức, Nhậm sai điệu người ấy ra chém. Do đó, dân chúng rất sợ, không còn ai dám kêu ca gì nữa.

Lại nói, cha con Chỉnh cùng các quan theo vua chạy sang phương bắc. Vì sợ quân địch đuổi kịp, ai nấy chạy sấp chạy ngửa, người nọ níu áo người kia, chẳng còn ra thể thống gì cả. Chập tối thì vua tôi nhà Lê đến trấn Kinh Bắc. Gặp lúc trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước mưu đồ làm phản, mượn cớ ốm không chầu vua. Chỉnh tới, quở trách gắt gao, Thước mới miễn cưỡng ra yết kiến.

Lúc ấy, dọc đường quân lính đã bỏ trốn quá nửa. Chỉnh rất lo, liền kiểm điểm số lính còn lại, ưu binh và nhất binh (lính tuyển ở bốn trấn) chỉ còn hơn bốn trăm ba mươi người, ngựa hơn sáu chục con, Chỉnh đem quân đi trước, qua sông Như Nguyệt (tức sông Cầu (Hà Bắc)), đóng đồn ở núi Tam Tằng (nay thuộc Hà Bắc), tự mình đốc suất quân lính đắp luỹ, cắm rào, rồi sai Thước hộ vệ nhà vua đến sau.

Chỉnh đi rồi, vua và thái hậu chờ đợi bên sông, lâu mãi chẳng thấy thuyền, liền cho gọi Thước đến hỏi.

Thước tâu:

– Các thuyền đều không ở đây, bệ hạ muốn sang sông gấp thì xin cho thần ít nhiều vàng lụa, mới có thể thuê được. Nếu không, dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giả sử quân giặc đuổi đến, thần xin dùng thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông. Nhưng chỉ e những đồ ngự dụng không thể giữ được mà thôi.

Vua nói:

– Trẫm có cả thiên hạ còn không giữ được, bây giờ lại còn tiếc cái gì nữa.

Tức thì nhà vua sai mở hòm cho Thước xem. Trong hòm chỉ có con dấu truyền quốc và bốn mươi lạng vàng mà thôi.

Vua nói:

– Tuỳ nhà ngươi muốn lấy gì thì lấy.

Thước nói:

– Đội ơn bệ hạ ban cho, thần xin chia một nửa.

Vua cho Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua và đám người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo, lột chiếc ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt, cởi ngự bào trao cho chúng, rồi chạy về núi Như Thiết.

Vua xin với thái hậu rằng:

– Con tài đức kém cỏi, không đủ làm chủ thần khí (trỏ ngôi vua), lại không sành sỏi trong việc xét người, bị Nguyễn Hữu Chỉnh làm lầm lỡ, đến nỗi kinh thành thất thủ, phiêu bạt ra ngoài, để gây mối lo cho thánh mẫu. Bây giờ trèo leo ở chốn núi rừng, nay đây mai đó, tình thế này không chắc đã sum họp một nhà được. Đã thế lại còn dắt díu nhiều người đi theo, sợ giặc dò biết, sẽ sinh ra tai biến bất ngờ. Con đã nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có viên đốc đồng trấn Cao Bằng Nguyễn Huy Túc là người trung hậu có thể nương nhờ được. Vậy xin thánh mẫu hãy tạm lên Cao Bằng, nơi đó đường đất xa xôi, quân giặc không thể phút chốc đi tới được. ở đó, công việc nên chăng thế nào, con xin viết bức thủ thư giao cho Túc. Đến như việc sớm khuya hầu hạ, em con có thể thay con. Dám xin thánh mẫu tạm yên lòng, để con ở đây ngầm lo việc khôi phục, ngõ hầu có thể chuộc được tội lỗi.

Thái hậu nói:

– Trời đã không giúp xã tắc, già này sống chẳng bằng chết, nguyện lấy mảnh đất ở núi này làm nơi chôn cất hài cốt, chớ còn phải trèo non vượt suối làm chi nữa cho khổ?

Vua rập đầu chảy máu, mãi không dậy. Các quan cũng có nhiều người khuyên giải. Thái hậu mới ưng ý.

Rồi đó, em vua là Quang, thị thần là Quýnh cùng bọn tôn thất hơn ba chục người đều theo thái hậu đi lên Cao Bằng.

Hôm sau, vua sang huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), văn thần đi theo chỉ có năm sáu người là bọn Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, Vũ Trinh, Trương Đăng Quỹ mà thôi.

Vừa lúc ấy, Võ Văn Nhậm sai bộ tướng là Nguyễn Văn Hoà đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai bên đánh nhau ở núi Tam Tằng. Hữu Du múa đao đánh mạnh, giết vài chục quân địch. Hoà chia một đội kỳ binh vòng ra sau núi đánh úp. Quân Chỉnh rối loạn, tự nhiên tan vỡ. Hữu Du chống cự không nổi, chết ở trước trận. Tham tri chính sự là Nguyễn Khuê cũng bị địch giết. Chỉnh lên ngựa nhằm hướng bắc mà chạy, ngựa ngã, bị quân địch đuổi kịp, chúng tranh nhau chĩa giáo chực đâm. Chỉnh vội kêu to:

– Xin cứ bắt sống mà đem dâng!

Quân địch bèn trói Chỉnh lại, bỏ cũi đưa về kinh.

Chỉnh xin gặp Văn Nhậm để nói một lời. Nhậm không cho, sai người kể tội Chỉnh rằng:

Mày vốn là tôi chúa Trịnh, phản chủ mà về với chúng tao để mưu đồ diệt họ Trịnh; rồi lại phản chúng tao về Bắc, lừa dối vua Lê, chiếm lấy ngôi cả, tự tiện làm oai làm phúc, ngầm ngầm lo mưu lấn cướp để tranh giành với chủ tao. Xét cuộc đời của mày, toàn học thói cũ của quân giặc loạn, phải phanh gan ruột mày ra, bỏ hết những cái dơ bẩn, để người Bắc lấy mày làm răn!

Rồi Nhậm bảo phanh thây Chỉnh, thả cho chó ăn thịt.

Trong trận ấy, Hoà tuy bắt được Chỉnh, nhưng chưa bắt được vua Lê, Hoà thả quân lùng mãi không được, bèn ngấm ngầm sai người dò tìm tung tích. Vua Lê nghe tin sợ quá, liền chạy trốn vào vùng núi Bảo Lộc (nay thuộc huyện Lạng Giang, Hà Bắc).

Lại nói, trước kia Lân dương hầu tà Phạm Tôn Lân theo án đô vương chạy ra Yên Quảng, rồi vì có việc phải cáo từ về nhà; nhân đó Lân mưu đồ chiêu dụ quân lính để giúp chúa Trịnh, nhưng về sau không biết chúa ở đâu, bèn nương nhờ vào người hào mục huyện Yên Dũng, là Nguyễn Trọng Linh (Cương mục chép là Dương Đình Tuấn, người huyện Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc)).

Lúc ấy, nghe tin vua ở vùng Bảo Lộc, Lân bèn nói với Linh cùng nhau đi đón vua về. Rồi họ đốc suất nhân dân bảy tổng thuộc huyện Yên Dũng, đắp luỹ ở phía bắc sông Nguyệt Đức (tức sông Cầu (Hà Bắc)), chống nhau với Hoà. Hoà đánh không được. Nhậm phải tự mình dẫn đại quân đến, đêm ngày đánh rất dữ. Quân Linh thua trận. Linh dắt vua Lê chạy trốn. Em Linh là Lung bị Nhậm bắt sống. Nhậm không giết mà sai đem thư dụ Linh, bảo phải nộp vua Lê, đại lược nói rằng:

“Tôi vâng mệnh ra Bắc, chỉ giết giặc Chỉnh, không can gì đến tự hoàng nhà Lê. Tự hoàng là người của chúa thượng lập nên, bị giặc kèm đi, cùng chạy với chúng. Loài cáo vốn hay ngờ vực, vẫn mê không chịu quay về; bọ ngựa dám chống bánh xe, nên phải đem quân tới đánh. Nay nếu biết hối mà về ngay, còn có thể chuộc được lỗi trước. Nếu không, thì sẽ tìm người khác để coi việc nước. Ngôi chủ tể đã có người, thì tự hoàng không còn ngày trở về nữa, mà lũ các ngươi rồi cũng bị vạ lây”.

Linh nhận được thư, dùng dằng chưa quyết, lại sai Lung về báo với Nhậm rằng: “Sau khi bị thua, mỗi người bỏ chạy một ngả, thật không rõ vua Lê ở đâu. Xin cho phép mươi ngày để đi tìm kiếm, rồi sẽ tự đến”.

Đình Giản biết chuyện ấy, bèn tâu riêng với vua Lê rằng:

– Anh em Linh không thể tin cậy được. Các ông Đinh Dư, Doãn Lệ, Vũ Trinh đều là người Kinh Bắc, nên kíp sai đi chiêu dụ lấy quân để tự vệ, rồi dời xa giá đến phủ Thuận An (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc). Còn các ông Đăng Quỹ, Văn Lân đều là người Sơn Nam, cũng nên sai về bản quán mộ quân, chờ lệnh trưng phát.

Vua Lê nghe lời, sai mọi người chia ngả mà đi làm việc, chỉ để Đình Giản ở lại hộ giá.

Vua Lê ngấm ngầm tới huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Lương, Hà Bắc), vời tiến sĩ là Trần Danh án, đến hỏi về tình hình vùng đó. án tâu:

– Thổ hào phương bắc đây có Trần Quang Châu, nguyên là xã trưởng xã Kênh Than, là người dũng cảm mà lại có sức mạnh. Trước đây nhân khi loạn, Châu tụ tập đinh tráng, để giữ xóm làng. Trong huyện nơi nào có kẻ cướp thì Châu liền đem quân đến cứu. Trộm cướp không dám đụng chạm đến, cả huyện yên ổn, họ bèn bầu Châu làm chức huyện trưởng. Có lúc, Châu vác cày bừa, giả dạng làm người nông phu, hễ gặp lính Tây Sơn là đánh chết liền. Quân Tây Sơn luôn luôn bị Châu giết hại, răn nhau không dám xâm phạm đến bờ cõi huyện này. Văn Nhậm nghe tin giận lắm, định đem quân đến bắt Châu. Châu bèn trốn vào vùng Chí Linh, Phượng Nhãn (Chí Linh thuộc Hải Dương (Hải Hưng). Phượng Nhãn nay sáp nhập vào huyện Yên Dũng, Hà Bắc), chiêu mộ dũng sĩ, chống nhau với địch. Người ở hai vùng đông bắc, theo về với Châu mỗi ngày một nhiều. Châu thường cho người dò la nơi ở của quân Tây Sơn, rồi đêm đến đem quân đi gấp tới nơi, đánh úp giết chết. Quân của Châu khi ẩn, khi hiện như thần, đánh đâu là thắng đấy. Quân Tây Sơn chẳng làm gì được. Châu vẫn muốn khởi nghĩa, nhưng chưa có ai làm chủ. Vậy xin đưa lá thư của bệ hạ đi để chiêu dụ Châu, chắc là Châu sẽ đến ngay.

Vua nói:

– Vậy nhà ngươi hãy sai người đi đi!

Châu nghe tin, mừng lắm, nói với mọi người:

– Quân ta nay đã có danh nghĩa rồi!

Châu bèn đem quân đến đón vua Lê, vua tôi gặp nhau rất là vui mừng.

Vua nói:

– Nghe đồn nhà ngươi dùng binh rất hùng dũng, nay quân giặc tụ tập ở vùng Bảo Khảm chừng hai trăm tên, nếu ngươi có thể đánh phá được chúng, ta sẽ cho ngươi làm chức trấn thủ xứ Kinh Bắc.

Châu nói:

– Việc đó rất dễ, song chỉ e khi chúng kéo hết quân đến, thần ít quân, lại không có quân cứu viện, thì không đủ sức đánh nhau với chúng, mà rồi lại không thể tránh đi nơi khác để giấu kín tung tích. Lâu nay những việc thần đã làm, chỉ có thể hả bớt tức giận mà chưa thể tự lập được cũng là vì cớ ấy. May nhờ oai linh của bệ hạ, lại được các tướng góp sức, thần xin tự mình chống đỡ một mặt, gặp giặc là đánh, có chết thì thôi chứ không chạy.

Vua nói:

– Mạnh mẽ thay! Thật đáng là bậc đại tướng.

Rồi đó vua bèn phong cho Châu làm quyền trấn thủ, tước Dao quận công. Châu liền mở cuộc diễu võ ở núi Vạn Kiếp (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương (Hải Hưng)), dựng cờ và trống đại tướng ở trên núi, rồi sai người tâu mời nhà vua tới xem.

Thật là:

Thành lữ long đong lo việc nước,
Trạch bào hăng hái giết quân thù

Chưa biết việc này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.

Thành lữ: mượn ở câu: Hữu điền nhất thành, hữu chúng nhất lữ (Đất đai có mười dặm, quân lính có trăm người) trong Bắc sử, trỏ vào việc vua Thiếu Khang nhà Hạ bị mất nước, chỉ còn có một thành một lữ mà khôi phục được cơ nghiệp. Trạch bào mượn chữ ở bài “Vô y” trong Kinh thi, bài thơ nói về tinh thần hữu ái và khảng khái của quân lính. “Trạch” là áo lót, “bào” là áo khoác. Nguyên văn là Khởi viết vô y, Dữ tử đồng bào.. Khởi viết vô y, Dữ tử đồng trạch (Há rằng không có áo? Ta sẽ chung áo khoác cùng anh… ” cả hai câu thơ trên đều nói về việc Chiêu-thống cùng đám quân cần vương đang hăng hái mưu khôi phục lại cơ nghiệp.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 11

Tây Sơn lại kéo vào thành chiếm giữ đất nước
Chiêu thống ba phen tính chước khôi phục kinh đô

Lại nói, vua Lê thân hành tới xem diễu võ ở núi Vạn Kiếp. Nhà vua ngự ở đền Trần Hưng Đạo, gọi Châu đến và hỏi:

– Có được mấy trăm quân?

Châu đáp:

– Trừ số người mới theo về, thủ hạ tinh luyện của thần chỉ có trăm người mà thôi!

Vua nói:

– Tiếc rằng ít quá!

Châu đáp:

– Quân cần tinh nhuệ không cần nhiều. Có trăm quân cảm tử, cũng đã đủ để hoành hành trong thiên hạ. Thần đã từng thử, quân giặc có lúc kéo tới đầy cả đồng, thần chỉ sai vài chục người xông đến trước trận, múa dao chém bừa, không lần nào giặc không tan vỡ.

Vua bảo:

– Đúng như lời ngươi nói, nhưng đánh bất thình lình thì được, chứ đối trận mà đánh thì không được. Nay đang khi trốn chạy tan tác, nhân tình dễ loạn, làm gì cũng phải cho chu đáo mới có thể đứng vững để lo việc khôi phục. Vạn nhất bị vấp ngã thì không thể nào nhóm họp lại được nữa. Vì thế, thời xưa có người chịu nương náu ở núi Cối Kê, có người chịu nép mình ở đất Ba Thục (ở đây Chiêu-thống muốn nói đến chí phục thù của các vua đời xưa ở Trung Quốc, như Việt vương Câu Tiễn thời Xuân-Thu và Hán Cao Tổ cuối đời Tần. Câu Tiễn bị Ngô Phù Sai đánh bại và cho ở đất Cốt Kê, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng mọi cay đắng, ngầm nuôi chí lớn, sau quả nhiên trở lại diệt được nước Ngô. Hán Cao Tổ bị Sở Bá vương biếm phong vào đất Ba Thục. Cao Tổ tạm thời chịu lép vế, rồi về sau đã thắng Sở), người ta vẫn phải ẩn nhẫn mà giữ lấy lực lượng, không dám làm liều để rước lấy sự thất bại. Ngày nay, việc nước nhà cũng giống như vậy, nên trước tiên phải kêu gọi quân cần vương để thêm thanh thế, không nên lộ mặt ra vội. Trẫm đã sai các quan chia đường đi chiêu mộ binh lính, ở Kinh Bắc có Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, ở Sơn Nam có Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân, ít lâu nữa họ sẽ trở về phục mệnh. Nhà ngươi nên đợi họ, bây giờ hãy đóng quân ở trong núi, luyện tập số người mới theo, cho tất cả đều tinh nhuệ, để chờ sai khiến.

Vua lại sai Đình Giản qua miền thượng du trấn Sơn Tây, kêu gọi nghĩa binh các trấn Tuyên Quang, Hưng Hoá, hẹn ngày cùng đến. Còn tự mình thì đi tới vùng Hải Dương, truyền hịch chiêu dụ.

Lúc vua đến huyện Chí Linh, quan văn đi theo chỉ có ba người là Trần Danh án, Vũ Trinh và Ngô Thì Chí mà thôi.

Ngô Thì Chí có dâng vua bài “Sách lược trung hưng” như sau:

“Thần trộm nghĩ, dẹp loạn phải xem cơ, dùng võ phải có đất. Vua Thiếu Khang giữ Luân ấp mà sau mới dấy được nghiệp trung hưng; Vua Chiêu Liệt chiếm ích Châu mà sau mới chống được kẻ ngoại địch. Địa thế nước ta, Cao Bằng, Lạng Sơn nằm ở phía đông bắc, giáp với đất Trung Hoa. Núi sông hiểm trở, đủ để giữ vững, binh mã hùng cường, đủ để tiến đánh. Nay bệ hạ hãy ngự giá đến đó, sai một sứ thần sang báo với nhà Thanh, xin họ đem quân đóng áp bờ cõi, để làm thanh viện cho ta; đồng thời đưa mật chỉ cho hào kiệt bốn trấn, bảo họ hưởng ứng. Lòng người đã được khích lệ, ai dám không theo? Trăm quan kẻ nào chưa theo kịp, ai dám không tới? Ngoài tựa vào thế thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương, khiến cho thế giặc mỗi ngày mỗi trơ trọi, thế ta mỗi ngày một lớn mạnh. Rồi đó, ta sắp đặt phương lược, tiến lên khôi phục kinh thành, công nghiệp trung hưng hẳn có thể hẹn ngày mà làm nên được!”.

Vua vời Chí tới và bảo:

– Ngươi nói rất hợp ý ta. Mùa đông năm ngoái, ta sai hoàng đệ và các hoàng thân hầu thái hậu lên Cao Bằng, có đưa mật chỉ cho viên đốc đồng Nguyễn Huy Túc, dặn y dùng lời nghĩa khí khích động lòng người, liên kết bọn phiên tướng, tụ tập quân biên cương, cũng là sắp sẵn cho việc ấy. Nhưng còn Lạng Sơn thì ta chưa sai ai đi.

Chí tâu:

– Trước kia, khoảng năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng, cha thần đã vâng chiếu lên làm trấn thủ xứ Lạng Sơn, để tuyên bố uy đức của triều đình và chiêu tập những kẻ lưu vong. Nhân dân bảy châu, đến nay vẫn còn mến yêu. Thần xin lên đó, vâng chỉ chiêu dụ, nhân dịp báo tin cho Túc, tâu với thái hậu, hẹn ngày ra quân để đón xa giá. Thế là một chuyến đi mà được cả hai việc.

Vua Lê khen là phải rồi cho Chí đi. Chí mới đến huyện Phượng Nhãn thì phát bệnh, không thể đi tiếp, liền gửi tờ biểu về xin nghỉ ít hôm để điều trị. Vua bèn cho mười nén bạc để chi về việc thuốc thang.

Trong lời biểu của Chí gửi về tạ ơn vua, có đoạn viết:

“Gặp cơn nguy biến, chí hợp mà tâm đồng; nghĩa vua tôi ngàn năm mới gặp; trong đạo luân thường, phận ưa mà tình nặng; tình cha con một nhà khác chi? Nay gặp buổi quốc gia còn lắm nạn; chính là khi thần tử phải quên mình. Dám đâu vì việc riêng mà tiếc thân; nguyện sẽ đeo bệnh tật để dấn bước”.

Vua xem tờ biểu lấy làm cảm động.

Vừa lúc đó, bọn Đình Dư, Doãn Lệ sai người đưa tờ mật biểu tới nói rằng: “Các vùng Đông Ngàn, Kim Hoa, Võ Giàng, Quế Dương (nay đều thuộc Hà Bắc; riêng Kim Hoa sau đổi là Kim Anh nay thuộc Vĩnh Phú và một phần nhập vào huyện Sóc Sơn thuộc Hà Nội), lòng người đâu đâu cũng căm tức. Bọn thần đã tuyên lời chiếu dụ, các hào mục đều xin dấy quân cần vương. Cúi xin xa giá trở về Kinh Bắc, để cho bọn họ được vào yết kiến. Rồi nhân đó, bệ hạ ban lời dụ trước mặt họ cho họ về nói lại với nhau, như vậy ai mà không theo? Khi đã phò giá về đóng ở đấy, thì người trong thiên hạ đều được trông thấy mặt trời. Đình Giản trước đây đi Sơn Tây, Tôn Lân trước đây đi Sơn Nam, cũng được xa nhờ tiếng tăm, uy linh của nhà vua mà đem quân về họp. Hà tất phải lên Lạng Sơn, là nơi bờ cõi xa xôi cách trở? Bọn thần e rằng cứ nấn ná ngày tháng sẽ làm lỡ mất cơ hội, rồi lại bỏ chỗ gần mà lo chỗ xa, thì thật là thất sách!”.

Vua Lê cho lời ấy là phải.

Vũ Trinh mời nhà vua về làng Xuân Liên, huyện Lang Tài (nay sáp nhập với huyện Gia Bình thành huyện Gia Lương). Cha Vũ Trinh là Vũ Chiêu làm tờ biểu xin dâng hai trăm lạng bạc để tiêu vào việc quân. Vua nhận số bạc ấy, bèn dùng nhà Chiêu làm nơi hành tại.

Lại nói, khi Bắc bình vương sai Võ Văn Nhậm ra đánh đất Bắc, vốn do mệnh lệnh đã định từ trước, nhưng trong bụng cũng hơi nghi ngờ Nhậm, bèn sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt quyền của Nhậm. Bắc bình vương lại bảo riêng với Sở rằng:

“Nhậm là con rể vua anh. Nay ta với vua anh có sự xích mích, lòng y chắc cũng không yên. Chuyến này y cầm trọng binh vào nước người, sự biến không thể liệu trước được. Nay ta không lo Bắc Hà mà chỉ lo về Nhậm mà thôi. Ngươi nên xem xét từng ly từng tý, hễ có gì thì phải gấp rút báo cho ta biết. Ví như lửa cháy, dập tắt từ khi mới bén thì dễ dàng hơn”.

Lúc Nhậm thừa thắng kéo xe ra Bắc, như vào làng bỏ trống, không một người nào dám chống cự. Nhậm có vẻ dương dương tự đắc. Kịp khi bắt sống được Nguyễn Hữu Chỉnh, Nhậm tự cho là uy vũ của mình đủ khiến người ta phải phục, khu xử việc Bắc Hà không có gì khó.

Khi nghe vua Lê chạy sang phía bắc, nương tựa vào Nguyễn Trọng Linh, Nhậm liền tức tốc gửi thư bắt buộc LInh phải đem vua Lê ra nộp. Nhậm lại cho đòi các người trong tôn thất và các quan văn võ phải đến cửa quân chờ hầu; thường dùng cách hất hàm, đưa mắt, dùng bộ điệu, khí sắc để sai khiến mọi người mà chẳng ai dám làm gì.

Thế nhưng, rốt cuộc Nguyễn Trọng Linh vẫn không đến, các viên quan có thế lực cũng chẳng có ai tới. Trần Quang Châu ở Kinh Bắc. Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Nam, Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương, ai nấy cầm quân giữ đất và nói phao lên rằng, chẳng bao lâu, bốn phía sẽ nhòm về kinh đô, cùng Nhậm quyết chiến. Rồi đó, hễ quân Tây Sơn có tên nào ra khỏi thành là bị bọn thổ hào giết chết. Giặc cướp cũng nhân dịp nổi lên khắp nơi, khói lửa liên tiếp. Lúc bấy giờ Nhậm mới có ý sợ, liền bắt hết nhân dân quanh vùng kinh kỳ đắp lại thành Đại La. Ngày đêm đốc thúc, không cho nghỉ ngơi chút nào, đến nỗi có người đang đội đất mà ngã sấp xuống. Làm lụng mệt nhọc, đói khát, ai cũng ta oán. Khi ấy, có người đồn rằng: Trần Quang Châu đã lẻn vào trong thành làm nội ứng, hẹn Nguyễn Viết Tuyển đem binh thuyền ngược dòng sông Nhĩ Hà đi lên để làm ngoại ứng. Nhậm bèn hạ lệnh lùng khắp kinh sư, những người ở trọ trong các phố phường đều đem chém chết.

Ngô Văn Sở nói:

– Mình cứ vững dạ, có lo gì họ? Nếu mình tự bối rối trước, thì còn trấn áp được ai? Chi bằng tha họ cho yên lòng dân.

Nhưng Nhậm không nghe. Vừa lúc ấy có người ở làng Cơ Xá, huyện Gia Lâm, tự xưng là Trần Đình Khôi làm chức thiêm sự của nhà Lê, xin vào yết kiến. Nhậm cho mời vào và hỏi:

– Nguyễn Hữu Chỉnh là kẻ vong mạng, lấy trộm ngôi cao, tàn hại nhân dân, thiên hạ ai cũng căm giận. Người Bắc Hà mưu đồ đánh hắn mà không được, trở lại bị hắn làm hại. Nay ta trừ hắn đi cho, đáng lẽ ơn ta mới phải, sao ta vời mà không ai đến?

Khôi đáp:

– Ông có tài quyết thắng ở ngoài ngàn dặm, lẽ nào lại không xét rõ tình người? Người Bắc Hà dù oán Chỉnh rất sâu, mà lòng nhớ nhà Lê chưa nguôi. Họ thấy ông giết Chỉnh, xa gần cũng đã mừng rỡ, nhưng vì ông chưa bàn gì đến việc phò Lê, nên người ta bàng hoàng trông ngóng, chưa dám đến vội. Nay tự quân đã bỏ nước mà đi, không có lẽ còn quay trở lại. Có Sùng nhượng công Lê Duy Cận, lúc tiên đế còn sống, đã chính vị làm đông cung, sau gặp việc biến cố năm Nhâm dần (1782), mới bị kiêu binh truất bỏ. Nếu ông khôi phục ngôi đó cho Sùng nhượng công để tạm coi việc nước, rồi đem việc ấy bá cáo khắp trong ngoài, yết một mảnh giấy ở cửa Đại Hưng, thì chẳng bao lâu các quan văn võ sẽ đến họp cả. Lúc bấy giờ việc thiên hạ ai cũng phải nghe ông, ông xoay vần dễ như trở bàn tay, lo gì mà không xong xuôi?

Nhậm gật đầu nói:

– Ông nói rất có lý. Ví như mổ trâu, cắt đúng đường gân khớp xương thì các thớ thịt sẽ đứt cả, không khó nhọc gì.

Rồi đó, Nhậm bèn sai mời Sùng nhượng công vào phủ, lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi và bảo rằng:

– Thiên hạ vốn là thiên hạ của nhà Lê. Tự hoàng bỏ nước mà đi, trong nước không có ai làm chủ. Ông là thái tử cũ, đã có mệnh vua từ trước. Bây giờ ở ngôi ấy, ngoài ông ra thì còn ai nữa?

Sùng nhượng công nói:

– Nước mọn này mất cả giường mối, nhờ ơn thượng công (chỉ Nguyễn Huệ) đã gây dựng lại cho. Nhưng trời chưa thôi vạ, tự hoàng thơ ấu, bị tên loạn thần làm lầm lỡ, phải chuốc lấy sự bại vong. Nay chúa công (chỉ Võ Văn Nhậm) không nỡ bỏ, lại lo nối lại cái dòng đã đứt, đó là điều may lớn cho nước mọn này. Chỉ hiềm tôi là người không có đức, nếu được lạm giữ ngôi ấy, thì công việc chỉnh đốn phen này, cũng xin nhờ chúa công giúp đỡ cho, may ra mới có thể tự lập được.

Nhậm cười mà rằng:

– Ông hãy cứ làm, không cần lo xa. Có tôi ở đây, bọn gian hùng dù muốn hại ông, cũng quyết phải sợ mà không dám hành động. Đợi khi thượng công ra đây, tôi xin nói giúp ông, ông sẽ được lên ngôi vua thật sự.

Sùng nhượng công nghe nói, mừng lắm, bèn sắm sửa lễ vật tới yết nhà Thái-miếu, rồi vào ở trong gian nhà phía tả điện Cần-chính, và cho Khôi đi tìm tất cả các quan đến để bàn việc.

Trước hết, Khôi tới nhà Lê Phiên. Phiên mắng rằng:

– Vua phải chạy đã không đi theo, lại theo người ta mà lập vua khác. Lời nói ấy sao còn đến tai ta làm gì?

Rồi Phiên bỏ trốn lập tức.

Khôi lại tới nhà viên tham tụng là Huy Bích. Bích từ chối không chịu gặp. Sùng nhượng công bèn thảo tờ dụ các quan đại ý nói rằng:

“Năm xưa đã nhường ngôi, quả không có lòng tham thiên hạ. Ngày nay tạm nắm quyền, chỉ mong giữ việc tế tự. Những ai hiểu cho ý đó, thì nên tới họp tại triều”.

Nhưng các quan văn, rốt cuộc chẳng một ai tới. Khôi liệu công việc chắc là không thành, bèn bàn tính với một người bạn. Người ấy trả lời:

– Anh nộp tiền để mua chút bằng sắc, triều không ngồi, tiệc không dự, mất nước không phải tội lỗi của anh, được nước không phải trách nhiệm của anh, chẳng qua anh muốn nhân lúc loạn lạc mưu đồ phú quí mà thôi. Nhưng Sùng nhượng công không phải món hàng lạ có thể buôn bán được, Văn Nhậm lại là kẻ dã tâm khó lòng tin cậy. Một mai Bắc bình vương đến, tai vạ thật là khó lường; mà sau này vua Chiêu thống trở về, anh cũng không có chỗ nào để dung thân nữa. Tục ngữ có câu: “ở yên chẳng muốn, muốn chui đầu vào chum để mua vạ”. Chính là nói hạng người như anh đó!

Khôi sợ, bèn bỏ trốn.

Sùng nhượng công ngồi trơ trong điện, chỉ có một vài hoàng thân và ba bốn tên võ biền, sớm tối ở chung với nhau; còn mọi công việc đều không đến tay. Hàng ngày hắn ta đi bộ đến phủ đường, chầu chực Văn Nhậm và hỏi cách xử trí, song Nhậm cũng chẳng biết xử trí ra sao. Người kinh thành thấy vậy, đều gọi hắn ta là “giám quốc lại mục” (viên thơ lại coi việc nước).

Lại nói, Ngô Văn Sở từ khi nhận mật chỉ của Bắc bình vương và cùng Nhậm ra Bắc, lúc ở trong quân thường vẫn dùng lời nói ngọt nhử Nhậm, để ngầm dò ý. Đến lúc này, Sở bèn bảo Nhậm rằng:

– Chúng tôi vâng mệnh theo ông đánh dẹp, giặc Chỉnh đã bị giết, nhưng dư đảng của y ở vùng đông nam vẫn chưa dẹp yên, vua Lê vẫn còn chạy trốn ở ngoài, mà các quan cũng đều lẩn tránh. Nay ông cho Sùng nhượng công làm giám quốc, nhưng tôi xem lão ấy chỉ là phường a dua không được tích sự gì, rốt cuộc chỉ là một cục thịt trong cái túi da, làm sao mà sai khiến được kẻ khác? Từ khi có nước Nam tới nay, triều đại thay đổi không biết là mấy lần rồi. Thiên hạ nào phải là của riêng ai. Liệu có thể lấy được thì cứ lấy đi, rồi đặt quan, chia chức để xây dựng phên giậu, làm cho tai mắt của mọi người đều được một phen đổi mới. Nếu có kẻ nào lấy trộm danh nghĩa (ý nói những kẻ mượn tiếng phò Lê) thì cứ bảo là giặc, rồi đem quân tới đánh, ai dám chống lại? Việc gì mà phải mượn đứa tôi đòi ngoài chợ trông coi việc nước, để hắn sắm vai ông chủ “tượng đất” trong vườn; còn mình thì cứ đóng mãi trong thành, làm tụi lính khách ở trọ nước ngoài?

Nhậm nói:

– Bọn Nhưỡng, Tuyển chẳng qua hơi tàn thoi thóp; nắm lấy cánh tay tự nhiên phải đến. Vả ta xem bọn bề tôi nhà Lê chẳng có mặt nào như Điền Đan nước Tề, Vân Trường nhà Hán (Điền Đan là người họ vua Tề đời Chiến quốc; Vân Trường tức tên tự của Quan Vũ, là bạn kết nghĩa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Hai người đều có tài trong việc đánh dẹp và giúp nhà vua khôi phục đất nước); chẳng qua họ sợ binh oai của ta, nên sớm chiều dùng dắng đó thôi. Nếu ta hạ một cái bảng, hẹn ngày phải tới cửa quân, không tới thì chém, chắc là chúng sẽ cởi áo mang roi đến xin chịu tội. Điều đó không phải là việc đáng lo. Chỉ vì lòng người đất Bắc còn nhớ họ Lê, không thể không chiều theo lòng mong mỏi của mọi người. Mượn hắn ra làm pho tượng gỗ, là cốt để chia rẽ đồ đảng của Chiêu thống, và ràng buộc lòng dân Bắc Hà đó mà thôi. Chỗ đó không phải chỗ lũ các ông có thể biết được! Các ông khoẻ sức đánh trận, ta sẽ giao cho các ông chia đường tiến đánh, rồi giữ lấy đất, làm bức trường thành cho ta, há chẳng tốt ư? Đến lúc đó, cuộc thế xoay vần, tự nhiên có nhiều việc hay, đường đường làm chủ không phải ta thì còn ai? Cần gì mà phải làm khách?

Sở im lặng ra về, rồi bảo với Lân rằng:

– Lão tiết chế thật khinh người quá. Hắn có tài đức, trí lược gì mà dám coi bọn ta là tụi lính tráng? Xem hắn từ khi vào thành đến nay, đã làm được việc gì? Thúc ép dân phải gấp rút đắp luỹ và phò Lê Duy Cận làm giám quốc, đều là sắp sẵn cái mưu làm phản, để hòng tranh giành với chủ ta. Đã không biết lấy giặc Chỉnh làm răn, trở lại muốn bắt chước nó. Không muốn sống lại muốn chết, thì cứ cho hắn đi theo Chỉnh, để răn những kẻ khác!

Sở bèn lượm lặt các việc làm của Nhậm, cho là tội trạng làm phản, lấy Lân làm chứng, rồi ngầm sai người về Nam báo với Bắc bình vương (theo Cương mục thì Nhậm có làm những việc trái phép, như tự đúc ấn chương, chuyên quyền trong việc cất nhắc, xếp đặt quan chức, v.v… Nhưng bên cạnh đó, Sở vốn có hiềm khích với Nhậm, nên đã dâng mật thư vu oan cho Nhậm làm phản). Bắc bình vương nói:

– Thằng Võ Văn Nhậm đáng chết thật! Ta vẫn biết hắn thế nào rồi cũng làm phản, quả nhiên không sai.

Tức thì Bắc bình vương hạ lệnh tiến ra Bắc, đốc thúc các quân bộ và quân kỵ mã ngày đêm đi gấp. Chừng hơn mười ngày, đến thành Thăng Long. Bấy giờ đồng hồ vừa nhỏ giọt xuống đến trống canh tư, Nhậm đang ngủ say trong phủ. Sở được tin, liền dặn người do Bắc bình vương sai đến phải giấu kín việc ấy, không được báo cho Nhậm biết; rồi sai người ngấm ngầm ra ngoài thành đón Bắc bình vương. Người nhà và người xung quanh Nhậm cũng đều không ai biết gì. Chốc lát, Bắc bình vương vào thành, đến thẳng chỗ Nhậm nằm, Nhậm cũng vẫn chưa biết. Bắc bình vương liền sai võ sĩ là Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm rồi khênh xác ra sau phủ đường (cũng theo Cương mục, lúc Nguyễn Huệ đến, Nhậm ra ngoài thành đón, Nguyễn Huệ liền nhường ngựa đang cưỡi và lọng che cho Nhậm vào thành, lại an ủi vỗ về ôn tồn. Sau đó, Nguyễn Huệ mới bắt Nhậm đem tra khảo và giết chết).

Mờ sáng, Bắc bình vương truyền lệnh cho Sở làm chức đại tư mã, thống lĩnh quân đội thay Nhậm, lúc đó quân lính mới biết.

Hôm ấy, Bắc bình vương cắt đặt lại quan chức: Đô đốc nghĩa hoà hầu làm trấn thủ trấn Sơn Nam; Lôi quang hầu (có bản chép Tuyết quang hầu) làm trấn thủ trấn Sơn Tây; Nguyệt quang hầu làm trấn thủ trấn Kinh Bắc; Hám hổ hầu (có bản chép Hô hổ hầu) làm trấn thủ trấn Hải Dương. Còn Giác hoà hầu coi giữ bộ Hình, chánh ngôn hầu coi bộ Hộ, Ước thiện hầu coi bộ Lễ, Lộc tài hầu coi bộ Lại, và đều kiêm nhiệm chức hiệp trấn. Bắc bình vương lại bảo họ tiến cử những người mà họ hiểu biết, chia ra cho làm quan ở các huyện. Võ thì chia ra chức suất, chức nội; văn thì chia ra chức tri, chức ngoại. Cả sáu trấn (theo Dụ am văn tập, dưới triều Tây Sơn, các trấn ở Bắc Hà được chia lại thành 7 nội trấn và 6 ngoại trấn. Đây là 6 ngoại trấn: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Yên Quảng) đều do Sở tuỳ theo tài năng mà cắt đặt người, sau đó bẩm lên xin cấp văn bằng, rồi cho ai nấy lĩnh quân bản bộ về trấn của mình. Bắc bình vương lại hạ chỉ vẫn để con thứ tư của tiên hoàng nhà Lê là Lê Duy Cận làm giám quốc, coi việc tế tự, và cho đòi hết thảy các quan văn võ phải tới cửa khuyết, chực sẵn ở nhà bộ Lễ, rồi theo viên lễ quan là Võ Văn Ước vào yết kiến.

Bấy giờ viên quan văn là Ngô Thì Nhậm vào yết kiến trước, Ước tưởng lầm là hoàng tử nhà Lê, liền mời cùng ngồi với mình. Tiếp đó, bọn Lê Phiên đến, đều lạy ở dưới sân, Ngô Thì Nhậm trong bụng rất áy náy, vội đứng dậy đi ra. Ước lấy làm lạ không biết là ai, bèn hỏi:

– Người vừa ngồi đây là ai thế?

Có người trả lời:

– Văn ban Ngô Thì Nhậm đấy!

Ước giận mà rằng:

– Ta vâng mệnh cai quản tất cả, sao lại được vô lễ như vậy?

Rồi Ước tức tốc sai người theo bắt.

Ngô Thì Nhậm đã biết trước chuyện đó, nên lúc ra, vội vàng trốn tránh ngay. Đến tối, Nhậm vào yết kiến viên trung thư lệnh Kỷ lễ hầu là Trần Văn Kỷ.

Kỷ người Thuận Hoá, vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Năm Đinh dậu (1777) niên hiệu Cảnh hưng, Kỷ thi ở trấn đậu giải nguyên. Năm Mậu tuất (1778), Kỷ tới kinh thi hội, sĩ phu ở Bắc Hà, Kỷ có giao thiệp quen biết ít nhiều. Năm Bính ngọ (1786), Bắc bình vương đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam, Bắc. Kỷ đối đáp rất nhanh và rất hợp ý, nên Bắc bình vương rất trọng, cho ở vào chỗ “màn trướng” (nơi ở của bậc tướng soái), việc gì cũng bàn với Kỷ, lúc nào cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời.

Lúc ấy Ngô Thì Nhậm tới gặp Kỷ, nói rõ tình trạng mình xúc phạm tới Ước, sợ bị hãm hại nên không dám đến, chứ không phải dám trốn tránh, rồi nhờ Kỷ giải cứu cho. Kỷ nói:

– Nghe ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm sáu năm, sự tích luỹ càng thêm tinh tuý. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời. Tôi đã đem tên ông trình với chúa thượng khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. May mắn nay được chúa thượng rủ lòng yêu mến, đã sai tôi tìm ông, vậy không phải cần gì đến ông Ước!

Tức thì Kỷ đưa Nhậm vào yết kiến Bắc bình vương. Bắc bình vương nói:

Ngày trước, ngươi vì chúa Trịnh không dung, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, ngươi làm sao được thấy bóng mặt trời? Có nhẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được.

Ngô Thì Nhậm rập đầu tạ ơn. Bắc bình vương ngoảnh lại bảo Kỷ:

– Đây là người do ta gây dựng lại, nên thảo ngay tờ chế phong làm chức tả thị lang bộ Lại, tước Tình phái hầu, cùng với Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê.

Hôm sau các quan lục tục kéo đến, lễ quan đưa vào lạy ở điện Chính trung. Bắc bình vương đòi hết lên sảnh đường mà bảo:

– Vua Lê do ta lập lên, nhưng là người tối tăm nhu nhược, không thể gánh nổi công việc. Sau khi ta về Nam, liền bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai khiến tự rước lấy bại vong, đất nước này dù ta không lấy thì cũng bị người khác lấy mất. Nay ta để Sùng nhượng công làm giám quốc, các ngươi hãy cố gắng ở lại giúp đỡ ông ta. Ta thật không muốn lấy Bắc Hà để kiếm lợi, nay mai lại sắp về Nam. Nhưng vì sợ tự hoàng tranh giành cùng giám quốc, thành ra ta làm ơn mà lại hoá ra gây loạn cho họ, nên ta phải để viên đại tư mã là Ngô Văn Sở ở lại trông nom việc binh, chờ khi bốn cõi tạm yên, ta sẽ gọi về.

Trăm quan từ giã lui ra, rồi nói riêng với nhau:

– Bắc bình vương tạm dùng lời nói ngọt để giá ngự chúng ta, chứ không phải thật bụng. Văn Sở cầm quân ở đây, thì Sùng nhượng công làm gì mà có nước? Hễ cử động gì liền bị họ nắm lấy cánh tay, ông ấy còn làm được chi? Ví như cây tầm gửi, bám vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao được? Chúng ta, người nào có thể đi theo vua lo việc khôi phục thì đi đi, nếu không thì nên ẩn xa cho sạch mình, chớ để cho người ta lừa phỉnh mà rước lấy vạ.

Sùng nhượng công cũng biết như thế, nên đã phải than rằng:

– Ta nay tiếng là làm giám quốc, thật ra chỉ là một ông từ giữ đền. Nhưng vì miếu xã ở cả đây, bỏ đi thì đi đâu? Thôi thì cũng đành cam lòng như thế, không hối hận gì nữa vậy!

Qua vài ngày, Bắc bình vương dẫn quân về Nam. Trước khi lên đường, vương chọn năm sáu viên văn thần là bọn Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lan…, phong cho quan tước: ích làm chức tả thị lang bộ Hộ, tước Thuỵ nham hầu, được đưa về Nam (bản chữ Hán chép cả Ngô Thì Nhậm cũng được đưa về Nam; đó là chép lầm). Còn bọn Lịch, Tốn, Lan…, thì đều được phong chức hàn lâm trực học sĩ, theo đại tư mã Sở ở lại đất Bắc. Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên đều xin về dưỡng nhàn, nhưng vẫn được Bắc bình vương cho giữ nguyên chức tước, và sai bộ Lễ cấp phát giấy tờ cho họ trở về làng xóm. Tham tụng là Bùi Huy Bích, thiêm đô là Nguyễn Huy Trạc đều có đến kinh, nhưng không chịu cho dẫn vào lạy chào. Rồi đang đêm Bích trốn, còn Trạc thì tự tử ở đài Ngự-sử.

Những người trốn tránh không chịu ra thì có phó đô ngự sử Nguyễn Đình Giản, tham tri chính sự Lê Duy Đản, Phạm Đình Dư, đồng xu mật viện Nguyễn Duy Hạp, Phạm Trọng Huyến, thiêm sai công phiên Phạm Quí Thích, đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tứ, tất cả chỉ có bảy người mà thôi (theo Cương mục, thì số người này gồm tám viên, mà có một số tên khác hẳn đây).

Lại nói, bấy giờ vua Lê đang ở huyện Lang Tài, lại dời đến huyện Chí Linh. Các quan biết chỗ vua ở, nhiều người đến theo. Lê Ban ở Giáp Sơn (cũng gọi Hiệp Sơn, nay là đất huyện Kinh Môn, Hải Dương (Hải Hưng)) đem một trăm người nghĩa dũng đến yết kiến. Vua mừng lắm, phong cho làm chức ngự doanh sứ, tước trung nhạc hầu.

Ban nói kín với vua rằng:

– Trước đây, thần về Nghệ An, thấy nhân tình rất là căm phẫn, ghét Tây Sơn như cừu thù, nhiều người đã nhóm họp ở rừng núi để cùng lo việc khởi nghĩa. Các bậc phụ lão nghe tin thần ở Bắc vào, đều lần lượt đến hỏi nhà vua ở đâu, muốn cho con em đi theo. Nhân thể, thần mới cùng đi với họ. Dọc đường qua cửa biển, thần lấy điều nghĩa khuyên dụ, nhiều người xin đem thuyền qua biển, hẹn nhau họp ở ngoài khơi phủ Kinh Môn (địa bàn phủ Kinh Môn (Hải Dương) đời Lê rất rộng, gồm cả một số huyện của Quảng Yên và Kiến An hiện nay). Gần đây, thần được tin báo rằng: hiện có chừng hơn bảy chục chiếc thuyền và hơn ba trăm thuỷ thủ, khí giới lương thực đầy đủ, ít hôm nữa sẽ đến. Vậy xin xa giá ngự ra Giáp Sơn, hạ chiếu cho Trần Quang Châu đem quân bản bộ hộ vệ. Quân bộ do Châu thống lĩnh; mặt thuỷ thần xin đảm đương. Hai cánh quân nương tựa lẫn nhau. Trước hãy khôi phục trấn Hải Dương để làm nơi xa giá tạm nghỉ. Trấn ấy phía bắc có thể khống chế các huyện Từ Sơn, Thuận Thành; phía nam thông với các phủ Thái Bình, Kiến Xương, theo đường Yên Quảng có thể đến thẳng Cao Bằng, và kéo luôn sang vùng Lạng Sơn. Cơ trung hưng không còn cách nào khác nữa.

Vua Lê nghe theo, bèn hạ chiếu cho Châu làm chức đốc chiến ở đạo Kinh Bắc

Quân chưa kịp tiến, thì vừa gặp lúc Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương dâng tờ biểu xin theo đi đánh trận. Mọi người nghe tin, nói nhao lên rằng: “Nhưỡng là một thằng chẳng ra làm sao. Bảo là có nghĩa ư? Trước đây hắn đã toan giúp nhà chúa để chống lại mệnh lệnh nhà vua, lúc đầu phò quận Thuỵ, sau lại theo chúa án đô. Đến khi quận Thuỵ làm không nên việc và án đô bị thất bại, hắn đều bỏ đi không nhìn. Bất nghĩa đến thế là cùng! Bảo là có tài ư? Chính hắn đã hai lần cầm quân chống giặc, thì một lần thua ở Kim Động, một lần thua ở Ngô Đồng, chỉ chạy thoát được cái thân, không chết là may đấy thôi! Xem một đời hắn, toàn không có nghĩa khí, lại không có tài chiến đấu, chỉ cậy thế con nhà tướng, quen dùng khí thế đè nén người ta. Khi hắn mới về Hải Dương, thả bộ hạ cướp bóc trong xứ. Người ta coi hắn là giống diều quạ gian giảo và gọi là giặc Nhưỡng. Hào mục các huyện đã viết thư cho nhau kể tội các của hắn. Họ đã họp nhau trong làng Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, hẹn nhau đến đánh phá Hàm Giang. Nhưỡng phải lui quân về huyện Bình Giang. Rồi nhân lúc ban đêm, kéo đến làng Lai Cách, giết hại không biết bao nhiêu người mà kể, đến nỗi thây nằm ngổn ngang đầy đồng. Sự tàn nhẫn của hắn như vậy, nên người Hải Dương ai cũng coi hắn là kẻ thù. Nay dung nạp hắn, chẳng những vô ích mà còn mất lòng nhân dân Hải Dương; thật là thất sách!”.

Vua Lê cũng từng nghe tin: Nhưỡng bị mọi người không dùng đã ngấm ngầm đưa thư xin hàng Tây Sơn, nên lúc này cũng nghi ngờ không cho Nhưỡng theo đi đánh.

Các hào mục ở trấn Hải Dương nghe tin vua sang xứ đông, đều dâng tờ biểu, quyết xin đánh Nhưỡng.

Vì thế, Nhưỡng bối rối quá, tính không còn chỗ nào để dung thân liền phát cáu mà nói rằng:

– Vua đã không thương ta, ta còn cần gì vị nể vua?

Rồi Nhưỡng sai tên đồ đảng của y là Trần Liên đến Thăng Long ngấm ngầm tố cáo chỗ vua ở, và xin Văn Sở sai quân đi bắt. Ban đầu, Liên nghe tin vua lén lút ở trong nhà dân, chỉ có sáu bảy người theo, bèn báo cho Sở biết.

Sở hỏi cặn kẽ, Liên vẽ rõ đường đi cùng chỗ ở của vua, rồi nói:

– Ví như vào chùa trói một lão trọc lôi đi mà thôi!

Sở cười mà rằng:

– Nếu quả như lời ngươi nói, sao ngươi không lôi cổ đến đây cho ta, còn xin quân làm gì?

Liên đáp:

– Lôi ông ta đi chẳng qua chỉ một tên lính cũng đủ, nhưng chúng tôi còn sợ danh nghĩa, nên không dám làm. Việc ấy cố nhiên là việc dễ, nhưng lại khó đối với người trong nước, xin ngài xét cho chỗ đó!

Sở tin là thật, liền sai một trăm tên lính cùng đi với Liên. Không ngờ lúc ấy, Trần Quang Châu và Lê Ban đã đến chỗ vua ở, và quân lính bảo vệ cũng không ít. Đêm ấy nghe báo quân Tây Sơn vượt núi mà đến, hai người bèn chia hai đường đánh dồn lại, và giết chết sạch. Liên chạy trốn vào hang núi được thoát, rồi chạy về Thăng Long báo tin. Văn Sở lập tức cho một đạo quân lớn đi đuổi vua Lê (theo Cương mục, thì Đinh Tích Nhưỡng đã đến vây đánh vua Lê hơn một tháng. Sau có hai người ở Hải Dương là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú đến cứu vua, chém giết hai người em của Nhưỡng. Nhưỡng mới phải bỏ chạy). Vua mới đến Giáp Sơn, các đạo quân cần vương còn chưa nhóm họp được hết. Chợt nghe tin quân địch sắp đến, Nhưỡng làm hướng đạo. Mọi người đều run sợ nói nhao nhao lên rằng: “Nhưỡng mà thông đồng với giặc thì Hải Dương không thể ở được”. Châu xin vua lại về huyện Chí Linh. Ban thì xin vua đi Yên Quảng. Mọi người đang bàn bạc phân vân chưa quyết, thì vừa lúc Trương Đăng Quĩ và người con là Trương Đăng Thụ cưỡi chiếc thuyền biển từ phủ Kiến Xương đến yết kiến vua. Thấy thế, Quĩ bèn nói:

– Chí Linh là nơi đồi núi gập ghềnh, tắt ngang sang Gia Bình thì lại là đồng ruộng mênh mông. Ta quân ít sức hèn, đánh hay giữ đều không tiện. Còn Yên Quảng thì lại giáp với Hải Dương, đường sông, vũng biển, đều là cửa ngõ ra vào của Nhưỡng. Hắn đã ăn ở hai lòng, thì đó cũng không phải chỗ yên lành có thể trú ngụ. Trấn Sơn Nam đất tốt dân đông, đinh tráng có thể luyện làm quân lính, thóc gạo có thể trưng làm lương thực, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện, cưỡi một chiếc thuyền, bỏ chỗ nọ đến chỗ kia, chẳng ai còn biết lối nào mà tìm. Bệ hạ đang lúc như con rồng ẩn bóng, không đâu yên ổn bằng đấy.

Vua theo lời Quĩ, bèn quyết ý dời về phía nam. Còn lời bàn của Châu và Ban thì vua đều không nghe. Rồi đó, vua yên uỷ hai người, sai Châu dẫn quân về Bắc, Ban thì đem thuyền biển lui về Biện Sơn (núi Biện Sơn ở vùng biển huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá), chờ lệnh trưng phát. Thế là quân cần vương tan tác đi ra bốn phía, còn vua thì đi về phía nam.

Lúc tới nơi, vua đóng ở huyện Chân Định, dùng nhà Đăng Quĩ làm nơi hành tại. Quĩ đưa con em và người trong họ tới lạy chào, vua đều ban cho quan tước, sai họ chia nhau đi các làng, các huyện chiêu mộ quân nghĩa dũng. Xa gần nô nức hưởng ứng, đều xin họp quân cần vương, hẹn ngày cùng đến, thuyền bè kể có hàng nghìn, quân lính có tới vài vạn. Các tay hào mục đều đến, vua tự mình ra yên uỷ họ. Rồi sai Đăng Quĩ chia quân làm năm đạo, trong từng đạo lại đặt ra các chức thống lệnh, đốc chiến, tham quân, đốc hướng mỗi chức một viên, lập thành cơ đội, chờ ngày xuất phát.

Viên nội hàn là Lê Xuân Hạp bảo Đăng Thụ rằng:

– Quân lữ là việc lớn, không thể khinh suất. Trước hết nên điểm số quân, kén lấy người cường tráng sung làm chiến sĩ, cứ năm chục người làm một đội, năm đội làm một cơ, năm cơ làm một đạo, do viên thống đạo đốc suất. Những người còn lại thì để dùng vào việc chuyên chở và sai khiến, chớ để quân lính không tinh nhuệ lẫn lộn vào, tiếng là có số mà vô dụng. Nay nên kê rõ danh sách, dẫn vào bái mạng, để nhà vua ban cho binh phù, trao cho quân luật. Viên thống đạo vâng mệnh lệnh triều đình; các cơ đội thì chịu sự tiết chế của viên thống đạo. Người nào tuân theo mệnh lệnh thì có trọng thưởng; người nào không nghe mệnh lệnh thì bị tội chém. Sao cho quân lính đều hăng hái và biết khuôn phép, sau đó mới có thể đưa ra trận mạc. Binh là việc dữ, chiến là việc nguy, không phải là trò trẻ con.

Thụ nói:

– Ngày nay chính là lúc đang cần gấp rút thu phục lòng người, mọi việc hãy tạm giản dị, chưa thể buộc ngay họ vào khuôn phép được!

Hạp nói:

– Thu nạp được nhiều người mà dùng không được chỉ sợ họ thấy giặc là chạy, rồi lại còn giày xéo lẫn nhau nữa, thì dù nhiều cũng chẳng làm gì. Sao không nghĩ đến việc cụ lớn đại thần nhà ta đã cố sức khuyên nhà vua qua sứ Sơn Nam, ông là con ngài, vâng mệnh cầm quân, vạn nhất mà bị vấp ngã, tội ấy tại ai?

Thụ không nghe, chỉ gọi các hào mục đến mà phân phái bằng miệng, tuyệt nhiên không có sổ sách gì để có thể tra cứu. Bởi vậy, đến khi có việc cần sai khiến, Thụ đều lờ mờ không biết đâu mà lần, đến nỗi phải chạy đi hỏi lăng xăng khắp nơi, trong quân ngũ chẳng còn có kỷ luật gì nữa. Quĩ cũng không biết, gọi Thụ hỏi về việc quân thì Thụ thưa:

– Các đạo nay đã tề tựu, quân số rất nhiều, ai cũng hăng hái đánh giặc. Xin đánh một trận để lập công!

Quĩ cho là phải, tâu xin chọn ngày xuất quân. Vua có ý ngần ngại mà rằng:

– Ta nghe những người giỏi về chiến trận, trước hết phải lo đến việc thua, rồi sau mới thắng được người. Nay ta xem thuyền bè thì đều là thuyền câu, thuyền chài, quân lính thì đều là những kẻ chợ búa ô hợp, dùng quân ấy mà đánh, có chắc là không bị thua chăng? Nghĩ đến cái cảnh sau lúc trốn chạy, cùng một và người bề tôi lo việc dựng lại cơ nghiệp, thì trẫm dù không thể khôi phục được xă tắc cũng quyết chết với xã tắc, thề đánh nhau với giặc đến cùng, chớ có sợ gì xuất quân? Nhưng trẫm muốn làm việc gì cũng phải tính kế vạn toàn, ngõ hầu khỏi mang tiếng là vì khinh suất, vội vàng mà chuốc lấy vạ bại vong.

Quĩ ngoảnh lại bảo Thụ:

– Thánh thượng bảo như vậy, con nghĩ thế nào?

Thụ nói:

– Ngày nay, điều mà mình trông cậy, ấy là lòng người. Mọi người ai cũng kính mến ơn đức của thánh thượng, căm thù với giặc, nguyện xin đánh một trận lớn, giết cho hết giặc. Lòng người như thế, đánh đâu không tan? Đẽo cây gậy có thể quật ngã được nước Sở, dựng ngọn tre có thể làm mất nhà Tần (trong sách Mạnh tử, lời Mạnh tử nói với Lương Huệ vương có câu: Chế đình khả dĩ thát Tần, Sở chi kiên giáp lợi binh, nghĩa là đẽo cây gậy có thể đánh bạt giáp bền gươm sắc của quân Tần, Sở. Theo Bắc sử, cuối đời Tần, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi binh, chỉ dùng cây cối làm gươm dáo, dựng ngọn tre lên làm cờ mà đánh bại quân Tần); huống chi số quân này và số thuyền này, há không đủ giết chết quân giặc hay sao? Nếu cứ muốn quân lính quen thạo trận mạc, thuyền bè phải đủ lầu gác, thì trước đây quận Thạc, quận Nhưỡng đều là những viên tướng trải qua trăm trận, lính thuỷ bộ các doanh mà họ thống lĩnh đều là quân tinh nhuệ, hùng dũng, sao cũng không thể thành công mà lại phải tan vỡ? Vậy thần xin thả thuyền ngược dòng mà lên, quyết chiến với giặc. Xe nhà vua tới sông, quân sĩ hăng lên gấp trăm, chẳng qua năm ngày, có thể lấy lại kinh thành. Cơ hội này không nên bỏ lỡ!

Vừa lúc ấy Nguyễn Viết Tuyển đưa binh thuyền đến đón vua. Nhân thế, Đăng Quĩ khuyên nhà vua cho xuất quân.

Nguyên trước, Tuyển là người cùng huyện với Hữu Chỉnh, làm bộ tướng của Chỉnh, cùng với Chỉnh vượt biển vào với Tây Sơn, xông pha những nơi nguy hiểm, không hề rời bên cạnh Chỉnh. Đến lúc Chỉnh về nước và đắc chí, liền tiến Tuyển với vua, nói là tài Tuyển có thể đương nổi một mặt. Vua bèn hạ chiếu cho Tuyển làm trấn thủ trấn Sơn Nam, thống lĩnh năm ngàn lính bộ và bảy chục chiến thuyền.

Tuyển giỏi về thuỷ chiến, nên khi Chỉnh có hiềm khích với Tây Sơn, sợ Văn Nhậm lợi dụng lúc sơ hở mà đi đường biển đến, Chỉnh bèn sai Tuyển đóng đồn ở cửa biển Đại Hoàng, đem quân đi tuần ngoài biển để dò la tin địch. Đến lúc kinh sư tan vỡ, Chỉnh đưa vua chạy sang Kinh Bắc, Tuyển không được biết. Sau đó tin báo đến nơi, Tuyển mới lật đật ở biển rút về trấn, mưu đóng giữ đất ấy để chống với địch. Văn Nhậm đã có lần đánh Tuyển, nhưng không hạ được. Đến khi Văn Sở lên thay Nhậm, muốn dỗ Tuyển về hàng, bèn sai người vào Nghệ An, bắt cha và vợ Tuyển ra Thăng Long. Rồi sai vợ Tuyển cầm thư cha Tuyển viết để dụ Tuyển, đồng thời lại đưa tin rằng: “Nếu Tuyển không mau mau đầu hàng, thì sẽ giết cha!”.

Tuyển lấy thư của cha, khóc và nói:

– Đời người có ba đấng bề trên thì hoàng thượng là vua ta, Bằng công là thầy ta; mệnh cha không dám không theo, nhưng thù của vua và thầy không thể không trả. Giả sử đầu hàng mà được trọn đạo nuôi cha, trở về quê hương họ hàng làm người nông dân huyện Chân Phúc cho hết đời, thì dù được đằng nọ mất đằng kia, ta cũng cam lòng. Song chỉ sợ bị lừa dối, rơi vào tay quân độc ác, cả mình ta cũng bị nó giết hại, thì trung hiếu đều hỏng, để tiếng cười cho ngàn đời, làm kẻ ngu dại trong thiên hạ, như thế rất là không nên.

Rồi đó, Tuyển dặn vợ trở về từ tạ với cha. Cha Tuyển được tin, biết Tuyển không có ý cứu mình, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Đã không có thể cầu sống với con thì còn xin sống với người khác làm gì? Giả sử nó làm được như Vương Lăng (đời Hán, Vương Lăng là một tướng giỏi của Hán Cao-tổ; khi Sở Hạng Vũ đánh nhau với Hán, bắt mẹ Vương Lăng, rồi buộc phải viết thư dụ con về hàng, nhưng bà không chịu, tự ấn cổ vào mũi gươm mà chết để cho con một lòng phò Hán), thì dù có chết như bà mẹ Lăng, ta cũng không hối tiếc. Nhưng ta xem nó chỉ như con lợn, con chó, khó lòng mà làm được như thế. Chết khi chính mắt trông thấy nó thất bại, thà rằng chết trước còn hơn!

Sở biết ý ông ta, liền sai người canh giữ rất nghiêm ngặt, và nói:

– Tuyển đã không có ý hàng, thì ta cũng không thể nuôi giặc.

Rồi Sở tự đem quân đi đánh Tuyển, đưa cả cha và vợ Tuyển đi theo. Sở sai đại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết thống lĩnh thuỷ quân, còn mình thì thân hành đem bộ binh cùng Phan Văn Lân chia làm hai cánh tả hữu, men theo hai bờ sông cái, cùng tiến lên.

Đến bến Thanh Trì, Sở bắt được một tên do thám của Tuyển, tra hỏi thì y nói:

– Tuyển chỉ có tám chục chiếc chiến thuyền, đóng ở cửa ải Hàm Tử, mà không có quân bộ. Lương thực toàn lấy của dân, năm ngày một kỳ, nhưng cũng không được đều đặn. Quân của Tuyển có khi buộc thuyền ở ven bờ sông, rồi vào nhà dân cướp bóc, mọi người ai cũng chán ghét, thế không thể nào đóng lâu ở đấy được. Gần đây, Tuyển lại sai đắp luỹ đất ở sông Hoàng Giang, đốc thúc công dịch rất gấp. Nghe đâu ông ta sắp lui về đấy để làm chước cố thủ.

Nhờ vậy, Sở biết rõ tình hình hư thực của Tuyển, liền bảo với Lân rằng:

– Quân ta chuyến này bắt Tuyển như bắt đứa trẻ con, không khó gì cả!

Sở bèn họp quân bộ, chia làm hai đạo, nhân đêm tối tiến về phía nam, vòng ra sau quân Tuyển, phục kích ở hai bên bờ sông, đợi khi thuỷ quân giao chiến với quân Tuyển và nghe thấy tiếng súng nổ, thì lập tức giục trống, hò reo xông lên, hai cánh cùng nhắm thuyền quân của Tuyển mà bắn.

Rồi đó, hai bên giao chiến ở vùng huyện Kim Động, quân Tuyển bất lợi, phải theo nước xuôi chèo gấp về nam. Sở thừa thế vẫy quân đuổi theo. Đến sông Hoàng Giang, quân Tuyển dựa vào luỹ đất để giữ thế thủ, hai mặt thuỷ bộ nương tựa lẫn nhau để chống với quân Sở.

Lúc Tuyển thua ở Kim Động, sĩ dân mạn xuôi đều chưa ai biết. Trông thấy thuyền bè đầy sông, cờ quạt rợp trời, họ cho là quân Tuyển thế nào cũng thắng trận. Lại nghe vua Lê ở Chân Định, Tuyển đã cho thuyền đi đón, xe vua sắp đến, nên ai cũng nô nức mừng rỡ, tranh nhau đem đinh tráng, mở cờ gióng trống để đón quân vua. Tuyển thấy dân tình như thế, nên mới dâng biểu tâu xin nhà vua ngự ra coi quân. Đăng Quĩ cũng hết sức chủ trương việc nhà vua thân chinh. Vua Lê bất đắc dĩ phải gắng gỏi nghe theo. Nhân dân vùng ven sông trông thấy tàn lọng nhà vua, đều xúm xít trên bờ, chen chúc đứng xem chật như nêm cối. Ai nấy đều nói: “Vua ta đến đấy!” Rồi bảo nhau vái lia lịa và tung hô “vạn tuế”.

Xe vua đi sang hướng bắc, đến sông Ngô Đồng, chợt thấy một người hớt hơ hớt hải chạy về phía nam. Quân lính liền bắt lại, hỏi cớ sao mà chạy. Người ấy miệng run cầm cập, không thể nói được, chỉ giơ ngón tay trỏ về một làng ở đằng xa, hồi lâu mới đáp:

– Giặc… đến… nơi… rồi!

Mọi người cùng lên trên cao mà nhìn thì thấy thấp thoáng ở trong đám cây cối um tùm, có một toán quân đang từ phía tây đi tới, cờ quạt khi mờ khi tỏ. Ai nấy đều nói: “Đúng là bộ dạng quân Tây Sơn”. Họ vội vàng xuống thuyền, tâu rõ với vua. Vua nói:

– Quân Tuyển đóng ở phía trước, quân giặc sao lại vượt qua mà đến đây được?

Rồi nhà vua sai Xuân Hạp lên bờ, dùng ống viễn kính để xem. Hạp xem đúng là quân Tây Sơn, nhưng sợ quân sĩ kinh sợ, bèn trở lại tâu rằng:

– Bộ dạng toán quân ấy chưa được rõ ràng, nhưng quân Tây Sơn xuất quỷ nhập thần, rất là khó lường. Đề phòng việc bất trắc, đó là phép đời xưa. Vậy xin tạm dời thuyền ngự sang bờ bên đông xem sao?

Vua cho là phải.

Thì ra lúc bắt đầu đi đánh Tuyển, Sở đã dùng thuỷ quân thẳng theo dòng sông xuôi xuống làm chính binh; lại ngầm sai đô đốc Nguyễn Văn Hoà lĩnh đạo khinh binh do đường Bình Lục, Thiên Thuỷ vòng lại làm kỳ binh, để đánh úp phía sau. Nhưng Tuyển không hề biết.

Quân hai bên đánh nhau mới được vài hiệp, Tuyển sai tướng sĩ đặt súng bảo long ở trên bờ sông, để bắn quân địch. Chợt thấy quân địch trói cha và vợ Tuyển ở đầu thuyền, rồi chèo thuyền vun vút xông lên phía trước. Tuyển trông thấy, khóc và nói:

– Con bắn cha là trái với đạo trời!

Đoạn Tuyển vội vã thét quân sĩ thôi bắn, và lui vào trong luỹ để cố thủ.

Bỗng nghe tiếng súng ầm ầm như sấm, khói lửa ngút trời, quân lính hoảng sợ, đều nói nhao lên rằng: “Giặc đã chặn mất đường về rồi”.

Họ bèn bỏ chạy tan tác. Tuyển ngăn không nổi, liền cùng bộ hạ hơn trăm người nhằm phía nam sông Hoàng Giang mà chạy.

Thuyền vua Lê đóng ở bờ phía đông hồi lâu, sau nghe tin quân Tuyển thua trận, quân Tây Sơn xông ra bốn phía, chém giết rất giữ dội, thì mọi người đều mất hết hồn vía, bỏ cả thuyền bước vội lên bờ, cướp đường mà chạy. Nhà vua thấy vậy, liền thuận theo dòng sông buông thuyền chạy về phía nam. Khi tới một ngã ba sông, không biết đi về ngả nào, vua bèn sai gọi gấp Đăng Quĩ để hỏi, nhưng đã không thấy Quĩ ở trên thuyền nữa.

Lúc ấy gió bắc đang mạnh, vua sai giương buồm thẳng ra biển mà đi. Bốn bề mênh mang, mù mịt, trời nước một màu, theo gió cưỡi sóng, lênh đênh trong biển khơi, việc sống chết lúc ấy thật không biết đâu mà lường. Vua Lê ngước mắt lên trời mà khấn rằng:

“Nếu trời không muốn bảo tồn dòng dõi họ Lê, thì xin nguyện đi theo hải mã đến chỗ Quảng lợi vương ở biển Nam Hải, không cần sống làm gì nữa”.

Nói chưa dứt lời, chợt thấy có một chòm núi, đột ngột hiện ra giữa những lớp sóng, sau núi có chừng vài chục chiếc thuyền. Vua vội vàng hỏi người cầm lái, thì ra đã đến hải phận Biện Sơn. Dần dần lại gần, thấy một người bận quần áo trận đứng ở đầu thuyền, nhìn kỹ chính là Lê Ban.

Vua vừa mừng vừa thẹn, chưa biết nói sao. Ban biết là thuyền vua, vội vàng đến bái yết. Vua ứa nước mắt mà nói:

– Ta hối không dùng kế của nhà ngươi, bị Trương Đăng Quĩ làm lỡ. Biết trước thế này, thà ở Giáp Sơn mà thua, còn hơn là đến Chân Định mà thua, thêm một phen lặn lội, chỉ tổ cho người ta chê cười. Nhưng thôi, cũng là việc đã rồi. Còn bây giờ thì nên làm như thế nào?

Ban tâu:

– Thần nghe nói: “Có lắm nạn mới dấy được nước, sự lo phiền mở rộng thánh đức”. Xin bệ hạ chớ vì thế mà nhụt chí. Thua được là việc thường của nhà binh. Ví như đánh cờ, thua ván này bày ván khác, cố làm sao cho có nước cờ lạ hơn người, quy mô sắp sẵn rồi, mới có thể ra mặt. Hiện nay thế giặc quá mạnh, ta chưa chiếm được một mảnh đất nào, không thể đánh nhau với chúng. Thần xin bệ hạ lên đường vào Lam Sơn là đất hưng vương của Thái tổ ngày xưa, lấy đó làm nơi bảo vệ xa giá, rồi sai người truyền dụ các tù trưởng của dân mường mán. Họ đều là dòng dõi phiên thần, ai mà chẳng hăng hái? Thêm vào đó, lại thu nhặt quân hai xứ Thanh, Nghệ, họ đều là lính túc vệ thân cận xưa kia, ai là chẳng vui lòng đi theo? Thế rồi theo đường ven núi, qua lại liên lạc với nhau. Quân ở ba trấn Sơn Nam, Sơn Tây, Hưng Hoá xuôi dòng sông mà xuống, đột ngột từ trong núi kéo ra. Một ngày kia cả ba đạo đồng thời nổi dậy, tiến thẳng đến đô thành. Cuộc trung hưng của triều ta xưa kia, chính là dùng cách ấy.

Vua nghe lời, liền theo đường bộ đi về vùng Lam Sơn, trấn Thanh Hoa. Rồi sai Ban qua đất Thiên Quan (tên phủ, gồm đất các huyện Nho Quan, một phần huyện Gia Viễn (Ninh Bình) và một phần huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) ngày nay) dụ quận Thái; sai tôn thất Duy Lan tới đất Phù Sùng dụ hai viên tù trưởng ở Tây Lĩnh.

Hai viên tù trưởng này vừa mới qua lại hoà hảo với Tây Sơn, không dám trở mặt ngay, họ đều nói:

– Chúng tôi mấy đời nhờ ơn nặng của nhà nước, há dám không hết lòng? Nhưng mà kinh doanh nghiệp lớn, ắt phải tích luỹ lâu năm mới thành, không thể làm xong ngay trong khoảng mươi hôm. Đời xưa Hán Cao-tổ, Đường Thái-tông còn phải khó nhọc đến năm sáu năm. Vậy xin lượng thánh xét kỹ, hãy cứ lấy Lam Sơn làm nơi ẩn náu, thư thả để cho chúng tôi luyện tập quân mã, sắm sửa khí giới, thu góp lương thực, sửa sang đường sá, rồi mới có thể vâng mệnh nhà vua được. Nếu muốn làm gấp, e không phải sức của chúng tôi có thể làm nổi.

Lan về nói với vua rằng:

– Chúng nó thật không có lòng mộ nghĩa, nên tạm dùng lời thoái thác để cự tuyệt ta. Chỗ này sơn lam chướng khí không thể ở lâu. Vậy xin bệ hạ sơm sớm lo liệu, đừng để mất thì giờ vô ích.

Vua cho là phải, bèn lập mưu thay quần áo như người thường, trở về Kinh Bắc, tạm trọ ở phủ Lạng Giang, sau lại dời ra phủ Từ Sơn, ở nhà viên tham tri là Đình Dư. Do đó, bọn Lê Đản, Doãn Lệ, Danh án, Vũ Chiêu, Vũ Trinh, Xuân Hạp lại lần lượt lui tới chỗ vua ở. Vua cùng họ bàn mưu tính kế; Đình Dư nói:

– Nay bề tôi nanh vuốt của nhà vua chỉ có ba người là Ban, Tuyển và Châu. Tuyển từ sau khi thua ở Hoàng Giang, chạy về Nghệ An, nay không biết ở đâu? (theo Cương mục, thì sau đó Tuyển ra Thăng Long xin hàng Ngô Văn Sở, bị Sở giết chết) Châu bị Tây Sơn lùng bắt, lẩn trốn vào hang núi, không còn thì giờ lo toan công việc. Ban vâng chỉ đi chiêu dụ, còn ở Thanh Hoa, cũng chưa có tin tức gì. Hiện nay bệ hạ nương náu ở nơi thôn ổ, lũ thần đi lại luôn, sợ lâu dần có người biết, sẽ xảy ra tai biến bất trắc. Chi bằng bệ hạ hãy đi lên Cao Bằng, Huy Túc hiện còn hầu thái hậu ở đó. Trong thì dùng các phiên thần hộ vệ, ngoài thì dựa vào sự cứu viện của thiên triều, ngõ hầu mới có thể làm được việc.

Vua nói:

– Trước kia, ta đã sai Ngô Thì Chí lên Cao Bằng (ở trên nói đi Lạng Sơn, đây lại nói đi Cao Bằng, có lẽ là chép lầm) để sắp đặt sẵn mọi việc. Nghe đâu Chí bị ốm giữa đường, nay không biết ra sao?

Danh án thưa:

– Chí bị bệnh nặng, không đi được, phải cáng về huyện Gia Bình, rồi mất. Chúng thần nghe tin, nhưng chưa kịp tâu.

Vua ứa nước mắt, nói:

– Mất một người bề tôi giỏi rồi đấy! Tiếc thay!

Rồi vua bèn tự tay viết tờ chiếu, truy tặng Chí làm chức hàn lâm thị chế, tước Dụ trạch bá, trao cho án và nói:

– Nhà ngươi cầm tờ chiếu này đưa cho vợ con của ông ta, cho họ biết ý của trẫm.

Đản tiến lên nói:

– Hiện nay những kẻ thần dân theo giặc, đem hết tình hình nước nhà nói với chúng, cho nên mình sắp mưu toan việc gì, thế nào chúng cũng biết trước. Thậm chí có kẻ còn đưa giặc đến để bức bách nhà vua. Biến tự trong sinh ra, không chỉ có giặc ngoài mà thôi. Vì thế mà việc ở Chí Linh và Giáp Sơn, cả hai lần đều không làm nên chuyện; liền đó, việc ở Sơn Nam cũng vậy. Ngày nay chỉ còn có cách là sai sứ sang cáo cấp với nhà Thanh, xin họ dàn quân sát biên giới nước ta, để hỏi cái tội của quân Tây Sơn gây việc binh đao và bọn người trong nước theo giặc; làm cho bọn giặc không thể ở yên, mà lũ phản nghịch cũng có phần sợ. Như vậy, thì lòng mộ nghĩa của người ta mới được bền vững mà mưu cơ khôi phục mới khỏi bị tiết lộ và khỏi bị phá rối.

Vua cho là phải, bèn sai thảo bức thư, đưa trước cho viên tổng đốc lưỡng Quảng (tức hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc)), đại lược nói rằng:

“Ba trăm năm nay, nước chúng tôi nhờ đội oai đức của thiên triều, đời đời giữ chức phiên phong, trong nước yên lặng. Chẳng may vận nước giữa chừng gặp buổi suy vi, vua trước qua đời. Nguyễn Huệ Tây Sơn là rể nước tôi, quên ơn bội nghĩa, nhân khi nguy biến, đánh người trong lúc có tang; lại chiếm cứ đất nước, để đến nỗi người cháu nhà vua phải trốn chạy ra ngoài, chưa kịp sai sứ báo tang và xin phong, thể lệ nhiều điều thiếu thốn. Nếu không tới cửa ải mà bày tỏ, e lại vì thế mà mang tội. Vì vậy, nay xin bẩm rõ nguyên do, mong rằng quan lớn thương tình kẻ ở xa, đề đạt giúp cho. Tôi đã có biểu trần tình, xin giao cho một người đem đi, lại có chép một bản phụ, xin trình lên ngài xem. Vời trông thiên triều, ví như trời che đất chở, xa gần không sót chỗ nào. Xét đến tấm lòng kính thuận của các đời trước nhà tôi, và thương đến nỗi khổ yếu ớt, lang thang của tôi; xin hãy truyền cho đem quân tới sát bờ cõi, đánh kẻ có tội, dẹp yên loạn lạc, để gây dựng lại nước tôi. Muôn vàn lần nhờ ơn thiên triều, ơn đức của đại hoàng đế không sao kể xiết, mà công giúp đỡ của quan lớn cũng sẽ cùng bền vũng với núi sông của nước tôi vậy”.

Thư thảo xong, vua sai Đản và án sung chức chánh, phó sứ. Hai người đem vài kẻ thân tín cùng đi, chỉ đội nón cũ, bận áo rách như người thường dân đi đường. Vua Lê tiễn hai người đến vùng núi Bảo Lộc và dặn rằng:

– Đối đáp ở đất nước người là chức trách của sứ thần. Chuyến đi này quan hệ đến sự mất, còn của nước nhà và sự thành, bại của công việc. Các ngươi nên tuỳ cơ ứng biến, đem cái tài học chất chứa lúc bình sinh mà thi thố ra việc làm. Tài kinh luân ở ba tấc lưỡi, việc từ lệnh ấy không thể thiếu được. Các ngươi nên cố gắng, cho xứng đáng với tấm lòng trông chờ của trẫm.

Hai người lạy tạ rồi đi. Đản nói riêng với án rằng:

– Bọn ta tiếng là bồi thần, thật ra chẳng khác gì kẻ vong mạng, ra đi lúi xùi chẳng có ai đưa đón, trên đường thì nhiều sự cách trở, lại phải trèo leo vất vả trong chốn núi rừng. Nếu chưa đến đất Trung Hoa mà đã bị quân giặc đuổi bắt, thì đó chính là sự dở dang rất đáng lo ngại. Còn như đã tới được gần doanh của đốc bộ lưỡng Quảng thì ta không còn lo gì nữa.

án nói:

– Nếu như lòng trời còn giúp xã tắc, chắc sẽ không có việc ấy, cần gì mà phải lo xa? Có điều, từ khi nước ta có nước đến nay, trong việc đi lại với Trung Hoa tuy rằng các đời sáng nghiệp và trung hưng cũng đã từng gặp cảnh gieo neo không biết là bao nhiêu phen, nhưng mà kẻ bồi thần đi sứ, chưa có ai lại như chúng ta ngày nay.

Nhân thế, án làm bài thơ, trong có hai câu rằng:

“Ngàn thuở còn truyền câu chuyện lạ:
Sứ thần áo rách, nón mê tàn

Rồi hai người theo con đường tắt trong núi, qua cửa ải Lạng Sơn mà đi.

Thật là:

Rời nước một thân qua ải Hán
Đau lòng hai mắt khóc sân Tần *

Chưa biết hai người đi chuyến này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.

* Dịch ở hai câu chữ Hán như sau: Thiên cổ do truyền kỳ tuyệt sự, Tệ soa tàn lạp sứ thần trang)!

Đời Xuân thu, nước Sở bị nước Ngô chiếm đóng, quan đại phu nước Sở là Thân Bao Tư sang cầu cứu với nước Tần. Vua Tần không nghe, Bao Tư cứ đứng khóc ở sân luôn bảy ngày đêm: sau đó vua Tần phải cho quân sang cứu Sở-Đây mượn ý đó để nói việc bọn án sang cầu cứu nhà Thanh cũng khó khăn như vậy.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 12

Lê sứ thần qua đất Bắc xin quân
Tôn đốc bộ tới ải Nam truyền hịch.

Lại nói, viên tham tri chính sự Lê Duy Đản và viên phó đô ngự sử Trần Danh án theo đường tắt trong núi đi đến vùng Hoà Lạc (thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn), gặp lúc quân do thám của viên đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Diệm đi tuần, xét hỏi rất ngặt, người nào không có giấy tờ đều bị ngăn trở. Hai người bèn cải trang làm người lái buôn, nhập theo bọn khách trú (tiếng đương thời, dùng để chỉ những người Hoa kiều ngụ cư ở Việt Nam), men núi đi tắt sang Trung Hoa, rồi nhờ quân của viên quan giữ cửa ải đưa đến doanh phủ Thái Bình (thuộc Quảng Tây).

Bọn Đản lạy rập dưới sân mà nói:

– Kinh thành của nước chúng tôi từ năm Bính-ngọ (1786), bị giặc Tây Sơn là Nguyễn Huệ đánh phá, quốc vương qua đời, cháu nối nghiệp do dòng chính thống lên làm chủ việc tế tự. Mùa đông năm Đinh-vị (1787), Huệ lại sai tướng ra đánh. Tự quân phải chạy trốn ra ngoài, các bề tôi lớn nhỏ đều phiêu bạt nơi sườn non góc biển. Người ở lại bị chúng bắt bớ, người đi ra bị chúng ngăn chặn, hễ chúng bắt được là giết chết liền. Trước đây, tự quân của chúng tôi chạy vào Sơn Nam cùng một vài người bề tôi tập hợp quân dân, tính việc khôi phục, lại bị chúng đánh phá, phải chạy vào trấn Thanh Hoa. Nay nhân khi dân mộ nghĩa còn mến chủ cũ, đều muốn tự quân của chúng tôi lẻn về phía bắc sông Nhĩ Hà, đem tình hình báo với thiên triều, ngước mong thương đến nước chúng tôi, đem quân cứu viện để cho tự quân của chúng tôi có thể khởi sự ngay ở trong nước, rồi dựa vào uy thế của thiên triều mà sai khiến các nghĩa sĩ. Như vậy thì việc khôi phục đất nước mới mong có cơ hội. Hiện nay tự quân của chúng tôi đóng ở huyện Phượng Nhãn, sai chúng tôi lẻn lút sang đây. Đường đi đến cửa ải, tính ra chỉ có bốn ngày nhưng vì chúng tôi sợ giặc bắt, phải vượt suối trèo non, đi vòng theo đường quanh co, nên hơn một tháng mới tới nơi. Cúi xin nghĩ lại: Nước nhỏ mọn chúng tôi làm bề tôi của thiên triều đã hơn ba trăm năm, lo giữ chức phận và việc tiến cống không bao giờ ngớt. Nay bỗng chốc bị giặc chiếm đoạt, xã tắc tàn hoang. “Người ta đến lúc cùng thì quay về gốc”, không thể không gọi ông trời mà kêu. Đức đại hoàng đế cũng tức là vua nước nhỏ mọn chúng tôi, mà các vị quan lớn lại là bậc quan lại giúp việc nhà trời. Muôn trông thương đến kẻ ở nơi biên ải xa xôi, dựng lại nước đã mất, nối lại dòng đã dứt, để cho họ Lê là người bề tôi tiến cống, được đội phúc lớn của trời.

Bọn Đản nói rất thảm thiết và đem các tờ biểu, tờ bẩm trình lên. Viên phân phủ họ Vương ngờ rằng quân Tây Sơn giảo quyệt, giả làm sứ thần của họ Lê để dò la tình hình Trung Quốc, bèn vờ hỏi vặn rằng:

– Vua trước của nước Nam mất đi đã hai năm nay. Nếu như trong nước có biến, tự tôn đáng lập mà không được lập, sao lại không tới cửa ải bày tỏ sự tình ngay từ năm ấy? Vả chăng, trước đây có tiếp được công văn đệ sang, chẳng qua chỉ nói về việc làm mất quốc ấn, xin cấp cho chiếc khác mà thôi. Còn như duyên cớ tại sao không được lập, nguyên do tại sao bị đuổi đi thì không hề nói tới một lời. Nay việc đã trải qua hai năm, tự tôn nương náu ở đâu, quân giặc động tĩnh ra sao, người trong nước theo ai phản ai như thế nào, tình hình đều chưa rõ rệt. Lại nữa, trong tờ biểu này đứng tên tự tôn họ Lê, mà chưa có tờ biểu báo tang và cầu phong, chưa được cấp lại quốc ấn thì sao được khinh suất dâng tờ biểu lên, và vội vã sai sứ thần đến? Xét ra, những việc ấy đều là việc chưa hợp thể lệ. Cần phải có tự tôn họ Lê tự mình đến đây khai báo, để ta giáp mặt mà hỏi rõ tình do. Nếu chỉ bằng vào lời nói của người khác thì không được. Ta là bề tôi giữ đất, việc ở ngoài bờ cõi là việc lớn, quyết không thể nhẹ dạ mà tin các ngươi. Nhưng thôi được, các ngươi đã vì việc cáo cấp mà đến đây, nghĩ tình ta cũng không nỡ đuổi đi. Hãy cho ở lại đây, để ta bẩm rõ với quan đốc bộ, phái người ra ngoài bờ cõi, dò xét một phen cho đích xác, rồi mới có thể làm tờ biểu tâu lên nhà vua mà chờ chỉ ý quyết định.

Đản và án nghe vậy, không biết nói sao, đành phủ phục dưới sân mà gào khóc. Viên phân phủ họ Vương xét thấy thật tình, bèn dỗ dành rằng:

– Xem ra lũ các ngươi trung thực đáng khen, mà tình cảnh thật đáng thương! Thiên triều sẽ có cách phân xử, không nên kêu mãi cho nhàm, cứ ra nhà trọ để chờ mệnh lệnh.

Hai người mừng rỡ, bái từ lui ra. Bấy giờ là năm 53 niên hiệu Càn-long, tức là tháng chín mùa thu năm Mậu-thân (1788).

Đản và án ở đó được ít lâu, viên phân phủ họ Vương gọi vào mà bảo rằng:

– Việc bên ấy xin cứu viện, đã được thấu đến triều đình. Hoàng đế thương đến các vua đời trước của nhà Lê làm bề tôi tiến cống nhiều đời, đã hạ chỉ cho quan tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn đại nhân, hiệp đồng cùng quan tổng đốc Vân, Quý (Vân Nam, Quí Châu (Trung Quốc)) là Phú đại nhân, điều động năm chục vạn lính dõng ở Điền Châu ra ngoài biên thuỳ tìm kiếm tự tôn họ Lê, hộ tống về nơi kinh thành nước An Nam. Những tình hình đó, từ cuối mùa đông năm Đinh-vị (1787), quốc mẫu bên ấy và viên trấn mục ở Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc đã qua cửa ải Đẩu áo sang bày tỏ rồi. Nhưng chưa rõ hai anh em tự tôn thất lạc ở đâu. Còn tự tôn thì sau khi chạy trốn, mẹ con cách trở, cũng không rõ tình trạng bên này nên lại sai các người trèo đèo vượt suối sang đây (theo Cương mục, thì việc mẹ Chiêu thống sang cầu cứu nhà Thanh như thế nào, Chiêu Thống đã được Lê Quýnh về báo cáo rõ cả rồi, lúc này cử Đản và án sang chỉ là để đón quân Thanh mà thôi). Các ngươi đã là người do tự tôn sai đi, mà tự tôn đang ở đất Phượng Nhãn, thế thì tình hình ra sao, các ngươi hãy làm tờ cung khai, bẩm lên quan đốc bộ, chờ khi đại quân xuất phát, ta sẽ dẫn các ngươi tới lạy chào và cung khai.

Bọn Đản, án được tin ấy, mừng lắm, bèn xin để một người ở lại chờ hầu, một người về trước phí báo cho tự tôn rõ, để nhóm họp những kẻ đồng chí, kêu gọi người trong nước, khiến cho xa gần đều biết, và các nơi đều nổi dậy, chờ thời cơ hưởng ứng với thiên binh. Lại dựa vào oai linh của thiên triều, các nơi sẽ nhắm những chỗ hiểm yếu mà đóng đồn trại để ngăn chặn quân địch. Đó thật là một cơ hội rất tốt.

Viên phân phủ họ Vương bằng lòng cho. Thế là án ở lại phủ Thái Bình, còn Đản thì theo đường cũ về nước.

Lại nói, từ khi kinh thành thất thủ, vua Lê chạy sang phương bắc. Còn hoàng thái hậu cùng mấy người tôn thất chạy trước lên Cao Bằng; viên đốc đồng Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc đem phiên binh đón rước mời về ở tạm tại một nhà dân bên cửa ải Đẩu áo, để mưu đồ sang cầu cứu nhà Thanh.

Nguyên lúc Huy Túc mới đến Cao Bằng, có người khách trú tự hiệu là Ngô-sơn tiều ẩn, vốn quen với Nguyễn Đình Tố, thường vẫn hay đi lại nơi dinh trấn. Túc lần đầu được gặp và nói chuyện với hắn ta, lấy làm lạ lắm. Đến lúc Tố mất, người khách đến viếng, Túc lấy lễ thượng khách mà đối đãi, mời ở lại hơn mười ngày. Việc tang của Đình Tố đã xong xuôi, người khách mới cáo từ ra về. Lúc sắp chia tay, người khách bảo riêng với Túc rằng:

– Quí quốc từ nay sẽ có nhiều việc, quan đốc thần trước cũng đã biết, không hiểu lúc gần mất ngài có nói lại với các vị đồng liêu không?

Túc nói:

– Nước tôi, bên ngoài có giặc mạnh, sau này chắc là không thể yên ổn, đó là việc mà người trong nước ai cũng biết. Nhưng kết cục ra sao, không phải là điều Túc này có thể biết trước. Quan đốc thần trước với Túc này đều lấy làm lo. Nay tôi làm quan ở ngoài, đã không được dự vào nơi trọng yếu, thì dù có ý kiến nông cạn cũng không làm được gì?

Người khách nói:

– Chính vì làm quan ở ngoài nên mới không thể không đương lấy việc nước. Cứ như tài của ông, há chẳng có thể làm được một phen kinh trời động đất, khiến người cả nước vội vàng chạy vạy ư? Nhưng chẳng qua chỉ là một giấc chiêm bao mà thôi. Đó thật là khí số với nhân sự có quan hệ với nhau; đáng cười mà cũng đáng tiếc vậy!

Túc nằn nì hỏi mãi, nhưng cuối cùng người khách vẫn không chịu nói rõ, cáo từ mà đi.

Đến lúc Túc đưa thái hậu qua đất Trung Hoa, tới Long Châu lại gặp người khách ấy giữa đường. Túc đem tình hình trong nước nói với hắn ta không hề giấu giếm, và nói thêm:

– Việc gấp lắm rồi! Ông có cách gì dạy cho tôi không?

Người khách nói:

– Khi ông ở trấn Cao Bằng, bắt đầu nghe có tai biến nếu có thể cùng viên đốc đồng trấn Lạng Sơn, đồng một lòng hợp sức giữ lấy đất hai trấn ấy, tụ tập phiên tướng phiên binh, chống nhau với giặc, làm hùng bá ở một phương; rồi đưa thư sang các phủ Long Châu, Bằng Tường (đều thuộc Quảng Tây, giáp liền với Cao Bằng, Lạng Sơn), hẹn khi có việc nguy cấp thì họ cứu giúp, để nhờ cái tiếng viện trợ của họ. Ngày xưa họ Mạc đã dùng kế ấy mà duy trì được 56 năm (theo Lịch triều hiến chương loại chí thì sau khi vương triều nhà Mạc đổ, dư đảng họ Mạc chiếm giữ Cao Bằng còn kéo dài được 96 năm nữa, kể từ Mạc Kính Cung (1592) đến Mạc Kính Vũ (1688)). Nếu quả ông mà làm được như thế, há chẳng giữ được trọn đời của ông hay sao? Sao lại bỏ chỗ ấy cho người ta? Đã bỏ lỡ mất cơ hội đó không làm, thì nay chỉ có cách liên lạc với các xứ Long Châu, Bằng Tường, thiết tha xin với quan tổng đốc, đem việc tâu lên nhà vua, trông vào điều may trời cho, để cầu xin cứu viện mà thôi. Sau khi lấy lại được nước nhà, ông nên cố gắng “đào giếng đắp núi”, tự mình phải hết sức, đừng để làm cái trò cười cho đời sau.

Túc nói:

– Đó là cái ý quan trọng xa xôi, tôi xin kính vâng lời dạy, không dám lãng quên. Nay Túc tôi đưa quốc mẫu chạy sang đây, cũng chính là ý như thế, song chỉ sợ tình của kẻ dưới, không thể thấu lên đến bề trên. Nếu được nhờ ơn ngài chỉ đường vạch lối, đem việc này thưa trước lên trên cho chúng tôi, thì xin đội ơn vạn lần, vạn lần!

Người khách nói:

– Đất lạ quen nhau, tôi dám đâu không hết sức?

Người khách bèn cùng đi với Túc. Viên đô ty Long Bằng (Long Châu, Bằng Tường) tên gọi Trần Hồng Thuận là bạn quen của người khách. Khách bèn dẫn Túc đến đấy, nói là mẹ, vợ và thân thuộc của tự tôn nước An Nam bị quân giặc Quảng Nam (chỉ quân Tây Sơn) đuổi giết, trốn đến cửa ải, cúi đầu đợi mệnh…

Hồng Thuận lập tức hội đồng với viên phó quan ở Long Châu là Trần Thốt đi tới nơi tra xét. Tất cả đàn ông đàn bà gồm 64 người, Hồng Thuận tuỳ tiện cho ở bên cửa ải, rồi đem việc ấy nói rõ với viên quản đạo Giang Tả thuộc tỉnh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp, để bẩm lên quan tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Tiếp đó, Hồng Thuận lại cho sao đơn khiếu nại của nước Nam đại ý nói rằng: “Quốc thành bị giặc đánh phá, cướp bóc, không biết kêu xin với ai? Ai cũng căm thù giặc, thề không cùng sống với chúng, nhiều người lẻn lút nấp ở trong núi, kết thành đồ đảng, chỉ vì chưa có người đứng ra làm chủ, cho nên họ còn rời rạc khó bề hợp nhất. Nếu được thiên binh sang cứu thì các nơi sẽ cùng hưởng ứng ngay, và có thể hẹn ngày mà lấy lại quốc thành”.

Sĩ Nghị thấy giấy báo tin ấy, liền bảo bọn liêu thuộc rằng:

– Nước An Nam từ đời Hán, Đường, là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ Đinh quật cường, mới trở thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho đến ngày nay, lại không thể giữ được nước. Hoặc giả trời khiến nước ấy lại làm quận huyện của Trung Quốc chăng?

Lập tức, Sĩ Nghị ruổi ngựa tới vùng Long Bằng, dò xét tình hình biên giới, rồi họp bàn với viên tuần phủ là Vĩnh Thanh.

Vĩnh Thanh nói:

– Mở mang bờ cõi là một việc lớn, lợi hại không phải nhỏ. Quả như lời họ nói, thì nước ấy kể cũng đáng thương. Nhưng thế lực của giặc, đoán chắc là không phải như vậy. Chúng ở ven biển nổi lên, theo việc binh nhung từ khi đầu còn để chỏm, một lần khởi quân mà lấy được cái nước đã ba trăm năm, nhất định không phải là yếu, và cũng nhất định không đời nào chịu để cho người ta doạ dẫm, mới nghe tiếng đã phải đêm hôm lẻn trốn đi. Trừ phi chúng có bị đánh cho giập gẫy một vài phen thì chúng mới chịu rút lui và nghe theo. Trung Quốc ta thái bình đã hai trăm năm nay, dân chúng không biết đến việc binh. Nay bỗng dồn họ tới chỗ nóng nực lam chướng, dù thắng được cũng không phải là mạnh. Huống chi chưa chắc đã thắng, mà vạn nhất vấp ngã thì tổn thất thật không nhỏ. Cụ lớn là vị đại thần của nước, nắm quyền ở chốn biên thuỳ, cần phải giữ vững bờ cõi; há nên vừa mới nghe kêu nài một tý đã vội gây hấn ở nơi biên ải? Cái gương của bọn Hoàng Phúc, Trương Phụ ở đời Vĩnh-lạc, Tuyên-đức (Hoàng Phúc và Trương Phụ là tên các tướng nhà Minh. Vĩnh-lạc là niên hiệu Minh Thành tổ, Tuyên-đức là niên hiệu Minh Tuyên tông. Đây chỉ việc quân Minh sang xâm lược Việt Nam hồi đầu thế kỷ XV, sau bị Lê Lợi đánh bại), cũng chưa phải xa xôi, xin nghĩ kỹ cho!

Nghị nói:

– Nước An Nam được phong, đời đời lo giữ chức phận tiến cống. Tây Sơn là bọn giặc nhỏ, dám diệt nước họ. Nạn của cống thần không thể không cứu, tội của cuồng tặc không thể không trị. Vì nghĩa mà hành quân ai dám không theo? Nếu lấy cớ là mọi rợ mà bỏ ra ngoài, ngồi nhìn bọn họ giết hại nhau mà không cứu thì tám xứ “man”, chín xứ “di” làm bề tôi Trung Quốc, còn trông cậy gì nữa?

Rồi Nghị gọi sáu người là bọn Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh, Hoàng ích HIểu, Nguyễn Đình Quán, Nguyễn Quốc Đống và Nguyễn Đình Mai đến cửa quan, để hỏi tình trạng.

Trước hết, Nghị hỏi tự tôn có mấy anh em, sau khi chạy trốn, hiện nay ở đâu?

Bọn Túc khai là: Tự tôn có ba anh em, rất yêu mến nhau. Anh trưởng là Lê Duy Kỳ, tức là người đáng được nối ngôi, thứ hai là Tụ quận công Duy Tụ, thứ ba là Lan quận công Duy Chỉ. Hiện nay, Duy Kỳ chạy xuống lộ Sơn Nam hạ (năm Lê Cảnh hưng thứ Qui Nhơn (1741), chia xứ Sơn Nam làm 2 lộ: lộ Sơn Nam thượng (Vùng Hà Nam, Hưng Yên, Hà Đông sau này) và lộ Sơn Nam hạ (vùng Nam Định, Thái Bình sau này)), để chiêu tập nghĩa binh. Duy Tụ ở vùng Tuyên Quang, Hưng Hoá cũng đang nhóm họp các người đồng chí, xa xa làm thanh viện cho nhau. Nghe nói họ nương tựa lẫn nhau, thần dân thuận theo, quyết không đến nỗi tan tác. Nhưng không biết từ đấy về sau có thể hăng hái làm nên việc hay không? Tới đây đã hơn bảy tám tháng, sự thế đổi thay, họ có còn giữ được chỗ ấy nữa không, điều đó chúng tôi không được biết.

Nghị lại hỏi tin tức của mẹ con tự tôn nay ra sao?

Túc nói:

– Chúng tôi trước ở Cao Bằng, rồi rước quốc mẫu sang nội địa (chỉ đất Trung Hoa). Tự tôn thì vẫn ở trong nước. Quan san cách trở, tin tức không thông. Nay nếu được phép thì xin lẻn về báo cho tự tôn biết tin của mẹ và gia quyến. Xin cho ba người chia đi hai ngả. Đình Mai xin đi đường cửa ải núi Mông Tự. Quýnh và Đống xin theo đường Long Môn mà vượt biển. Ngửa trông cụ lớn cho người dẫn đến biên giới, để chúng tôi gấp đường chạy về; chừng trong một tháng, dò xem tin tức ra sao, sẽ xin bẩm rõ.

Nghị lại hỏi lâu nay ở bên ấy mùa màng ra sao?

Túc thưa:

– Nước chúng tôi luôn mấy năm bị mất mùa, giá gạo rất đắt, một thưng gạo giá đến sáu trăm đồng tiền. Lộ Sơn Nam hạ vốn được gọi là nơi giàu có, bây giờ dân gian cũng không có thóc lúa để dành, các nhà đều trống rỗng như chiếc chuông treo. Tự tôn trước kia đóng ở xứ ấy, vì lương thực không đủ, cho nên hễ làm việc gì cũng bị thất bại. Chúng tôi khi ở nước nhà, chỉ nghe như thế, đó là việc thực.

Nghị quay sang hỏi Lê Quýnh, Quýnh liền đáp:

– Họ Lê giữ nước hơn ba trăm năm, dùng ân huệ buộc chặt lòng người, dùng lễ nghĩa vun trồng sĩ khí. Cho nên, dù bọn phản nghịch tiếm quyền mà lòng người mến chúa cũ vẫn như xưa. Chỉ vì họ Trịnh hiếp chế, lòng dân căm giận. Tây Sơn nhân lúc sơ hở ấy, mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh, nên người trong nước không ai chống cự. Chúng nhân thế đắc chí, lại càng hung hăng, tự đặt niên hiệu, chiếm giữ kinh thành, đến nỗi tự tôn họ Lê phải phiêu bạt ra ngoài. Do đó, dân cày và những kẻ lục lâm nổi lên khắp nơi, không ai hẹn ai mà người nào cũng xưng là quân họ Lê. Nếu như thượng quốc rủ lòng bao dung kẻ nhỏ mọn, giúp đỡ kẻ khốn cùng, sai một đạo quân tới sát bờ cõi để làm thanh viện, thì người trong nước nghe tin, ai không trỗi dậy, thề cùng phục thù? Mà như vậy, chắc cũng không hao tổn đến binh lực của thiên triều nhiều lắm.

Nghị nghe được lời khai rõ ràng, bèn đem một bức địa đồ nước Nam, bảo bọn Quýnh duyệt lại, và hỏi:

– Có đúng không? Không sai chứ?

Quýnh bẩm:

– Vị trí và phương hướng nhiều chỗ sai lầm, ước chừng mười phần sai đến bốn năm.

Nghị nói:

– Cho phép các ngươi cứ thật mà sửa lại.

Rồi Nghị sai gọi một người thợ vẽ đến, theo chỗ Quýnh sửa đổi mà vẽ lại. Lại bảo Quýnh lưu ý xem những vùng nào đã theo giặc, vùng nào chưa theo giặc, anh em vua Lê hiện đóng ở đâu, nhất nhất đều ghi chú thật rõ ràng vào địa đồ.

Rồi nhân đó, Nghị gọi bọn Túc và bảo:

– Chờ ta tâu lên triều đình, khi nào được chỉ của nhà vua, tức khắc sẽ chiểu theo những điều kêu xin của bọn ngươi mà làm cho thật tốt tất cả mọi việc. Chuyến này các ngươi về nước, phải tìm cho được đích xác chỗ ở của tự tôn. Lại phải dò xem quân giặc động tĩnh ra sao? Người trong nước có thể trỗi dậy được không? Hễ có dịp thuận tiện lập tức phải phi báo cho ta biết, ta sẽ phúc tấu về triều, xin cho kéo quân ra ải, thì công việc mới có thể mau xong.

Bọn Túc mừng lắm, cùng nhau ngoảnh mặt về hướng bắc, trông vời cửa khuyết mà lạy và hô “vạn tuế” luôn mấy lần.

Sau đó, Nghị sai viên quản đạo Tả Giang, tỉnh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp hộ vệ quốc mẫu An Nam và các quyến thuộc đến đất Nam Đôn, tuỳ nghi cấp cho các thứ lương thực, chăn áo, để ai nấy đều được yên ổn.

Luôn thể, Nghị thảo tờ biểu tâu rằng: “Cứ lời người trấn mục của nước An Nam là Nguyễn Huy Túc, chạy sang nội địa cung khai: tháng sáu mùa hè năm thứ năm mươi mốt, niên hiệu Càn long, em giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc là Nguyễn Văn Huệ đem quân xâm phạm kinh thành nước ấy. Tiếp đến tháng tám, Văn Nhạc theo ra. Vừa gặp lúc các trấn đều chỉnh đốn binh lính, voi ngựa đến cứu. Anh em Văn Nhạc sợ không dám ở, ngay trong tháng ấy, đang đêm phải đem quân lẻn trốn. Quốc vương là Lê Duy Đoan (tức Lê Hiển Tông) làm mất quốc ấn, liền đó bị bệnh mà mất. Vì con trưởng chết sớm cháu đích tôn là Duy Kỳ, theo lệ được nối ngôi, có thảo văn thư đệ sang, xin cấp cho quả ấn khác. Kế đó, tiếp được hịch của quan đốc bộ đưa sang, nói rằng như thế không hợp thể lệ, mà phải sai bồi thần dâng biểu báo tang rồi xin phong mới đúng. Không ngờ mùa đông năm sau, Văn Huệ lại sai bộ tướng là Võ Văn Nhậm nhân khi nguy biến, đánh người giữa lúc có tang, đến nỗi tự quân phải chạy trốn, chưa kịp sai sứ thần qua xin. Bọn Túc đưa quốc mẫu của nước Nam chạy ra vùng Bắc Sơn thuộc huyện Võ Nhai, vua Lê thì chạy trốn sang phủ Thiên Trường. Tướng giặc chiếm cứ quốc thành, sai người đi khắp nơi lùng bắt. Lại có tên thổ dán trấn Lạng Sơn là Quyển Trâm, tên phiên mục Cao Bằng là Bế Nguyễn Trù đầu hàng giặc, đem quân định cướp quốc mẫu để làm con tin. Bọn Túc liền đưa quốc mẫu lên Cao Bằng. Tháng năm năm nay, đi tới đầu xứ Bác Nậm (thuộc huyện Quảng Yên và Phú Hoà, tỉnh Cao Bằng), bị quân giặc theo kịp, không còn kế gì để thoát thân, bọn Túc phải đứng cách sông kêu xin thiên triều cứu giúp. Rồi họ liều mạng đưa được quốc mẫu và bọn quyến thuộc lội nước sang bờ bên này, người nào không kịp sang sông đều bị giặc giết chết. Nay bọn Túc rập đầu kêu van, xin được ở lại chịu tội với thiên triều, không chịu mắc vào tay nhơ nhớp của giặc… Lại cứ lời bọn Túc nói thì hiện nay quốc thành bị giặc chiếm đóng các nơi khác cũng đều nghe tiếng mà tan rã tơi bời. Các địa phương tiếp liền với nội địa như Mục Mã (thuộc Cao Bằng), Lạng Sơn, đều đã theo giặc. Riêng có vùng Diễn Châu ở Nghệ An, các hạt Kinh Môn, Nam Sách ở Hải Dương… là còn có bọn thổ hào ứng nghĩa, ra vào các nơi hang núi, lừa dịp đánh giết quân giặc, nên giặc cũng chưa thể đánh chiếm được hết cả. Vả chăng tuy quân giặc từ khi chiếm được đất Tây Sơn, một mực hung tợn, chỉ biết có việc tàn sát, nhưng cũng vẫn có những nơi không chịu hàng giặc. Tự tôn lẩn trốn, chắc cũng ở những nơi ấy. Mẹ và vợ của tự tôn đã chạy sang đất thiên triều, muôn lần trông được sự bao dung. Còn trong bọn bề tôi chạy trốn cũng có được một vài kẻ có chút tài cán, họ tự xin về nước, tìm kiếm tự tôn, để lại gắng sức lo toan một phen nữa. Nếu như sức chẳng chiều lòng, thì họ xin làm cái chước bảo tồn lấy người con côi, tha thiết xin được thiên triều thương xót… Các khoản tình do trên này, đều do tay tri phủ Nguyễn Hữu Nhân (có bản chép Đào Hữu Nhân) viết thành câu hỏi, đầu mục nước ấy lần lượt trả lời. Xét ra, họ cũng thật tình, lại có phần hăng hái, biết được nghĩa lớn. Thần trộm nghĩ, cống thần họ Lê, theo lệ thì tự tôn của họ được nối ngôi, chẳng may nước ấy bị diệt, mẹ và vợ đã tới cửa ải kêu van, thực cũng nên thể tình mà chu cấp, để họ được yên chỗ, rồi chờ để xét rõ tin tức của nước họ, sẽ quyết định việc cho đi hay cho ở lại. Chỉ nghĩ bọn họ khi chạy đến ven sông, tức là đã thuộc về địa đầu bờ cõi của thiên triều; vậy mà tụi giặc trông thấy quân lính thiên triều đóng đồn ở đấy, lại vẫn còn dám hung hãn giết người, lòng giặc hiểm độc, không phải là không có ý dòm dỏ. Thần đã mật thư cho viên đề đốc là Tam Đức sắp đủ chiến binh, chi đi đóng giữ ở các cửa ải trong sáu xứ chung quanh Long Châu. Nếu chúng qua sông, tức thì bốn mặt chặn đánh, không để cho chúng chạy thoát; luôn dịp cũng tỏ cho chúng được biết binh uy của thiên triều, cho chúng hoảng sợ. Thần lại xin viết thư mật cho các viên quan coi giữ miền Triều Châu và Long Châu, bảo phải gấp rút đi tuần tra và dò xét kỹ càng ở các miền biên giới…, Nếu có tình hình gì khác, thần xin tiếp tục viết biểu tâu lên, chờ vâng chỉ cho thi hành”.

Vua Thanh xem tờ tâu ấy, liền bảo viên đại học sĩ là Bá Hoà rằng:

– Lê Duy Kỳ ở An Nam, tuy chưa được phong, nhưng y là người đáng được nối ngôi, cũng không khác gì quốc vương. Nay mẹ và vợ cùng các quyến thuộc của y đều chạy sang đây, thế là toàn cõi nước ấy đều đã mất cả. Việc dựng lại nước đã bị diệt, nối lại dòng đã bị tuyệt, cần phải trù liệu sắp đặt mà rốt cuộc cũng phải hao phí rất nhiều binh lực. Nay xét ra, Duy Kỳ còn ở lại trong nước để tự lo lấy việc khôi phục, dân nước ấy theo giặc chẳng qua mới chỉ mấy xứ Mục Mã, Lạng Sơn, còn ở các vùng đông bắc, tây nam thì lòng người mến chủ cũ vẫn có thể tin cậy. Nếu dựa vào đó để lo nối lại ngôi vua ắt là có thể xong việc. Vậy truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị biết rằng: “Họ Lê thờ phụng thiên triều rất là kính thuận. Duy Kỳ theo lệ đáng được nối ngôi. Việc mất quốc ấn, ngày trước đã có dâng thư xin cấp ấn khác, song vì chưa cho sứ sang báo tang, không hợp thể chế, cho nên việc cấp ấn phải hoãn, đã có hịch dụ. Nay họ lại sai sứ thần tha thiết sang kêu xin, vậy chuẩn y việc sắc phong và cấp ấn cho họ. Xét cho kỹ. Duy Kỳ sở dĩ bị giặc đánh đuổi cũng chỉ là vì y không lo gắng sức trỗi dậy mà ra. Hiện giờ đất nước của y còn nhiều chỗ chưa bị giặc chiếm, thần dân cũng còn biết kính mến; Duy Kỳ nên nhân dịp ấy nhóm họp nghĩa quân, thu phục quốc thành, để cho nghiệp cũ không đến nỗi bị sụp đổ. Mẹ và vợ y chạy sang nội địa, đã được sắp đặt chỗ ở yên ổn, ăn mặc không thiếu, đất nước đã quen, y cũng không cần phải lo nghĩ, có thể chuyên ý lo việc trong nước, chờ khi khôi phục được kinh thành thì sẽ cho quân đưa mẹ và vợ y trở về. Lúc y sai sứ thần, thì lại nên sai người đã thông tin lần này sang, để làm chứng cứ, ngõ hầu mới khỏi bị kẻ gian lừa dối mưu hại. Đến như Nguyễn Huệ cậy mạnh cướp nước, phép không thể tha, đã giáng chỉ điều động đại quân ở Quảng Tây, để chờ khi gọi đến. Nếu giặc cứ hung hăng như trước, mà tự tôn họ Lê không thể phấn chấn để làm nên việc, thần dân nước họ lại cam lòng theo giặc thì sẽ cho đem đại quân bốn mặt họp lại mà đánh, cho sáng tỏ tội trạng của chúng. Như thế, trước tiên phải đưa hịch phi báo cho thần dân nước ấy, khiến họ đều biết, để làm mạnh thêm thế của họ Lê và làm cho bọn Tây Sơn mất vía kinh hồn, mà đối với việc giúp đỡ cho sự thanh viện cũng là có ích. Những người đi theo như bọn Nguyễn Huy Túc, tình nguyện về nước, tìm kiếm chỗ ở của tự tôn, để cùng giúp việc khôi phục, chí ấy rất đáng khen, lẽ nên cho họ về sớm; sớm một ngày là tự tôn của họ đỡ lo một ngày, và sau này trẫm cũng được nghe tin nước ấy mau hơn một ngày. Tôn Sĩ Nghị vốn có tiếng nhanh nhẹn, sáng suốt, sao không liệu trước điều đó, mà còn lo trẫm không ưng cho làm, để phải tâu đi tâu lại, không khỏi phạm sai lầm về sự câu nệ. Nay Nghị cần phải sớm tới Long Châu, giáp mặt mà hiểu dụ bọn sứ thần, giục họ lập tức lên đường; đem ý của trẫm truyền bảo cho họ biết, để họ về nước báo tin với anh em Duy Kỳ; đồng thời phải sao các tờ hịch thành nhiều bản, bảo họ đem về trong nước, ngõ hầu có thể truyền bá rộng rãi. Ngoài ra, bọn họ lặn lội khó nhọc, hành lý sơ sài, vậy ở đường thuỷ và đường bộ đều phải cấp phu trạm, hộ tống cho họ gấp đường mà đi; lại cấp cho mỗi người mười lạng bạc để tiêu pha về việc ăn uống. Nói tóm lại, việc này, nếu như cả nước An Nam bị mất, Duy Kỳ lại bị giết hại, thì nghĩ tình cống thần, không thể bỏ qua mà không hỏi tới. Vả chăng bờ cõi nước Nam chưa đến nỗi hoàn toàn mất hết, tự tôn tuy phải chạy trốn, nhưng thần dân vẫn còn mến phục. Như vậy, ta chỉ cần làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy công việc, bất tất phải dấy quân làm to chuyện đem binh lực trong nước hao phí ở ngoài cõi nóng nực, xa xôi. Đó mới là kế tuyệt hay. Tôn Sĩ Nghị phải theo chỉ dụ trước, tới nơi biên thuỳ, trù tính cho kỹ, đốc thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) là người thạo việc, chắc có thể hiểu được ý của trẫm. Việc kinh lý biên thuỳ ở đấy, cho phép đốc thần được cùng viên phủ thần là Tôn Vĩnh Thanh họp bàn thoả đáng, tuỳ tiện thi hành. Hãy kính theo chỉ dụ này!”.

Lại nói, quan lại hai hạt Triều Châu, Long Châu từ khi tiếp được thư mật của Nghị, lập tức đi tuần tra dò xét miền biên giới và cho người đưa hịch sang bá cáo ở trấn Thái Nguyên.

Bấy giờ có hai họ Trương và Cát quê ở hạt Triều Châu, chuyên sống về nghề khai mỏ lấy bạc, sang cư trú tại làng Tống Tinh trong trấn Thái Nguyên. Họ vỗ về mọi người, làm kẻ tù trưởng địa phương, đồ đảng có đến hơn vạn người, đều là các gia đình người Trung Hoa. Hai họ ấy nghe được tờ hịch, liền tìm đến chỗ trọ của người đưa hịch mà trình rằng:

– Chúng tôi chuyên sống về nghề mở xưởng khai mỏ, đời đời ở nước Nam. Trước đây nghe tin kinh thành của nước An Nam bị mất, trong nước loạn to, sợ rằng cháy thành vạ lây, nên đã cùng người địa phương luyện tập súng, nỏ, làm chước giữ mình. Có lần, mấy trăm quân giặc đến cướp, chúng tôi mới thử đánh một trận mà đã giết hết được tất cả. Nghĩ rằng chúng tức giận, ắt lại đến nữa, chúng tôi bèn chia ra làm mười đoàn, mỗi đoàn một nghìn người thề cùng liều chết chống giặc. Nay tiếp được hịch văn, ai cũng nô nức nhảy nhót, xin làm tiên phong. Vả lại chúng tôi vốn là nhân dân Triều Châu, nay cũng muốn xin được cùng ra sức một phen với quân nghĩa dũng ở Điền Châu.

Người đưa hịch nghe họ nói như vậy, liền lấy tờ khai và đem tình hình duyên do về bẩm.

Lại nói, vua Lê trước kia đã sai bọn bồi thần sang trần tình và cầu cứu với nhà Thanh. Đến bây giờ, Lê Duy Đản ở Thái Bình về, báo tin viên đốc bộ tỉnh Quảng Tây đem việc tâu lên, đã được vua Thanh chuẩn y, chẳng bao lâu đại binh sẽ sang.

Rồi tiếp đó. Lê Quýnh lại từ Long Châu về báo, nói là thái hậu và quyền thuộc hiện ở thành Nam Ninh, ăn ở yên ổn. Vua mừng lắm bèn chắp tay lên trán mà rằng:

“Kẻ tiểu tử này, gặp lúc vận nhà lắm nạn, nhờ được chín miếu thiêng liêng, đức đại hoàng đế rủ lòng thương, bao bọc cho kẻ nhỏ mọn, trong nước lại được thấy bóng mặt trời, cơ hội trung hưng phải chăng là ở lúc này?”.

Rồi nhà vua sai thảo tờ biểu tạ ơn và các thư từ trình bẩm, để cùng đưa sang một thể. Trong đó nói rõ: “Giặc Tây Sơn tàn ngược, dân không chịu nổi. Hiện nay thần tuy chạy trốn ở ngoài, nhưng may nhờ lòng người vẫn còn nhớ đến chủ cũ. Nhân đó thần cũng đã cử sự được một vài phen, song đều bị thất bại. Gần đây tiếp được văn thư, thần đã ngấm ngầm khuyến dụ hào kiệt trong nước, ai cũng hăng hái, thề giết quân giặc, hằng ngày trông mong ở sự viện trợ của thượng quốc. Nhờ cậy oai trời, việc chắc phải thành. Khi tiếp được hịch văn do viên sai quan mang về, thần đã đem tuyên cáo với mọi người trong nước, ai nấy đều mừng rỡ, hớn hở hơn là chết đi được sống lại; quân giặc cũng vì thế mà mất hết nhuệ khí. Hiện nay, các nơi đều đã nhóm họp quân nghĩa dũng, chờ thiên binh qua cửa ải, thì sẽ đến cửa quân lạy chào, và xin chịu kỷ luật làm quân đi tiên phong. Đảng giặc chắc sẽ bị bắt và quốc đô chắc sẽ được khôi phục. Ơn tái tạo của đức đại hoàng đế, cùng với đức gây dựng của cụ lớn, thật đáng ghi tạc dài lâu mãi mãi như sông Lô non Tản vậy!”.

Tôn Sĩ Nghị vừa tiếp được tờ bẩm của Triều Châu lại được luôn tin ấy, liền hội đồng với viên tuần phủ, tâu xin xuất quân. Trong tờ biểu đại khái nói rằng: “Vâng lời thượng dụ: Chỉ nên làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy không cần phải dấy quân làm to chuyện. Kính tuân theo thánh chỉ ấy, thần đã tra xét kỹ càng các nơi đường sá qua lại. Từ đài Chiêu-đức đến đô thành nước họ, quân đi chẳng qua chỉ mất sáu ngày. ở Lạng Sơn hơi có lam chướng. Qua khỏi đó, thuỷ thổ đều tốt lành. Đại quân tiến lên đóng ở La Thành (người Trung Quốc bấy giờ cũng thường gọi Thăng Long là La Thành (một thành do Cao Biền đắp ở vùng Hà Nội từ thời thuộc Đường)) vừa không nóng nực lại không có lam chướng. Vả lại cũng cần diễu võ giương oai, phô trương thanh thế quân ta ở đấy, để cho giặc biết là không thể địch nổi. Rồi sau mới sai phái các quân ứng nghĩa của nước họ tự đi đánh dẹp lấy. Quân ta sẽ không đến nỗi phải vấy máu mũi gươm, mà quân giặc đều bị bắt giết. Như vậy, công trạng hẳn chóng thành. Trộm nghĩ lần đi này thực đúng như lời thánh thượng đã dạy. Lần trước cứ tâu đi tâu lại thần tự biết là đã phạm cái sai lầm câu nệ, chậm trễ. Việc binh cần mau chóng, nếu gặp được cơ hội, thần dám đâu không hết sức tính việc biên thuỳ để xứng đáng với sự giao phó của bề trên? Đến như sau khi dẹp yên, các công việc cần phải xử trí ra sao, thần sẽ xin kính cẩn viết tờ biểu tiếp tục tâu lên”.

Rồi đó, Nghị hoả tốc tư cho bọn đốc thần ở các tỉnh Vân Nam, Quí Châu, tuân theo như chỉ vua đã gửi trước từ hai tỉnh ấy kéo quân theo đường Tuyên Quang mà đi, còn đại binh thì qua ải Nam Quan, do đường Lạng Sơn tiến sang.

Thật là:

Vâng lệnh, nguyên nhung* coi hống hách,
Ra quân, đại tướng vẻ vênh vang.

Chưa rõ lần ấy thua được ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.

* cũng như nguyên soái.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 13

Khiếp thanh thế, giặc mạnh rút lui
Nhờ viện binh, vua xưa trở lại

Lại nói, lúc sắp xuất quân, Tôn Sĩ Nghị lại dâng tiếp một tờ sớ, đại ý nói: “Thần nghe họ Lê ở nước An Nam hèn yếu, sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ sang cầu cứu, bản triều theo nghĩa phải cứu giúp. Vả chăng, An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc (chỉ nước ta ở thời kỳ Bắc thuộc), nếu sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó lại cho quân đóng giữ, thì như thế là bảo tồn họ Lê mà đồng thời lại chiếm giữ được nước An Nam, một công mà hai việc vậy”.

Tuần phủ là Tôn Vĩnh Thanh dâng sớ chống lại lời bàn ấy của Nghị, đại để nói: “Triều đình mượn tiếng khôi phục họ Lê, khi thấy họ Lê không thể giữ được nước, lại định sai quan chiếm nước họ; ban đầu thì làm việc nghĩa, cuối cùng lại theo việc lợi, thần trộm cho là không nên. Hiện nay họ Lê họ Nguyễn (họ Nguyễn đây là chỉ Tây Sơn) đang đánh nhau, họ Lê thế nào cũng bị họ Nguyễn thôn tính. Chi bằng cứ đóng quân yên lặng, rồi sau đó, nhân lúc cả hai bên đều kiệt quệ, bấy giờ ta sẽ đánh lấy cũng chưa muộn gì”.

Rốt cuộc, vua Thanh nghe theo lời Nghị. Vì không hợp ý với Nghị, Vĩnh Thanh bèn cáo ốm không đi.

Nghị một mình vâng chiếu đem quân bốn lộ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, ra khỏi cửa ải, rồi chia làm hai đạo: một đạo đi đường Lạng Sơn, do Nghị đốc suất; một đạo đi đường Tuyên Quang, do viên tổng binh đốc suất. Cả hai đạo đều chịu dưới quyền tiết chế của Nghị (theo Cương mục thì quân Thanh kéo sang gồm ba đạo: một do tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy, theo đường ải Nam Quan qua Lạng Sơn kéo xuống; một do đề tổng Vân Quí là Ô Đại Kinh chỉ huy, do đường Mông Tự qua Tuyên Quang tràn sang; một do tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống điều khiển, từ Khâm Châu qua Cao Bằng đổ xuống).

Nghị họp các tướng sĩ, ban bố quân luật gồm 8 điều như sau:

Điều thứ 1. – Đại binh ra ải, vốn để dẹp giặc an dân. Hễ qua các nơi đều phải nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi, không được quấy nhiễu nhân dân, cướp bóc chợ búa.

Điều thứ 2. – Ngoài ải, non cao rừng hiểm, miền ấy rất dễ mai phục, trước hết phải san bằng đá tảng, phát hết bụi rậm, để cho trước mắt quang đãng, có thể vững lòng mà tiến lên. Nếu gặp chỗ nào đất mới xốp bở, càng nên để ý xem xét, để đề phòng mưu gian của giặc.

Điều thứ 3. – Hễ nơi nào đại binh địch đóng thì trước hết phải xem xét địa phương, chọn lấy hình thế, tìm nơi dễ lấy nước, lấy cỏ, chớ có đóng gần rừng rậm, bốn mặt phải đào hào đắp luỹ và đốc suất binh lính đêm ngày tuần phòng, ngày đêm phải chia quân đi dò xét ở ngoài mười dặm, không được ồn ào, dễ gây ra kinh sợ rối loạn.

Điều thứ 4. – Người Nam đánh trận, hay dùng sức voi. Voi không phải là vật nội địa từng tập quen, nên hễ gặp phải, trước tiên quân ta thế nào cũng tránh chạy. Không biết rằng, sức voi tuy khoẻ, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung và lao, làm cho nó bị đau mà chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết, thế nào cũng thắng trận, không còn nghi ngờ gì nữa. Cần phải chỉ bảo cho nhau cùng được biết.

Điều thứ 5. – Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng thứ ống phun lửa làm lợi khí, gọi là “hoả hổ”. Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có thế mà thôi, so với súng ống của ta thì còn kém rất xa. Hiện nay ta đã chế sẵn vài trăm lá chắn bằng da trâu sống. Nếu gặp “hoả hổ” của người Nam phun lửa, thì quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm dao chém bừa, chắc rằng chúng sẽ phải bỏ chạy tan tác.

Điều thứ 6. – Đại binh đi đường, nếu gặp khe suối dòng sông, chỗ nào nước sâu thì phải chặt lấy tre gỗ bắc làm cầu phao, để binh mã vượt qua cho tiện, chỗ nào sông hẹp nước nông, thì viên quan coi quân phải dò thử đích xác, rồi cho quân lính nối tiếp nhau như xâu cá mà kéo đi. Lúc xuống nước, không được đem bùi nhùi, thuốc súng bạ đâu vứt đấy để bị ẩm ướt.

Điều thứ 7. – Rau củi của đại binh dùng hàng ngày, đã có tiền công cấp phát; chỉ được đổi chác với người Nam bằng cách thuận tình, không được tự tiện chặt cây cối ở các làng xóm, để sinh ra tranh giành. Nếu ở chỗ nào cách rừng núi độ một hai dặm, cần sai quân lính bảo vệ cho kẻ đi kiếm củi, không được tự ý đi xa, để xảy ra biến cố khác. Đến như việc lấy nước nấu cơm, cũng phải do viên quan coi quân xét nghiệm rõ ràng, quả thật trong sạch không có độc mới cho múc uống.

Điều thứ 8. – Những quân lính bị thương hoặc bị ốm, viên quan coi quân phải tra xét tường tận, làm giấy bẩm rõ, rồi cho đưa về doanh điều trị, để tỏ sự giúp đỡ, thương xót. Nếu có bọn quân lính không tốt, giả làm bị thương hay đau ốm, hòng được về nhà, một khi tra ra sẽ trị tội ngay tức khắc. Vả lại, lần này hành quân xa xôi qua miền biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước cho mọi người biết. Lính và phu cũng cần phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, không được tuỳ tiện sai khiến một cách tàn ngược. Đến như lúc hành quân, lính đều phải lấy khí giới, không được tự mình buông tay đi không, vật gì cũng giao cho phu dịch mang đội, để đến nỗi họ không thể chịu nổi, phải giữa đường bỏ trốn. Ngoài ra, số phu quá nhiều, tra cứu rất khó, thậm chí có người ở doanh trước lẫn vào doanh sau, người này người kia không quen biết nhau, dễ sinh ra lộn xộn. Do đó, phải cấp cho mỗi tên phu một mảnh thẻ bài đeo ở lưng, kê rõ tên họ, doanh hiệu, để tiện nhận xét phân biệt.

Các điều quân luật trên đây, quân lính đều phải tuân theo một cách nghiêm túc. Kẻ nào làm trái, nhất thiết xử theo quân pháp, không tha.

Rồi đó, trước tiên Nghị sai truyền hịch sang dụ nước Nam, đại lược nói:

“Dấy nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt, việc đáng làm nào kể nơi man rợ, xa xôi; vớt người bị chìm, cứu kẻ bị thiêu, đừng chẳng được phải dùng đến cung tên, binh lính. Nghĩ lại họ Lê ở An Nam vốn là cống thần của thiên triều. Ba trăm năm vật sản tiến dâng, kính theo chức phận; mười lăm lộ đất phong chia cắt, gồm có nước nhà. Thế mà khoảng năm Càn-long, tù trưởng trong nước là bọn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, dấy quân làm loạn, đánh phá La Thành: vua Lê trước vì lo sợ mà phải qua đời, tự tôn là Duy Kỳ phiêu bạt ra ngoài. Bề tôi cũ là Nguyễn Huy Túc đem mẹ và vợ tự tôn chạy sang nội địa, tha thiết xin quân cứu viện. Sau khi hỏi rõ bọn Túc, thì tự tôn hiện nương náu ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, thần dân còn nhớ chủ cũ. Nguyễn Nhạc là quân mọi rợ như giống trâu dê, quen thói hung tợn của loài lang sói, đến đâu cướp bóc đó, trăm họ oán đến xương tuỷ. Từ một tên dân ở nơi biên thuỳ nổi dậy, can phạm luân thường, làm trái nghĩa lý, đạo trời không thể dung tha; lại dám hoành hành ở nơi nội địa, bạo ngược quần chúng, tàn hại nhân dân, phép vua cũng cần phải đánh. Hiện đã đem việc này tâu lên, vâng được đức đại hoàng đế thương xót đến họ Lê tan nát, không nỡ để Giao Châu lầm than; đặc cách sai quan đốc phủ đeo ấn chinh Man (xưa bọn thống trị Trung Quốc gọi các dân tộc ở phương nam là Man (man rợ chưa khai hoá); “chinh Man” đây nghĩa là: đi đánh Việt Nam) đại tướng quân, điều động năm mươi vạn quân, thẳng tới La Thành, trị tội bọn Nguyễn Văn Nhạc, không để chúng trốn thoát hình phạt của trời. Dân nước Nam đời đời tôn đội vua Lê, nhờ ơn nuôi dưỡng đã lâu, tri năng chưa mất, tình cảm đang còn, không thể để mất lương tâm trời cho, bỏ vua theo giặc. Kẻ nào có thể xướng trước tiếng nghĩa, dựa vào thiên triều làm nơi cứu viện, nhóm họp các người đồng chí, ra sức trừ diệt quân thù, cửa ải hát khúc khải ca, mạc phủ (chỗ làm việc ở nơi đóng quân của các tướng soái đời xưa) dâng lên công trạng, sẽ được cắt đất chia phong, hưởng chung phúc lộc với họ Lê, như ông tổ họ Trịnh ngày trước. Hịch văn đưa tới, quân lính đều nên hăng hái, mài giũa giáo mác của các người mà chống lại quân thù của nhà vua. Đồng lòng chung sức, ắt có công lao. Rồi sẽ ngửa trông ban thưởng ở cửa công, giữ mãi phúc chung ở trong nước. Hãy cố gắng lên!”.

Lúc đó, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Diễm và Phan Khải Đức đang đóng giữ Lạng Sơn, thấy tờ hịch đến đều run sợ. Trong khoảng một ngày, thổ binh do họ chiêu tập được, bỏ trốn mất quá nửa. Khải Đức trước hết bí mật sai lính đem thư sáp đến cửa ải xin hàng. Văn Diễm tự liệu quân mình lẻ loi, thế không chống nổi; vả mình lại là người Quảng Nam, nếu có hàng, chưa chắc đã được bao dung, bèn đang đêm rút quân bỏ trốn về Kinh Bắc, cùng với viên lưu thủ ở đó là Nguyễn Văn Hoà hợp sức giữ lấy trấn thành, rồi sai lính cưỡi ngựa đưa thư về Thăng Long cáo cấp.

Lại nói, Bắc bình vương Nguyễn Huệ từ mùa hè năm ngoái ra Thăng Long giết viên chủ tướng tiết chế là Võ Văn Nhậm, rồi thay đổi quan quân, chỉnh đốn công việc, chuyển giao cho các viên đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân, chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, thị lang bộ Hộ Trần Thuận Ngôn, thị lang bộ Lại Ngô Thì Nhậm cùng giữ thành Thăng Long. Lúc sắp lên đường về Nam, Huệ mở tiệc họp đông đủ mọi người, rồi nói:

Sở và Lân là nanh vuốt của ta; Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu của ta; còn Nhậm thì vừa là bề tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn học Bắc Hà, thông thạo việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt (thời Lê, Bắc Hà gồm 11 trấn. Về sau, Quang Trung có chia lại). Những việc quan trọng trong nước, đều cho tuỳ tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thoả, chớ vì kẻ cũ người mới xa cách nhau. Ai nấy phải đồng lòng hiệp sức, lo chung công việc để xứng đáng với sự trông mong của ta. Các ngươi hãy cố gắng nữa lên!

Mọi người đều đứng dậy lạy tạ và xin vâng mệnh.

Sau đó, Bắc bình vương chọn ngày lên đường về Nam.

Từ khi ấy, trên rừng dưới biển hễ có ai dám ngang ngạnh, Sở chỉ cần sai một viên tỳ tướng đi đánh là dẹp tan được ngay. Các phủ huyện có đệ án kiện, giấy tờ lên thì Sở cứ theo việc mà xử, không để ứ đọng. Trong những ngày rỗi, Sở thường cưỡi ngựa qua các đường phố để mua vui, tự cho rằng ở Bắc Hà không còn việc gì khó.

Một hôm, mọi người cùng họp nhau ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân và Tuyết rằng:

– Chúa công đem cả thành lớn giao phó cho ta, cũng ví như sai người cắt áo gấm mà chưa thể tin là có biết cách cầm kéo hay không. Các ông thấy việc đó ra sao? Giả sử có Tề thiên đại thánh từ trên trời rơi xuống hay Diêm vương từ dưới đất lên, ta cũng chỉ quét một lưới là hết. Huống chi cái lũ tẹp nhẹp, chẳng qua chỉ để người ta thử xem gươm có sắc hay không, chứ làm được trò trống gì?

Rồi Sở ngoảnh lại bảo Ngô Thì Nhậm rằng:

– Quan thị lang thật giỏi về nghề văn học, còn việc cung kiếm có thông thạo gì không?

Nhậm nói:

– Có văn tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường. Nhưng người xưa dùng binh, gặp việc thì lo sao ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường như thế? Tôi trộm nghe bọn người nước ta chạy sang bên Trung Hoa, trong đó có nhiều người định xúi họ, mở mang bờ cõi, gây ra binh biến. Ngài chịu sự ký thác ở cõi ngoài, e rằng không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ đến lời nói của tôi.

Sở cười và nói:

– Lúc ấy sẽ phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế, thì túi dao bao kiếm chính là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo?

Chẳng bao lâu, nghe tin báo ở ngoài biên ải đưa về. Sở rất kinh sợ, tức thì hội họp các quan văn võ cũ của nhà Lê, mượn tiếng Sùng nhượng công Duy Cận coi việc nước, làm một bức thư đứng tên Duy Cận; lại giả danh các hào mục lập một tờ trạng suy tôn Duy Cận làm giám quốc; rồi sai bọn quan văn là Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn, bọn quan võ là Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chử, Nguyễn Đăng Đàn đem bức thư và tờ bẩm tới cửa ải để xin hoãn binh. Một mặt, Sở họp với bọn Văn Lân bàn việc đánh giữ. Chưởng phủ là Nguyễn Văn Dụng nói:

– Trộm nghe hồi cuối đời Trần, người Minh sang lấn nước ta, có bọn Hoàng Phúc, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Liễu Thăng đều là những tướng Kiệt hiệt của Trung Quốc. Bấy giờ vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn, thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành binh theo cách quỷ quyệt, lại hay dùng mưu mẹo khôn ngoan; rồi nhờ khéo dùng cách mai phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp; cho nên có thể lấy ít quân mà đánh được kẻ nhiều quân, vây Vương Thông ở bến Đông Bộ, giết Liễu Thăng ở núi Mã Yên (Bến Đông Bộ tức bến Đông Tân ở khúc sông Nhĩ Hà, Hà Nội. Núi Mã Yên ở xã Mai sao thuộc huyện Ôn Châu, Lạng Sơn) võ công tuyệt lạ, ngàn thủa ngợi khen. Nay người Thanh ở xa đến đây, phải trèo đèo vượt suối, ta lấy quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước các nơi xung yếu, cho quân nấp sẵn để chờ; cứ làm theo kế ấy, lo gì mà không thắng?

Thì Nhậm nói:

– Không phải thế! Ông chỉ biết một mà chưa biết hai. Việc thiên hạ, tình tuy giống nhau mà thế có khác nhau, sự đắc thất do đó cũng khác hẳn. Xưa kia, nước ta bị phụ thuộc vào Trung Quốc, quân Minh buông tuồng làm điều tàn bạo. Người cả nước ai cũng muốn đuổi chúng đi. Cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần hưởng ứng, hào kiệt trong nước kéo đến như mây tụ. Mỗi lúc đánh nhau với giặc, người trong nước chỉ lo quân mình bất lợi. Mỗi khi có tin thắng trận, ai nấy đều hết sức vui mừng. Lòng người như thế, nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục, thì người ta đều giấu kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc, đều bởi cớ ấy. Ngày nay, những người bề tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng có nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà trông. Sĩ dân cả nước, giành nhau mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số quân nhiều hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Chúng sẽ nhân kế của ta mà lập kế của chúng, rồi bốn mặt kéo đến vây bắt. Quân cơ đã bị tiết lộ, tự nhiên mất hết điều tiện lợi. ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết. Còn hòng đánh úp được ai?

Binh pháp có nói: “Khéo che đậy không khi nào không thắng, vụng che đậy không khi nào không thua”. Được thua khác nhau là do ở chỗ xưa với nay khác nhau vậy!

Sở hỏi:

– Vậy thì nên làm thế nào?

Nhậm trả lời:

– Phép dụng binh chỉ có một đánh một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn. Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều là phao tin đồn nhảm, làm cho thanh thế của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi lay động. Quân ta có ai được sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt giết. Số người Bắc Hà thuộc vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền. Đem đội quân ấy mà đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ, không thua sao được? Đến như việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt thế nào cũng sinh ra mối lo ở bên trong. Dầu cho Tôn, Ngô (tức Tôn Võ, người nước Tề đời Xuân Thu, và Ngô Khởi người nước Vệ đời Chiến quốc; hai nhà quân sự nổi tiếng của Trung Quốc thời xưa) sống lại, cũng phải bó tay, không thể làm được gì. Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ giỏ cua. Xin nghĩ kỹ mà xem! Đánh đã chẳng được, giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay. Nghĩ cho cùng thì chỉ còn một cách này: sơm sớm truyền cho thuỷ quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa biển, đến vùng Biên Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu thống sau khi phục quốc, xếp đặt việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen cũng chưa muộn gì.

Sở nói:

– Chúa công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với giặc, còn mất với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ chức trách cầm quân. Nếu mới thấy bóng giặc đã trốn, bỏ thành cho giặc, chẳng những mang tội với chúa công mà người Bắc còn coi ta ra cái gì?

Nhậm nói:

– Tướng giỏi thời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tuỳ theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì. Nếu có vì thế mà mắc lỗi, tôi sẽ xin bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công lượng xét, xin ông chớ nghi ngại.

Sở bèn nghe theo, rồi mật truyền cho các viên trấn thủ ở Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn một mặt nói phao là đem quân đắp luỹ ở sông Như Nguyệt, một mặt cất lẻn rút quân về. Lại tư cho các viên trấn thủ ở Hải Dương, Sơn Tây, hẹn ngày họp quân ở thành Thăng Long. Còn trấn Sơn Nam thì sắp sửa thuyền bè, chờ thuỷ quân đến sẽ cùng xuất phát.

Qua năm ngày, các đạo quân đều kéo đến đầy đủ, cùng dự cuộc duyệt lớn ở bãi sông. Rồi đó, Sở hạ lệnh cho quân bộ sắp sẵn lương khô để chờ sai phái. Trước hết, Sở cho thuộc tướng là Đặng Văn Chân đốc suất lính thuỷ đi xuống phía đông. Cắt đặt vừa xong, thì trời sập tối, chợt thấy bọn Nguyễn Quí Nha, Nguyễn Đình Khoan từ trên ải Nam Quan chạy về nói rằng: khi họ đến Nam Quan, bị bọn lính canh cửa ải của nhà Thanh ngăn chặn không cho sang; hiện nay quân Thanh đã qua Nam Quan, quân bộ và quân kỵ của đội tiền phong đã tiến đến địa phận huyện Phượng Nhãn và đóng tại đó.

Sở liền họp các tướng, định rút lui. Phan Văn Lân nói:

– Quân không cứ nhiều, nước không cứ lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến chưa từng đón đánh, chỉ mới nghe tiếng doạ hão đã vội rút lui, thì còn làm tướng làm gì nữa? Tôi xin đem một ngàn quân tinh nhuệ, đến thẳng sông Như Nguyệt, đánh nhau với chúng một trận, xem khí thế của chúng ra sao và người Nam với người Thanh ai khoẻ hơn ai, để cho chúng biết rằng bọn ta cũng không phải là hèn nhát. Đó cũng là sự tính toán tất thắng trước dùng thanh thế của mình để đè bẹp bên địch vậy!

Sở cũng cho là phải.

Lân bèn đem quân qua sông đi sang phía bắc. Canh ba tới bờ phía nam sông Như Nguyệt, nghe tin quân của Tôn Sĩ Nghị đã đóng ở núi Tam Tằng. Lúc ấy tiết trời giá rét, lân kéo quân qua sông thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với khí lạnh mà lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông, những kẻ cóng quá không thể qua được, đều bị chết đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị quân Thanh giết chết. Lân liệu chừng không thể giao chiến được nữa, liền vẫy quân chạy lui. Đám quân tan vỡ trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Lân chỉ trơ một mình một ngựa mà chạy về.

Sở sợ quá, giấu kín việc bại trận không cho ai biết, rồi truyền lệnh cho các đạo quân nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đúng giữa trưa, đi qua Phú Xuyên (thuộc Hà Đông (Hà Sơn Bình)), người ta mới biết là Sở rút quân. Hôm sau tới huyện Yên Mô (thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), Sở sai chia quân đóng đồn dọc theo ven núi Tam Điệp, thẳng đến bờ biển, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau để cố thủ.

Trước đó, vua Lê đang lẩn lút ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, nghe tin Tôn Sĩ Nghị đưa hịch sang nước Nam và hẹn ngày đến cửa ải, nhà vua bèn bí mật sai người đi gọi nghĩa sĩ bốn phương. Các quan văn võ nghe tin, cũng đều khuyên bảo hào mục các địa phương, nhóm họp hương binh để chờ đợi.

Rồi đó, vua sai Lê Duy Đản đem thư lên cửa ải để yết kiến Tôn Sĩ Nghị, bẩm rõ tình hình trong nước với Nghị và nói rằng: Tự quân vừa bị cảm hàn, không thể đi đường, xin chờ đón ở trấn thành Lạng Sơn.

Đến khi nghe tin quân Tây Sơn rút lui, vua mới truyền cho các đạo quân cần vương đều tới nơi hành tại; rồi kén lấy hạng khoẻ mạnh một ngàn người sung làm quân túc vệ ở doanh vua; còn bao nhiêu thì giao cho các tướng lập thành đội ngũ, ai đem bộ thuộc của người nấy chia giữ các trấn. Trần Quang Châu lĩnh trấn Kinh Bắc. Nguyễn Đạo lĩnh trấn Hải Dương. Hoàng Tố Nghĩa lĩnh trấn Sơn Nam. Hoàng Phùng Tứ lĩnh trấn Sơn Tây. Mọi người đều vâng mệnh đi tới lỵ sở. Riêng Trần Quang Châu thì ở lại hành doanh bảo vệ xa giá.

Châu xin dời xe vua về trấn Kinh Bắc, sửa sang thành luỹ, xây dựng nhà cửa để chờ quân Thanh. Vua nghe lời.

Đoạn nhà vua lại sai bọn binh chương Phạm Đình Dữ, tham tri Vũ Trinh đem thiếp thỉnh an lên đất Hoà Lạc gặp Sĩ Nghị, nói rõ: Hiện nay đã phái quân chia đi kinh lược bốn trấn ở ngoài đô thành, lùng bắt bọn giặc lẻn trốn ở các nơi. Xin đưa một số thổ sản nhỏ mọn là mười con trâu, một trăm vò rượu, làm lễ khao quân, ngước trông thu nhận cho.

Vua lại truyền phải sức cho các kỳ lão và các xã dân mấy huyện ven đường, sửa soạn đón rước quân Thanh.

Đại quân của Sĩ Nghị đi sang phương Nam, dọc đường đều thuận lợi thông suốt. Kịp khi tới núi Tam Tằng đóng quân lại, đến đêm, tuy Phan Văn Lân định quấy rối, nhưng bị giá rét làm cho thương tổn, nên Nghị chưa đánh mà quân Lân đã tan. Ngô Văn Sở nghe tin cũng thu quân bỏ chạy cả đêm từ lâu rồi. Thế là trên đường tiến quân không còn ai dám ngăn trở Nghị. Do đó, Nghị không hề lo sợ mà lại có vẻ kiêu căng. Mới thấy Vũ Trinh, y liền hỏi:

– Lúc đại binh ra cửa ải, trước hết đã có đưa hịch sang bá cáo, quân giặc sợ hãi đã ôm đầu chạy trốn. Nghĩ rằng thần dân bên ấy, ai lại không phấn chấn nổi dậy? Dựa vào oai trời mà lo giết giặc nước, chẳng mấy chốc sẽ có thể thành công, sao cứ một mực nhu nhược, để chúng được chạy trốn một cách rảnh rang? Bây giờ đại binh đã đến địa giới nước mình mà các người vẫn tuyệt nhiên không làm nên công trạng gì. Như thế, còn gọi là nước có người được chăng?

Trinh nói:

– Nước nhỏ này tự mình không thể làm được việc, mới đến nỗi phải gõ cửa ải cầu cứu. Nếu sức của chúng tôi có thể chế ngự được chúng thì đâu dám phiền đến đại binh? Nay cụ lớn lấy điều đó quở trách, tôi còn biết nói làm sao? Xin thưa về tình hình của giặc. Nguyễn Nhạc sinh trưởng ở vùng Tây Sơn, có sào huyệt hiểm yếu để nương tựa. Nguyễn Huệ là tay lão luyện về trận mạc, lại nắm giữ đội quân hùng mạnh. Từ khi kéo quân về Nam, anh em chúng đánh lẫn nhau. Nhạc ở Tây Sơn, Huệ chiếm Thuận Hoá, ai nấy tự xưng hùng, kẻ đế, người vương. Còn ở quốc thành của nước tôi, chỉ có đồ đảng của chúng là bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân mà thôi. Được tin thiên binh đến, bọn chúng chưa biết hư thực thế nào, nên hãy thu quân tạm lánh. Nhưng nghe đâu bọn chúng đóng quân chặn ở núi Tam Điệp, ngăn hẳn từ đất Trường Yên (tên phủ, thuộc Ninh Bình, giáp liền với Thanh Hoá) về Nam, mưu đồ lại tiến ra đất Bắc lần nữa. Một tên tỳ tướng, còn kiệt hiệt như thế, huống chi tên đại tù trưởng của chúng? Nếu không dùng đạo binh thật lớn mà đánh, làm sao có thể bắt sống được chúng? Nước tôi sau khi loạn lạc tan tác, tướng ít quân hèn, sợ rằng khó lòng làm xong việc. Nhờ oai linh lừng lẫy của cụ lớn, tên tù trưởng mọi rợ sợ oai phải đến hàng, đó là điều mong mỏi của nước nhỏ này.

Nghị cười mà rằng:

– Nước ngươi vì bị tàn ngược đã lâu, mất cả tinh thần khí khái, nên động một tý là đem hùm sói doạ nhau. Theo ta xem xét thì chúng chỉ như hạng trâu dê, sai một người đem thừng buộc lấy cổ mà lôi về, hẳn cũng không khó gì. Đợi khi quân ta đến La Thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc. Ngươi hãy chờ mà xem!

Lúc Nghị tới trấn Kinh Bắc, vua Lê tự đem các quan đến chào, Nghị yên uỷ rằng:

– Quý tự (“Quý tự” là người nối nghiệp tôn quý, đây trỏ Chiêu Thống) mắc phải nạn lớn đã nhiều năm, nhờ đức đại hoàng đế thương xót, sai bản chức đem quân hộ tống mẹ và vợ ngài về nước. Chuyến này sang đây, giúp việc kinh lý, trước hết cần bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn quy mô, làm kế lâu dài. Bao giờ mọi việc đều muôn ngàn lần ổn thoả rồi, bấy giờ mới rút quân, xin chớ lo gì về việc nước nữa.

Vua Lê nói:

– Đội ơn đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao hình dung được cho hết. Lại nhờ cụ lớn hạ mình tới đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, được thoả lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn. Mối tình vui mừng, kính mến, không sao kể xiết!

Rồi nhà vua mời Nghị vào dinh nghỉ tạm. Nghị nói:

– Đây cách quốc thành không xa, cần đi ngay, không nên dùng dằng.

Nghị liền sai bắn chín phát súng và nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.

Chập tối, đến bờ bắc sông Nhĩ Hà, vua Lê xin qua sông vào kinh thành trước, rồi sai sắm sửa giường màn ở điện Kính Thiên, mời Nghị vào ở, Nghị không ưng, nói:

– Chỗ ấy không phải là hành doanh của đại tướng, đối với việc quân có nhiều điều bất tiện.

Đoạn Nghị truyền lệnh chia quân đóng ở nơi quang đãng trong hai bãi cát phía bờ nam và bờ bắc sông Nhĩ Hà; lại sai bắc cầu phao trên mặt sông để tiện đi lại. Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng 11 năm Mậu thân (1788).

Hôm sau, vua thân hành đến chờ đón ở doanh của Nghị.

Nghị sai người bày biện nghi trượng rất long trọng ở điện Kính Thiên, rồi truyền cho trăm quan tới hầu. Vua Lê đội mũ miện, mặc áo cổn quỳ ở giữa sân. Nghị dẫn bọn liêu thuộc đến, rồi tuyên đọc tờ sắc của hoàng đế nhà Thanh phong cho vua Lê làm An Nam quốc vương. Trong tờ chế phong vương, đại lược nói rằng:

“Chia ra cõi bờ mười ba đạo, không phải tham gì đất đai này; đã lo chức cống ba trăm năm, há chẳng nghĩ đến tổ tông trước?…”.

Xong lễ thụ phong, vua bèn theo lệ thảo tờ biểu tạ ơn, xa trông cửa khuyết mà lạy tạ, rồi nhờ Nghị cho đệ tờ biểu đi.

Nghị nhận lời.

Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn-long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu thống. Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng:

“Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn-long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?”.

Nghị cũng ngông nghênh tự cho mình là tôn quý; có lúc vua tới yết kiến, y không buồn tiếp, chỉ cho người đứng ở dưới linh các truyền bảo: “Hôm nay không có việc quân, việc nước gì. Hãy về cung yên nghỉ!”.

Lễ ý và sự thù tiếp của y đối với nhà vua hết sức sơ sài như vậy. Còn đối với quân lính, thì y lại hay dung túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp.

Trước kia, người Trung Hoa ngụ cư ở các nơi như phường Hà Khẩu (khu vực phố Hàng Buồm, Hà Nội bây giờ) ở đô thành, phố Cơ Xá ở trấn Kinh Bắc và phố Hiến Doanh (nay là Hưng Yên (Hải Hưng)) ở trấn Sơn Nam có tới hơn vạn người. Đến lúc ấy, bọn họ đều đến bám theo các đồn quân của Nghị, hoặc lập riêng ra điếm Liễu để. Bọn họ thông thạo tiếng nước Nam, am hiểu phong tục tập quán nước Nam; do đó, họ liền nhân cơ hội kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả. Nhân dân ở quanh kinh kỳ luôn luôn bị khổ sở với bọn họ.

Vua Lê tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đã trót mời quân Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà làm mếch lòng chúng, nên cũng khó ăn khó nói.

Nghị cũng không phải không biết tình trạng như vậy, song cũng mặc cho bọn ấy tha hồ làm bậy, không hề ngăn cấm gì hết.

Lại nói, từ khi vua Lê trở về kinh thành, các quan văn võ trước kia phiêu bạt đều lục tục kéo đến lạy mừng. Vua bèn ban thưởng cho những người đã từng theo đi trốn, hoặc những người có công giúp đỡ. Phong cho Phạm Đình Dữ làm thượng thư bộ Lại, kiêm bình chương sự, Nguyễn Huy Túc làm đồng bình chương sự, Lê Duy Đản, Vũ Trinh đều làm tham trí chính sự, Nguyễn Đình Giản làm thượng thư bộ binh, kiêm tri xu mật viện sự, Nguyễn Duy Hiệp, Chu Doãn Lệ làm đồng tri xu mật viện sự, Trần Danh án làm phó đô ngự sử, Lê Huy Tấn, Phạm Quí Thích làm độ chi bộ Hộ, Lê Xuân Hạp, Ngô Vi Quí làm đồng tri binh chính, Lê Quýnh làm quân trung uý đốc, tước quận công, lĩnh quân cần vương theo Tôn Sĩ Nghị lo liệu và xử trí việc quân.

Ngoài ra, các quan liêu trong ngoài đều về các dinh thự làm việc như cũ.

Viên phó hiến ở trấn Kinh Bắc là Ngô Tưởng Đào lấy cớ già ốm, từ chối không nhận chức, và dâng sớ nói rằng:

“Vận trời đang lúc gian truân, không ngờ lại được thấy bóng mặt trời, thật là cái phúc vô cùng của xã tắc. Thần trộm nghĩ rằng: Việc binh cốt phải mau chóng. Nếu cơ hội có thể làm được, hà tất việc gì cũng cứ giao phó cho quân nước ngoài để đến nỗi dềnh dàng ngày tháng. Hiện nay quân cần vương các lộ, ai không muốn hết lòng hết sức lập công ít nhiều? Nhân khi quân giặc vừa rút lui, ta nên lập tức đem đại binh đuổi sát gót, như tiếng sét chớp nhoáng không kịp bịt tai, bọn ngông cuồng giảo quyệt kia ắt chẳng còn thì giờ để mưu tính. Hai xứ Thanh, Nghệ nghe tin, chắc cũng sẽ hưởng ứng. Nguyễn Huệ bị ngăn cách ở phía nam Hoành Sơn. Sở và Lân chơ vơ ở đấy, hình thế cách trở, không liên lạc được với nhau; không ngoài mười ngày ta có thể bắt được bọn chúng. Vây cánh của chúng đã bị cắt đứt thì sào huyệt của chúng cũng có thể lần lượt bị san bằng. Thần ngu dại cho rằng cái cơ trung hưng chính là ở lúc này, không thể bỏ qua”.

Tờ sớ ấy đưa tới, vua trao cho bọn Nguyễn Đình Giản xem, ai cũng cho là phải. Riêng Lê Quýnh chống lại mà rằng:

– Sức mình không địch nổi, mới phải cầu cứu. Hành doanh quan đốc bộ còn ở đây, việc quân mình không bẩm trước, lại tự tiện mà làm, việc xong thì thôi, vạn nhất bị vấp ngã, họ sẽ đổ cho ta làm lỡ quân cơ, rồi rút quân về cửa ải, ngồi xem mình làm; như vậy việc lớn sẽ hỏng mất. Chi bằng để thần đến trình bày trước, xin họ chỉ bảo phương lược và hợp sức với mình, như thế là được cả hai việc.

Vua cho là phải. Quýnh bèn đến dinh Nghị, nói về việc đó.

Nghị trả lời:

– Việc gì mà phải vội vã như vậy? Ví như thò tay lấy đồ vật ở trong túi, đến sớm lấy sớm, đến muộn lấy muộn đó mà thôi. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân xa xôi tới đây, cần phải nghỉ ngơi, không nên đánh vội. Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để chúng tự đến nộp thịt. Nhưng, nếu nước ngươi đã có lời xin như thế, thì hãy nên tính tự đô thành về nam chứng sáu chục dặm, chia làm ba nơi mà đóng quân; đó chính cũng là cách canh gác từ xa để đề phòng bất trắc vậy. Còn đối với bọn giặc, thì các ngươi cứ chờ đến đầu năm mới ta sẽ cho trẩy quân tiến đánh cũng chưa muộn!

Sau đó, Nghị sai đắp luỹ đất, một ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết, huyện Thanh Liêm, một ở làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên, một ở làng Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì rồi chia quân ra mà đóng giữ.

Từ bấy giờ trở đi, vua Lê chỉ lấy Nghị làm chỗ dựa vững chắc nhất. Còn các quan thì cũng không ai nói năng gì đến chuyện xuất quân phục thù nữa.

Lê Quýnh suốt ngày say mê tửu sắc; ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo không hề sót. Quýnh lại còn xui vua rằng:

– Trước đây lúc nhà vua gặp nạn, hoàng thân và bọn quan trong triều, nhiều kẻ lấy tai hoạ làm điều may mắn, vui mừng, khai hết tình hình với giặc, cam tâm làm chó săn, chim mồi cho chúng để mưu đồ giàu sang, ngược đạo lý, trái nhân nghĩa, không gì hơn thế. Thần xin được trị tội bọn đó, để thiên hạ biết rằng danh phận cương thường không thể rối loạn. Đó cũng là việc cần kíp, không nên dung túng bỏ qua, khiến cho kẻ ác, người thiện không có gì phân biệt.

Vua cho là phải, bèn giao cho các quan đình thần họp bàn.

Mọi người đều tâu, năm ngoái thượng thư bộ Hình kiêm bình chương Trần Côn Xán đi xứ Tây Sơn, vì không chịu khuất phục, bị địch giết hại, thật là đáng thương; xin cho quan về tế tại nhà và thăm viếng các người con. Vua nghe lời, bèn tự tay thảo bài văn tế, trong có câu: “Tiết lớn nghiêng non lật biển, cùng sương thu nắng lửa tranh hơn; lòng son yêu nước trung vua, gặp đốt rắn rễ chùm càng tỏ”. Lại bàn sang đến tội của bọn phản nước theo Tây Sơn: Lúc vua đi trốn, trấn thủ Tuyên Quang là Phạm Như toại bắt em vua là Duy Tụ đem nộp cho địch; phò mã uý Nguyễn Bành dẫn quân địch đuổi tìm chỗ vua ở; theo luật phải tội chém ngang lưng; Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích đem thân theo địch, lại nhận chức tước của chúng, đều truất làm dân, về làng gánh vác sai dịch; Nguyễn Hoàn, Phan Lê Phiên quì gối ở sân địch; Trương Đăng Quĩ đi theo xe vua, giữa đường bỏ dở, đều bị giáng làm chức tư huấn; Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn, viết thư mạo xưng là giám quốc Sùng nhượng công, để mong xin hoãn binh cho địch, đều bị hạ ngục; Nguyễn Bá Khoan vì là kẻ võ biền, lại già nua, dốt nát không biết gì, nên được miễn tội.

Bấy giờ Quýnh nghe nói Nha mới ở Cao Bằng về, vàng bạc đầy xe, bèn sai người đòi lấy hai chục lạng vàng, rồi nói rõ cho vua biết. Vua cười mà bảo rằng:

– Bớt chỗ nhiều để bù chỗ ít, mặc ngươi làm chi thì làm, không hề gì!

Ngoài ra, có ba người chú vua liên lạc với Tây Sơn, lại gả con gái cho họ, đều bị vua ngầm sai người bắt đem chặt chân, rồi vất xuống cái giếng ở trong cung (theo Cương mục thì Chiêu Thống còn sai mổ bụng cả một tôn nữ đang có mang, vì người con gái này đã lấy viên tướng Tây Sơn. Do đó, lòng người dần dần ngờ vực, không nhất trí).

Kịp khi ấy, thái hậu ở Cao Bằng về, vừa tới kinh, thấy vua chỉ thích làm những việc báo ân báo oán trái với phép thường như vậy, bèn nổi giận nói:

– Ta phải trèo đèo lội suối khó nhọc vất vả, mới xin được quân sang đây… Phỏng chừng nhà nước chịu được mấy phen ơn, thù phá hoại như thế? Nếu cứ cách ấy mà làm thì trị sao được thiên hạ? Gái già này lại đến làm đứa lưu vong mất thôi!

Rồi thái hậu gào khóc, không chịu vào cung.

Vua bèn ngầm sai Nguyễn Huy Túc khuyên giải thái hậu. Túc vào thưa với thái hậu rằng:

– Ngước trông đức hiếu sinh của thái hậu như là trời đất, cố nhiên phải lấy thế làm lạ. Nhưng hình phạt là phép lớn của nước, cho nên Chu công phải giết Quản, Thái; nước Lỗ phải đánh thuốc độc giết chết Thúc Nha (Quản Thúc, Thái Thúc là em Chu công, định giúp Võ Canh là con vua Trụ nổi loạn. Chu công liền đem giết Quản Thúc và đày Thái Thúc. Thúc Nha là bà con của vua nước Lỗ, có tội phải chạy ra nước ngoài, sau định xin tha tội để trở về nước, nhưng người nước Lỗ không nghe, bắt uống thuốc độc chết). Người xưa cũng không vì chỗ họ hàng hay quen biết mà bỏ pháp luật. Mong rằng lượng trên khoan hồng, để cho hoàng thượng được làm việc nước thì thật là vạn phúc!

Thái hậu nể Túc có công lớn theo hầu khi mình đi trốn, không nỡ trái lời Túc, đành gắng gượng nghe theo, song thật ra trong bụng vẫn không cho là phải. Thái hậu bèn vào cung.

Lúc bấy giờ là tháng mười hai, sắp đến ngày tết Nguyên đán. Quan coi lễ tâu xin đến ngày 25 thì phong ấn cất đi (cuối năm làm lễ cất ấn (hạp ấn) để nghỉ việc ăn tết). Các lễ trong miếu xã, triều đình đều chiếu theo lệ thường mà làm. Riêng quan đại soái của thiên triều ở xa xôi tới, thì về phần vật phẩm cung đốn, xin theo như lệ thết đãi sứ thần sang phong vương mà thêm gấp lên một lần nữa. Các quan và quân lính cũng đều cho phép nghỉ mười ngày, để cùng vui đón tiết xuân.

Thật là:

Én sẻ trên nhà còn hớn hở
Đà đồng trong bụi chẳng lo âu

Chưa biết việc tới ra sao? Chờ xem hồi sau phân giải.

Sách Khổng tùng tử chép: Chim én chim sẻ ở trên nóc nhà, mẹ mớm cho con ăn mà không biết rằng nhà sắp cháy. Đời Tấn, có Sách Tĩnh thấy con lạc đà bằng đồng để ở cửa cung điện, liền đe rằng: “Mày sắp phải vứt vào bụi gai”. ý nói đời sắp loạn lạc. Đây ám chỉ bọn Sĩ Nghị, Chiêu Thống như đang ngồi trên đống lửa, tai hoạ sắp đến mà vẫn nhởn nhơ không biết gì cả.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 14

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài

Lại nói, Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi, như giẫm đất bằng; ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người. Từ xưa, các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế. Cho nên y xem thường, cho là vô sự, không cần phải đề phòng. Rồi đó, y lại càng thêm kiêu căng, buông tuồng, mặc cho quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Có kẻ đi ra khỏi thành đến hơn mười dặm, để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các chợ búa dân gian để buôn bán, hàng ngày sớm đi tối về xem như việc bình thường. Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân. Hễ ai nhắc đến tình hình giặc giã thì bọn họ đáp rằng: “Chúng nó như cá chậu chim lồng, còn chút hơi thừa thoi thóp, không đáng nói đến. Vâng lệnh của quan lớn đốc bộ, định đến ngày mùng 6 tháng giêng, nhân dịp đầu xuân sẽ xuất quân kéo thẳng đến sào huyệt của quân Tây Sơn. Bọn giặc ấy nhất định sẽ lần lượt bị bắt sống không một tên nào lọt lưới. Người Nam Hà sẽ đến mà xem!”.

Thế là người trong nước, kể cả các viên quan đã từng trốn tránh hồi xưa mà bấy giờ đã được thấy lại bóng mặt trời, ai nấy mới đều yên tâm vui mừng về cuộc sum họp trước mắt. Rồi họ dựa vào tổng đốc họ Tôn làm bức trường thành, không còn nghĩ gì đến việc cung khuyết bị tàn hoang, không còn lo gì đến việc kẻ địch đang ở nơi cửa ngõ; võ lặng, văn im, thảy đều bệ trễ.

Vừa lúc ấy, có người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tới, nói với thái hậu rằng:

– Xe vua trở về kinh thành, đã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các vùng ứng Hoà, Thường Tín, Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn như từ Trường Yên về nam, Thanh Hoa là đất căn bản, lăng tẩm tiền triều ở đó, Nghệ An cũng là quận chân tay, quân cấm và quân túc trực đều lấy người ở đấy, thì nay vẫn bị mất về tay giặc, tin tức không thông, đó thật là điều đáng lo rất lớn. Hiện nay, việc nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những người đứng ngoài mà xem, không ai không biết. Trước đây, hoàng thượng gặp nạn phải chạy, các quan trèo đèo vượt suối, khó nhọc vất vả đã hơn một năm, bao nhiêu nhân tình chắc đã từng trải hết rồi, sao vẫn điềm nhiên không lo nghĩ gì cả? Tổng đốc họ Tôn từ thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ biết đại khái. Đến như các miền, cũng có nơi xung yếu, noi bình thường, chia đồn và mai phục, cần phải trù tính kỹ càng. Việc binh có lúc nên đánh, lúc nên giữ, phải tuỳ cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà hiểu được rõ ràng, đích xác? Vả chăng, khi trước Lê Quýnh khai báo ở bên ấy, nói rằng: “Nhiều nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng nghĩa còn nhiều, lòng người cũng có thể trông cậy, nếu được đại binh sang làm thanh viện thì công việc khôi phục có thể thành…”. Đó chỉ là một cách nói, để tổng đốc họ Tôn không cho việc ấy là khó. Quýnh vì muốn chóng được quân sang cứu, cho nên mới bịa ra lời nói hão để lừa dối họ. Họ cũng tưởng là thật, hăng hái tiến lên, không còn lo nghĩ gì về sau. Cứ xem lời lẽ trong bài hịch, thì những điều họ bắt buộc mình phải đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm mà thôi. Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi? Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thế khó hay dễ để liệu bề tiến lui mà thôi. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái hậu có thể chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa chăng?

Thái hậu giật mình nói:

– Đó chính là tâm sự của gái già này, vẫn ngày đêm lo lắng mà chưa biết làm thế nào?

Rồi nhân tiện, thái hậu đem việc đó nói lại với vua. Bấy giờ nhà vua mới hoảng sợ, liền cùng bọn Quýnh đến doanh quân của Nghị tha thiết xin xuất quân. Nghị gọi Quýnh đến mà căn vặn rằng:

– Người nước mày nay quả thật không thể trông cậy được, thế thì lời cung khai của mày trước đây ra sao? Dám lừa dối ta chăng?

Rồi Nghị ngoảnh sang bảo vua:

– Tự vương trẻ tuổi, chưa từng trải công việc, trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn, sao không nói cho rõ? Bấy giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay lúc chúng đang khốn đốn, há chẳng dễ dàng hơn hay sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội ấy, để chúng có thì giờ thong thả mà bày mưu đặt chước, cách trị chúng cần phải tính toán cho chu đáo, không thể hấp tấp. Vả lại, đã định đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa. Nếu muốn đi gấp thì cho phép vua tôi nhà ngươi đem một đạo quân đi trước cũng được.

Vua lui ra bảo với Quýnh rằng:

– Ngươi từng dốc lòng với ta, việc nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng làm cho tròn công trạng trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta, và thiên triều có chỗ quở trách được ta.

Lại nói, Lê Quýnh là người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc) vốn là một tay phong lưu công tử, con trai của tiến sĩ triều Lê là Lê Doãn Giản. Khi tuổi trẻ, Quýnh chỉ biết uống rượu, đánh bạc, việc văn việc võ đều chưa hề luyện tập qua. Trước kia vì là con nhà quí tộc thân cận, nên được vào làm gia thần nhà vua. Đến khi quân Tây Sơn tới xâm lấn, kinh thành thất thủ. Quýnh vâng mệnh vua theo hầu thái hậu lên Cao Bằng, rồi bị quân giặc đuổi bắt, phải chạy sang Trung Quốc. Vì Quýnh hơi biết chữ nghĩa, cho nên khi chuyện trò với người Thanh, thường bịa ra nhiều câu khoác lác. Tôn Sĩ Nghị cũng không xét đến chỗ đó, đem lời tâu lên, vua Thanh ưng thuận. Thế rồi may được khôi phục lại nước nhà. Quýnh tự cho là công lao của mình. Sau khi về thành Thăng Long, Quýnh chỉ lo đền ơn trả oán và công nhiên ăn của đút lót. Những tay hào kiệt trong nước đều không ưa Quýnh. Vua cho là Quýnh có công, giao cho cầm quân. Nhưng Quýnh, mắt còn choáng lộn bóng tinh kỳ, tai chưa nghe quen tiếng chiêng trống, nói gì đến chuyện sắp đặt việc binh bị? Quýnh bèn mượn cớ không muốn xa rời cạnh vua, xin vua truyền cho viên trấn thủ Sơn Tây đem quân bản bộ đóng trước ở Giản Khẩu, để chặn đường ra của quân Tây Sơn. Đó là Quýnh cốt cho mình khỏi phải ra trận; còn việc chinh chiến được hay thua, nước nhà còn hay mất, Quýnh chẳng cần biết đến làm gì.

Nhắc lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết chạy trạm vào Nam cáo cấp. Một mặt chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn, đóng thuỷ quân ở hải phận Biện Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn trấn đường ngoài không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy việc quân Thanh đến Thăng Long và việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hoa trở vào, không một người nào được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày 24 Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc bình vương tiếp được tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều nói:

– Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thật vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh, càng dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.

Bắc bình vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên (Bình Trị Thiên)), tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu thân (1788).

Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua Quang Trung cho vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp vào dinh và hỏi:

– Quân Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay thua, tiên sinh nghĩ như thế nào?

Thiếp nói:

– Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.

Vua Quang Trung mừng lắm, liền sai đại tướng là Hám hổ hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở Thuận Hoá, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì làm trung quân.

Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên uỷ quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:

– Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc (chỉ đất Trung Quốc) chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!

Các quân lính đều nói: “Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!”.

Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội.

Vua Quang Trung nói:

– Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11 thừa tuyên (từ thời Lê Hồng Đức, các trấn ở Bắc Hà đều gọi là “thừa tuyên”), lại cho tuỳ tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng”. Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên, ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng cho chúng, thì các người làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy…

Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói:

Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?

Bọn Sở, Lân đều lạy tạ và nói:

– Chúa thượng thật là lo xa, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay phương lược tiến đánh ra sao, xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi tuân theo mà làm.

Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là ngày 30 tháng chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:

– Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!

Sau đó nhà vua truyền lệnh: Các viên tướng ở trung quân thuộc về doanh vua sai phái là đại tư mã Sở; nội hầu Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong; Hám hổ hầu đốc suất hậu quân làm đốc chiến; đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đốc suất tả quân, trong đó gồm có thuỷ quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt đông; còn Lộc thì đi gấp lên các hạt Lạng Sơn, Phượng Nhãn, Yên Thế để chặn đường về của quân Thanh; đại đô đốc Bảo, đô đốc Long đốc suất hữu quân, trong đó gồm quân voi và quân kỵ mã; Long xuyên qua huyện Chương Đức, theo đường đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì để đánh ngang vào đồn quân Điền Châu; Bảo thì thống đốc quân voi ngựa do đường Sơn Minh ra làng Đại áng huyện Thanh Trì để tiếp ứng cho cánh hữu.

Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc (theo Cương mục thì trước khi tiến quân ra Bắc, vua Quang Trung có viết thư cho Sĩ Nghị vờ xin đầu hàng để khiêu gợi lòng kiêu căng, khinh địch của Nghị. Theo Lê triều dã sử, khi tiến quân ra Thăng Long vua Quang Trung bày cho quân lính cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh cực kỳ thần tốc).

Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin, nên những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi (thuộc Thường Tín (nay thuộc tỉnh Hà Sơn Bình) và Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội)) đều không biết gì cả.

Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.

Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi (theo Dã sử, thì lúc này vua Quang Trung sai đốt hết lương thực và tự mình quấn khăn vàng vào cổ để tỏ ý quyết chiến quyết thắng, không chịu lùi). Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.

Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.

Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết (Cương mục ghi Sầm Nghi Đống thắt cổ chết ở Loa Sơn (tục gọi gò Đống Đa). Theo Bang giao lục, trong chiến dịch mùa xuân Kỷ Dậu, số quân Thanh bị chết là 27 vạn). Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.

Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt lại thấy quân voi từ Đại áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm mực, làng Quỳnh Đô (thuộc Thanh Trì, Hà Nội), quân Tây Sơn lùa voi giày đạp, chết đến hàng vạn người.

Giữa trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành (có sách chép khi Quang Trung vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã bị nhuộm đen vì khói thuốc súng).

Nguyên trước đó, đô đốc Long đốc suất hữu quân đã đem binh đến đóng ở làng Nhân Mục huyện Thanh Trì. Lúc vua Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì sáng hôm ấy Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức (trại Khương Thượng tức làng Khương Thượng nay thuộc thành phố Hà Nội). Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành.

Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở thành Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì cả cho nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc. Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: “Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”. Bọn ấy lại nói:

– Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đây cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới.

Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt sợ hãi, lập tức sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp dẫn viên hàng tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức đem nghĩa binh tới cứu; lại sai hai mươi lính kỵ mã ở dưới trướng của mình cùng đi với Nghiệp, và dặn họ rằng:

– Trong khoảng chốc lát, phải tiếp tục báo tin về ngay.

ý của Nghị chỉ lo có một mặt đó, không ngờ lại có mặt khác ập tới. Canh tư đêm ấy, chợt nghe ở phía tây bắc thành tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt. Nghị vội sai người cưỡi ngựa ra xem, thì nghe báo tin đồn quân Điền Châu tan vỡ, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, đốt giết lung tung, khói lửa bốc lên đầy trời rồi.

Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa (có sách chép, đạo quân Vân-Qui lúc này mới kéo sang đến Sơn Tây, nghe tin Nghị thua chạy, nên cũng vội vàng tìm đường tháo lui về).

Vua Lê ở trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6 vua Lê và những người tuỳ tòng chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ quân Thanh chạy về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi. Vua đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hoà Lạc thì gặp một người thổ hào. Hồi trước vua Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc đó thấy vua, người ấy bất giác lệ rơi, nhân tiện mời vua vào trại trong núi tạm nghỉ. Bấy giờ, vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm thết đãi. Vua sai bưng một mâm lên mời thái hậu; còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh, Hiến ở mâm dưới.

Ăn vừa xong, chợt nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi theo đến nơi. Vua cuống quít bảo người thổ hào rằng:

– Muôn đội hậu tình, không có gì để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng dám tấc lòng thành của ông mà ban phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt đây có con đường sống nào có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.

Người thổ hào vội vã sai con đưa đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem tối thì nhà vua đến cửa ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sĩ Nghị. Một lát các viên quan khác cũng lục tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ.

Nhân tiện, vua từ giã Sĩ Nghị và nói:

– Cô (lối xưng nhún mình của các vua chúa đời xưa) không có tài, chẳng giữ nổi xã tắc. Đội ơn tướng quân vâng chỉ của hoàng đế sang cứu viện; nào ngờ lòng trời không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được hai chữ “vạn phúc”, Cô xin ở lại đất nước, thu nhặt dân binh, để tính việc nổi lên chuyến khác. Xa nhờ oai linh, may được nên việc, đều là ơn của tướng quân ban cho. Nếu như sự thế không xong, lại xin sang hầu tướng quân, như thế cho tiện.

Nghị nói:

– Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi. Nay hãy dâng biểu tâu lên xin quân, không đầy một tháng, đại binh sẽ lại tới. Chỗ này gần kề đảng giặc, ở lại không tiện, hãy tạm vào Nam Ninh nghỉ ngơi để chờ thánh chỉ cũng được.

Vua Lê nghe lời. Nghị bèn cùng bọn tướng tá thu nhặt tàn quân kéo về.

Vua lại sai bọn Quýnh, Hiến ở lại để ngầm chiêu dụ những người trung nghĩa ở trong nước. Còn vua thì cùng viên phụ đạo (tên gọi chức tù trưởng ở ngoại phiên) Cao Bằng là Địch quận công Hoàng ích Hiểu, viên trấn thủ Kinh Bắc người làng Nộn Liễu huyện Nam Đường là Lê Hân, viên đề lĩnh bốn thành người huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam là Phạm Như Tùng viên phó đề lĩnh người làng Thanh Tuyền, huyện Nam Đường là Nguyễn Viết Triệu, viên thư tri công lượng chính người làng Nghĩa Động, huyện Nam Đường là Lê Văn Trương, viên hiệp lý quân vụ, người làng Quỳnh Côi, huyện Nam Đường là Phạm Trần Thiệu, người bà con bên vợ ở làng Tỳ Bà, huyện Lang Tài là Nguyễn Quốc Đống, viên chưởng tứ bảo người làng Đồng Bảng trấn Thanh Hoa là Lê Quý Thích, cùng đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.

Thực là:

Bờ cõi chưa xong bề tính liệu,
Nước non buồn nỗi lúc chia ly.

Chưa biết việc ấy ra sao! Hãy chờ hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 15

Dẹp yên cõi Bắc, Nguyễn Huệ được phong
Đánh phá Cao Bằng, Duy Chỉ bị hại

Lại nói, khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về nước, trong lúc vội vàng, không kịp thu nhặt đồ đạc. Đến khi tới huyện Phượng Nhãn lại nghe nói tướng Tây Sơn là Đắc lộc hầu đem quân từ mặt đông kéo lên chặn đường, đã gần tới nơi, Nghị lại bị một phen khủng khiếp, các vật cần thiết mang theo, đều phải vứt bừa ra giữa đường để mong chạy thoát lấy thân mình. Cho nên những vật của vua Thanh ban cho như sắc thư, kỳ bài, quân ấn đều bị quân Tây Sơn bắt được đem về.

Nguyên mùa đông năm ngoái, theo lời xin của Nghị, vua Thanh đã truyền lệnh cho Nghị đem quân ra ngoài cửa ải Nam Quan. Sau đó, vua Thanh lại có chỉ dụ bảo Nghị đi từ từ, chớ có vội; hãy làm tờ hịch đưa sang trước làm thanh viện cho nhà Lê, rồi thả bọn bề tôi nhà Lê về nước, tập hợp nghĩa binh, tìm tự tôn họ Lê, để cho ra mặt đối địch với Nguyễn Quang Trung, thử xem sự thế ra sao? Nếu như lòng người An Nam còn mến nhà Lê, lại được thiên binh kéo sang, thì ai chẳng hăng hái nổi lên, và như vậy, Quang Trung ắt phải lui tránh. Bấy giờ sẽ bảo tự tôn họ Lê đi tiên phong đuổi đánh còn Nghị thì đem đại binh tiếp theo, chắc là không khó nhọc gì mà sẽ thành công. Đó là chước hay thứ nhất. Nếu như người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Quang Trung nhất định sẽ không chịu lui. Khi ấy, cần phải viết thư nói rõ hoạ phúc, xem hắn đối phó ra sao? Rồi chờ cho thuỷ quân các tỉnh Mân, Quảng (Phúc Kiến và Quảng Đông, Quảng Tây) của ta vượt biển đánh trước vào Thuận Quảng (Thuận Hoá và Quảng Nam), bấy giờ sẽ thúc quân tiến lên. Quang Trung mặt trước mặt sau đều bị đánh, tất phải hàng phục. Ta nhân đó mà bảo tồn cho cả hai. Thuận, Quảng về nam cho Quang Trung ở; Hoan, ái (Nghệ An, Thanh Hoá) về bắc, phong cho tự tôn họ Lê. Rồi đó, đóng đại binh ở nước ấy, xa xa kiềm chế họ, sau này sẽ có cách xử trí khác.

Đến khi đại quân của Nghị ra khỏi cửa ải Nam Quan nghe tin quân Tây Sơn đã lui chạy, tức thì Nghị sai chỉnh đốn đội ngũ, kéo thẳng đến đóng ở thành Thăng Long, không còn lo lắng gì cả, vì thế mới thua một trận tan tành.

Bấy giờ dân Thanh thái bình đã lâu, không biết gì đến việc binh, thấy Nghị tất tả chạy về, nhân tình đều nhốn nháo sợ hãi. Tiếp đó lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi đến Lạng Sơn, nói phao lên rằng: “Sẽ giết hết rợ Hung Nô”. Do đó, ở đất Trung Quốc, dân chúng lại càng nhốn nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già trẻ, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người.

Vua Thanh được tin, giận lắm, lập tức hạ chỉ, sai viên quan ở nội các là Phúc Khang An làm tổng đốc lưỡng Quảng, đem binh mã chín tỉnh sang kinh lý việc An Nam và đòi Sĩ Nghị về kinh chịu tội.

Lại nói, Nghị ở Thăng Long chạy đi, nhằm đêm mồng 5 tháng giêng. Đến trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến quân vào thành.

Sau khi đã hoàn toàn quét sạch quân Thanh, vua Quang Trung bèn đóng quân tại thành Thăng Long, rồi hạ lệnh chiêu an. Phàm những người Thanh trốn ở các nơi, đều bảo phải tới đầu thú, dân gian không được chứa chấp. Trong khoảng mươi ngày, quân Thanh ra thú có đến hơn vài vạn, đều được cấp phát lương ăn áo mặc.

Nhân bắt được chiếu thư và quân ấn do Sĩ Nghị bỏ rơi, vua Quang Trung bèn đưa cho Ngô Thì Nhậm xem và bảo:

– Ta xem tờ chiếu của vua Thanh, thì chẳng qua họ cũng chỉ cốt xem tình hình ta mạnh yếu ra sao để mà định bề tiến lui, chớ còn việc nghĩa cử để dựng lại nhà Lê, không phải là bản tâm của họ. Họ chỉ mượn tiếng để mưu đồ lợi riêng mà thôi. Nay họ đã bị ta đánh thua, nhịn đi thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta bắt được, đều nên cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi vốn giỏi về nghề văn từ đối đáp, nên thảo ngay bức thư đưa sang cho họ, đại khái nói:

“Ta là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, sao dám có ý gì khác. Trước đã có biển văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thấu đến bề trên được. Gần đây, ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật thà với ngài tổng đốc họ Tôn. Không ngờ đường sá đồn nhảm, làm to thanh thế của ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi cầu phao bị đứt, quân lính thiên triều phải chết đuối, những kẻ tranh đường chạy trốn lại giày xéo lẫn nhau nhiều người bị thương bị chết. Đó thật là do ngài tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến. Hiện nay đã thu góp được số tàn quân hơn một vạn người, lại đã tra rõ họ tên, quê quán, cấp lương đầy đủ và đưa lên cửa ải; vậy xin kê sổ dâng nộp…”.

Thì Nhậm vâng lệnh, lập tức theo ý đó thảo một bức thư, rồi sai người phi ngựa giao cho viên đầu mục ở Lạng Sơn đưa tới ải Nam Quan, nhờ chuyển đệ sang Trung Quốc.

Lại nói, viên tổng đốc lưỡng Quảng mới là Phúc Khang An vốn là người Mãn, thuộc đội Cờ viền vàng (hộ khẩu của dân Mãn chia theo binh chế, gồm có tám đội Cờ (bát kỳ): Cờ vàng, Cờ trắng, Cờ đỏ, Cờ xanh, Cờ viền vàng, Cờ viền trắng, Cờ viền đỏ, Cờ viền xanh. Các đội Cờ này lúc thường thì làm dân, lúc động thì làm lính. Về sau, khi người Mông, người Hán qui phục nhà Thanh, vua Thanh Thái tông cũng tổ chức ra bát kỳ người Mông và bát kỳ người Hán như vậy, để làm lực lượng nòng cốt trong việc thống nhất Trung Quốc) do chân ấm sinh làm đến chức quan trong Nội các, vua Thanh vốn rất tin dùng, nên mới giao cho kinh lý việc nước Nam.

Vừa mới thay Nghị làm chức tổng đốc, Khang An đi trạm đến mạc phủ Quảng Tây, đã chính mắt thấy Nghị trơ trọi một thân chạy về, rồi đó, tai lại được nghe thanh thế của vua Quang Trung, nên trong bụng không khỏi rụt rè lo sợ. Đến khi tiếp được bức thư từ biên cương đưa tới, Khang An quyết liền tự mình gánh vác lấy việc phương Nam, bèn nói kín với viên phân phủ họ Vương ở phủ Thái Bình rằng:

– Nam Bắc thôi việc binh đao, đó là phúc của sinh dân, mà thực là điều may lớn cho các quan ở ngoài bờ cõi. Ta nghe nói có viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư từ từ trước đến giờ đều do tay y mà ra. Vậy ông nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hoà, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng xong.

Phân phủ họ Vương lui ra, tức thì viết thư cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm đem việc ấy tâu với vua Quang Trung.

Bấy giờ, vua Quang Trung tuy đã dẹp yên Bắc Hà, nhưng ở miền Nam, vẫn có cái lo bên trong, nên muốn gấp rút về Nam, bèn họp các tướng sĩ lại mà bảo:

– Việc binh ở Bắc Hà, ta giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Việc giao thiệp với Trung Quốc ta giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích. Mọi việc đều cho phép các ngươi tuỳ tiện xử trí. Ta hãy về Nam, nếu việc gì không quan hệ lắm thì bất tất phải qua lại bẩm báo cho thêm phiền phức.

Rồi đó, vua Quang Trung dẫn quân về Nam, để Văn Sở ở lại, coi giữ hết thảy việc quân, việc nước. Còn Ngô Thì Nhậm thì làm chủ về việc giao thiệp với Trung Quốc, cùng với viên quan giữ biên ải của nhà Thanh là phân phủ họ Vương hai bên liên lạc với nhau; ngoài thì có Phúc Khang An đề đạt ý kiến, trong thì có Các thần Hoà Khôn chủ trương mọi việc.

Hoà Khôn người Mãn Châu, thuộc đội Cờ vàng, cũng do chân ấm sinh vào làm ở Nội các, cùng với Khang An quản lý việc hộ.

Khang An gửi thư cho Thì Nhậm, bảo Nhậm đưa vàng bạc đút lót Khôn. Khôn kiền tâu với vua Thanh xin bãi việc binh, phong vương cho Quang Trung, và không nên gây hấn với nước ngoài, làm hao phí cho Trung Quốc. Khôn lại nói: “Từ xưa đến nay, chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành”.

Vua Thanh cho là phải, bèn quyết ý giảng hoà. Bọn Hoà Khôn đón ý vua Thanh làm cho mọi việc đều ăn khớp, nên không việc gì là không vừa lòng nhà vua. Bởi vậy, vua Thanh rất thích, thường viết thư khen ngợi họ.

Khi ấy, Khang An liền báo tin cho Thì Nhậm biết, giục Nhậm viết tờ biểu tạ ơn. Nhậm thảo một tờ biểu, trong đó nói kèm thêm rằng: “Nước chúng tôi đã đến kỳ tiến cống, theo lệ phải kính sai bồi thần đệ dâng lễ vật. Nhưng tiểu phiên (nước phiên thuộc nhỏ mọn, ở đây là một cách nói nhún để chỉ vua Quang Trung) còn là tạm quyền việc nước, không dám tự ý làm việc ấy, vì sợ chưa hợp lệ. Mà nếu điềm nhiên bỏ đi lòng cũng không yên. Nay các vật phẩm tiến cống và các người bồi thần đều đã kính cẩn đợi sẵn trên cửa ải. Vậy xin cúi mong bề trên quyết định, chúng tôi khôn xiết run sợ chờ lệnh… “.

Khang An tiếp được tờ biểu tạ ơn ấy, lập tức sai ngựa trạm đệ về Yên Kinh. Hoà Khôn liền đem biểu dâng lên. Vua Thanh xem xong, thích lắm, bèn truyền cho các bồi thần nước Nam là bọn Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử được phép qua cửa ải, vào chờ ở thành Quế Lâm; lại sai sứ thần sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam quốc vương và ban thưởng cho rất hậu. Còn các phẩm vật tiến cống đều chiếu lệ cũ mà thu nhận. Liền đó, vua Thanh lại giáng chỉ vời vua An Nam sang chầu.

Ngô Thì Nhậm bèn kén viên quan võ người làng Mạc Điền, huyện Nam Đường ở trấn Nghệ An, tên là Nguyễn Quang Thực (Đại nam chính biên liệt truyện sơ tập lại chép là Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu), dung mạo đoan trang, giả làm quốc vương; lấy Văn Sở làm trọng thần hàng võ, Huy ích làm trọng thần hàng văn, đô đốc Nguyễn Duật làm hộ vệ, Võ Huy Tấn làm bề tôi coi giấy tờ, cùng hầu “quốc vương” sang yết kiến vua Thanh. Ngoài lễ dâng thường của địa phương lại dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người Thanh phải phục dịch chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám nói.

Khi “quốc vương” tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết đó là vua Quang Trung giả. Lúc “quốc vương” vào yết kiến, vua Thanh cho cùng ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối hệt như tình cha con trong nhà. Lúc “quốc vương” lạy tạ về nước, vua Thanh sai thợ vẽ truyền thần bức chân dung mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu, thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.

Lại nói, vua Lê khi ở cửa ải Nam Quan theo Sĩ Nghị vào đất Trung Quốc, trú ngụ ở thành Nam Ninh, thì vừa gặp lúc Phúc Khang An đến thay Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hoà với Tây Sơn. Khang An bèn đón vua Lê vào nghỉ ở thành phủ Quế Lâm. Hồi ấy những người nước Nam lần lượt sang Trung Quốc theo vua Lê gồm có: Chú vua là Trung quận công Duy án, đi đường Du Quan (ở hồi 9 đã chép Duy án đi cùng với phái bộ Trần Công Xán vào Tây Sơn đòi đất Nghệ An, sau phái bộ bị dìm chết ở ngoài biển. Đây lại thấy Duy án xuất hiện, không hiểu là chép lầm hay án còn sống sót mà người viết không ghi rõ chăng?); Đinh Nhạ Hành và Đinh Lệnh Dận quê ở Hàm Giang, đi đường Long Môn; nội hàn Trần Duy Lâm, quê ở Nam Chân; xuất nạp Lê Doãn, quản cơ Hậu Kính Lê Dĩnh người ở Đồng Trạch và bọn Phan Khải Đức người Nghệ An đều đi đường ải Nam Quan; bọn Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn là phụ đạo ở Cao Bằng đi đường Cao Bằng. Lúc họ vào ra mắt, Khang An tuỳ tiện sắp đặt chỗ ở và cấp cho lương ăn áo mặc, rồi dùng Phan Khải Đức làm chức đô ty ở Liễu Châu, Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị ở Toàn Châu, Bế Nguyễn Doãn làm chức bả tổng. Còn Trung quận công cùng các người khác thì đều đưa vào ở chỗ vua Lê trong phủ Quế Lâm.

Sau hơn một tháng, Khang An cũng từ Nam Ninh về Quế Lâm, liền hạ lệnh bãi hết binh mã các tỉnh, rồi bày ra yến tiệc và âm nhạc linh đình, rộn rã. Vua Lê lấy làm lạ hỏi, thì Khang An nói:

– Mùa hè nắng nực, không lợi cho việc sang đánh miền Nam, cần chờ đến mùa thu mát mẻ, sẽ điều động một thể.

Tiếp đó, Khang An lại mời vua Lê yến tiệc say sưa, rồi ung dung nói:

– Ngày xuất quân không còn xa, vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn đường đi trước. Nhưng bây giờ nên gọt đầu gióc tóc (kiểu đầu của người Mãn Thanh: gọt tròn xung quanh như cái nồi đất, rồi tết đuôi xam ở đằng sau), thay đổi quần áo giống như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân biệt được, thì công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ sẽ lại theo như tục cũ. “Việc binh không ngại dùng cách xảo trá” Vương nên nghĩ tới chỗ đó.

Vua Lê cho là phải và đáp:

– Chúng tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?

Rồi vua Lê cùng các bề tôi đều gióc tóc, thay đổi đồ mặc. Khang An thấy vậy, mừng lắm, liền cho một số tiền bạc và tiếp đãi tử tế. Vua tôi nhà Lê đều không biết sự lừa dối của Khang An. Nhân đó, Khang An bèn làm một tờ biểu kín tâu với vua Thanh, trong đó đại ý nói: “Vua An Nam là Lê Duy Kỳ, không còn có ý xin cứu viện, vua tôi đều đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn trong đất Trung Quốc. Vậy xin bãi bỏ các đạo quân định đưa sang đánh dẹp phương Nam”. Còn Hoà Khôn cũng luôn dịp tâu xin phong vương cho vua Quang Trung. Thế là các lời xin ấy đều được vua Thanh chuẩn y.

Một hôm, Khang An lại mời vua Lê vào dinh. Giáo mác trang hoàng la liệt, quân hầu đứng khắp chung quanh, cung mã, nghi trượng rất là nghiêm chỉnh, chính giữa dựng cây cờ lớn, có thêu sáu chữ: “Đề đốc cửu tỉnh binh mã” (đề đốc binh mã chín tỉnh).

Sau khi uống trà và ăn hoa quả xong, An im lặng không nói câu gì, vua Lê cũng không hiểu ý của An ra sao. Lúc từ giã đi ra, thì thấy sứ giả Tây Sơn đã ở ngoài cửa. Vua Lê tức tối hồi lâu, rồi đành phải về quán trọ yên nghỉ.

Trước kia Trường phái hầu là Lê Quýnh vâng mệnh ở lại trong nước, chiêu dụ hào kiệt các địa phương để lo việc khôi phục. Lúc này, Quýnh và bọn Trịnh Hiến, Lý Tạo, Lê Hợp (có bản chép là Lý Nhu Đạo, Lê Doãn Thực) tất cả gồm vài chục người đều kéo sang đất Trung Quốc. Khang An cho trát đòi bọn Quýnh đến bàn việc nước. Lúc họ tới nơi, An chẳng hỏi han gì, chỉ bàn về việc gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc mà thôi.

Quýnh biết An dối trá, giận lắm, nói:

– Đòi ta đến ngỡ là để giáp mặt mà bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì, mà chỉ toàn bảo gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc. Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc không thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi!

Khang An biết là không thể ép buộc được, bèn sai đem bọn họ an tri ở tỉnh Quảng Tây.

Hồi cuối mùa đông năm ấy là năm Kỷ Dậu (1789), vua Thanh sau khi đã sai sứ phong cho vua Quang Trung làm An Nam quốc vương và nhận các vật phẩm tiến cống, liền giáng chỉ đòi vua cũ của nước An Nam phải đến Yên Kinh.

Nguyên lúc kinh thành Thăng Long tan vỡ, vua Lê chạy sang bắc, em thứ ba của vua Lê là Lan quận công Duy Chi đưa hoàng phi chạy ra, đến bến sông Nhĩ Hà thì gặp lúc cầu phao đã gãy, liền theo bờ sông chạy về phía tây. Đến Tuyên Quang, Duy Chi bèn lén lút ở đấy, rồi nhân dịp chiêu dụ các tay hào mục địa phương, để cùng nhau gắng sức lo việc khôi phục. Về sau, Duy Chi dấy quân ở đất Bảo Lạc (nay thuộc Cao Bằng), đắp đồn luỹ, trưng thu lương thực, chống nhau với quân Tây Sơn. Được vài tháng, quân và lương không đủ, bị quân Tây Sơn đánh thua, Duy Chi và các tướng tá đều bị bắt, đóng cũi đưa về Nam, rồi đều bị hại (theo Đại nam chính biên liệt truyện và Bang giao lục thì Duy Chi đánh phá cả các vùng Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên; sau lại liên kết với Lào để định đánh úp Nghệ An. Vì thế, quân Tây Sơn phải đánh dẹp rất gay go, kéo dài hàng năm (1789-1790) mới bắt được Chi). Quân dân cả nước, ai cũng thương xót. Có người viếng bài thơ, trong có câu rằng:

Phú Xuân có đất chôn hờn mới.

Bảo Lạc không trời báo oán xưa.

Duy Chi đã chết, hoàng phi bèn trốn về vùng Kinh Bắc, lẻn lút trong dân gian, quân Tây Sơn tìm bắt nhưng không được.

Lúc bấy giờ, vua Lê ở Yên Kinh, tin tức không thông, các hoàng thân đều bị quân Tây Sơn giết hại. Các bề tôi trung nghĩa ngày xưa như bình chương Nguyễn Huy Túc, tham tri Phạm Đình Dữ, thượng thư bộ Binh Nguyễn Đình Giản, thiêm thư xu mật viện sự Lê Ban, phó đô ngự sử Trần Danh án, trấn thủ Kinh Bắc Trần Quang Châu đều phải trốn nấp ở các nơi thôn ổ, quân Tây Sơn lùng bắt không được. Còn con cháu dòng dõi của các nhà quyền quý phần nhiều cũng vẫn có cảm tình với chủ cũ. Nên chi, trong chốn làng quê, tiếng trống thường nổi lên luôn luôn.

Nguyễn Đình Giản, từ khi vua Lê chạy sang Trung Quốc, không kịp chạy theo, bèn ẩn ở huyện Lập Thạch thuộc trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phú).

Vua Quang Trung cho người đến trấn Thanh Hoa, bắt con gái yêu của Giản đưa vào hậu cung muốn để vời Giản ra làm quan. Nhưng Giản nói:

– Con bé ấy không chết, làm nhục nhà ta, ta không vì tình nhi nữ mà bỏ nghĩa vua tôi.

Quân Tây Sơn biết không thể đoạt nổi chí hướng của Giản, bèn lập mưu bắt sống Giản về. Giản không chịu khuất, rồi chết. Giản có làm bài thơ tự thuật như sau:

Vị thân hay vị nước nhà,

Thân còn nước mất biết là làm sao?

Đội non khôn hoá thân ngao (sách Liệt sử chép: ở biển Đông có năm hòn núi nổi lênh đênh trên mặt nước, trời sai 15 con ngao đỡ cho núi đứng vững. Đây mượn ý để nói việc chống đỡ quốc gia),

Dễ đem mình cuốc khóc gào núi sông (xưa vua Thục là Đỗ Vũ mất nước, sau khi chết hoá thành con cuốc, tiếng kêu ai oán).

Giận không Vương Xúc gươm trung (Vương Xúc làm quan nước Tề đời Chiến Quốc, sau Tề vị nước Yên chiếm, Vương Xúc dùng gươm tự tử),

Đọc ca chính khí dãi lòng sắt đanh (Chính khí ca của Văn Thiên Tường, một trung thần đời Tống, làm khi bị giam ở yên kinh).

Ngoảnh nhìn cung khuyết Long thành,

Thân này với nước nhục vinh nỡ rời!

Lê Ban khôi ngô, hùng dũng, sức khoẻ hơn người; mỗi bữa ăn gấp mấy chục người. Sau khi vua Lê bị nạn, Ban thường quanh quẩn bên cạnh, không từ hiểm nghèo. Đến khi vua Lê chạy sang Trung Quốc. Ban theo không kịp, bèn đi đường tắt về quê ở Nghệ An, cùng các hào mục địa phương họp quân đánh nhau với Tây Sơn, bị thua mấy trận rồi bị bắt. Ban giữ vững chí cũ, không chịu khuất phục. Quân Tây Sơn bèn thả cho về. Sau Ban chết ở Thăng Long.

Trần Danh án lưu lạc ở miền rừng núi, thôn quê trong xứ Bắc Giang. Vua Quang Trung sai Ngô Thì Nhậm viết thư vời án. án cố từ, thề chết không chịu ra, lời lẽ phần nhiều gay gắt. Nhân dịp, án lại làm bài thơ trả lời Nhậm như sau:

Gặp bác đời nay dễ mấy lần,

Dung nhan phảng phất mộng luôn gần.

Về ai nước ấy thôi đành kệ,

Nương trọ, đời nay chỉ biết thân.

Song bắc giấu mình còn nhớ Tấn (điển Song bắc trỏ Đào Tiềm người đời Tấn, vì khi Đào Tiềm cáo quan về nhà, trong một lá thư gửi cho bạn, ông có viết câu “Bắc song cao ngoạ…” (Nằm hóng mát dưới cửa sổ phía bắc) để nói về cái thú ở ẩn. Đào Tiềm là tôi cũ của nhà Tấn, khi Tống cướp nước Tấn, Đào Tiềm viết lách gì cũng vẫn đề niên hiệu của nhà Tấn để tỏ lòng trung nghĩa)

Biển Đông thà chết chẳng theo Tần (điển Biển Đông trỏ Lỗ Trọng Liên người nước Tề đời Chiến-quốc. Khi Lỗ Trọng Liên sang chơi nước Triệu, gặp lúc nước Tần vây Triệu rất gấp; bấy giờ có sứ nước Nguỵ sang Triệu bàn nên tôn Tần làm hoàng đế thì sẽ khỏi bị vây; Trọng Liên nghe nói, không bằng lòng, gặp sứ Nguỵ bàn lẽ phải trái và nói; nếu Tần xưng đế thì Liên này thà nhảy xuống biển Đông mà chết chứ không chịu làm tôi tớ cho Tần… Lời nói khảng khái ấy của Trọng Liên, quả nhiên đã làm cho quân Tần phải rút lui, không vây Triệu nữa).

Người sau bên mộ giơ tay trỏ:

Tiến sĩ đời Lê cũ, họ Trần.

Nhậm biết không thể khuất phục được án, bèn ngầm sai người đem quân đến hăm doạ. Nhưng án vẫn ngồi làm thơ, thần sắc như thường, trong có câu rằng:

Kiếp này dẫu béo mồm hùm sói,

Thà chết không làm bụng chó heo!

Quân Tây Sơn lại dỗ cho làm quan to, cuối cùng án vẫn không theo, họ bèn thôi.

Trần Quang Châu cùng bọn bộ tướng, nhóm quân đánh lại Tây Sơn, ngang dọc trong hai trấn Đông Bắc (Hải Dương và Kinh Bắc). Khoảng trong bốn năm năm liền, luôn luôn phá vỡ đồn luỹ và giết được rất nhiều tướng tá của Tây Sơn, khiến cho quân Tây Sơn cũng phải khiếp sợ Châu. Sau mắc mưu gian, Châu bị quân Tây Sơn bắt sống. Châu cũng không chịu khuất phục, rồi chết (theo các tài liệu lịch sử, thì những cuộc chống đối của đám cựu thần nhà Lê bấy giờ còn có: Dương Đình Tuấn (Bắc Giang). Nguyễn Phủ (Bắc Ninh), Phạm Đình Đạt (Bắc Ninh)… Nhưng cuối cùng cũng đều bị Tây Sơn dẹp tan).

Từ đó trở đi, các trấn yên lặng, không phải lo sợ về nạn binh hoả nữa.

Sau khi nhận sắc phong của vua Thanh, vua Quang Trung bèn tự coi mình như hoàng đế, lập con cả là Quang Toản làm thái tử, con thứ hai là Quang Thuỳ là Khang công, lĩnh chức tiết chế các quân thuỷ bộ miền Bắc, con thứ ba là Quang Bàn làm Tuyên công lĩnh chức đốc trấn Thanh Hoa, Tổng lý mọi việc quân, dân. Các trấn đều đặt một viên trấn thủ, một viên hiệp trấn. Mỗi huyện đặt một viên phân tri và hai viên tả hữu quản lý để trưng thu binh lương và xử lý việc kiện cáo. Lại lập ra binh chế, chia ra các cấp quan võ; lấy đạo thống lĩnh làm cơ, lấy cơ thống lĩnh các đội, để quản thúc và luyện tập cho quân lính.

Các trấn từ sông Gianh ra Bắc đều phải kê khai sổ đinh, chiếu theo lệ cũ kén lính và thu các thứ thuế dung (tức thuế thân, do Trịnh Cương đặt ra), thuế cước. Lập sổ ruộng, định lệ thóc thuế. Chia ruộng công, ruộng tư ra làm ba bậc để thu thuế. Vua Quang Trung cho rằng Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra từ Bắc vào đều vừa bằng nhau, quê tổ tiên mình cũng ở đấy, bèn sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ, đá, gạch ngói, để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất chung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng toà lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái-hoà hai dãy hành lang, để phòng dùng đến trong những khi có lễ triều hạ (các quan vào chầu và chúc mừng nhà vua). Thành này được gọi là Phượng Hoàng trung đô hoặc Trung kinh Phượng Hoàng thành (thành này Quang Trung định lập làm nơi đóng đô nên mới gọi là “trung đô” hoặc “trung kinh”; còn tên “Phượng Hoàng” là gọi theo tên ngọn núi ở chỗ xây dựng thành, “tức rú Quyết cạnh đường Bến Thuỷ bây giờ”. Khi xây dựng “Phượng Hoàng trung đô”, Quang Trung có viết chiếu mời Nguyễn Thiếp ra xem đất. Trong tờ chiếu, có đoạn viết như sau: “Nay kinh Phú Xuân thì hình thế cách trở. ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng, chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về” – Xem thêm chi tiết trong La Sơn phu tử của Hoàng Xuân Hãn).

Năm Canh tuất (1790), nước Ai-lao chưa chịu tiến cống. Vua Quang Trung bèn sai viên đốc trấn Nghệ An là Nguyễn Quang Diệu (có sách chép Trần Quang Diệu. Việc Quang Trung đánh Lào, thực ra không phải nhằm mục đích chiếm đất, mà chỉ cốt phá tan âm mưu cấu kết giữa Duy Chi và vua Lào) làm chức đại tổng quản, viên đô đốc lĩnh tượng chính là Lê Văn Trung làm chức đại tư lệ xuất quân tiến đánh.

Quân Tây Sơn tiến đến đô thành nước Ai Lao, vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy trốn. Bọn Diệu vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa đem về.

Sau khi được vua Thanh phong vương, vua Quang Trung càng thêm kiêu căng, có ý xem khinh Trung Quốc. Vừa lúc ấy, có giặc Tàu ô (tên gọi chung bọn giặc biển người Trung Hoa bấy giờ, thường đi tàu thuyền ở ven biển Việt Nam để ăn cướp) ở lưỡng Quảng cướp bóc miền ven biển, quân Thanh đuổi đánh, bọn giặc liền chạy xuống vùng Nam Hải và xin quy phục nước Nam. Vua Quang Trung bèn cho bọn đầu mục của chúng đều làm chức thống binh, đồng thời lại sai chúng trở lại cướp bóc quấy nhiễu miền duyên hải của Trung Quốc. Từ đấy các thuyền buôn bán không thể qua lại giá cả hàng hoá cao vòn vọt. Vua Quang Trung lại dung nạp cả bọn giặc Tàu ô ở Tứ Xuyên gọi là “Thiên địa hội” (“Thiên địa hội” không phải là giặc Tàu ô, mà là một tổ chức bí mật của nhân dân Trung Quốc, nhằm lật đổ triều đình Mãn Thanh, thành lập năm 1674, lúc đầu trung tâm ở vùng Phúc Kiến, sau phát triển khắp nơi trong nước, thâm nhập cả vào các tầng lớp Hoa kiều ở ngoài nước). Tổng đốc nhà Thanh bấy giờ sợ sức mạnh của nước Nam, nên cũng không dám hỏi chi đến.

Qua những việc đó, vua Quang Trung càng cho người Thanh là dễ đánh, bèn tính việc kén chọn quân lính, dành dụm lương thực, đóng tàu biển thật lớn, có thể chở nổi voi, rồi cùng các quan văn võ ngấm ngầm để ý dòm ngó Trung Quốc.

Thật là:

Cõi Bắc vừa xong trường chiến đấu,
ải Nam lại nẩy dạ anh hùng.

Chưa biết việc ấy ra sao? Chờ xem hồi sau phân giải.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 16

Tế Linh đường, sứ Thanh bị lừa
Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận

Lại nói, vua Quang Trung toan lập mưu đánh Trung Quốc, đêm ngày bàn bạc với các tướng tá, họ đều nói:

– Nên kê sổ dân cho đúng để kén quân lính, đó là việc cần kíp ngày nay.

Vua Quang Trung lấy làm phải, bèn hạ lệnh cho các trấn phải đốc thúc các xã sửa lại sổ đinh, phát “tín bài” (thẻ làm tin) để thống kê dân chúng vào sổ, rồi cử người coi sóc xét hỏi. Tổng trưởng các huyện có nhiều người vì cố tình giấu giếm mà bị chém. Việc đi lại trên đường, nhân dân đều lấy làm khổ. Viên phân tri ở các huyện nhóm họp số dân đã ghi trong sổ lại, chiếu sổ cấp cho mỗi người một cái thẻ; giữa thẻ in bốn chữ triện “Thiên hạ đại tín” (niềm tin lớn của thiên hạ), bốn mép chung quanh thì viết họ tên quê quán của những người có thẻ và in dấu ngón tay trỏ bên trái để làm bằng cứ. Mọi người đều phải đeo thẻ ấy, gặp khi xét hỏi thì đưa ra trình; đó gọi là “tín bài”. Ai không có thẻ, tức là dân lậu, sẽ bị bắt đem sung quân (bị đày đi các nơi biên giới xa xôi để làm lính thú) và bắt tội các người tổng trưởng, xã trưởng của họ.

Sổ đinh thành rồi, vẫn theo lệ ba đinh bắt một người lính. Lại sai các viên phân quản đem quân đến các xã vây bắt, tra xét. Vì thế, dân gian nhốn nháo, nhiều người lẩn trốn vào các khe núi.

Có người ở làng Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, tên là Trần Phương Bính (nhiều sách chép là Trần Danh Bính), nguyên là con viên tiến sĩ đời Lê xưa là Trần Danh Tố, không chịu đeo thẻ. Trấn thủ Nguyễn Diệu khen và tha cho không bắt tội.

Bính là một người bản tính thông minh nhanh nhẹn, lại sẵn có khí tiết, thường làm thơ để tỏ chí của mình, có hai câu rằng:

Tim gan chất chứa hờn trời đất,

Mặt mũi đành trơ với tháng ngày.

Về sau, các cống sĩ và các hào mục địa phương họp quân ở làng Nga Khê, huyện Thiên Lộc, định đánh úp thành Nghệ An. Họ bèn suy tôn Bính làm quân sư. Bọn Bính kéo quân đến xã Bình Lãng, ven núi Hồng Lĩnh để đánh nhau cùng quân Tây Sơn. Bị thua trận, Bính liền trèo lên đỉnh núi cao nhất của núi Hồng Lĩnh, tự tay đề một bài thơ vào vách chùa ở đó như sau:

Đền nước không còn chước,

Bên mình có mũi dao.

Ngoái cổ nhìn Hồng Lĩnh.

Chín mươi chín đỉnh cao.

Rồi Bính lấy dao đâm thọc vào bụng mà chết; quân dân nghe tin, ai cũng thương xót.

Lại nói, vua Quang Trung, sau khi quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là Chiêu viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung, chẳng qua chỉ muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua Quang Trung bị bệnh rồi mất. Hôm đó nhằm ngày mùa thu, tháng tám năm Nhâm Tý (về tháng vua Quang Trung mất, có một vài tài liệu chép là tháng 9. Nhưng theo sự chứng minh rất xác đáng của ông Hoàng Xuân Hãn (La Sơn phu tử, tr. 158-160), dựa vào sách Đại Nam thực lục và tài liệu của các giáo sĩ phương Tây đã chép lúc đương thời, thì vua Quang Trung đã mất vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792). Cũng theo ông Hoàng Xuân Hãn, thì việc Hoàng Lê nhất thống chí chép mất vào tháng 8 như ở đây cũng không hẳn là sai; vì theo sách lịch Tây Sơn đương thời, tháng 7 năm Nhâm tý là tháng thiếu, ngày 29 lại là ngày cuối tháng, mà vua Quang Trung lại mất vào khoảng nửa đêm, như thế thì chép tháng 7 hay tháng 8 cũng chỉ chênh nhau chừng nửa giờ mà thôi), sau khi lên ngôi hoàng đế được 5 năm. Trước đó, khi sứ nhà Thanh sang phong, vua Thanh có ban cho vua Quang Trung chiếc áo màu, trong thêu bảy chữ bằng kim tuyến: Xa tâm chiết trục đa điền thử (câu này nghĩa đen là: “Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng”. Theo Hán văn, chữ xa với chữ tâm hợp lại thành chữ Huệ tên vua Quang Trung. Chuột thuộc về tý. ý nói năm tý vua Quang Trung chết). Bấy giờ không ai hiểu ra sao, thì ra đến lúc này mới nghiệm.

Sau khi vua Quang Trung mất, việc cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình Trung Quốc, nên vua Thanh cũng không biết (theo gia phả họ Vũ (Vũ Văn Dũng) thì tờ biểu đã đệ lên vua Thanh, và đã được vua Thanh nhận lời gả công chúa cùng trả lại đất Quảng Đông. Sau nghe tin vua Quang Trung chết nên việc đó mới đình chỉ).

Tháng ấy con trưởng vua Quang Trung là Quang Toản theo di mệnh của vua cha, lên nối ngôi, đổi năm sau tức là năm Quí Sửu (1793) làm năm đầu niên hiệu Cảnh thịnh, và truy tôn vua Quang Trung làm Thái tổ Vũ hoàng đế. Rồi đó, Quang Toản sai sứ thần sang Trung Quốc báo tang, đem dâng các sản vật địa phương và hai thớt voi đực; lại sắp xếp lễ cống hàng năm và làm tờ biểu xin phong vương, để hai sứ bộ cùng đi một lúc. Trong tờ biểu có nói: “Vâng lời dặn lại của vua cha, sau khi chết, không đưa di hài về quê hương, mà chôn cất ở làng Linh Đường (thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội)) phía ngoài kinh thành để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết…”.

Vua Thanh khen ngợi, tức thì sai sứ thần sang làm lễ tế. Quang Toản bèn làm ngôi mộ giả ở làng Linh Đường để nhận lễ thăm viếng của nhà Thanh. Trong bài văn tế của nhà Thanh có câu: “Chúc ngôi Nam cực, lòng trung đà tỏ trước sân triều; yên giấc Tây Hồ, trọn đời vẫn không quên cửa khuết”.

Vua Thanh lại ban cho thuỵ hiệu là “Trung thuần” và ban tặng một bài thơ, bảo khắc vào đá, dựng bên trái mồ vua Quang Trung để làm nổi rõ sự vinh hiển.

Rồi đó, vua Thanh phong cho Quang Toản làm An Nam quốc vương.

Sau khi được phong, Quang Toản bãi lệnh đeo “tín bài”, triệt hồi các đạo quân đi bắt dân lậu, nghiêm cấm việc quấy nhiễu nhân dân, dùng cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên làm chức thái sư, coi tất cả mọi việc chính sự của triều đình.

Vì thấy Quang Toản còn nhỏ, Đắc Tuyên ra mặt chuyên quyền, tha hồ làm oai làm phúc, các quan văn võ đều nem nép kiêng sợ, mầm mống tai hoạ bắt đầu từ đấy.

Lại nói, vua Lê từ mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) chạy sang đất Trung Hoa, trọ ở thành Quế Lâm.

Mùa đông năm ấy, vua Thanh nghe lời bàn của bọn Khang An, Hoà Khôn, phong vương cho Nguyễn Huệ, lại giáng chỉ đòi vua Lê vào Yên Kinh. Mùa xuân năm Canh Tuất (1790), vua Lê bắt đầu lên đường, tháng năm mùa hè năm ấy thì đến Yên Kinh. Các quan văn võ của nước ta trước sau sang đất Trung Quốc đều được lần lượt đi theo.

Vừa khi ấy, vua Thanh đi tuần du, gặp bọn Lê Quýnh ở tỉnh Sơn Đông, bèn sai người gọi vào ra mắt và dụ rằng:

– Chủ các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh.

Bọn Quýnh tâu rằng:

– Lũ tiểu thần từ xa xôi muôn dặm theo trốn sang đây, xin cho được dùng phong tục bản xứ để ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ xin vâng chỉ.

Vua Thanh khen ngượi hồi lâu, rồi bảo họ đi thong thả lên Yên Kinh.

Lúc bấy giờ, vua Lê cùng thái hậu và con đầu của vua trọ ở cửa Tây Định trong thành Yên Kinh, cạnh nhà Quốc tử giám, trước cửa có biển đề: “Tây An Nam doanh” (Dinh An Nam phía tây). Còn các bề tôi thì ở trong cửa Đông Trực, cạnh nhà Dương phố, ngoài cửa có biển đề: “Đông An Nam doanh” (Dinh An Nam phía đông). Tất cả bọn đều được nhà Thanh chiểu theo số người mà cấp phát cho lương ăn, và cho phép tự do qua lại.

Một hôm, nghe tin vua Thanh sắp ra Nhiệt Hà tránh nắng, mờ sáng ngày mai thì lên đường. Nhân dịp đó vua Lê liền cùng các bề tôi thảo ra tờ biểu xin quân cứu viện, rồi nhờ vào viên đô thống đội Cờ viền vàng tên là Kim Giản, để xin yết kiến vua Thanh.

Đến khi xe vua Thanh đi qua, vua Lê cùng các bề tôi đều quỳ xuống yết kiến ở mép đường bên trái. Xe vua Thanh dừng lại một chút, có viên thông ngôn báo rằng: “Hoàng đế có chỉ khen thưởng”. Rồi viên đó giục họ lạy tạ và trở về doanh. Lát sau, đã thấy Kim Giản vâng chỉ vua Thanh phong cho vua Lê chức tá lãnh, đời đời nối chức và được lĩnh áo mũ tam phẩm.

Vua Lê bất đắc dĩ phải nhận vậy. Cách mấy hôm sau, lại thấy có viên quan ở nội phủ vâng chỉ vua Thanh đòi vua Lê vào sân điện, ban cho bốn trăm lạng bạc và sai người sắp sẵn cho các thứ đồ vật. Còn những bề tôi đi theo, đều được cấp mỗi người năm trăm đồng tiền. Các lễ mừng, lễ điếu ở trong nước, đều chiểu theo như thể lệ đã định cho những người thuộc tám hiệu cờ.

Năm ấy, vua Lê thấy người Thanh không thể tin cậy được, bèn cùng bọn Phạm Như Tùng, Hoàng ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Văn Trưởng, Lê Quí Thích và Nguyễn Đình Cẩm, người làng Hương Ngạnh, huyện Từ Liêm, Lê Tùng người làng Tây Đàm, Lê Thức người làng Đáp Cầu, huyện Hoằng Hoá cùng nhau uống máu ăn thề, rồi cùng thảo tờ biểu, xin quân cứu viện. Lại bàn nếu xin quân không được, thì sẽ xin đất cũ là hai châu Tuyên Quang, Hưng Hoá để thờ tổ tiên, hoặc lẻn vào Gia Định để mưu đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống chết cũng liều.

Thảo xong tờ biểu, bọn họ đến báo trước cho Kim Giản biết, Kim Giản không tiếp. Vua tôi nhà Lê cùng nhau rập đầu xuống đất mà kêu thật to. Kim Giản bất đắc dĩ phải mời vào nhà, pha trà thết đãi, rồi bảo:

– Vương hãy cứ về quán trọ mà chờ, sẽ bàn bạc sau.

Được hơn một tháng, thấy có viên quan nhà Thanh tên là Khoa Lan tới báo với vua Lê rằng: “Đã có chỉ truyền tạm cho vương vùng đất Khâm Châu (thuộc Quảng Đông). Chờ đến năm sau vào dịp mùa xuân hoa nở sẽ trở về nước cũng không muộn gì”.

Vua tôi nhà Lê đều không tin.

Tháng ba, mùa xuân năm Tân hợi (1791). Hoà Khôn lập mưu chia đám vua tôi nhà Lê ra mỗi người một nơi để họ khỏi kêu ca, bèn sai Khoa Lan cưỡi ngựa tới nói dối rằng:

– Đã có chỉ truyền cho vương về ở đất Tuyên Quang, vậy các bề tôi cần phải chỉnh đốn mũ áo để cho vương vào triều tạ ơn.

Các bề tôi nhà Lê ở doanh Đông đều tin là thật, bèn theo đến ấn phòng. Khôn sai người lấy khoá sắt khoá luôn lại, rồi dùng xe trâu đưa họ đi ra ngoài ba trăm dặm, an trí Hoàng ích Hiểu ở Y Lê, Lê Hân ở Phụng Thiên, Như Tùng ở Hắc Long Giang, Quốc Đống ở Cát Lâm, Viết Triệu ở Trương Gia Khẩu thuộc Nhiệt Hà, chỉ để một mình Trần Thiện ở lại hầu hạ quốc vương.

Vua Lê nghe tin ấy, lo giận bồn chồn, đến sáng sớm cưỡi ngựa vào nhà Kim Giản, định kêu cho các bề tôi. Vừa lúc ấy, Kim Giản đã vào chầu vua Thanh ở vườn Viên Minh. Vua Lê lập tức ruổi ngựa đi thẳng tới cửa vườn, nhưng đến nơi thì bị lính canh cửa ngăn lại. Người dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, quê ở Bố Vệ, phục xuống đất kêu ầm lên. Bọn người Thanh sợ tiếng kêu gào vang đến chỗ vua Thanh, bèn giật lấy con ngựa của vua Lê, rồi vực luôn cả nhà vua lên xe bắt đến toà Thận Hình giữ lại.

Văn Quyên bèn cất tiếng mắng to:

– Bọn chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta!

Sau đó, Văn Quyên lập tức lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ vườn nổi giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn cũng bắt đến giam ở toà Thận Hình đúng một tháng mới tha cho về. Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà chết.

Lúc bấy giờ, Nguyễn Huy Túc đang lánh ở vùng núi Tản Viên (tức núi Ba Vì ở Sơn Tây (Hà Nội)), nghe thấy việc ấy, cho Văn Quyên là có nghĩa, bèn làm bài “Tán” như sau:

“Trung thay mã đồng! Giỏi thay mã đồng! (người hầu ngựa)

Mến chúa lòng trung nghĩa, theo đuổi việc binh nhung.

Tấc dạ như voi, khỉ (Đường Huyền-tông thường tập cho voi quỳ lạy, lúc An Lộc Sơn cướp ngôi, cũng bắt voi quỳ nhưng voi không nghe. Đường Chiêu Tông có con khỉ biết quỳ lạy; lúc Chu Toàn Trung cướp ngôi, cũng bắt khỉ lạy, khỉ không chịu); một đức như kiến, ong.

Mạnh mẽ như loài gấu; thẳng thắn như chim hồng

Cắt đâm chẳng lánh, hổ doạ cũng xông.

Ngựa trời vung cẳng; hùm sói tranh phong.

Phì nguyền da ngựa (theo ý câu nói của Mã Viện nhà Hán: “Làm trai nên lấy da ngựa bọc thây”. Chỉ việc hăng hái hy sinh nơi chiến trận); để tiếng vô cùng.

Kìa ai đó?

Xiêm bào ngoài mặt; sâu mọt trong lòng.

Ruồi xanh xu nịnh, hươu ngựa gian hùng (thơ “Thương dăng” Kinh Thi ví bọn tiểu nhân như đàn ruồi xanh. Triệu Cao, gian thần nhà Tần, chỉ con hươu mà nói với vua là con ngựa).

Sao chẳng bảo chúng:

Sung làm hẩu ngựa; bắt muỗi giết trùng.

Vậy dám đặt tên cho anh là Trung tráng công!”

Trong lúc vua Lê ở toà Thận Hình, một hôm Hoà Khôn sai người đến doanh Tây, ép thái hậu bảo phải thảo tờ biểu nói rằng: quốc vương tình nguyện ở lại đất Trung Quốc, việc xông vào cửa khuyết và làm huyên náo là tại các người bề tôi gây ra…

Biểu đang thảo thì viên giám thần là Nguyễn Trọng Đắc trông thấy, liền giật lấy bản nháp xé đi và nói:

– Bị người ta lừa dối mà đưa các bề tôi đến chỗ chết thì làm thế nào?

Người Thanh lại bắt ép Trọng Đắc về ở doanh Tây, rồi cấm hai doanh không được tự tiện đi lại với nhau.

Một hôm, con vua Thanh, tước vương thứ sáu, nhân lúc lui triều thư thả, tới nhà Hoà Khôn nói chuyện, có bàn đến việc nước An Nam. Vương nói:

– Vua tôi họ Lê gặp nạn chạy sang nước ta, mà cầu cứu không được, cũng nên thương xót, giúp đỡ họ. Chắc các bề tôi của họ cũng đều là người trung nghĩa. Nay họ không có tội gì mà bắt giam ở đất xa, nước ngoài nghe thấy, họ sẽ bảo Trung Quốc ra sao?

Khôn nói:

– Hoàng thượng đã có chỉ truyền như vậy, việc ấy đức vương không cần phải biết đến!

Vương nói:

– Hoàng thượng tuổi đã già, việc nước đều đo quốc lão đây xử trí; mọi việc đúng hay sai, quan hệ không phải nhỏ. Ta đây sao lại không cần biết!

Khôn vốn cậy thế vua Thanh yêu mến, lại ăn nói vô lễ, khiến cho vương giận lắm, lập tức cầm chiếc bàn cờ đánh Khôn. Cả bọn người ngồi đấy đều đứng dậy khuyên giải, can ngăn, Khôn mới thoát nạn.

Hôm sau, Khôn hậm hực vào kêu với vua Thanh. Vua Thanh tức thì nổi giận lôi đình, sai người đòi vương vào, định tự tay đánh đòn. Viên quan nội các là A Lâm rập đầu xuống đất cố sức can, vua Thanh mới chịu thôi, liền sai người đánh vương ở trước sân điện mười gậy.

Vương lui ra, tức quá thành bệnh. Cách vài ngày, bệnh thêm nặng, vương bèn gọi các vương thứ tám, thứ mười một và thứ mười bảy tới dặn rằng:

– Trong ba em, chưa biết sau này hoàng thượng lập ai? Hễ ai nối ngôi thì phải trừ khử tên gian tướng ấy đi, đừng có để mối lo lại cho xã tắc!

Ba người nghe lời, đều lạy hai lạy xin vâng và lui ra. Sau đó, vương mất.

Từ đấy, vua Lê không còn dám nói đến việc xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất ức không bao giờ nguôi.

Tới mùa hè, năm Nhâm Tý (1792), con đầu của vua Lê lên đậu rồi mất. Nhân thế, vua Lê lo buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng nguy kịch, các bề tôi bị an trí ở những nơi khác đều dâng biểu về hỏi thăm.

Lúc đó, có người gia đồng của Lê Như Tùng tên là Lê Huy Vượng, vì có công hầu hạ khó nhọc, vua Lê cho làm con nuôi, đặt tên là Duy Khang, bảo giữ việc thờ tự hoàng khảo và hầu hạ thái hậu.

Lúc hấp hối, vua Lê gọi các thị thần tới nhận lời trăng trối, nhà vua nói:

– Trẫm gặp phải lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc; phiêu bạt ở đất nước người để hòng tính việc khôi phục, lại bị đứa quyền gian lường gạt; uất ức đến mãi bây giờ, phải ôm hận mà chết, thật do lòng trời gây nên. Sau này nếu các ngươi được về nước, thì nên đèo nắm xương tàn của trẫm cùng về, chôn ở cạnh lăng tẩm của các vị thánh hoàng đời trước, để tỏ rõ chí hướng của trẫm. Các người nên ghi nhớ lấy và nói cho mọi người đều biết.

Các bề tôi đều khóc lạy, xin vâng lời.

Rồi đó vua Lê tắt thở, thọ 28 tuổi. Bấy giờ là ngày 16 tháng mười, mùa đông năm thứ 58 niên hiệu Càn-long nhà Thanh (1792).

Vua Thanh sai dùng lễ quốc công an táng vua Lê ở khu Quảng Lăng, ngoài cửa Tây Trực, đất rộng chừng ba mẫu, xung quanh có giậu ngăn; lại bảo các bề tôi đi theo đều theo lễ mà chế đồ tang trở. Sau đấy, vua Thanh bèn cho Duy Khang nối chức tá lãnh.

Nguyễn Viết Triệu ở Nhiệt Hà, tiếp được tin buồn, liền đặt linh vị làm lễ thành phục, khóc lóc thảm thương, hôn mê luôn mấy ngày, rồi phát bệnh mà chết.

Đến năm đầu niên hiệu Gia-khánh nhà Thanh, tức là năm Bính Thìn (1796), hết trở vua Lê, Thái hậu thấy các bề tôi đi theo, ở nơi đất khách cô đơn khổ sở, mà chưa biết đến ngày nào mới trở về, bèn dâng tờ biểu xin cho các người theo trốn sang Trung Quốc đều được lấy vợ.

Vua Thanh cho phép và ban cho mỗi người tám lạng bạc, 35 đồng tiền lớn để làm lễ cưới, bảo họ ai ở chỗ nào, cứ tuỳ tiện yên phận mà sinh cơ lập nghiệp ở chỗ ấy.

Lại nói, vua Tây Sơn (từ đây, trong bản chữ Hán đều theo quan điểm của triều Nguyễn dùng chữ “Tây nguỵ” để trỏ nhà Tây Sơn) là Quang Toản, tuổi trẻ nối ngôi, Đắc Tuyên chuyên chính đã lâu, hình ngục phiền hà, trong ngoài chia lìa, Bắc, Nam nhốn nháo, lòng người lung lay. Mặt khác, quân của triều Nguyễn (trong bản chữ Hán, từ đây về sau đều dùng hai chữ “hoàng triều” để chỉ triều Nguyễn (Gia-long)) từ năm Mậu thân (1788) đã lấy lại thành Gia Định; năm Canh tuất (1790) lấy lại được hai phủ Bình Thuận và Duyên Khánh. Từ đó trở đi, quân triều Nguyễn luôn luôn tiến đánh mặt bắc, thanh thế rất mạnh. Mười ba thừa tuyên ở Bắc Hà cũng đều nghển cổ để chờ sự trung hưng của triều nhà Nguyễn. Sự bại vong của nhà Tây Sơn, những kẻ am hiểu tình thế đều nhìn thấy rõ ràng, nhưng riêng vua tôi nhà Tây Sơn thì vẫn không biết.

Thật là:

Gặp nước thuồng luồng đà hoạt bát,
ở nhà én sẻ vẫn im lìm

Chưa biết sự thể ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.

Theo điển trong sách Khổng tùng tử, én sẻ ở trên mái hiên, không biết rằng người nhà đã có lửa cháy… ở đây ý nói nhà Nguyễn đã gặp thời cơ như thuồng luồng gặp nước; Quang Toản sắp bị diệt mà vẫn không biết gì cả.
Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái

Hồi 17

Mất thành Thăng Long, vua Cảnh Thịnh bị bắt
Táng lăng Bàn Thạch, Nguyễn Hoàng Phi chết theo

Lại nói, vào năm đầu khi vua Tây Sơn Quang Toản mới lên nối ngôi tức là năm Quí sửu (1793), đại quân của nhà Nguyễn (Nguyễn ánh) cả thuỷ lẫn bộ, từ Gia Định kéo ra đánh vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc ở thành Qui Nhơn. Tướng sĩ của Nhạc đánh mãi đã mệt nhọc, thế lực dần dần cùng quẫn, Nhạc bèn sai người đến chỗ Quang Toản xin quân cứu viện. Quang Toản hợp các tướng mà bảo rằng:

– Ta nghe nói “môi hở răng lạnh, môi còn răng ấm”, nay vua bác có nạn mà sức chống giữ kém cỏi, không thể không cứu.

Rồi Toản cho đô đốc Nguyễn Diệu làm chức đại tổng quản, dẫn quân vào Nam cứu Nhạc. Quân chúa Nguyễn lại rút về.

Tháng 8 năm ấy, Nhạc mất, con cả là Quang Thiệu lên nối ngôi. Nhân thế, Diệu chia quân giữ lấy thành. Tiếng là cứu viện, nhưng thực ra là thôn tính ngấm ngầm.

Năm sau, tức là năm Giáp Dần (1794), Quang Toản lại sai Đắc Trụ (có sách chép Đắc Thân, là con Đắc Tuyên) làm chức tán nghị, đi vào Qui Nhơn cùng với Quang Thiệu trấn giữ thành ấy và lấy Nguyễn Diệu làm thống suất, lĩnh đại quân tiến đánh thành Nha Trang. Từ Lê Văn Trung trở xuống, tất cả bảy tướng đều được gia phong làm tước quận công quản binh và nghe theo lệnh chỉ huy của Diệu. Diệu tiến sát thành Nha Trang, mà quân tuần tiễu thì đã đến tận địa phận tỉnh Bình Thuận. Quân nhà Nguyễn hết sức chống giữ khiến Diệu không thể thắng nổi. Hồi đó, quân Tây Sơn luôn luôn đến xâm lấn miền Nam, hai bên chống chọi với nhau đến hàng năm.

Thình lình Diệu nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở đều bị bọn tư đồ Dũng và thái bảo Hoá giết chết, bèn vội vàng kéo quân về, họp bàn cùng bọn tướng tá, định dùng quân lực bắt hiếp bọn Dũng.

Nguyên từ năm Quang Toản mới lên ngôi tới khi ấy, Đắc Tuyên thì chuyên quyền, còn Văn Sở thì trấn giữ thành Thăng Long, coi hết việc quân, dân, rồi được thăng chức đại tổng lý, tước quận công. Năm ấy Quang Toản lại sai đại tư đồ Dũng ra coi binh mã bốn trấn ở miền Bắc. Dũng đến nhà trạm Hoàng Giang, gặp trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ phạm tội bị đày ở đó. Dũng cùng ngủ đêm với Kỷ, Kỷ bèn nói với Dũng rằng:

– Quan thái sư (chỉ Đắc Tuyên) chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm phúc, lại đẩy ông ra ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn giữ được đầu chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi, sau này ăn năn sao kịp?

Dũng vốn tin và trọng Văn Kỷ, bèn cho lời Kỷ là phải. Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ gấp đường quay về, hợp mưu với thái bảo Hoá, bắt phe đảng Đắc Tuyên bỏ ngục; lại sai người vào Qui Nhơn bắt Đắc Trụ và sai đô đốc Hài ra thành Thăng Long lập mẹo bắt Ngô Văn Sở đưa về, rồi thêu dệt thành tội trạng làm phản mà đem dìm xuống nước cho chết hết.

Quang Toản không thể ngăn chặn nổi, đành chỉ khóc lóc mà thôi. Sau đó, Dũng lại sai Hoá vào giữ thành Qui Nhơn.

Chẳng mấy chốc, Diệu ở Nha Trang nghe tin, đêm ngày lo nghĩ, chỉ sợ vạ lây đến mình, bèn bảo các tướng rằng:

– Chúa thượng không cương quyết, đại thần giết lẫn nhau, tai biến không gì lớn hơn thế nữa. Nay hãy kéo về để dẹp yên cuộc phiến loạn ở bên trong, rồi sau lại vào đánh giặc cũng được.

Các tướng đều nói:

– Xin theo mệnh lệnh!

Ngay hôm ấy Diệu giải vây cho thành Nha Trang rồi kéo quân về thành Qui Nhơn. Hoá nghe tin, đến tạ tội trước. Diệu lờ đi không hỏi. Về tới làng Yên Cựu (ở phía nam thành phố Huế, trên bờ sông Hương (Bình Trị Thiên)), Diệu đóng quân ở bờ nam sông. Dũng cùng bọn nội hầu Tứ thì đem bản bộ đóng ở bờ bắc sông, mượn mệnh lệnh của nhà vua để chống lại với Diệu.

Quang Toản sợ lắm, phải sai bọn trung sứ qua lại vỗ về, hoà giải, Diệu mới chịu đem bọn tả hữu vào yết kiến Quang Toản và giảng hoà với bọn Dũng; kế đó Diệu lại xin gọi Hoá về và xin cho Lê Văn Trung thay chân Hoá, trấn giữ thành Qui Nhơn.

Lúc đó, bọn người ở bên cạnh Quang Toản ngày đêm gièm pha rằng, oai quyền của Diệu lớn quá, đang toan có mưu khác. Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Diệu, chỉ cho giữ một chức quan vào hàng thị thần mà thôi. Bình sinh Diệu vốn tương đắc với Lê Văn Trung, bèn gửi thư mật vào Qui Nhơn, hẹn Trung cất quân lập Quang Thiệu làm vua mà bỏ Quang Toản. Trung theo lời, bèn kéo quân về, đồng thời xin Quang Thiệu thân đem quân tiếp ứng phía sau.

Quân Trung về đến Quảng Nam, trong ngoài nhốn nháo sợ hãi. Quang Toản họp các quan lại bàn bạc, mọi người đều nói:

– Bảo Văn Trung lui quân, phi Diệu không ai làm được!

Quang Toản liền sai Diệu đi. Văn Trung không báo trước với Quang Thiệu mà một mình một ngựa theo Diệu về yết kiến Quang Toản. Quang Thiệu nghi ngờ, sợ hãi, lập tức rút quân và voi về thành Qui Nhơn, đóng chặt cửa thành để cố thủ.

Quang Toản sai tướng đến đánh liên tiếp mấy tuần không hạ được, bèn tự mình làm tướng đem quân đi. Đến Lê Giang, có viên thái phủ tên là Mân nói với Toản rằng:

– Cuộc biến loạn Quang Thiệu thực do Văn Trung gây nên, tội không thể tha, xin giết ngay để răn kẻ khác.

Quang Toản cũng cho là phải, bèn sai vời Trung vào dinh, bảo võ sĩ trói lại đem chém. Sau đó, Toản vỗ về tướng sĩ, hạ lệnh tiến đánh Qui Nhơn, mười ngày hạ được thành, bắt sống được Quang Thiệu. Toản bèn để Mân ở lại giữ thành Qui Nhơn, rồi cùm Quang Thiệu đưa về, dùng thuốc độc giết chết.

Nhà Tây Sơn kể từ khi Văn Nhạc, chiếm giữ Qui Nhơn vào năm Mậu Tuất (1778), tức là năm thứ 39 niên hiệu Cảnh Hưng, thì tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái Đức; năm Canh Tý (1780) lại xưng hoàng đế, lập Quang Thiệu làm thái tử. Năm Quý sửu (1793), Nhạc mất, Thiệu lên nối ngôi, được năm năm, đến năm Mậu Ngọ (1798) thì mất nước, tất cả là 21 năm.

Lại nói, sau khi Văn Trung bị Quang Toản giết, con rể Trung là Chất nghi ngờ, sợ hãi, bèn phản Tây Sơn, vào Nam đầu hàng chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Nguyễn cho coi quân ngự lâm.

Nguyên lúc đầu, Chất thờ Quang Toản, giỏi về tài đánh dẹp, làm đến chức đại đô đốc. Đến khi Văn Trung chết, Chất bỏ quân lính chạy trốn. Thái phủ Mân sợ Chất làm loạn, liền lùng bắt rất gấp. Chất có người đày tớ nghĩa hiệp hoá trang như hình dáng của Chất, rồi tự tử ở khe núi, để cho Mân thôi, không lùng bắt Chất nữa. Chẳng bao lâu, Mân biết là giả dối, bèn treo giải thưởng truy lùng Chất hết sức ráo riết. Chất bất đắc dĩ phải ra thú ở cửa quan của Mân. Mân liền sai Chất coi toán quân tiền phong, để chờ sai phái, và định bụng dùng quân luật mà giết chết. Chất biết ý ấy, bèn dỗ bọn tướng tá của y, gồm sáu mươi người, đem quân và voi vào Nam, dâng biểu xin hàng. Sau Chất vâng mệnh chúa Nguyễn đem quân đánh nhau với Mân. Quân Mân thua to, Mân phải chạy vào núi rừng mà trốn; quân, voi, khí giới đều bị Chất thu sạch.

Quang Toản nghe tin, lại sai đại tư đồ Vũ Tuấn dẫn binh tới trấn, chiêu tập tàn quân để đóng giữ.

Đến năm Canh Thân (1800), quân chúa Nguyễn vượt biển ra đánh, sức Tuấn chống không nổi, dâng thành xin hàng. Chúa Nguyễn bèn đổi thành Qui Nhơn làm trấn Bình Định, sai quan coi hậu quân là Tính quận công Võ Đình Tính (cũng thường gọi là Võ Tính) đem quân đóng giữ, còn thượng thư bộ Lễ là Ngô Tòng Chu thì làm chức hiệp trấn.

Được vài tháng, Quang Toản sai thống suất Diệu và tư đồ Dũng đốc suất các đạo quân thuỷ bộ vào đánh Qui Nhơn. Diệu coi quân bộ, Dũng coi quân thuỷ, hai đạo hợp sức mà đánh. Quân Nguyễn hết sức chống giữ bọn Diệu không thể đánh thắng. Dũng bèn dùng ba chiếc tàu chiến lớn, chặn ngang cửa biển Qui Nhơn, trên tàu lập chòi gác, đặt súng lớn; phía trong lại dàn quanh vài trăm chiếc chiến thuyền, đốc thúc quân thuỷ canh giữ đề phòng quân cứu viện ở ngoài đến.

Năm sau, bị quân Nguyễn đánh tan, tàu lớn và chiến thuyền đều bị thiêu huỷ. Dũng lên bộ, dẫn tàn quân mà chạy, rồi hợp quân với Diệu.

Quân Tây Sơn đã mất đường thuỷ, bèn đắp luỹ đất, ụ đất ở xung quanh thành Qui Nhơn, để đứng trên đó mà bắn vào thành; lại lập nhiều đồn trại kiên cố, chứa chất quân lương, làm kế ở lâu. Nhưng quân Nguyễn canh giữ rất cẩn mật, bọn Diệu không sao hạ được thành. Quang Toản rất lấy làm lo.

Lúc ấy lại có bọn cha cố của đạo Gia-tô tây dương (tiếng dùng để gọi các nước phương Tây nói chung) ở trong nước Nam, đi khắp nơi dụ các đạo đồ làm loạn. Các nơi nổi lên như ong, Quang Toản liền sai bắt bọn trùm trưởng của họ đem giết chết, rồi triệt hạ các nhà giảng, phá huỷ các ảnh tượng và đốt các sách tây của họ. Hễ bắt được đồ đảng của họ, lại bắt phải giẫm chân lên ảnh thì mới tha, ai không chịu thì bắt sung quân nuôi voi, cắt cỏ cho voi ăn. Bởi thế, giáo dân tức giận, càng xui giục lẫn nhau, đâu đâu cũng đều náo động.

Còn quân nhà Nguyễn thì hàng năm ra đánh, thanh thế lừng lẫy. Mỗi khi gió nam nổi lên, thì nhân dân các trấn lại nói với nhau: “Chúa cũ ra đấy!” (bấy giờ hàng năm cứ đến khoảng tháng 4, tháng 5 khi gió nam thổi mạnh thì Nguyễn ánh đốc quân thuỷ bộ ra đánh, đến lúc có gió mùa đông bắc thổi thì lại rút quân về. Người đương thời thường gọi những đợt tấn công như vậy là những trận “giặc mùa”. Bọn sĩ phu phản động chống Tây Sơn và ngả theo Nguyễn ánh mới nhân đó, đặt ra câu ca dao: Lạy trời cho chóng gió nồm, Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm trẩy ra).

Lúc đó, nhà Nguyễn cho rằng tướng mạnh và quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều tụ họp cả ở Qui Nhơn mà Quang Toản ở thành Phú Xuân thì quân lính phòng giữ rất yếu ớt, bèn đốc suất hết thuỷ quân và trên một ngàn chiến thuyền, hẹn ngày thuận theo gió nam vượt biển ra phía bắc. Cờ quạt chói nắng, chiêng trống vang trời, xông thẳng vào đánh cửa Thuận An. Tướng Tây Sơn là phò mã Trị đem hết quân lính chống giữ, địch không nổi, phải tan vỡ. Quang Toản nghe tin, lại đốc hết tướng sĩ, tự mình cầm quân tới đánh nhau với quân Nguyễn. Gần trưa, quân Toản đại bại, vỡ chạy tan tác. Quân chúa Nguyễn bèn tiến lên, chiếm lại đô thành. Hôm đó nhằm vào ngày mùng 3 tháng năm, mùa hè năm Tân dậu (1801), tức là năm thứ 24, kể từ khi chúa Nguyễn ánh quyền giữ việc nước.

Sau khi thua trận, Quang Toản rụng rời hoảng hốt, liền thay đổi đồ mặc, cùng vài người quan hầu, cưỡi ngựa chạy trạm, chạy ra miền Bắc. Đến Nghệ An ở lại vài ngày, rồi lại ra Thăng Long hộ họp tướng sĩ, lo việc chống giữ. Tháng sáu mùa hè năm ấy, thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin lầu Rồng ba tầng ở đấy tự dưng đổ sụp. Những người nghe tin đều cho là điềm chẳng lành.

Sang đầu mùa thu, quan nhà Nguyễn là Tường quang hầu cùng Thuỵ ngọc hầu vâng chỉ đem quân theo hai đường Hương Sơn và Trấn Ninh ra đánh, để quấy rối trấn Nghệ An. Nguyễn Thận sai tướng đón đánh, quân của Thận luôn bị thua. Sau vài ngày, Tường quang hầu vì lũ lụt không thể ở lâu, bèn đem thuyền cũ cắm ở cửa sông vùng Hương Sơn, đầu và đuôi thuyền bện cỏ làm hình quân lính, cho mặc áo giáp cầm kích, trong thuyền đắp vài đĩa đèn để cho quân Tây Sơn nghi ngờ, rồi nhân lúc đêm tối đem quân bản bộ cưỡi thuyền nhẹ xuôi dòng xuống phía đông, ra cửa Nam Giới, vượt biển mà về Nam. Đến khi quân Tây Sơn biết thì quân của Tường quang hầu đã đi được hai ngày rồi. Thuỵ ngọc hầu cũng từ Trấn Ninh rút quân theo đường mạn ngược mà về kinh sư.

Ngày tháng tám năm ấy (1801), Quang Toản ở Thăng Long, xuống tờ dụ vỗ về quân dân các trấn, và đổi niên hiệu Cảnh Thịnh làm năm đầu niên hiệu Bảo Hưng. Tháng mười một mùa đông năm ấy, Quang Toản thân hành đem quân và voi của bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và hai trấn Thanh Hoa, Nghệ An vào đánh, nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh thua, lại phải rút về.

Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1802), quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chánh. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng năm mùa hè năm ấy (1802), chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long, ban tờ dụ ra cho quân dân Nam Hà, Bắc Hà đều biết.

Nguyên từ năm 49 niên hiệu Cảnh hưng, tức là từ năm Bính ngọ (1786) trở về sau, nhà Nguyễn vẫn dùng niên hiệu cũ của nhà Lê.

Năm Nhâm Tuất (1802) này, lúc đầu cũng vẫn còn gọi là năm Cảnh-hưng, đến bây giờ mới đổi ra niên hiệu mới.

Bấy giờ, trong thành Qui Nhơn hết ăn, quan quân đều đói mệt. Viên tham tán là Ngô Tòng Chu uống thuốc độc chết trước. Tính quận công cũng tự đốt mà chết. Tướng sĩ hơn vài vạn người đều ra thành xin đầu hàng. Diệu bằng lòng nhận cho hàng.

Sau khi vào thành, Diệu lập tức bàn với bọn tướng tá đem quân về đánh kinh thành (Phú Xuân (Huế-Bình Trị Thiên)). Qua vài ngày, Diệu đem quân ra khỏi địa giới trấn Qui Nhơn thì bị viên phó tướng của nhà Nguyễn là Đắc lộc hầu chặn lại. Nguyên từ năm ngoái, sau khi nhà Nguyễn lấy lại kinh thành, liền sai Đắc lộc hầu tới đó lập đồn cắm trại để ngăn chặn sự tiến công của quân Tây Sơn. Lúc ấy, Diệu đem quân về qua đó, đánh phá hàng nửa ngày mà không thể hạ được. Quân Diệu bị quân nhà Nguyễn bắn sang, người chết và người bị thương gối nhau mà nằm. Diệu chẳng biết làm thế nào, bèn đem quân và voi dọn núi mở đường đi vào địa giới nước Ai Lao, định ra Nghệ An. Chúa Nguyễn nghe tin, lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc.

Ngày 28 tháng năm, quân thuỷ của nhà Nguyễn đi tới cửa biển Đan Nhai thuộc trấn Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long, nổ ba tiếng súng rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn kinh sợ, bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân, rồi kéo cờ phấp phới. Viên trấn thủ của Tây Sơn là Nguyễn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Đại, thiếu uý Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Triêm tự thắt cổ; còn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Thế là quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An.

Diệu ở Qui Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã tan vỡ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long, do đường phía trên huyện Nam đường chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi theo, bắt sống được Diệu.

Ngày tháng sáu, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em Quang Toản là đốc trấn Bàn cùng bọn Thận, Đằng đều đầu hàng.

Ngày 18, vua Gia Long tiến ra Thăng Long, truyền lệnh cho các quân đánh thành, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Quang Toản bỏ thành cùng với em là Quang Thuỳ và bọn đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau, Thuỳ và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn Quang Toản cùng các bề tôi thì đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi đưa đến trước cửa quân. Bọn quan lại ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không một ai dám chống lại. Quân Tây Sơn đến đấy là hoàn toàn bị dẹp tan.

Vua Gia Long ở lại thành Thăng Long, hạ chiếu kêu gọi nhân dân yên ổn làm ăn, chia đặt quan văn, quan võ ở các trấn: lại vời các quan văn, võ nhà Lê và các bậc kỳ lão, hỏi về công việc ở Bắc Hà; tha bớt thuế khoá, phu phen, bãi bỏ mọi sự phiền hà, chiếu theo sổ đinh cũ của nhà Tây Sơn cứ bảy suất đinh kén một người lính, rồi lập ra các quân năm doanh và mười cơ.

Vài tháng sau, vua Gia Long về kinh đô Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem bọn vua tôi Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết (theo Đại nam thực lục chính biên, thì Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nhạc, Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác để giết chết. Còn Huệ, Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm vố vĩnh viễn trong ngục thất). Từ đấy Nam, Bắc yên vui, cõi bờ chung hiệp, cơ đồ sẽ thống nhất muôn đời vậy.

Lại nói, từ khi thái hậu nhà Lê chạy sang Yên Kinh, ở tại “Tây An Nam doanh” được bốn năm thì cháu đầu (tức con trai cả của Chiêu Thống) mất, năm năm thì vua Lê mất. Những người đi theo đều bị Hoà Khôn đưa đi các nơi khác, chỉ còn thái hậu và Duy Khang ở lại Yên Kinh mà thôi. Tấc lòng cố quốc tha hương, tơ sầu muôn mối; mưa xuân sương thu, mấy độ thở than. Thái hậu với các thị thần thường muốn dâng biểu xin về nước, nhưng vì đất nước đang bị Tây Sơn chiếm cứ, lại đành phải ngậm sầu mà thôi.

Ngày 11 tháng mười, mùa đông năm thứ tư, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm Kỷ vị (1799), thái hậu lo buồn thành bệnh, mất ở “Tây An Nam doanh”. Vua Thanh giáng chỉ sai quan bộ Lễ trông coi việc tang, và đem di hài quàn tạm ở cạnh lăng vua Chiêu Thống.

Trước đó, từ năm ất Mão (1795), tức năm thứ 60 niên hiệu Càn-long, vua Thanh đã truyền ngôi cho con thứ 11, tức là vua Gia Khánh. Sau khi lên ngôi, vua Gia Khánh bèn tôn vua Càn Long làm thái thượng hoàng. Bấy giờ vua Gia Khánh nghĩ lại lời dặn của anh, tức là vương thứ sáu, định giết Hoà Khôn, nhưng vì Hoà Khôn là người được thượng hoàng yêu mến, nên vẫn chưa dám hạ lệnh giết.

Đến mùa xuân năm ấy, thượng hoàng mất, vua Gia Khánh liền sai bắt Hoà Khôn, ép buộc hắn phải tự tử, đồng thời tịch thu hết thảy gia tài của hắn.

Sau khi giết Hoà Khôn, nhân tiện bàn đến việc vua cũ của nước Nam, vua Thanh cũng tỏ vẻ thương hại, bèn vời các bề tôi của nhà Lê bị an trí trước kia, cho vào ở trong xưởng Lam thần, ban ơn rất hậu, đầu tóc, quần áo đều cho được tuỳ tiện.

Năm Quý Hợi (1803), năm thứ tám niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm thứ hai niên hiệu Gia Long ở nước ta; lúc đó đã dẹp yên xong quân Tây Sơn, nhà Nguyễn bèn sai sứ thần sang nhà Thanh, dâng biểu trần tình và xin phong vương. Các bề tôi cũ của nhà Lê nghe tin, liền làm tờ bẩm trình với quan nội các, xin đem linh cữu của vua cũ và thái mẫu về nước an táng. Viên quan nội các đem việc ấy tâu lên.

Năm Giáp Tý (1804), vua Thanh giáng chỉ cho đưa di hài của vua Chiêu Thống về táng ở quê nhà và cho các người bề tôi trốn theo đều được về nước; lại truyền xuất tiền công cấp cho viên tá lãnh mười lạng bạc, viên kiêu kỵ tám láng, còn từ lãnh viên trở xuống thì kể cả đàn ông đàn bà, mỗi người lớn được năm lạng, mỗi người nhỏ được ba lạng; đồng thời bảo các tỉnh dọc đường phải giúp đỡ và tiễn đưa họ ra cửa ải.

Tháng giêng năm ấy, các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống thì thấy da thịt đã nát hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi. Tính từ khi quàn đến bây giờ đã mười hai năm. Ai trông thấy cũng đều lấy làm lạ và than thở. Rồi đó, họ lại lượm di hài của thái hậu và con đầu của vua. Cả di hài của Viết Triệu và Văn Quyên cũng được đưa về theo.

Ngày 13 tháng 8 mùa thu năm ấy, di hài vua Lê đưa về đến cửa ải. Hoàng phi là Nguyễn Thị Kim nghe tin, liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy, hoàng phi tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống một chén hồ, vật vã bên linh cữu mà khóc lóc. Ngày 23 tháng 8 di hài đưa về đến Thăng Long, các quan dựng rạp tế ở nhà Diên tự công. Hằng ngày hoàng phi chỉ nhấm vài đốt mía mà thôi.

Ngày 12 tháng 10, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim vẫn còn y nguyên.

Tế xong, hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết và nói với Diên tự công rằng:

– Ta nhẫn nhục vất vả đã mười lăm mười sáu năm trời nay, trong những ngày ấy không phải là không dám chết, chỉ vì thái hậu, vua ta, con ta vẫn ở bên Trung Quốc, âm tín không thông, còn mất không rõ, nên ta còn chờ đợi một chút. Nay thái hậu cùng vua ta đều mất, con ta cũng chết, linh cữu đã về đến nước nhà thế là việc của ta xong rồi, ta phải chết theo để hầu bên lăng tẩm mới phải.

Rồi đó, hoàng phi liền uống thuốc độc tự tử. Ai nghe tin ấy cũng đều thương xót. Sứ thần Trung Hoa bấy giờ đang ở đấy cũng than thở, ngợi khen mãi.

Ngày 13, các quan lại sắm quan khách khâm liệm cho haòng phi, rồi ngày 28 cùng rước xuống thuyền đưa về trấn Thanh Hoa.

Ngày 24 tháng 11, các quan làm lễ an táng vua Lê, thái hậu, hoàng phi, con vua ở cạnh lăng vua Hiển-tông, trên núi Bàn Thạch (thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá). Hai quan tài của Nguyễn Viết Triệu, Nguyễn Văn Quyên cũng táng theo ở gần đó.

Trước đây, khi di hài vua Lê đưa về đến ải Nam Quan, Duy Khang bái biệt trước linh cữu rồi đi về nẻo Lạng Sơn. Còn viên trấn thủ cũ của xứ Kinh Bắc là Lê Hân về đến Thanh Hoá thì bị bệnh chết. Vợ Hân là người Trung Quốc đưa quan tài chồng về tại quê chồng ở làng Nộn Hồ (tục gọi là làng Non Hồ), huyện Nam Đường, trấn Nghệ An, tìm họ hàng nhà chồng để làm lễ an táng. Rồi nàng ở lại, không về Trung Quốc; lấy người cháu trong họ chồng làm con kế tự giữ tiết trọn đời, đến 80 tuổi mới mất.

Các bề tôi theo vua Lê lúc đó đều về quê quán. Chỉ có Trịnh Hiến lại ra làm quan với nhà Nguyễn; rồi sau về làng, vì việc tài sắc bị kẻ thù giết chết.

Sau khi hoàng phi đã chết theo vua Lê, người khắp cả nước ta và người Trung Quốc đều khen là bậc tiết nghĩa.

Có người làm bài “Tiêu cung tuẫn tiết hành” (bài trường ca về người cung phi chết theo vua) để lưu truyền đời sau, lời rằng:

“Đất Thuận An cạnh sông Thiên Đức, (tức sông Đuống)

Người đời xưa gọi ấp Tỳ Bà.

Khúc tỳ mượn ý đặt ra,

Trời sinh người đẹp sánh hoa Đại-đề (tên một khúc ca trong Cổ nhạc phủ, ca ngợi người con gái đẹp như hoa. ở đây mượn tên đó để chỉ người con gái đẹp)

Khí tươi tốt nhóm về khuê tú,

Năm Cảnh hưng ất-dậu mừng sao,

Nhà sang sinh bậc nữ hào,

Công, dung, ngôn, hạnh vẻ nào kém đâu.

Tuổi mười bảy kén vào cung khuyết,

Bính ngọ liền sớm biết điềm hùng (điềm con gấu; thơ “Tư can” Kinh Thi nói nằm mộng thấy con bi con hùng (gấu) là điềm sinh con trai)

Ơn trên cao cả muôn trùng,

Đượm nhuần mưa móc phúc hồng chứa chan,

Năm đinh vị Tây Sơn khởi biến.

Cảnh phong trần chợt đến khôn lường.

Ngoài thành giong ruổi xe hương,

Quân hầu tan tác, bàng hoàng bên sông.

Vó ngựa lạc Văn phong mấy độ,

Theo từ vi (trỏ mẹ vua) đến Võ Nhai sơn.

Quần Hồng lận đận núi ngàn

Liễu bồ phải chịu muôn vàn long đong,

Xa trông đợi tin rồng vắng bặt,

Chốn nhàn đình nước mắt chứa chan.

Bỗng đâu tiếng trống nổi ran,

Tướng Cao Bằng rước xe loan lên đường.

Tới Mục Mã vội vàng nghỉ lại,

Thuyền vua giong lên ải Phất Mê.

Địch nghe tin, kíp đuổi kề,

Tên bay đạn lạc bốn bề rối ren.

Bè một mảng qua phen kinh hãi,

Bao hiểm nghèo rồi lại bình yên.

Vin cây giẫm đá trèo lên,

Mưa mù lam chướng đầy trên một trời.

Dân sở tại chào mời, đưa dắt,

Gập ghềnh theo lối tắt đường ngang.

Hết đường, tới núi, vào hang,

Giếng thơm trong suốt, nước đang dạt dào.

Biết động ấy thuở nào đào đục?

Mà hôm nay hưởng phúc thần tiên!

Nước ngàn rau núi cũng yên,

Chim kêu, hoa rụng, nỗi buồn tạm khuây.

Trong nội địa (chỉ Trung Quốc) tin đâu bay đến,

Quan trên liền sai khiến người sang.

Trước sau căn vặn tỏ tường,

Long Châu tạm đón dọc đường nghỉ chân.

Cấp phẩm vật mọi phần tươm tất,

Lính đưa đường cẩn mật, tận tình.

Rồi cho đến ở Nam Ninh,

Cửa nhà rộng rãi quán đình nghiêm trang.

Dù Nam, Bắc, đôi đường chua xót,

Lễ nghi thường chưa chút đơn sai,

Một niềm từ huấn vâng lời,

Tiêu phòng (phòng ở của cung phi có trát hồ tiêu vào vách cho ấm; đây chỉ vợ vua) giữ lễ trong ngoài phân minh.

Nhờ thượng quốc đề binh cứu viện,

Muôn dặm xa đưa đến tin vui,

Về Nam cờ quạt rợp trời,

Vườn xưa điện cũ sáng ngời vẻ xuân.

Tiếng đàn, trống muôn phần rộn rã,

Cảnh cỏ hoa thoả dạ lâu nay.

Nào ngờ vạ gió tai bay,

Buồn vui chốc lát đổi thay khôn lường

Trên ngự giá vội vàng ra ải,

Từ vi và cháu dại cùng đi.

Não lòng thay lúc biệt ly,

Bỗng dưng kẻ ở người đi rã rời.

Sang phía tây tìm nơi lẩn tránh,

Cảnh chơ vơ, cô quạnh, đau thương.

My, Ngu xưa cũng một phường (Mỵ Châu, vợ Trọng Thuỷ; Ngu Cơ, vợ Hạng Võ; cả hai người con gái đều chết trong cảnh loạn lạc, rồi Mỵ Châu hoá thành viên ngọc, Ngu Cơ hoá thành cỏ thơm),

Ai làm nên nỗi dặm đường gian truân.

Xưa nhà Hạ có lần suy bại,

Một lữ, thành dấy lại cơ đồ.

Giáo gươm thượng quốc giùm cho,

Nằm gai nếm mật vua lo đủ điều.

Ví xã tắc có nhiều người giỏi,

Phận thuyền quyên đâu phải gian nan.

Khoảng năm quí sửu đồn sang,

“Chầu trời” tin ấy bàng hoàng một phen (chỉ vào tin Chiêu Thống chết).

Nghĩ vì lẽ dân đen mong mỏi,

Nên Tây Sơn kia nói sai ngoa,

Đến khi vận mở nước nhà,

Sứ thần sang, mới biết là không sai.

Ví ngọc nát, về nơi chín suối,

Hương hồn khôn bạn với tiên quân (hai câu này ý nói, nếu hoàng phi chết trước di thì hương hồn không được làm bạn với vua Lê, lúc đó thi hài còn ở Trung Quốc).

Mười sáu năm, biết mấy lần,

Rắp theo Tôn muội làm thân chết chìm (Tôn muội tức em gái Tôn Quyền và là vợ Lưu Bị đời Tam quốc. Tôn muội bị anh bắt về ở bên Giang Đông; lúc Lưu Bị đánh Giang Đông bị hại, có tin đồn Lưu Bị đã chết, Tôn muội bèn nhảy xuống sông tự tử. – ở đây ý nói hoàn cảnh chưa cho phép Lê Hoàng phi chết được như Tôn muội).

Khiến gia thuộc dò tìm mấy độ,

Lên ải quan hỏi rõ nguyên nhân.

Thề sang tới mộ cố quân,

Quyết liều tính mệnh với khăn lụa là.

Sống là khó, xưa đà có biết,

Nào hay đâu muốn chết cũng gay.

Cơ trời sao khéo vần xoay,

Quan trên đã lấy việc này tâu lên.

Cho về nước, vua liền có chỉ,

Tiết Trung thu, Giáp Tý vừa qua.

Vội vàng lên đón linh xa,

Cháo cơm biếng nuốt, mặt hoa võ vàng.

Thuyền đủng đỉnh Lô Giang qua bến,

Kiệu toàn che, rước đến từ đường.

Thần liêu dâng chén quỳnh tương,

Trông lên, trăm họ đôi hàng lệ sa.

Tình khuê phụ thật là khó vẽ,

Rửa nước thơm làm lễ gọi là.

Mở quan, cúi mặt nhìn qua,

Chắp tay vái lạy lệ nhoà hai mi.

Cầm thuốc độc thầm thì từ tạ

Lui vào màn uống cả một hơi,

Trẻ già ai nấy rụng rời,

Triều đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương.

Ban gấm vóc bạc vàng phúng viếng,

Bao vần thơ lên tiếng ngợi khen.

Khen thay! một chết phỉ nguyền,

Thơm tho muôn thuở con thuyền thanh danh,

Kìa khuê các ngọc lành hiếm có,

Sá chi luống mộ vũ triêu vân (mộ vũ triêu vân: Chiều mưa sớm mây. Nguyên ở tích Sở Tương Vương đi chơi Vân-mộng, nằm mơ thấy một thần nữ chung chăn gối với mình, khi từ biệt có nói rằng: Nhà thiếp ở phía nam non Vu, sớm làm mây chiều làm mưa… Sau người ta thường dùng chữ “mây mưa” để chỉ việc trai gái giao hoan. – ở đây ý nói không thiết gì đến chuyện ái ân nữa).

Đai vàng nọ đứa nịnh thần,

Một đời ton hót làm thân gian tà.

Kịp đến lúc sơn hà biến đổi,

Trước quân thù quỳ gối, chắp tay.

Lạnh lòng khi đọc thơ này,

Khác nào roi quất, mặt dày mày ê.

Thân khuê các giúp bề Tiết giáo,

Mặt phấn son phụ đạo Cao hình (tiết giáo, cao hình là việc giáo dục của ông Tiết và việc hình án của ông Cao Dao; hai ông này đều là những danh thần mẫu mực đời vua Thuấn).

So thơ Cù, Cát đã đành (thơ “Cù mộc” và thơ “Cát đàm” trong Kinh Thi, nội dung đều ca ngợi các bà hậu phi nhà Chu),

Trúc Tương vằn đẹp lưu danh muôn đời (tương truyền vua Thuấn chết ở núi Thương Ngô, hai vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến viếng, khóc lóc thê thảm, nước mắt thấm vào các khóm trúc ở xung quanh, thành ra các cây trúc có vằn rất đẹp. Tục gọi là “trúc Tương phi” hoặc “trúc Tương”. Sau hai bà nhảy xuống sông Tương để chết theo chồng).

Người xưa làm việc dễ rồi.

Nay làm việc khó không người đó sao? (hai câu này ý nói, chết ngay theo chồng như hai bà vợ vua Thuấn xưa đã làm, là một việc dễ; còn chịu đựng đau khổ trong một thời gian dài rồi mới chết theo chồng như bà Lê hoàng phi, là việc khó)

Bài này do bề tôi cũ nhà Lê là đồng bình chương sự Tô phái hầu Nguyễn Huy Túc làm.

Tổng trấn Bắc Thành là Thành quận công (tức Nguyễn Văn Thành) đem việc ấy đề đạt lên. Vua Gia Long bèn hạ chỉ ban khen, sai lập đền ở quê hoàng phi, là xã Tỳ Bà thuộc huyện Lang Tài để thờ; cấp ruộng tế và tha thuế khoá cho dân làng ấy để dùng vào việc đèn nhang thờ cúng: lại sai dựng bia khắc chữ để nêu gương tiết hạnh.

Còn các bề tôi đi trốn theo vua Lê thì đến mùa hè, năm Tự Đức thứ 14 (1860), các quan ở Bộ theo lời bàn kê rõ lý lịch, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện Vĩnh Thuận. Thứ tự các bài vị đều sắp đặt theo như lời bàn của Bộ. Chính giữa là linh vị của Trường phái hầu Lê Quýnh đặt thuỵ hiệu là “Trung Nghị”. Bên tả bày linh vị của mười một người, gồm có đề lĩnh Nguyễn Viết Triệu, thượng thư Bút phong Đình Giản, Đinh võ hầu Trần Quang Châu, Trần Danh Kệ, hữu thị lang Nguyễn Huy Diệu, trấn thủ Lê Hân, chỉ huy Lê Doãn Trị, chưởng tứ bảo Lê Quí Thích, Nguyễn Hùng Trung, Lê Tùng, tả tham chính Kinh Bắc, Bình vọng Lê Trọng Trường. Bên hữu bày linh vị của mười một người, gồm có tĩnh nạn công thần Trần Danh án, thanh hình hiến phó sứ Tuyên Quang Nguyễn Đình Viện, nội thị Nguyễn Quyên, Trần Đĩnh, đốc đồng Nguyễn Quốc Đống, Địch quận công Hoàng ích Hiểu; Nguyễn Đình Miên, Đoàn Thận Xưởng võ uý Nguyễn Trọng Du, Lê Thức, Cận quang hầu Phạm Như Tùng. Tất cả hai mươi hai người ấy đều được đặt thuỵ hiệu là “Trung mẫn”.

Ngoài ra, ở phía đông thờ năm người là Nguyễn Ngọc Liễn, Vương Triệu, Vương Chấn Thiều, Tôn Hạp, Lê Diên Định. ở nhà phía tây thờ năm người là Trần Lương, Trần Đăng, Vũ Trọng Dật, Trần Dần, Trần Hạc.

Từ Lê Quýnh trở xuống cộng ba mươi ba người, trên đầu đều đề là “Cố Lê tiết nghĩa thần” (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là “Cố Lê tiết nghĩa từ” (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê). Việc ấy nêu lên ý nghĩa giáo huấn của triều đình, là muốn gạn đục khơi trong và bồi đắp phong tục, khiến cho người sau xem đấy cũng biết rằng: Vì nước, người ta dù có phải chịu khốn khổ trong một lúc mà vinh quang sẽ lưu truyền muôn thuở vậy.

Văn tế thập loại chúng sinh

Văn tế thập loại chúng sinh
của Nguyễn Du
Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn là một số những tác phẩm xuất sắc của thi hào Nguyễn Du (1766-1820). Chép nguyên văn trong Văn tế cổ và kim, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1960.

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
45Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
80Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
125Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hòa tứ hải quần chu,
160Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

Văn tế tướng sĩ trận vong

Văn tế tướng sĩ trận vong (năm 1802)
của Nguyễn Văn Thành
Văn tế tướng sĩ trận vong là một bài văn tế, tương truyền do Tiền Quân Nguyễn Văn Thành soạn và đọc trong buổi lễ truy điệu các tướng sĩ của mình đã mất trong cuộc chiến với quân Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam [1].
Văn tế tướng sĩ trận vong

Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh [2], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay; nước Lô hà chảy xuống Lương giang [3], nghĩ mấy kẻ điêu linh [4] những từ thuở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay! Tình dưới viên mao [5], phận trong giới trụ [6]. Ba nghìn họp con em đất Bái [7], cung tên ngang dọc chí nam nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [8], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích [9] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao [10] trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật [11], chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [12], đã mấy buổi sơn phong hải lễ [13], trời Cao, Quang [14] soi tỏ tấm kiên trinh, rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [15], biết bao phen vũ pháo vân thê [16], đất Lũng, Thục [17] lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [18] theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [19] mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc [20], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương [21]; mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ [22].
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu [23], nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ [24].
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài; những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu [25] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ [26].
Phận dù không gác khói đài mây [27]; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường [28]; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ [29].
Vâng thượng đức hồi loan [30] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh [31] cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang; mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu [32] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có [33].
Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định [34] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [35]; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [36].
Cơ huyền diệu [37] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân [38]; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ [39].
Nguyễn Văn Thành

Chú thích cuối trang[sửa]
▲ Có ý kiến cho rằng bài này do Nguyễn Huy Lượng viết, có ý kiến cho là của Đặng Đức Siêu, nhưng đều chưa có bằng chứng xác đáng (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập III, Nxb Văn học, 1978, tr.592).
▲ Đông Phố là tên cũ thành Gia Định; Sóc Cảnh là cõi Bắc; ý nói từ Gia Định ra tới Bắc Hà (Hà Nội).
▲ Lô hà nhất danh là sông Tuyên, chẩy qua Tuyên Quang, rồi đổ xuống sông Nhị hà. Lương giang tức là Phú Lương giang tên cũ sông Nhị hà.
▲ Điêu linh là tàn rụng, chỉ những người chẳng may chết trận.
▲ Viên là viên môn, cửa dinh (doanh) quan đại tướng; mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân.
▲ Giới trụ là áo giáp, mũ trụ của tướng sĩ.
▲ Vua Hán Cao Tổ ở bên Tàu khi khởi binh ở ấp Bái, họp con em ba nghìn người; đây ví những nguời theo đức Gia Long cũng khảng khái như bọn quan sĩ vua Hán Cao Tổ vậy.
▲ Tên núi ở tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, có tiếng là hiểm trở, chỉ hai trăm người địch nổi hai nghìn người; vua Văn Vương nhà Chu sáng nghiệp ở đấy; đây sánh những người theo vua Gia Long cũng hăng hái như bọn quân sĩ vua Chu Văn Vương vậy.
▲ Cơ đích là hàm thiếc dây cương, ý nói theo vua giữ ngựa. Đây là nói hồi vua Gia Long bị quân Tây Sơn đánh thua phải trốn sang Xiêm La.
▲ Việt mao là cái phủ Việt và cờ tiết mao. Đây là nói hồi vua Gia Long từ Xiêm về thu phục được thành Gia Định.
▲ Điển cũ; vua Câu Tiễn nước Việt khi mất nước thường nằm trên gai, nếm mật đắng để nghĩ kế khôi phục; ý nói chịu nổi khổ sở.
▲ Là Thanh Hóa và Bình Thuận.
▲ Sơn phong là gió núi; khi đức Gia Long đóng ở đảo Côn Lôn, quân Tây Sơn chợt đến vây nguy cấp lắm, bỗng dưng trời nổi bão tố, thuyền Tây Sơn đắm cả, vua mới thoát vây. Hải lễ là nước ngọt ở bể; khi vua Gia Long đương phải chạy trốn ở ngoài bể, hết cả nước ngọt uống, vua mới khấn trời, chợt thấy ở dưới bể có dòng nước ngọt, múc nước uống mới khỏi khát.
▲ Đây ví vua Gia Long cũng như vua Hán Cao Tổ và Hán Quang Vũ là hai ông vua sáng nghiệp trung hưng ở bên Tàu.
▲ Đồn Bàn là kinh đô cũ của người Chiêm Thành, tức là thành Bình Định, Nam, Ngãi là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Phú Xuân là Huế, Thăng Long là Hà Nội.
▲ Là đạn nhiều như mưa, thang cao giáp mây.
▲ Đây ví các thành tỉnh ấy cũng hiểm cố như đất Lũng là Lũng Tây (ở tỉnh Thiểm Tây) và đất Thục là Tứ Xuyên ở bên Tàu.
▲ Điển cũ: Lời Tư Mã Thiên nói: “Người ta ai cũng chết mà cái chết có người nặng như núi Thái, cũng có người nhẹ như nắm lông hồng”
▲ Điển cũ: Lời Mã Viện nói: “Đấng tài trai nên chết ở nơi chiến trận lấy da ngựa bọc thây”; ý nói chết ở chiến trường.
▲ Là nói tối tăm mênh mang.
▲ Là nơi đất khách quê người.
▲ Là chỗ bến đò ngày xưa.
▲ Đoản là ngắn, tu là dài, ý nói kẻ chết non người sống lâu.
▲ Kim là người đời nay, người còn sống, cổ là người đời xưa, người đã chết.
▲ Bóng bạch câu: Điển cũ: đời người thấm thoát như bóng ngựa trắng chạy qua cửa sổ thoáng mắt đã mất; ý nói số mệnh các tướng sĩ ngắn ngủi.
▲ Phế phủ là buồng phổi và phủ tạng trong người.
▲ Điển cũ: vua Đường Thái Tôn bên Tàu vẽ hình công thần treo ở Yên các (gác khói), vua Hán Minh Đế vẽ tranh công thần treo ở Vân đài (đài mây); ý nói tuy không được vinh dự như các bực công hầu danh tướng.
▲ Có công được thêu tên vào cờ cân cờ thường.
▲ Là ơn vua ví như mưa móc thấm nhuần.
▲ Nói xe vua trở về; đây nói vua Gia Long khi đã lấy Bắc Hà rồi trở về Phú Xuân.
▲ Là bốn tỉnh Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi). Thuận Hóa, Nghệ An và Thanh Hóa.
▲ Từ năm 1798 đến năm 1801.
▲ Thủy là lúc đầu, chung là lúc cuối. Ý nói lúc hoạn nạn thì còn sống mà đến lúc thái bình thì đã thác rồi.
▲ Theo chữ (can qua phủ định) việc đánh dẹp vừa yên.
▲ Là vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, hai đời vua thái bình sánh với đời vua Gia Long.
▲ Là vua Thang vua Vũ hai đời vua thịnh trị bên Tàu sánh với đời vua Gia Long.
▲ Máy trời đất xoay vần bí mật và thần diệu.
▲ Ý nói: Nếu sống lại kiếp sau thì nên đến cửa dinh tiền quân mà nhận.
▲ Ý nói: nếu có khôn thiêng thì nên phù hộ nhà vua được thái bình để ngôi vua (ngôi bảo tộ) truyền mãi đến muôn đời về sau.

Bài ca răn cờ bạc

Nào những đấng anh hùng thục nữ,
Bỏ Tài bàn , Đố chữ đi thôi.
Tổ tôm, Xóc đĩa trá rồi
Cải lương nay lại đua vui Ít xì .
Nay đương buổi tranh thi đủng đỉnh,
Ai lanh tay khéo tính thời nên.
Ai mà đi chậm ngủ quên,
Ắt là người phỗng tay trên chẳng còn.
Chẳng trách kẻ phấn son ngu dại.
Chỉ trách người áo dải tu mi .
Cũng người bác lãm thư thi,
Cũng người cách vật trí tri đại tài
Thua thái quá xui nên lắm tệ.
Pháp luật kia chẳng kể vào đâu.
Có quyền ép kẻ đen đầu.
Không quyền liều lĩnh lừa nhau lấy tiền.
Lúc ở ngoài như tiên đẹp đẽ.
Lúc ngồi vào như thể mặt ma.
Được thời vui vẻ cười xoa,
Rung chân hút thuốc như là Phổng ông .
Kẻ thua thấy trong lòng tức giận.
Mặt Phạm Nhan muốn cắn quẩn nhau.
Gãi tai nghiêng cổ lả đầu,
Trong mồm lẩm bẩm rủa nhầu khó nghe .
Mới ngồi vào hả hê thân thiết,
Lúc thua sau ráo riết tận tình.
Bất kỳ kẻ trọng người khinh,
Cha con bạn hữu cũng rình lẫn nhau.
Chẳng phép tắc đuôi đầu chi cả.
Cứ nói năng loạn xạ chẳng kiêng.
Quân bài là khúc ruột liền.
Động vào cà tỏi cà riềng được ngay.
Vợ con trong thò tay đánh ké,
Thầy tớ ngoài gấp ghé chia bài.
Thà rằng xuân nhật đua vui,
Khi làm cũng có khi chơi kể gì.
Nhưng cờ bạc tốt thì năm tháng,
Khi ở nhà khi bạn rủ đi,
Lại thêm xóc đĩa ít xì,
Rủ nhau đi sạn chơi thì đến đông,
Bài ca vợ khuyên chồng đã nói,
Mua mà xem thế thái nhân tình,
Lại còn có việc thình lình,
Quan mà bắt được tù hình thảm thay,
Lại còn kẻ dại nay quá ngốc,
Đem tiền cho thằng khách ăn không,
Nhất là những bạn má hồng,
Nhớ tên đố chữ thuộc lòng chan chan,
………..

Văn tế thuốc phiện

Trước bàn đèn ống điếu mà khóc than rằng:

Ba sinh hương hỏa, cuộc trần hoàn nào mấy mặt tri-âm;

Một phút nhàn du, nghĩa dao-tất dễ quên lòng quyến cố.

Nhớ ngươi xưa:

Quê ở Mãn-châu,

Qua chơi trung-thổ.

Sắc vàng tơ nhỏ, vẹn lưng ong chạy tầu, ấy chính danh là Bạch là Công;

Mình mỏng bọt to, sùi mặt quỉ sa đèn, ấy là của trên Ngâu Tụ.

Tính nguyên thăng tán, trừ phong hàn, quyết giật giải Hiên kỳ;

Vị hữu thanh lương, ôn tỳ vị ắt cướp Công qui phụ.

Thanh giá thì hai thứ khác nhau.

Công hiệu hẫu đôi đường vẫn có.

Kìa những kẻ buôn hương bán phấn, nhờ ôn-hương mà dụ khách phồn hoa;

Bao nhiêu người kế lợi thương công, mượn tỉnh thức để tiện khi tính sổ.

Chốn quyền môn quí khách càng chen,

Đoàn võ-nữ ca-nhi cũng mộ.

Cũng có kẻ giận công danh trắc trở, bạn cùng ngươi cho khuây nợ tang bồng;

Lại có người buồn quê quán xa xôi, chơi cùng ngươi cho khuây miền vân thụ.

Đã quen hơi kiếm chác càng chăm.

Có biết thú sắm sanh mới đủ.

Mùng xuyến lỗ, rèm thêu tam hựu, nệm kim-qui, chăn cù, gối sếp làng xa mã nghênh ngang;

Xe cam-lộ tẩu dạng lục-lặng, bàn tê-giác, tiêm bạc, móc thần, khách tài tình ngang ngửa.

Đèn pha-lê miếng trám miếng huỳnh.

Khay vân-mẫu nhất thi nhất họa.

Năm canh những bạch thơm công nặng, tưởng đến câu « vưu vật di nhân ».

Bốn mùa đều gió mát trăng thanh, sao bằng cảnh « dương xuân triệu ngã ».

Ngọn đèn thay nhật nguyệt hai vừng.

Chiếc điếu hợp long vân mọi vẻ.

Giải khát sẵn đường phèn đường phổi, trè ô-long hương mộc thanh-kỳ;

Nhuận tràng có bánh ngọt bánh bùi, cháo yến-huyết bột đao mát mẻ.

Lúc phong lưu nghĩ cũng nên đời,

Khi nghiện ngập nghĩ ra mà sợ.

Vui anh em một khi một điếu, nếm mùi đời cho đủ thứ mà chơi;

Nào ngờ phát bén phút quen, giục lòng khách đến cơn lại nhớ.

Ho hen ngáp vặt, mặt mũi lư đừ;

Mũi xổ dạ đau, chân tay buồn bã.

Kẻ giật-khách vãng lai thù tạc, bọn hiền-nhân mặc đi sớm về trưa;

Người thường nhân su sự phó công, sợ phép nước cũng ăn không nói có.

Khăn khăn áo áo, cũng nhuộm mùi cầm.

Ruộng ruộng trâu trâu, cũng chui vào lọ.

Gái thuyền quyên nên mặt bủng da chì.

Giai tráng sĩ cũng xo vai rụt cổ.

Kìa những kẻ văn hay võ mạnh, đa mang vào còn xếp bút gác cung;

Huống chi người tài thiển trí ngu, chơi quá độ cũng vong gia thất thổ.

Bẻ gẫy chăn, chuyện cũ trắng không. Ném vỡ váy trò cười còn đó.

Rờ lưng vợ kiếm mười lăm mười tám, tìm tiệm mua thuốc sái cho qua;

Bới đầu giường không quan vắn quan dài, đến bạn xin xảm lần nuốt đỡ.

Cũng có lúc ho hen nên nghiện, thì vùng vằng đập lọ chẻ xe;

Cũng có khi bầu bạn quá vui, lại tấp tửng tiện xe khoét lọ.

Đọc thấy chữ « sát nhân vô kiếm », kẻ tri cơ đã biết phải chừa;

Xem thấy câu « trạch hữu nhi giao », bạn vô ích chơi làm chi nữa.

Rậy nhân:

Tiết tới hạ-thiên,

Tuấn lâm đoàn-ngũ,

Vậy có ngọn đèn chén nước, giãi lòng thỏa với tri-âm;

Gọi là chút kính tấc thành, mời khách tìm về cố quốc. Thượng hưởng.

Khuyên người ăn ở

Trời cao đất dầy,
Con tạo vần xoay.
Ơn trời nhờ thánh,
Sinh được hội này,
Ai là chẳng nức lòng nức dạ,
Ai chẳng mong nở mặt nở mày.
Hậu giả hậu lai, ở hiền gặp lành, mới biết tre già măng mọc.
Ác giả ác báo, ăn mặn khát nước, khác nào cây yếu gió lay.
Trách những người thịt bắp vai u, đường lui tới, lẽ thiệt hơn, ở chẳng trông sau trông trước;
Nào những kẻ mặt hoa da phấn, chí tang bồng, duyên hồ-thỉ, đi cho biết đó biết đây.
Đương cơn bình-địa ba đào, có chí làm nên quan, có gan làm nên giàu, sao chẳng khoe khôn cậy khéo;
Gặp lúc điên liên vận túng, có miệng thì phải cắp, có nắp thì phải đậy, cũng nên giả dại làm ngây.
Của trời mất một đền mười, xin chớ ăn chay nói dối;
Nam-vô một bồ lấy bốn, thà rằng ăn mặn nói ngay.
Vắn cánh với chẳng đến trời, trí thiển tài ngu, vòng danh lợi bon chen sao xiết kể;
Ra tay gạo xay nên cám, văn hay vũ mạnh, buổi kinh luân vùng vẩy cũng ghê thay.
Bò của chú chú phải lo, con vua vua giấu, con chúa chúa yêu, tình ân ái chẳng nhầm chẳng lẫn;
Đèn nhà ai nhà ấy rạng, của anh anh mang, của nàng nàng xách, nợ phong trần này giả này vay.
Chị em ơi, lấy chồng cho đáng tấm chồng, cho bõ lúc nghiền văn sáp, lúc áp thư hương, hai chữ cương thường, sao cho xứng đáng?
Quân tệ nhỉ, lấy vợ chỉ biết mặt vợ, chẳng nhớ ai bể anh-nhi, ai bồng xích-tử, ba năm nuôi nứng, bao quản đắng cay.
Có cha có mẹ như đàn có dây, đạo mẹ đức cha, bể rộng trời cao khôn ví.
Thuận vợ thuận chồng, bể đông cũng cạn, đạo chồng nghĩa vợ, nguồn ân bể ái nào tầy.
Chị ngã đã có em nâng, máu chảy ruồi bâu, lá rách lá lành đùm bọc;
Cha sinh không tầy mẹ dưỡng, áo dày cơm nặng, công nuôi công nứng đêm ngày.
Một cây chẳng nên rừng, đông có mây, tây có sao, đông đúc anh em mới quí;
Mười voi không bát xáo, kẻ nói thánh, người nói tướng, chớ nghe miệng thế thêm rầy.
Trẻ chẳng tha, già chẳng thương, ở chẳng phòng xa, vuốt mặt không nể mũi.
Cha cũng kính, mẹ cũng vái, đi đâu mà thiệt, xẩy vai xuống cánh tay.
Mưa bao giờ mát bấy giờ, chẳng nghĩ lúc rét cắt ruột, lúc đói nhăn răng, may sống chẳng phòng khi cả dạ;
Gió chiếu nào che chiều ấy, để cho nó qua thì đói, nó khỏi thì loạn, thế nào cũng được bữa no say.
Báng đầu thằng chọc, chẳng nể lòng ông sư, cứng cổ cứng đầu, ai xá những phường ngu dại;
Vắng mặt thằng ngô, lúc có mặt ông sứ, lấp mày lấp mặt, chớ nghe người nói xưa nay.
Giặc bên ngô, cô bên chồng, liệu gió phất cờ, đường cư xử sao cho trọn vẹn;
Cháu bà nội, tội bà ngoại, vị cây dây quấn, lẽ phải chăng nào dám đổi thay.
Giàu đâu ba họ, khó đâu ba đời, đói cho sạch, rách cho thơm, cứ giữ công bình cho phải đạo;
Sống người một nết, chết người một tật, mẹ sinh con, giời sinh tính, há rằng số phận có ưa may.
Thiếu chi kẻ dở người hay, ai là người dạy bảo, ai đem đạo mở mang, có lẽ cha chung ai khóc;
Nhắn nhủ trai lành gái tốt, phải nên để tấc lòng, phải nên chôn khúc dạ, chớ hề mẹ hát khen hay.

LỤC SÚC TRANH CÔNG – 六畜爭功

Lục súc tranh công – 六畜爭功
Lục súc tranh công là truyện Nôm khuyết danh của Việt Nam. Sáu con vật nuôi trong nhà: trâu, chó, ngựa, dê, gà và lợn tranh nhau công trạng của mình, người chủ phải can thiệp vào, dàn hòa mới yên.
Tựa
Ngưu
Khuyển

Dương

Thỉ
Kết

Tựa
Trời hóa sinh muôn vật,
Đất dong dưỡng mọi loài.
Giống nào là giống chẳng có tài,
Người đâu dễ không nhờ vật.
Long chức quản bổ thiên, dục nhật,
Lân quyền tư giúp thánh, phò thần.
Quy thông hay thành bại, kiết hung,
Phụng lảu biết thạnh suy, bĩ thái.
Trong trời đất ba ngàn thế giái,
Đều xưng rằng tứ vật chí linh.
Nhẫn đến loài lục súc hi sinh,
Trời cho xuống hộ người dương thế.

Ngưu
Trâu mỏi nhọc, trâu liền năn nỉ:
“Một mình trâu ghe nỗi gian nan,
Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ đã gọi thằng chăn vội vã.
Dạy rằng: đuổi trâu ra thảo dã,
Cho nó ăn ba miếng đỡ lòng.
Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông;
Vừa đến buổi cày bừa bua việc.
Trước cổ đã mang hai cái niệt,
Sau đuôi thêm kéo một cái cày;
Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây,
Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đỉa cắn.
Trâu mệt đà thở dài, thở vắn,
Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.
Liệu vừa đứng bóng mới thôi,
Đói hòa mệt, bước khôn dời bước.
Ai thong thả, trâu nào ben đặng ?
Trâu nhọc nhằn, ai dễ thế cho?
Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no,
Lại vườn đậu, vườn mè khiến chở

Làm không kịp thở,
Ăn không kịp nhai.
Tắm mưa, trải gió chi nài!
Đạp tuyết, giày sương bao sá!

Có trâu, sẵn tằm tơ, lúa má,
Không trâu, không hoa quả, đậu mè.
Lúa gặt cất lên đà có trâu xe,
Lúa chất trữ, lại để dành trâu đạp.
Từ tháng giêng cho đến tháng chạp,
Kể xuân, hè, nhẫn đến thu, đông.
Việc cày bừa, nông vụ vừa xong,
Lại xe gỗ, dầm công liên khói,
Bất luận xe rào, xe củi.
Nhẫn đến loài phân bổi, tranh che.
Hễ bao nhiêu nhất thiết của chi,
Thì đã phú mặc trâu chuyên chở.

Bao quản núi non hiểm trở ?
Chi nài khe suối dầm dề ?
Cong lưng chịu việc nặng nề,
Cay đắng những lời dức lác!

Ăn thì những rơm khô, cỏ rác,
Ở quản chi ràn lấm, tráp nè.
Trâu dựng nên nông nọ, nỗi kia;
Trâu làm đặng căn trên, bồ dưới.
Nghĩ suy lại công trâu cho phải,
Lẽ cho trâu thao lụa mặc dày.
Không chi thì quần vải, dải gai,
Không chi thì khố lưỡi cày cũng khá.
Ăn cho phải những cơm với cá,
Không nữa thì rau cháo cũng nên
Đến mai sau già cả sức hèn,
Cũng bảo dưỡng bổ công lao lý.
Khi mạng một chẳng đơm, chẳng tế;
Lẽ “sinh cử, tử táng”, mới ưng.
Thủa sống đà không dạ yêu đương,
Khi thác lại đoạn tình siêu độ.
Bảo nhau sắm con dao, cái rổ,
Khiến nhau vơ mớ củi, nắm nè.
Rằng: Trâu này cốt Phật xưa kia,
Phát đình liệu cho hồn thăng thiên giái.
Còn hình tích giống chi để lại,
Người người đều bàn bạc với nhau:
Kẻ thì rằng: Tôi lãnh cái đầu,
Người lại nói: Phần tôi cái nọng.
Kẻ giành lòng bóng ép gối mà kê,
Còn sừng đem về ép thoi làm lược.
Kẻ thì chuốc hoa tai, làm bầu liều.
Làm tù và mà thổi cũng kêu,
Tiện con cờ mà đánh cũng tốt.
Kẻ thì làm cái mõ, cáo hộp,
Người lại tỉa cán quạt, cán dao.

Còn giò chia nhau,
Làm nham, làm thấu.

Trâu gẫm lại là loài cầm thú,
Phận sau chịu vậy, dám nài!
Trâu thác đã công nghiệp phủi rồi,
Trâu sống lại kiện nài với chủ:
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ.
Ơn Tề vương vô tội kiến tha,
Tưởng chưng khi sức mọn tuổi già,
Cám Điền tử dạy con chớ bán.

Lời cổ nhân còn dặn,
Sao ông chủ vội quên ?

Chẳng nhớ câu “Dĩ đức hành nhân”.
Lại lấy chữ “Báo ân dĩ oán!”
Nói chi nữa cho dài chuyện vãn ?
Thưa chủ xin nói thép một lời:
Nhưng loài muông, vô tướng, vô tài,
Nuôi giống ấy làm chi cho nhọc ?
Ăn cho lớn, dưỡng vai, dưỡng vóc,
Giỡn với nhau vạch cửa, vạch sân,
Một ngày ba bữa chực ăn,
Thấy đến việc lén mình lét lét.
Chưa rét đã phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng còn,
Ba ông táo lộn đầu, lộn óc,
Chưa sốt đà nằm dài thở dốc.
Le lưỡi ra phỏng ước dư gang.
Lại thấy người lơ đĩnh lơ hoang
Tài ăn vụng thôi thì hơn chúng.
Nhưng muông biết cày nương, bừa ruộng,
Thì muông kể biết mấy công ơn ?
Muông, người cho ăn cháo, ăn cơm,
Trâu, người bắt nhai rơm, nhai cỏ.
Khi muông thác tống chung, an thổ,
Có gạo tiền cấp táng toàn thân,
Trách một lòng chủ ở bất công,
Hậu ư bạc, bạc đem làm hậu”.

KhuyểnMuông nghe nói, giận đau phế phổ,
Liền chạy ra sủa mắng vang tai:
“Trời đã sinh các hữu kỳ tài,
Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ.
Bởi vì đó lớn vai, lớn vế,
Thì chuyên lo nông bổn cày bừa,
Vốn như đây ốm yếu chân tay,
Cũng hết sức gia trung xem xét.
Trách sao khéo thổi lông tìm vết ?
Giận thày lay vạch lá tìm sâu.
Ai ai đều phận thủ như nhau ;
Khắn khắn cũng một lòng phò chủ.
Kẻ đầu kia, người việc nọ,
Đứa coi ngoài có đứa giữ trong.
Đêm năm canh con mắt như chong:
Đứa đạo tặc nép oai khủng động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh,
Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.
Bao quản chui gai, lước góc,
Chi này múa mỏ, lòn hang.
Anh trâu sao chẳng biết thương,
Nỡ lại tra lời sanh nạnh.
Ăn thì cơm thừa, canh cặn,
Ăn thì môn sượng, khoai sùng
Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều,
Có cũng rằng, không cũng chớ.
Trâu rằng: trâu ăn rơm với cỏ
Mà còn có một thằng chăn,
Tốn áo quần cùng tốn cơm ăn,
Nỗi lại tới gạo tiền đằng khác;
Tính chắt lót một năm hai đạc,
Về thằng chăn đã hết một trâu.
Cũng mạnh cày, mạnh kéo nên giàu,
Hãy cho nhẹm mình trâu là quí.
Vốn như đây gia tài ủy ký,
Mà chủ không tốn kém đồng nào.
Nếu không muông coi trước giữ sau,
Thì của ấy về tay kẻ trộm.
Trâu biết nói, trâu không biết xét,
Suy mình muông công nghiệp đã dày,
Khi sống thì giữ gìn của đời,
Khi thác xuống giữ cầu âm giái,
Người có phước, muông đưa ra khỏi,
Ai vô nhân, qua chẳng đặng đâu!
Chủ có lòng suy trước, xét sau,
Khi lâm tử gạo tiền tống táng.
Chủ đã có công dày ngãi rộng,
Muông dễ không tiếp rước đãi đưa,
Thấy anh trâu chưa biết căn do,
Nó (Nói ?) vài chuyện, kẻo chê muông dại”.

Trâu với muông hai đàng đối nại,
Chủ nghe qua khó nỗi xủ phân:
“Thôi đừng nhĩ ngã thiệt hơn.
Phú lưỡng bạn dĩ hòa vi quí”.

Hai vật đã tương đồng hoan hỉ,
Lại cùng nhau từ tạ một lời:
“Như luận trong công nghiệp hai tôi:
Ăn có bữa, lo không có bữa.
Dám thưa người, báu gì giống ngựa,
Mà trau tria lều trại nhọc nhằn ?
Ăn cho ăn những cháo đậu xanh,
Ở thì ở những tàu lợp ngói.
Bữa bữa dạo chơi, tắm gội,
Ngày ngày chắn vó, hớt mao.
Sắm sửa cho, chẳng biết chừng nào,
Suy tính lại, dư trăm, dư chục.
Sắm lá vả, sắm yên, sắm lạc,
Sắm chân đưng hàm thiếc, dây cương.
Dời tiền, dời hậu bao vàng,
Thắng đái, dây cương thếp bạc.
Gẫm giống ấy:

Nết na giớn giác,
Tính khí chàng ràng,

Tuy đang khi mọi vẻ nghiêm trang,
Trong gia sự nhiều điều ngơ ngáo.
Nghề cày bừa, nghe coi lếu láo,
Việc bắn săn coi cũng ươn tài,
Chủ nuôi không biết chủ là ai,
Nhà ở, chẳng biết nhà mà lại.

Dại không ra dại,
Khôn chẳng nên khôn;

Ngất ngơ như ốc mượn hồn.
Nuôi giống ấy làm chi cho rối”.

Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm hí vang tai:
“Ớ! này, này, tao bảo chúng bay,
Đố mặt ai dày (dài?) bằng mặt ngựa ?
Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen lê
Tao đã từng, đi quán, về quê,
Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.
Mỏi gối nưng phò xã tắc,
Mòn lưng cúi đội vương công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá,
Ông Cao tổ năm năm thượng mã,
Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia,
Ông Quan Công sáu ải thoát qua,
Vì cậy có Thanh long, Xích thố
Đã nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
Lại ghe phen đột pháo, xông tên
Đàng xa xôi ngàn dặm quan sơn
Ngựa phi đệ một giờ liền thấu.
Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi vì ta cần cán, giữ gìn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông bô lạc nghiệp.
Các chú những nằm trong xó bếp,
Tài các ngươi ở chốn quê mùa.
Đừng đừng buông lời nói khật khù
Bớt bớt thói chê bai giớn giác,
Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay ?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng lẫy cậy tài, cậy thế”.
Ngựa nói lâu, gẫm càng hữu lý,
Vậy chủ bèn phân giải một lời:
“Đại tiểu các hữu kỳ tài,
Vô đắc tương tranh nhĩ ngã”.

Trâu với ngựa cùng muông ba gã,
Mới ra ngoài từ tạ phân nhau.
Ngựa giận dê, đứng lại giây lâu,
Bèn phát trạng cáo nài với chủ:
“Dê với ngựa cũng là giống thú,
Chăn đồng chăn, nuôi cũng đồng nuôi,
Dê, người cho ăn nhảy chơi bời,
Ngựa, người bắt kỵ biều, luân tế.
Gẫm giống chi hữu đầu vô vĩ,
Hình con con, bụng lớn ;
Cáng náng như đứa có hạ nang,
Sớn sác tợ con chàng kẻ cướp.
Nghề tế kiệu coi đà xấu vóc,
Việc cày bừa nhắm bóng cũng ươn;
Hễ thấy người thấp thoáng đôi bên,
Liền há miệng kêu la: bé hé”.

Dương
Dê nghe ngựa nói dê quá tệ,
Liền chạy ra vác mặt, vênh râu;
Dê nói rằng: “Ta đọ với nhau,
Thử anh lớn hay là tôi lớn.
Anh đã từng vào dinh, ra trấn,
Sá chi tôi tiểu thú quê mùa ?
Mạnh thì lo việc nước, việc vua.
Song chớ khá cậy tài, cậy tướng,
Ai có tài, chủ ban chủ thưởng,
Ai không công, tay làm hàm nhai,
Chẳng dám ăn lúa má, môn khoai;
Không hề phạm đậu mè, hoa quả.
Khuyên khuyên chớ nói ngang nói ngửa,
Bớt bớt, đừng ỷ thế, cậy tài,
Ai chẳng biết đuôi ngựa thì dài,
Dài thì để xua mòng, đuổi muỗi;
Vốn như đây đuôi tuy vắn vỏi,
Đây cũng không mượn ngựa nối thêm.
Ngàn dặm trường, mặt ngựa khoe êm.
Ba gò sỏi, dê đà xong việc.
Việc dê thì dê biết,
Việc ngựa thì ngựa hay
Bừa cày, có thú bừa cày,
Kiệu tế, có muông kiệu tế,
Dê vốn thật thuộc về việc lễ,
Để hòng khi về hạng tư văn;
Để dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ yên, kỳ phước.
Hễ có việc, lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Ngựa tuy rằng hình tượng lớn cao,
Tam sanh lễ, ai dùng đến ngựa ?
Dầu đến việc làm đình, làm chợ,
Cũng lấy dê trảm thảo, bồi cơ;
Nhẫn đến ngày mạng tướng xuất sư,
Cũng lấy dê khấn cầu tổ đạo.
Lễ cốc sóc thánh nhân còn bảo:
Tử Cống sao dê sống bỏ đi ?
Ngựa nói ngang mà chẳng biết suy,
Dê nào có thiếu chi công trạng ?

Nói cho xứng đáng,
Há dễ cơ cầu,

Dê tuy rằng vô vĩ, vô đầu,
Quan phong Trường tu chủ bộ.
Hèn như dê mà dám đọ,
Tiện như dê, quí bất khả ngôn.
Ngựa rằng: Ngựa ở chốn quyền môn,
Phong cho ngựa chức chi nói thử ?
Thưa chủ nghiệm việc dê với ngựa,
Cân mà coi, ai trọng, ai khinh ?”

Ngựa nghe qua tỏ đặng sự tình,
Dê rằng: bé, ai hay chức lớn ?
Dê nói lại tài dê cũng rắn,
Ngựa thưa qua, sức ngựa thêm rồng:
Chủ phê cho lưỡng bạn tương đồng,
Chắp sự giả các tư kỳ sự.
Lời tự thuận hai đàng xong xả,
Dê phát ngôn, bèn trở nại gà:
“Nuôi chúng tôi lợi nước lợi nhà,
Nuôi giống gà thật vô ơn ngãi.
Thấy chủ vãi đám ngò, vạc cải
Túc nhau bươi chếch gốc, trốc cây.
Thấy người trồng đám đậu, vồng khoai,
Rủ nhau vầy nát bông, nát lá.
Rất đến đỗi thấy nhà lợp rạ,
Kéo nhau lên vậy vã tâng bầng.
Cho ăn rồi quẹt mỏ sấp lưng
Trời chưa tối, đà lo việc ngủ.
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào để bén dây
Cả ngày thôi những khuấy, những rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối ?”

Gà nghe nói, nóng gan, nóng phổi,
Liền nhảy ra, chớp cánh, giương đầu.
Này này! gà ngũ đức thẳm sâu:
Nhân, dũng, tín, võ, văn, gồm đủ.
Trên đầu đội văn quan một mũ;
Dưới chân đeo hai cựa thần thương.
Đã ghe phen đến chốn chiến trường.
Lập công trận vang tai, lói óc,
Thủa Tây Lũng tam canh trống thúc;
Gà gáy đầu ba tiếng đêm khuya,
Một tiếng rằng: thiên nhật tác thì;
Hai tiếng rằng: quốc tộ tác xương,
Ba tiếng rằng: nhân gian tác lạc,
Đã cứu nạn Mạnh thường đặng thoát;
Lại khuyên người Tấn sĩ năm canh.
Hễ ai toan cải dữ về lành,
Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc điệp.
Coi giò gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy, toại lòng người đãi đán,

Cứ mấy điều mà đoán,
Đã tỏ việc phải chăng ?

Giận anh dê cứ nói việc ăn,
Khéo kiếm chác những điều xoi tệ.
Dê biết lễ gà cũng biết lễ,
Dê phong Chủ bộ, gà chức Tư thần.
Nói vài điều đã biết xứng cân,
Huống gà có ngoại khoa biết mấy ?
Chưa biết ai hay rầy, hay khuấy,
Chưa biết ai ngủ sớm ngủ mê.
Gà không người chăn giữ đi về,
Nên gà mới lỗi lầm bươi móc.
Dê lầm thế không ai xem sóc,
Việc phá dê bằng chín bằng mười.
Bữa ăn gà tốn kém mấy hơi?
Nói những chuyện so chày buộc chặt.
Kể ít chuyện cho dê biết mặt,
Kẻ rằng gà vô thú trong đời.
Chẳng nhớ xưa đêm sáng, tốt trời,
Xui kẻ nhớ vợ hiền thêm chạnh.
Thức vua Thính làm lành giấc tỉnh.
Gà thua dê một hàm râu nịnh,
Nghĩ lại coi không ích lợi chi.
Gà dễ đâu có dám phân bì,
Nói điều phải mà nghe cho đặng ?”

Dê nghe nói công lênh nhẹ nặng,
Mới biết suy hơn thiệt mọi điều:
“Thôi, thôi, nói ít biết nhiều,
Dê xin chịu lập tờ tự thuận”
Gà còn hãy chưa nguôi cơn giận,
Bèn phát ngôn thưa chủ một lời:
“Như chúng gà vốn đạo làm tôi,
Giữ một tiết thức khuya dậy sớm.
Thủa ấu thơ người còn tríu trớn;
Đến lớn khôn đều có riêng quan.
Ai siêng bươi, siêng móc thì no,
Bằng biếng lặt, biếng tìm thì đói.
Gà gẫm lại thân gà thêm tủi,
Làm tôi người không đặng nhờ chi.
Heo ăn rồi ngủ ngáy sì sì,
Giả ngây dại, biết gì việc chủ.
Ngắm diện mạo, dị hình, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi, chẳng phải giống chơi
Chạy rau cám, như tiền nội án.
No đú mỡ, nhảy quanh, nhảy quất,
Đói xép hông, cắn máng, cắn chuồng.
Mỗi một ngày ba bữa ròng ròng,
Đã chẳng thấy bữa nào sai chạy,
Bán bối gì mà người yêu vậy ?
Mù quáng chi mà phải báo cô ?”

Thỉ

“Chú gà chớ lung lăng múa mỏ,
Giữ, có ngày cắn cổ chẳng tha!
Ghét thương thì mặc lượng chủ nhà,
Chớ thóc mách kiếm lời phỉ báng.
Như các chú lao đao đã đáng,
Heo thong dong ăn nhảy mặt (mặc ?) heo.
Nội hàng trong lục súc với nhau,
Ai sánh đặng mình heo béo tốt ?
Vua ngự lễ Nam giao đại đột,
Phải có heo mới gọi tam sanh,
Đừng đừng quen lời nói lanh chanh,
Bớt bớt thói chê ai ăn ngủ,
Kìa những việc hôn nhân giá thú.
Không heo ra, tính đặng việc chi?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng.
Việc hòa giải, heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu,
Giận nhau đánh giập đầu, chảy máu.
Làng xã tới lao đao, láu đáu,
Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
Khiêng heo ra để lại giữa dòng,
Mọi việc rối liền xong trơn trải.

Phải chăng, chăng phải,
Nghĩ lại mà coi,

Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước.
Bởi gà nhỏ nói lời lấn lướt,
Nên phải phân ít chuyện mà nghe.
Dễ heo nào có dạ dám khoe ?
Khắn khắn cũng lo làm việc phải.
Heo cũng biết đền ơn báo ngãi,
Heo cũng hay tiêu họa, trừ tai,
Toái thân phấn cốt chi nài ?
Nát thịt tan xương bao quản ?
Lòng thờ chủ ngay đà tỏ rạng.
Thân mình này ví bẵng như không.
Tại chú gà lời nói khùng khùng,
Mới sinh sự so đo trường đoản”.
Vậy chủ bèn phân đoán,
Phê một câu khúc tận kỳ tình:
“Gà biết chữ xả sinh thủ ngãi;
Heo đặng câu tịnh sinh, tịnh dục”

Kết

Nhân rảnh thảo ra một lúc,
Chép ra cho rõ sự đời
Sự này cũng sự nói chơi,
Ai muốn thì đọc mà cười cho vui.

ĐỒI THÔNG HAI MỘ

(Bài thơ hơn 1000 câu này bà nội thuộc làu từ nhỏ, bây giờ sau hơn 60 năm vẫn còn nhớ gần như hoàn toàn. Các cô Hằng, cô Nga cũng thuộc được nhiều đoạn.Trước ngày Nhi đi Canada, bà Nội có đọc cho ba ghi âm và chép tay nhiều đoạn, cùng với cô Hằng chép tay một số đoạn khác.Ba lưu lại trong máy vi tính theo lời đọc của bà Nội và lời chép tay của cô Hằng và bà Nội, hy vọng nhờ vậy sẽ không thất lạc nữa, Nhi có thêm 1 bài thơ hay để sau nay học tiếng Việt, học văn hoá Việt và mình lưu được kỷ niệm của bà Nội)

001 Nếu trên đời không sinh ra chữ tình và chữ ái
Thì làm gì người phận gái phải lo
Vấn vương trăm mối tơ vò
Sông sâu biển cả con đò lênh đênh

005 Bạn có biết cũng vào mùa thu ấy
Lòng rộn lên khi thấy bóng ai
Quen nhau ngày một ngày hai
Biết nhau trên quãng đường dài yêu đương

009 ???
???
Thế rồi em mến em thương
Niềm tin hạnh phúc đoạn trường gửi anh…. (1)

013 Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ
Anh của em yêu quí nhất đời
Anh đi mù mịt xa khơi
Phượng hoàng tung cánh phương trời mãi bay

017 Nỗi niềm em anh hay chăng nhỉ
Vẫn chờ anh bóng lẻ phòng không
Xa trông mây nước mịt mùng
Lệ sầu thấm ố chăn hồng đêm đông

021 Chí ngang dọc non sông nghĩa vụ
Nợ cao dày vũ trụ tang bồng
Tuy chưa pháo nổ rượu nồng
Tuy chưa chăn gối vợ chồng như ai

025 Nhưng một buổi sớm mai em nhớ
Một sớm thu mưa gió âm thầm
Đồi thông gắn bó sắc cầm
Đồi thông tiễn biệt lệ đầm áo xanh

029 Ngồi bên anh em anh kết nguyện
Nghĩa trăm năm giữ vẹn lời thề
Chờ anh cho đến ngày về
Em chờ anh đợi không hề đổi thay

033 Mười bảy xuân dù hay dù dở
Trông vào anh muôn thuở cậy nhờ
Xa anh em chẳng còn ngờ (2)
Xa em anh chẳng hững hờ đơn sai

037 Anh bốn bể tương lai hứa hẹn
Em một thân nguyên vẹn hồn trinh
Suối trong đồi rộng chứng minh
Em nguyện chỉ có một anh là chồng
041 Một là có hai không là chết
Chết còn hơn chịu ép tình duyên
Tình duyên không bởi uy quyền
Tình duyên đâu phải bạc tiền bán mua

045 Kìa tình sử một vua thoái vị
Bỏ ngai vàng vì bị ép duyên
Bỏ ngai giữ vững lời nguyền
Cùng người trinh nữ lạc miền thôn trang (3)

049 Công sinh dưỡng coi ngang trời bể
Đạo làm con cần để trên đầu
Kể chi khanh tướng công hầu
Kể chi bần bách sang giàu thường dân

053 Lời giáo huấn tu thân xử thế
Điều thiệt hơn lí lẻ ở đời
Đạo con đâu dám sai lời
Bất nhân bất hiếu có trời nào thương

057 Đã theo đòi văn chương đèn sách
Em đã hay nhân cách cương thường
Tam tòng tứ đức phải tường
Công dung ngôn hạnh mọi đường vẹn phân

061 Khốn nổi việc hôn nhân quan trọng
Cả một đời hy vọng chứa chan
Nỡ nào ép uổng tơ loan
Nỡ nào thắt buột hờn oan cho đành

065 Mới lọt lòng đã thành phu phụ
Tuổi sơ sinh sự vụ biết gì
Lớn lên tuân lệnh vu qui
Quyền cha mẹ định em đi lấy chồng

069 Ôi lá thắm chỉ hồng đâu thế
Một lời em không thể kêu xin
Người mà em quí em tin
Mối manh đủ lễ bao phen chẳng thành

073 Người mà từ dáng hình hạnh kiểm
Chẳng điểm nào là điểm em ưa (4)
Lại là phải kính phải thờ
Kết duyên chồng vợ thảm chưa hở trời

077 Trước em đã bao lần duyên ấy (5)
Đã bao duyên trông thấy mà thương
Nhịp cầu tan vỡ đoạn trường
Trống xuôi kèn ngược mọi điều dở dang

081 Đinh Lăng anh Đinh Lăng đi mãi
Chín thu rồi bao nỗi đầy vơi
Ngoài song vẫn lệ ngâu rơi
Trong rèm vẫn lệ một người chờ anh

085 Đã hai lần vấn danh nài ép
Đã hai lần liều chết quyên sinh
Để hồn bay bổng theo anh
Để tim khỏi rạn máu tình rẽ ngang

089 Để nhà thấy hoa tang đầy cửa
Để tiệc hoa tan vỡ tiệc hoa
Để bướm gần khỏi vào ra
Hoa này riêng của bướm xa chưa về

093 Anh Đinh Lăng say mê đâu đó
Lời thư xưa còn nhớ hay quên
Hay anh say thú thiên nhiên
Say mê non nước lạc miền thiên thai

097 Cùng tiên nữ thơ ngây xuân mộng
Khúc nghê thường rung động ca vang
Hay anh say bạc đắm vàng
Non vàng bể bạc sẵn sàng đế vương

101 Say bể bạc uyên ương ríu rít
Đắm non vàng khắng khít tơ duyên (6)
Hay anh mê bả uy quyền
Thuận buồm đài cát xuôi thuyền phong lưu

105 Bên người ngọc đủ mưu thân thế
Nhờ duyên may đủ kế cầu vinh
Mãi vui quên chí bình sinh
Quên nhà quên nươc cốt mình ấm no

109 Hư vinh đó càng to càng nhục
Vinh làm chi nát mục thân danh
Bao lời hải thệ sơn minh
Bao lời hứa hẹn tử sinh quên rồi

113 Bao mộng đẹp của đồi thông cũ
Đã vì anh tan vỡ chẳng thành
Than ôi ! Anh nỡ vô tình
Vui chung anh hưởng hận mình em mang

117 Người ta để tang, tang có hạn
Còn em đeo hận,hận không bờ
Uyên chia Nhạn lẻ bơ vơ
Thân em chiếc bóng đợi chờ khoảng không

121 Nếu anh cùng non sông còn sống
Máu hiên ngang dòng giống phi thường
Tình xưa em đó anh thương
Phương trời dừng gót cố hương tìm về
125 Tìm đồi thông xưa kia hẹn ước
Tìm gốc thông ngày trước hẹn hò
Tìm người chung một chuyến đò
Sông sâu bể cả dặn dò có nhau

129 Tìm người biết vàng thau phân biệt
Biết tôn thờ hào kiệt anh hùng
Tìm người tín nghĩa thủy chung
Gan vàng dạ sắt nấu nung không sờn

133 Tìm người vì duyên hờn phận tủi
Kiếp hoa rơi ngắn ngủi đành cam
Hỡi anh tráng sĩ áo lam
Anh đi đi mãi, mãi ham những gì

137 Anh ra đi em vì thủ tín
Chờ anh về, chờ chín thu trường
Ngày thường nuốt lệ là thường
Đợi chờ nào quản dặm trường xa xôi

141 Nghe Oanh hót lứa đôi khắng khít
Nhìn bướm bay quấn quýt yêu đương
Lòng càng sôi nỗi vấn vương
Ngày nào đất độ trời thương anh về

145 Ôi mộng đẹp gối kề chăn ấm
Sao lại riêng ngăn cấm đôi ta
Thế rồi sau chín thu qua
Vẫn không yên sống để mà nhớ thương

149 Thế rồi luôn tai ương liên tiếp
Chờ đến ngày tận kiếp hoa rơi (7)
Thế là đành, thế là thôi
Người về chưa thấy hoa rơi đã tàn

153 Đinh Lăng anh muôn vàn thê thảm
Về đi thôi can đảm quay về
Về tìm chốn cũ xưa kia
Viếng mộ người cũ gợi chia chút tình

157 Đồi thông trước một mình một mộ
Gốc thông xưa sương lộ điêu linh
Nằm ôm vẹn một hồn trinh
Nằm ôm một mối hận tình ngàn thu
161 Trước mộ bạc ô hô lên tiếng
Tiếng Đinh Lăng về viếng hồn oan
Để oan hồn đỡ oán than
Để khối tình hận tiêu tan não nùng

165 Trước mộ bạc anh không giấu giếm
Chín thu ròng vang tiếng vì đâu
Chân tơ kẽ tóc tình đầu
Nỗi niềm kể hết cho nhau hả lòng

169 Rồi anh lại ngựa lồng đường cũ
Bụi mù sương tung gió mịt mùng
Đồi thông gió thổi vi vu
Hồn em theo gió âm u lạnh lùng

173 Nếu anh phải anh hùng nam tử
Trót lỡ lầm bỏ dở bình sinh
Trót lầm lấy nhục làm vinh
Mồ em làm đích để anh cải hồi

177 Anh nhớ lại những lời thư trước
Hai ta thề vì nước quên mình
Em về nặng gánh nợ tình
Anh đi hồ hải tung hoành hiên ngang

181 Anh đi luyện chí gan bền bỉ
Em về chờ tri kỉ thành danh
Ngày xanh mòn mỏi tuổi xanh
Bóng anh mơ bóng mộng quanh bên mình

185 Sầu thương mà lệ tình chan chứa
Lệ đầy vơi ngóng gió chờ mây
Tin anh biền biệt nào hay
Anh còn hay đã quá say thật rồI

189 Nếu thát vì giống nòi sở ước
Vì giang san tổ quốc vinh quang
Thì em thát chẳng hờn oan
Tuyền đài với cả hân hoan anh chờ

193 Nếu trái lại lời xưa anh bỏ
Bỏ lời xưa xem nhẹ tình xưa
Thì ôi thôi! Sống bằng thừa
Nước non trốn nợ tình lừa dối nhau

197 Thác nhường ấy trước sau xá kệ
Sống như kia sống để làm chi
Túi cơm giá áo khác gì
Sống loài vô giác vô tri uổng đời

201 Cùng cây cỏ để rồi mục nát
Cùng thời gian tan tác tuổi xanh
Cùng phường vong quốc an thân
Cùng phường vô đạo bất nhân bội tình

205 Anh Đinh Lăng bóng hình bốn bể
Thấu lời em, em kể em than
Lời em gửi gió mây ngàn
Gửi ạnh gửi cả muôn vàn sầu thương

209 Trên đây mối tơ vương vò rối
Gánh chung tình tắt lối nghẽn đường
Vườn xuân giông tố phủ phàng
Hoa xuân đương độ cánh tàn nhị rơi

213 Trên đầu thuyền tình bơi ngược sóng
Giữa bể tình trông ngóng bến xưa
Bến tình xa lắc xa lơ
Bể tình thuyền đắm bến chưa gặp thuyền

217 Trên đây gương thề nguyền hẹn ước
Giữ lời thề sau trước không phai
Thân dù đá nát vàng phai
Lòng son dạ sắt không thay đổi lòng

221 Trên đây huyết thư Dung để lại
Nhờ đưa Lăng, Dung đợi lỡ rồi
Đêm tân hôn, nàng biệt đời
Liễu thân tử tiết giữ lời nguyền xưa

225 Vì thu trước ngày mưa ảm đạm
Dung xa Lăng, xa bạn tâm đồng
Một đời Lăng đã là chồng
Chồng xa là cả hận lòng chia li

229 Nhưng lòng muốn chàng đi vì nước
Chí riêng chàng sở ước từ lâu
Giang san Tổ Quốc làm đầu
Nhà tan nước mất còn đâu thân mình

233 Tình lưu luyến hận tình nhi nữ
Cảnh chia li lệ ứa sầu vương
Chàng đi chí cả bốn phương
Nàng về ôm mộng đau thương đợi chờ

237 Tháng ngày qua tằm tơ khung cửi
Tháng ngày qua vọng gửi người xa
Người xa người đợi ở ta
Xa người ta đợi người xa ta chờ

241 Chín thu rồi sống chờ đau khổ
Ba lần rồi ngăn trở ép duyên
Lần nào lòng cũng không quên
Nỗi riêng cầu khẩn lượng trên thấu trời

245 Nhưng cổ tục của đời chuyên chế
Không cho nàng tự ý yêu Lăng
Ép duyên gắn phận khăng khăng
Quyền trên định liệu nên chăng tự quyền

249 Lần cuối Dung quá phiền quá tủi
Sức người tàn bọt nổi mây tan
Ích gì ngậm thở ngùi than
Lượng trên hẹp lượng kêu vang cũng thừa

253 Phương kế gì mưu cơ nào nữa
Ngoài chết ra khó giữ toàn danh
Thôi thì sống nhục chết vinh
Chết đi trọn nghĩa trọn trinh trọn đời

257 Ngày cưới Dung rợp trời náo nhiệt
Nhạc hòa ca yến tiệc hòa ca
Dung tuơi Dung đẹp như hoa
Dung về nhà mới thướt tha diễm kiều

261 Phòng tân hôn mỹ miều lộng lẫy
Nhớ đến Lăng đầy rẫy sầu thương
Nhớ người ngàn dặm trùng dương
Nhớ người xây mộng uyên ương tan rồi

265 Nhớ người ruột rối bời trăm mối
Đương cùng rồI xử đối ra sao
Thấu chăng bể rộng trời cao
Trọn niềm thủ tín đợi bao lâu rồi

269 Thôi đành thôi tái hồi kiếp khác
Kiếp này thôi hồn thác thanh tao
Núi Hoàng rừng Cấm sông Thao
Chứng minh phận bạc má đào tuổi thơ

273 Trời vừa tối gặp cơ hội tốt
Sẵn tiên đan nàng nuốt một liều
Giờ sau phách lạc hồn siêu
Tiệc hoa tan vỡ người kêu gọi rầm
277 Cây cỏ cũng âm thầm ủ rủ
Sầu thay người tình cũ thu xưa
Túi Dung đầy túi huyết thư
Lệ nhòa dòng máu hồn mơ não đời

281 Với song thân một lời tha thiết
Cho chôn nàng trọn tiếc trọn trinh
Đồi thông gò giữa cảnh xinh
Vọng tàn kỳ vọng an ninh cuối cùng

285 Đồi cao với bóng tùng che chở
Hương hồn nàng muôn thuở anh linh
Thôi đành cam tội công sinh
Để duyên khỏi ép để tình khỏi oan

289 Với chồng nàng, chàng Lăng, nàng nguyện
Với chồng nàng, nàng hẹn tử sinh
Huyết thư huyết lệ thanh minh
Đoạn trường khổ ải oai linh cõi trần

293 Nếu Lăng sống có lần trở lại
Nếu thôi về đành đợi kiếp sau
Kiếp này đã dỡ dang nhau
Kiếp sau ước vọng trân châu thỏa tình

297 Kiếp này đã gương bình tan vỡ
Kiếp sau cầu không lỡ phượng loan
Kiếp này nghiệp chướng tiền oan
Kiếp sau hưởng phúc đồng hoan vui vầy

301 Tiếng kêu sương chim đầy tuyệt vọng
Xé không gian réo giọng u sầu
Lệ người đẫm ngọc chìm châu
Cạn ròng cạn hét còn đâu khóc đời

305 Đã đến lúc xa trời gần đất
Đời chỉ còn kẻ khuất người xa
Tay buông mắt nhắm cho qua
Hồn thiêng sống mãi để mà chờ mong

309 Hồn thiêng sống mãi trong trắng mãi
Trên đồi thông trên bãi trường đời
Trên cao trên cánh chim trời
Tháng ngày theo dõi bóng người xa xăm

313 Chôn Dung chưa được năm tháng chẳn
Trên đường về Lăng vẫn đinh ninh
Gặp Dung thỏa nguyện ba sinh
Gặp Dung hải thệ sơn minh thỏa nguyền

317 Nhưng nhân định thắng thiên ít lắm
Lăng quay về tình đắm duyên tan
Huyết thư huyết lệ hòa tan
Bên mộ Lăng kể nỗi oan nát lòng

321 Mỵ Dung em Mỵ Dung thân ái
Đinh Lăng đây anh chậm mất rồi
Tìm em thôi đã mất người
Chốn này gặp gỡ đã mười năm xưa

325 Thế là cả giấc mơ tan vỡ
Thế là thôi tình lỡ mộng tan
Thế là trâm gãy gương tan
Đoạn trường cùng gánh suối oan cùng đò

329 Ngoài ngàn dặm anh chờ từng khắc
Trong buồng the em nhắc từng lời
Tơ lòng cùng lựa một giây
Nỉ non tha thiết một ngày gần nhau

333 Thì ôi đây nào đâu xa nữa
Gần nhau rồi đã dỡ dang chưa
Mộ em cỏ úa nằm trơ
Ôm mồ em khóc hòng chờ duyên sau

337 Mỵ Dung em vì đâu nên nỗi
Phải đâu vì tội lỗi đôi ta
Hồn em rừng thẳm non xa
Về đây nghe kể chuyện qua não lòng

341 Lời thề trước trọn vòng tình ái
Đâu dám sai dám trái lời thề
Đồi thông từ thuở chia li
Chín thu tuy vắng lòng ghi tạc lòng

345 Chí gan sắt nấu nung thành thép
Dạ đá vàng tha thiết nào phai
Ngàn trùng bôn tẩu nước ngoài
Gắng công mong chóng thành tài hồi hương

349 Để Lăng Dung uyên ương tương thác
Cùng hy sinh gánh vác sơn hà
Nợ gia đình nợ quốc gia
Bao nhiêu nợ nặng hai ta trả cùng

353 Nhi nữ tạo anh hùng là thế
Chí anh hùng là chí bốn phương
Ngờ đâu cuộc thế tan thương
Đồi thông nổi báo suối ngang lật thuyền

357 Em phẫn uất vì duyên thắt buột
Em liều thân để được toàn danh
Để sen trong ánh bùn tanh
Để gương duyên ép tan tành đời soi

361 Tinh duyên trôi, thôi trôi cả mộng
Mộng tan rồi hy vọng tan rồi
Tình ta thôi thế là thôi
Tình ta xa thẳm đôi nơi âm trần
365 Lần trí nhớ ân cần anh kể
Đoạn đường xưa chia lẻ đôi ta
Để em nhẹ gánh nghi ngờ
Ngỡ anh thay đổi hững hờ tình xưa

369 Anh ra đi ngày mưa thu đó
Một ngày thu anh nhớ suốt đời
Lệ em hòa lệ ngâu rơi
Lệ ngâu hòa với lệ người kiên trinh

373 Đã cùng nhau đinh ninh cặn kẽ
Xa nhau đây rồi sẽ gần nhau
Gần nhau cho đến bạc đầu
Gần nhau đến thác gần nhau hai mồ

377 Em về duyên lỡ chờ ôm mộng
Anh đi tin tưởng vọng cao xa
Em về tháng trọn ngày qua
Anh đi non nước bao la mịt mùng

381 Em về thêu chữ “đồng” trên gối
Anh đi tìm gỡ rối đường tơ
Em về vui sống trong mơ
Anh đi xây dựng vần thơ khải hoàn

385 Em về với muôn vàn tưởng vọng
Anh đi càng thận trọng thanh danh
Ngàn dâu xa cách non xanh
Ngàn dâu xa cách em anh vẫn gần

389 Bao lần lại bao lần lần nữa
Hai tâm hồn gạn chứa đau thương
Tình nhà nợ nước vấn vương
Trùng lai mong đợi bốn phương một nhà

393 Chí đã quyết gần xa nào quản
Tâm đã thờ căn bản không thay
Biết bao mộng đẹp ý hay
Ngờ đâu vĩnh biệt lại ngày thu xưa

397 Thân thui thủi nắng mưa dầu dải
Bỏ quê hương vườn trái mến yêu
Cha con sum họp sớm chiều
Anh em đoàn tụ mọi điều thiệt hay

401 Họ hàng chia sẻ cơn tai nạn
Bạn bè vui chén cạn càng vui
Thênh thang ngọn núi đỉnh đồi
Thỏa thuê suối mát lội bơi vẫy vùng

405 Không nô lệ chim lồng hót đậu
Không cúi luồn cá chậu tham mồi
Hoắt lê tự chủ ngọt bùi
Còn hơn mỹ vị sực mùi quốc vong

409 Đời thoáng đãng còn mong chi nữa
Bỏ ra đi sao nỡ an tâm
Nhưng lòng đầy những hận căm
Nước non u ám tối tăm mây sầu

413 Cùng cương quyết anh cầu em nguyện
Gác tình duyên thỏa nguyện non sông
Tương lai đắc thắng thành công
Tình ta vinh hiển non sông mạnh hùng

417 Nhưng chị Nguyệt bất công quá lắm
Bày trò chơi chỉ thắm tơ vàng
Bày ra những cảnh đau thương
Bày ra những cảnh lỡ làng tình duyên

421 Duyên chẳng hợp đảo điên làm hợp
Duyên chẳng ưa thắt buột làm ưa
Lỡ duyên em lỡ tuổi thơ
Lỡ duyên anh lỡ hết cơ hội đời

425 Anh vì em phương trời từ chối
Nàng Thiên Hương lẻ gối chờ duyên
Nhất vùng nổi tiếng nàng tiên
Phòng không lòng lạnh tây hiên một mình

429 Gặp anh nàng tỏ tình mật thiết
Quyết một niềm khắng khít mối tơ
Than ôi nghĩa cũ tình xưa
Mỵ Dung tim khắc bao giờ anh quên

433 Anh kể thực lòng Thiên Hương rõ
Mối tình duyên anh đã nặng lời
Với người ở tận phương trời
Người tuy xa cách ảnh người không xa

437 Mong Thiên Hương rộng tha lỗi đó
Và thôi đừng gắn bó cùng anh
Để anh trọn nghĩa vẹn tình
Đợi ngày kết quả thành danh trở về

441 Mắt Thiên Hương đầm đìa lệ ngọc
Miệng tươi hoa bổng khóc nghẹn ngào
Rồi cách đó bao lần sau
Gặp nhau vẫn thế gặp nhau càng buồn

445 Rồi một ngày vọng cuồng thất vọng
Nàng Thiên Hương xúc động vô ngần
Sẵn dao nàng kết liễu thân
Một tin kinh khủng xa gần xôn xao

449 Lí do gì vì đâu không rõ
Nhà cầm quyền tầm nã bắt anh
Đem anh xử trước tòa hình
Ghép anh vào tội nặng tình sát nhân

453 Đem đày anh chung thân cơ cực
Nỗi oan hồn áp bức kêu ai
Thảm thay đời ngục ngày dài
Anh hùng ứa lệ nhớ người tình xưa

457 Nhớ Mỵ Dung ngày mưa thu trước
Tiễn đưa nhau hẹn ước những gì
Giờ đây nào có hiểu chi
Vẫn yên chí đợi ngày kia anh về

461 Anh về đâu nữa quê hương cũ
Mà em chờ chờ lỡ tuổi xuân
Đời tù chôn hết đời mơ
Chôn theo hết cả đợi chờ ước mong

465 Thu sầu qua lại đông sầu tới
Chín thu ròng tê tái điêu linh
Tin đâu cải tổ hồi sinh
Là tin ân xá cho anh ra về

469 Mỵ Dung em anh mê hay tỉnh
Nổi mừng vui chung đỉnh nào tày
Sổ lồng chim thỏa chí bay
Đường về cố quốc mong ngay trùng phùng

473 Mong gặp Mỵ Dung cùng thề nguyện
Dưới đèn hoa kể chuyện chia li
Rồi cùng nhau cùng ra đi
Để anh làm trọn lời thề nước non

477 Để anh hùng lập tròn sự nghiệp
Để duyên em tha thiết đáng duyên
Thực là hy vọng vô biên
Thực là hy vọng đầy trên đường về

481 Nhưng thảm thay thảm thê thê thảm
Trước mồ em sống cả ngàn thương
Kể sao cho xiết đoạn trường
Vì ta khắng khít lỡ làng cả hai

485 Nhưng chết trong hơn ai sống đục
Chết vinh hơn sống nhục đời nhơ
Mỵ Dung duyên đáng phụng thờ
Còn duyên tái hợp nguyện chờ tái sinh

489 Hồn em thiêng theo anh từng bước
Mà chứng minh lời ước vì em
Mỵ Dung duyên đã khắc tim
Nguyện thề trọn kiếp không tìm duyên ai

493 Anh sống đây thân này hiến nước
Chết vinh quang sau trước một lần
Trọn đời vui sống độc thân
Mỵ Dung là vợ luôn gần bên anh

497 Đồi thông đây sơn minh thệ hải
Đồi thông đây ta gửi xác hồn
Giờ đây xác anh cùng chôn
Hai mồ hai xác một hồn một duyên
501 Em Mỵ Dung tạm yên vui nghỉ
Để anh đi cho phỉ chí trai
Đồi thông duyên nợ còn dài
Đồi thông còn mãi chuyện đời đôi ta

505 Đồi thông cảnh bao la thơ mộng
Đồi thông đồi kì vọng riêng ta
Riêng ta riêng một sơn hà
Suối trong nước réo thông già gió reo

509 Hồn ta tha hồ theo mây gió
Mà thảnh thơi khắp đó khắp đây
Ngàn thu hồn tỉnh duyên say
Đồi thông đây mộ những ngày tuổi xanh

513 Suối ơi suối gần quanh ta mãi
Tắm hồn ta sạch nỗi oan hồn
Lòng ta lòng suối ai hơn
Lòng cùng trinh bạch cô đơn cũng cùng

517 Đồi ơi đồi một vùng bát ngát
Nhạc thông reo réo rắt tơ lòng
Cho ta tiêu giải não nùng
Cho ta siêu thoát non bồng cảnh tiên

521 Núi ơi núi thiên nhiên hùng vĩ
Che chở ta bền bỉ trường thành
Tình ta vững với núi xanh
Núi xanh xanh mãi mộng tình dài lâu

525 Rừng ơi rừng xa đâu mà lạ
Với đồi thông rừng đã quen lâu
Thâm ô huyền bí nhiệm mầu
Tình duyên ta lỡ ta cầu rừng thiêng

529 Em Mỵ Dung tạm yên vui nghỉ
Để anh đi cho phỉ chí trai
Trên đường nhiệm vụ chông gai
Trên đường tranh đấu tương lai giống nòi

533 Trên đường quốc nạn đòi ưu thắng
Trên đường đầy cay đắng gian lao
Trên đường chính nghĩa tối cao
Trên đường bờ cõi giữ sao vẹn tuyền

537 Hồn em tựa cung đàn theo gió
Bên mình anh nhắc nhở không quên
Bên mình khích lệ tiến lên
Sống sao đáng sống ở trên cõi đời

541 Bên mình an ủi lời êm đẹp
Để sống vui tắt dẹp sầu thương
Tình duyên đành kiếp đoạn trường
Báo đền nợ nước đạo thường dám sai

545 Thỏa chí nguyện hai vai nặng gánh
Với sơn hà tỏa ánh vinh quang
Đồi thông kỷ niệm vẻ vang
Đồi thông ghi dấu những trang sử hùng

549 Hồn em thiêng sống cùng non nước
Đợi hồn anh vẹn ước trọn thề
Sau ngày thỏa nguyện quay về
Hai mồ hai xác đề huề chôn đây

553 Với vũ trụ cỏ cây không thẹn
Với sơn hà trọn vẹn con chung
Ô hô tín nữ Mỵ Dung
Khôn thiêng chứng giám soi thông đáy lòng

557 Của người quyết trọn vòng tình ái
Của người thề hăng hái hiên ngang
Ra đi vì một cô nàng
Ra đi vì mối duyên vàng đôi ta

561 Ra đi vì xót xa nòi giống
Ra đi vì lẻ sống công bình
Ra đi vì nước quên mình
Ra đi vì một mối tình đôi ta

565 Lăng lại đi mười ba thu chẳn
Xa mồ Dung lệ đẫm tim vàng
Nhưng nam nhi chí bồng tang
Nợ tình nhẹ nợ giang san nặng nhiều

569 Thất vọng tình không liều nản chí
Thất vọng tình không phí tuổi xanh
Để người tình chết chết vinh
Để người tình sống sống danh anh hùng

573 Anh hùng dũng cảm vùng sơn cước
Quyết hy sinh hiến nước vì tình
Mưa tên bão đạn không kinh
Sa trường máu lửa tử sinh coi thường

577 Diệt xâm lăng qui hàng cởi giáp
Đem vinh quang đền đáp non sông
Mạng coi nhẹ tựa lông hồng
Thân liều da ngực bọc cùng càng vinh

581 Hồn quốc sĩ coi khinh tàn bạo
Khoác nhung y chính đạo xông pha
Phất cờ rống trống hò loa
Trông gương tiên tổ trải qua bao đời

585 Vì xót giống thương nòi yêu nước
Không khoanh tay lùi bước chịu hàng
Chiến bào sương tuyết ố hoen
Ngũ bào khói đạn phủ đen một màu

589 Cầu hòa bình không cầu chinh chiến
Nhưng can trường khinh tiến địch quân
Thân dù vì quốc vong thân
Cũng cam cũng hả còn ân hận gì

593 Vinh dự thay ai bì chiến thắng
Thắng bại thường ngọt đắng cũng thường
Đấu tranh anh dũng quật cường
Hận dầy khát máu lên đường tiến đi

597 Đem chiến công chép ghi chiến sử
Đem tài năng thách thử tài năng
Nơi quan ải nhất Đinh Lăng
Chiến công rực rỡ vẻ vang đã nhiều

601 Văn y sỹ đủ điều thao lược
Võ mưu cơ cứu quốc giải nguy
Từ anh binh sỹ nhỏ ti
Thăng hàm Trưởng Vệ chỉ huy oai hùng

605 Lần cuối Trưởng Vệ Lăng ra trận
Chí tưng bừng nước vận phục hưng
Khải hoàn toàn thắng tưng bừng
Đường về cỏ đón hoa mừng tung hô

609 Sau bao lần cỏ khô hoa héo
Sau bao lần dày xéo lầm than
Bởi quân xâm lược bạo tàn
Túi tham không đáy lan tràn không thương

613 Chia mà trị bất lương vơ vét
Gây giống nòi thù ghét lẫn nhau
Mồi ngon cá dễ mắc câu
Cỏ thơm cám dỗ loài trâu kiếp bò

617 Nước càng đục Vạc Cò càng béo
Tài dối lừa càng khéo càng khôn
Biết bao tử sĩ mồ chôn
Sơn cùng bỏ xác cò thôn lẻ đàn

621 Hận vong quốc muôn vàn uất hận
Thác còn chưa hả giận hết căm
Với người quyền vị không ham
Không ham ảo mộng không ham hư quyền

625 Không tối mắt vì tiền bán nước
Không dày mồ đón rước lấy voi
Không hại giống không phản nòi
Noi gương oanh liệt tranh đòi trị dân

629 Noi gương đó Đinh Lăng quyết chí
Góp máu xương công lí phụng thờ
Góp phần đắp cõi xây bờ
Kì đài độc lập dựng cờ Việt nam

633 Mười ba thu đã căm hả dạ
Đuổi xâm lăng Cú Quạ tan đàn
Tam quân ca khúc khải hoàn
Thoát li đàn áp trăm ngàn bất công

637 Thuyết tà đạo quyết không tồn tại
Thỏa ích mình hãm hại bao người
Mưu mô xảo quyệt dối đời
Thừa cơ lên bỗng hết thời ngã đau

641 Với chính nghĩa trước sau phải thắng
Thắng vinh quang chính đáng vững bền
Đinh Lăng ân báo nghĩa đền
Trên đường thắng lợi thỏa nguyền ước mơ
645 Ác thay nạn bất ngờ hèn nhác
Nỡ đan tay mưu sát anh tài
Bất ngờ một mũi tên bay
Ngựa lồng chồm thét lăn quay xuống đường

649 Quân cứu thương tìm phương cứu chữa
Gan anh hùng tan vỡ tang thương
Thảm thay nghịêp chướng tình trường
Hùm thiêng sa bẫy hết phương tung hoành

653 Trong Ngũ Lân có tình bè bạn
Nguyện vinh hoa vận hạn cùng nhau
Giữ sao tín nghĩa làm đầu
Gương xưa Quảng Bảo một bầu nhiệt tâm

657 Hương lan đầy sân thơm nức
Tiếng chim hoà đua sức hót vang
Gươm kia chẳng chống ngang đường
Xe kia nghiêng bánh vội vàng hỏi han

661 Đàn mấy khúc cao sang lưu thuỷ
Đèn năm canh tri kỉ sử kinh
Mấy câu đồng khí đồng thanh
Người tuy bốn bể vẫn quanh một nhà

665 Áo dẫu rách đậm đà càng mến
Giường dù treo tưởng đến xa xôi
Nhớ khi tay dắt thảnh thơi
Hưu an cùng núi cá bơi cùng đàn

669 Lòng tha thiết không cần lợi lộc
Vận Đinh Ninh, Phạt Mộc thường ngâm
Giao du đã gọi đồng tâm
Sang hèn chẳng kể thăng trầm có nhau

673 Lời cựu ước bạc đầu vẫn giữ
Bần cố tri sinh tử một lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng
Gương trong chẳng chút bụi hồng mờ phai

677 Than ôi! Lang Lân hai bạn ngọc
Chốn biên cương ngang dọc tòng chinh
Cùng nhau huyết thệ bội minh
Biệt li có đất tử sinh có trời

681 Trong quân ngũ nguyện lời đồng chí
Tình kết giao thề ví Lưu Dương
Bao phen gối đất nằm sương
Ngọt bùi chia sẻ đau thương đã cùng

685 Thế mà nỡ thay lòng đổi dạ
Vì mối tình gây họa cho nhau
Rắp tâm cầm thú mưu sâu
Lỗi quên tình bạn tham cầu ái ân

689 Phường tục tử uổng thân bảy thước
Đời nam nhi lạc bước lầm đường
Còn đâu sự nghiệp phi thường
Ô danh bất nghĩa bất lương để đời

693 Trước tử thần thôi đành vĩnh biệt
Trưởng vệ Lăng tha thiết yêu cầu
Đồi thông xác được chôn sâu
Mỵ Dung mồ sẵn gần nhau hai mồ

697 Hồn trinh nữ đợi chờ nợ nước
Chí chinh phu nguyện ước từ lâu
Còn hung phạm chớ tìm đâu
Kì lân Xuất Đội mưu sâu vô loài

701 Mưu hại ta vì hai lí lẽ
Dễ đoạt quyền lại dễ cầu duyên
Con Châu Uý: Cầm Bích Liên
Kì Lân cầu khẩn bao phen chẳng thành

705 Với ta nàng cố tình nài ép
Ta một niềm thề chết chẳng sai
Mỵ Dung là vợ ta rồi
Đời ta còn sống trọn đời độc thân

709 Không tin ta không phân lẽ phải
Cầm Bích Liên không đổi ý riêng
Đáp lời xuất đổi công nhiên
Đinh Lăng nàng quí là duyên tự Trời

713 Sắt đá đâu giữ lời được mãi
Tháng ngày trôi lòng phải trôi theo
Mộng tình gửi mộng cao siêu
Bích Liên xây cả thành yêu đợi chờ

717 Tai hại nhỉ, Liên chờ ảo mộng
Lân yêu nàng thất vọng vì ta
Bể tình nổi trận phong ba
Chất cao họa thảm oan ta một mình

721 Thôi vĩnh biệt sự tình có thế
Cho ta về an nghỉ đồi thông
Mỵ Dung tháng đợi ngày mong
Nợ tình nợ nước trả xong ta mừng

725 Cả biên cương núi rừng cây cỏ
Cả biên cương bao phủ màu tang
Đồi thông ngàn dặm quan san
Hồn theo Quốc táng vinh quang quay về

729 Về đồi thông xưa kia hẹn ước
Về gốc thông ngày trước hẹn hò
Về người chung một chuyến đò
Sông sâu bể cả dặn dò có nhau

733 Về người biết vàng thau phân biệt
Biết tôn thờ hào kiệt anh hùng
Về người tín nghĩa thủy chung
Gan vàng dạ sắt nấu nung không sờn (8)

737???
Lô Kỳ Lân thân hình tiều tụy,
Giam cầm lâu vì bị tình nghi”… (9)
???

741 Đầy mối ngờ Kì Lân thủ phạm
Khéo gian ngoan đổi hoạn làm vinh
Trọng lời hấp hối họ Đinh
Bích Liên thề quyết xung phong phục thù

745 Anh Đinh Lăng vân du linh ứng
Anh vì em kiến chứng hộ trì
Cho em làm trọn lời thề
Đưa quân phản bội hồn về theo anh

749 Dưới địa ngục anh phanh thây xác
Trên đường đời tội ác treo gương
Lừa thầy phản bạn gian ngoan
Hại người chiếm hưởng vinh quang của người

753 Lưới trần thoát lưới trời không thoát
Kiếp luân hồi thiện ác chí công
Hướng về hai mộ đồi thông
Em cầu phù hộ cho công em thành

757 Duyên em lỡ, em đành chịu lỡ
Hận tuyền đài em gỡ thay anh
Bạo tàn phản bội đáng khinh
Mưu sâu lừa lọc hiển vinh được nào

761 Xuân đã về hoa đào hớn hở
Cùng trăm hoa đua nở khoe tươi
Bích Liên xuân sắc tuyệt vời
Quyết đem xuân mộng trị đời bất nhân

765 Thay thái độ nàng ân cần tiếp
Xuất Đội Lân tha thiết cầu duyên
Cầu sao quả được như nguyền
Lân Liên tài sắc hưởng quyền kết giao

769 Từ đó luôn cùng nhau hộ diện
Để yêu đương để hẹn để thề
Để xây mộng đẹp Phu Thê
Để tin sự thật hoài nghi không còn

773 Truớc mỹ kế căm hờn đầy rẫy
Lồ Kì Lân sa bẫy hết đời
Xưa nay kể đã bao người
Vua hiền tướng mạnh uổng đời tài ba

777 Gớm cho sắc thu ba quá lắm
Sóng nước đâu mà đắm đuối người
Gớm cho duyên ép duyên ôi
Sóng xuôi thuyền ngược lứa đôi lỡ làng

781 Gây bao cảnh bẻ bàng tan tác
Gây bao trò thâm ác u mê
Bao trò hiểm độc gớm ghê
Bao trò oan nghiệt đến tê tái lòng

785 Một buổi sáng xuân phong đầm ấm
Chàng với nàng đằm thắm yêu đương
Song song đôi ngựa lên đường
Nhạc vàng đủng đỉnh lỏng cuơng chơi dừng

789 Bên thác Bạc tạm ngừng xuống ngựa
Ngắm trời mây ngồi tựa sườn non
Cùng chàng tỏ rõ tấm son
Bích Liên thỏ thẻ nỉ non giải bày

793 Kìa đôi chim ngọn cây khăng khít
Ngọn cây cao ríu rít cùng ca
Dọc ngang một dải sơn hà
Ngàn cây chào hỏi ngàn hoa đón mời

797 Đôi ta với chim trời nào khác
Ta cùng vui theo nhạc tuổi xanh
Bên bờ suối nước rung rinh
Ta vui mộng đẹp đời xinh lâu dài

801 Lòng em cả một trời xuân mới
Đời em là một chuỗi ngày vui
Tưng bừng muôn dải xuân tươi
Gần anh em cảm thấy đời thần tiên

805 Gần anh em muốn quên chuyện cũ
Đã từ lâu ấp ủ lòng son
Nhưng sao lòng cứ tủi buồn
Để lòng bão bể mưa nguồn vẩn vơ

809 Vui duyên mới chuyện xưa muốn bỏ
Bới tro tàn lửa đỏ còn đâu
Gớm cho dạ thế hiểm sâu
Thị phi đặt để những câu lạ lùng

813 Lăng đâu phải anh hùng mã thượng
Đáng để em vụng tưởng thầm mơ
Nói càng thêm xấu thêm dơ
Người đâu dở dáo tráo trơ uổng đời

817 Em tưởng Lăng thực thời đáng bực
Có ngờ đâu Lăng thực gian ngoan
Buộc em đã quá mê man
Yêu chàng chàng bỏ dở dang một đời

821 Duyên em nợ cậy người mưu sát
Hại được Lăng khao khát hả lòng
Mặc dầu việc đó em không
Nhưng ai hạ thủ quả công không vừa

825 Lăng tận số đời thừa đáng kiếp
Sống độc cơ uy hiếp độc tài
Sống vui trên khổ của người
Người càng đau khổ ta cười sướng thêm

829 Nếu anh không rộng quên chuyện đó
Đời ta đâu còn có hôm nay
Mộng vàng ta hưởng ai xây
Quên người xây mộng em đầy não tâm

833 Em mong mỏi trả ân hiệp sĩ
Và xin thề giấu kỹ Kỳ danh
Không hề tiết lộ ẩn tình
Tìm người hiệp sĩ cậy anh em chờ

837 Xuất Đội Lân còn ngờ chi nữa
Bên nàng tiên rực rỡ sắc hương
Mộng cuồng tràn ngập tơ vương
Nghĩ gì biến chuyển sầu thương nợ trần

841 An ủi Liên ân cần tự đắc
Cơ hội may nắm chắc trong tay
Em Liên ta hẵy vui say
Say non say nước say mây say trời

845 Say cho thỏa mộng đời ao ước
Cho bỏ công sao chép đèo bòng
Ngoài ra em chớ bận lòng
Kim chìm đáy biển cũng không khó tìm

849 Huống chi việc nhỏ nhen hiệp sĩ
Phải cầu mong rầu rĩ kém tươi
Em buồn anh hát với ai
Vui đi ta hưởng cuộc đời thần tiên

853 Chàng hiệp sĩ tự nhiên khắc có
Em muốn tìm không khó có ngay
Hiệp sĩ đó chinh là anh đây
Chính anh xây mộng mộng xây đã thành

857 Rồi Lân kể công trình kế hoạch
Và mưu sâu rành mạch hại Lăng
Hại Lăng tình thắng chức thăng
Chiếm Liên chiếm đủ cao sang thỏa tình

861 Quân mật sai hiện hình trước mặt
Trong bụi lau ghi nhặt từng lời
Xích tay Lân hết kêu trời
Lưới trời mầu nhiệm người đời phải tin

865 Mộng hoàn lương xây trên trần tục
Mỗi hành vi trong đục của người
Đều qua gạn lọc lưới trời
Đục trôi bể thảm trong hồi suối tiên

869 Nhờ từ tâm của Liên tha thiết
Tòa rộng tha tội chết cho Lân
Tử hình đổi án chung thân
Đảo tù đày đoạ ăn năn kiếp tàn

873 Đời nham hiểm sống càng bêu nhục
Sống ô danh ô trọc kiếp đời
Ô hô Xuất Đội Lân ơi!
Tài ngươi cao cả hạnh ngươi thấp hèn

877 Gạn nước đục thắng phèn lắng đục
Tội sát nhân tù ngục đầy thân
Để người tội lỗi ăn năn
Ác tâm hoán cải thiện căn sau này

881 Bích Liên từ sau ngày đặt bẫy
Bắt Kỳ Lân Đầy rẫy bất lương
Mê tình đảo ngược cương thường
Mê tình lạc lối lầm đường uổng thân

885 Liên chán nản bất nhân sự thế
Liên chán chường bải bể nương dâu
Loài người khát máu lẫn nhau
Loài người điên đảo mưu sâu lọc lừa

889 Vết thương lòng bao giờ hàn gắn
Vết thương tình duyên đắm tình trôi
Chết tình hạnh phúc chết rồi
Tình trôi trôi cả mộng đời đẹp tươi

903 Vì một Liên hai người mang lụy
Người thác oan người bị ngục hình
Nghĩ duyên mình tủi phận mình
Mộng duyên thôi lỡ mộng tình thôi tan
907 Duyên đã lỡ tiền oan nghiệp chướng
Liên tìm phương thoát vướng ân tình
Áo tu ấp ủ hồn trinh
Tháng ngày cửa Phật kệ kinh nguyện cầu

911 Bao tư trang vàng châu ngọc báu
Dâng tĩnh am mong thấu lòng thành
Phòng khi tai nạn thảm tình
Tế bần gọi chút tạm lành vết thương

915 Nghĩ đến Lăng tơ vương tình cũ
Tội tơ vương mong rũ tội xưa
Năm trăm nén bạc của tư
Đồi thông viếng mộ Liên đưa nhờ làng
919 Xây hai mộ toàn bằng đá trắng
Dựng miếu thờ xứng đáng tôn nghiêm
Ngàn thu non nước thiên nhiên
Nước non lưu luyến khí thiêng anh hùng
923 Trước hai mộ trời đông giá lạnh
Cả lạnh lùng hiu quạnh lẻ loi
Nghẹn ngào khó nói nên lời
Bích Liên sư nữ sụt sùi khóc Lăng
927 Ơi sông núi suối rừng cây cỏ
Thấu lòng ta chứng tỏ cho ta
Lòng ta trong trắng ngọc ngà
Lòng ta khát vọng thiết tha một người
931 Ôi đất thiêng ôi trời cao thẳm
Tình éo le thê thảm đáng chưa
Hí trường diễn tự ngày xưa
Tài hoa đa lụy bao giờ mới thôi
935 Đinh Lăng anh lặn ngòi ngoi nước
Em Liên về quì trước mộ anh
Và mồ chị Dung tối linh
Hai mộ với một hy sinh một lòng
939 Em xây mộng anh hùng phu trướng
Thờ một chồng xứng đáng tòng quân
Một chồng xứng đáng vĩ nhân
Vì nhà vì nước hiến thân đến cùng
943 Ngán thay người anh hùng em đợi
Em gặp rồi em toại chí mong
Bao Đông nuốt lệ trời trong
Trời trong đến phút cuối cùng mộng tan
947 Ngờ đâu trong tâm gan đau khổ
Lăng thờ Dung không bỏ nguyện xưa
Mỵ Dung duyên đáng phụng thờ
Còn duyên tái hợp nguyện chờ tái sinh

951 Hồn em thiêng theo anh từng bước
Và chứng minh lời ước vì em
Mỵ Dung duyên đã khắc tim
Nguyện thề trọn kiếp không tìm duyên ai

955 Thời gian trôi không sai lời hứa
Anh một niềm tưởng nhớ người xưa
Thơ ngây em đã không ngờ
Bể tình dông tố bến bờ hiểm sâu

959 Chị Dung em vì đâu oan thát
Phải chăng vì chị khác cả hai
Hôn nhân chọn ít ở đời
Chọn nơi tiền bạc chọn đời hư vinh

963 Duyên lừa lọc coi khinh tình nghĩa
Duyên đổi thay xá kể cười chê
Ép duyên tình ép thảm thê
Ép duyên em chị cùng chia thảm tình

967 Lời hứa trước tựa hình với bóng
Không như ai vội chóng coi khinh
Suối trong đồi rộng chứng minh
Em nguyền chỉ có một anh là chồng

971 Một là có hay không là chết
Chết còn hơn chịu ép tình duyên
Tình duyên không bởi uy quyền
Tình duyên đâu phải bạc tiền bán mua

975 Đinh Lăng anh vốn xưa lượng cả
Tha tội em, em quả thơ ngây
Yêu anh em đắm em say
Em say em đắm bàn tay anh hùng

979 Bàn tay sắt non sông phụng sự
Bàn tay hùng chống cự bất công
Bàn tay bác ái khoan hồng
Bàn tay của một người chồng hiên ngang

983 Đinh Lăng anh Đinh Lăng tôn quí
Anh vì em nghiệp thế dở dang
Tim em nặng khối sầu than
Tình em lỡ chuyến đò ngang phủ phàng

987 Tim em cả bẻ bàng khô cạn
Tình em đành nắng rạn mưa dầu
Hồn anh hồn chị em cầu
Thỏa tình ước vọng gần nhau hai mồ

991 Hai mồ đá miếu thờ em tặng
Để ngàn năm cùng rặng núi Hoàng
Cùng sông Thao cùng đồi Vàng
Suối Ngang ba trại ngày càng hiển vinh

995 Ôi! Cuộc thế nhân sinh ba vạn
Sáu ngàn ngày thời hạn là bao
Trăm năm còn có gì đâu
Hơn nhau danh để về lâu về dài

999 Trai tín nghĩa anh tài trung liệt
Gái thuận hiền tiết liệt hiếu trinh
Thật là rạng vẻ Quách Đinh
Hai hồn hai họ thác vinh lắm rồi

1003 Song thần miếu đời đời còn mãi
Để cứu người dầu dãi sầu thương
Cứu người oan trái tình trường
Cứu người thất vọng trên đường ép duyên
1007 Cứu em buổi hoa niên xây mộng
Mộng chưa thành tuyệt vọng đã thành
Lại là tuyệt vọng ái tình
Thì thôi mộng đẹp tan tành gió mây
1011 Đời sống gửi gang tay ngắn ngủi
Cửa từ bi em gửi xác hồn
Từ tâm sống những ngày còn
Từ tâm tu luyện mong tròn kiếp sau
1015 Cầu Lăng Dung thanh cao an giấc
Trăm ngàn năm người mất danh còn
Trăm ngàn năm bia đá dù mòn
Đồi thông hai mộ sống hồn Lăng Dung
1019 Cả sầu đông của một đông
Cả đường tình lụy ở lòng một ai
Cả rừng cả cỏ cả cây
Cả non cả nước cả mây cả trời
1023 Hình như đói cảm cho người
Mây đen cuốn gió cảnh đời nhuộm tan
Hồn người sư nữ bàng hoàng
Trong mơ vẳng tiếng nhạc vàng ngựa xưa
1027 Bóng chàng tráng sĩ nàng mơ
Bóng nàng trinh nữ nàng chờ thâm tâm
Đạp mây rẽ gió về trần
Gọi nàng tiếng gọi như gần như xa
1031 Trông lên hai vẻ mặt hoa
Với bàn tay ngọc thiết tha gọi nàng
Trong cơn xúc động bàng hoàng
Bích Liên cảm kích lời vàng Lăng Dung
1035 Cầu cho đắc đạo thành công
Luân hồi giải thoát khỏi vong tình duyên
Bàn đào chén ngọc Quỳnh Tiên
Quỳnh Tiên chén ngọc phải thêm có nàng
1039 Bao nhiêu oan trái lỡ làng
Đền bù đức cả Thiên Hoàng chí công
Hồn ta nguyện với núi sông
Oán nàng xoá bỏ ân không quên nàng
1043 Chân tu theo dõi dặm trường
Gặp nàng để gặp trên đường Thiên Cung

———————————————————————–
Note:
* Viết xong: August, 2008. Ghi theo trí nhớ của bà Nội.
* Chỉnh sửa lần 1: December, 2011. Bổ xung và sửa đổi theo ý kiến của bác Tô Oanh (qua blog comment và qua email)
* Chỉnh sửa lần 2: January, 2015. Bổ sung và sửa đổi theo ý kiến của bạn Xuân Nguyễn, Đức Thuận và Hoàng Mai

(1) 10 câu đầu này được bổ xung thêm theo ý kiến của ba của bạn Xuân Nguyễn
(2) Xa anh em chẳng còn ngờ. Thay cho câu Xa anh em chẳng còn hờ. Theo ý kiến của bạn Hoàng Mai (qua lời kể của mẹ và bà ngoại của bạn)
(3) Bỏ ngai giữ lấy lời nguyền
Cùng người trinh nữ lạc miền thôn trang.
Thay cho câu ban đầu:
Bỏ ngai vàng giữ lời nguyền
Cùng người thôn nữ vui miền thôn trang
Theo ý kiến của bạn Nguyễn Đức Thuận (qua lời kể của mẹ bạn) và bạn Hoàng Mai
(4) Chữ “Chẳng” được thay cho chữ “Không” của bản ban đầu. Theo ý kiến của bạn Hoàng Mai
(5) Trước em đã bao lần duyên ấy. Thay cho câu ban đầu: Trước em đã bao người duyên ấy. Theo ý kiến của bạn Nguyễn Đức Thuận (qua lời kể của mẹ bạn)
(6) Đắm non vàng khắng khít tơ duyên. Thay cho câu ban đầu:
Đắm non vàng khắng kiếp tơ duyên Theo ý kiến của bạn Hoàng Mai
(7): Chờ đến ngày tận kiếp hoa rơi. Thay cho câu ban đầu:

Chờ đến cùng tận kiếp hoa rơi. Theo ý kiến của bạn Hoàng Mai

(8) Từ câu 720 đến câu 723: bổ xung thêm theo ý kiến của bạn Nguyễn Đức Thuận
(9) 2 câu: Lô Kỳ Lân thân hình tiều tụy
Giam cầm lâu vì bị tình nghi…
Bổ xung thêm theo ý kiến bác Tô Oanh
Cần bổ xung thêm đoạn này

TRÊ CÓC

Trê Cóc là một truyện Nôm khuyết danh của Việt Nam, chủ ý bày tỏ cái thói “tranh hơi tức khí” gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái hại “xui nguyên giục bị” của bọn thầy cò (Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển).

Truyện đời có cổ có kim,
Ngẫm trong vật lý mà xem cũng kỳ.
Những tuồng loài vật biết gì,
Cũng còn sự lý tranh thi khéo là.

5Nhớ xưa Trê, Cóc đôi nhà,
Vì tình nên phải sinh ra oán thù.
Cóc quen vui thú bờ hồ,
Khi ra đài các, khi vô cung đình.
Tới khi thai sản thành hình,
10Xuống ao Trê, mới đem mình thoát xong.
Nhìn xem lòng những mừng lòng,
Trở về ngồi chốn nghiêm-phòng nghỉ-ngơi.
Chàng Trê đâu mới nơi,
Thấy đàn nòng-nọc nhảy, ngoi đá rầm.
15Nhìn xem dạ đã mừng thầm,
Giống Trê như lột chẳng nhầm vẻ chi.
Bắt về nuôi nấng phù-trì,
Con nuôi cũng chẳng khác gì con sinh.
Hay đâu Cóc cũng vô tình,
20Nhớ ngày đầy cữ ra rình thăm con,
Tới nơi, chờ đợi nỉ-non,
Vắng tanh dấu cũ, nước còn, tăm không.
Lâu-lâu nghĩ cũng giận lòng,
Vội-vàng nhảy xuống bên trong dạo tìm,
25Bọt bèo lầm nước tối-tăm,
Động tin, Trê mới hăm-hăm hỏi dò.
Lảng ra, thấy Cóc bên bờ,
Trê liền quát mắng tri-hô vang rầm:
«Cóc kia đâu đó tối-tăm ?
30«Dạ gian, phi đạo, tắc dâm[1] chẳng lành».
Cóc rằng: «ai kẻ gian manh,
Gây ra những sự sinh tình gớm-ghê.
«Vì con nên phải sớm khuya,
«Không dưng, ai có đến chi chốn này ?»
35Nghe lời Trê tức giận thay !
Vểnh râu, mắng Cóc: «Tỉnh say lắm điều !
«Cóc kia cả quyết gan liều,
«Bọn người coi đã mỹ-miều lắm thay !
«Một ngày lạ giống chúng bay !
40«Nghề bôi vôi vẫn nồng thay chẳng chừa.
Một tội mất, mười tội ngờ.
«Biết đâu mà khéo tri-hô hỏi dồn.
«Thôi đừng đua dại, tranh khôn,
«Trở về ngồi tối gầm giường cho xong».
45Cóc liền dương mắt trừng-trừng,
Rằng: «Khôn, ngươi cũng ở trong ao tù.
«Ta đây dẫu có hèn ngu,
Nhà ta cũng có cơ-đồ đỉnh-đang[2].
«Ra vào gác tía nhà vàng,
50«Cõi bờ mặc sức nghêng-ngang chơi-bời.
«Nghiến răng chuyển chín phương trời,
«Ai ai là chẳng rụng-rời sợ kinh.
«Tuồng gì giống cá hôi-tanh,
May chăng được một môi canh ra gì».
55Cầm lòng, Cóc trở ra về,
Vợ chồng bàn định sớm khuya ngại-ngùng,
Rằng: «Con đương độ ấu trùng[3],
Xa-xôi non nước lạnh-lùng biết sao.
«Khuyên chàng chớ nghĩ thấp cao,
60«Công bao cũng chịu, của bao cũng đành».
Cóc rằng: «Nàng khéo lo quanh,
«Can chi chịu phí xem tình ra sao.
«Đàn bà nông-nổi khác nào,
«Biết đâu những chuyện mưu cao mà bàn.
65«Trê kia đã có lòng tham,
«Được thua quyết kiện một phen xem mà».
Tức thì đến cửa quan nha,
Làm đơn khất lĩnh minh tra cho tường.

Đơn rằng: Trung đình phủ, Tường miếu huyện, Bích gia xã, Thạch cốc thôn, Trần văn Cốc, khấu bẩm vì khổ ức sự, một chút tình duyên, vì có đàn con, vốn xưa ở cạn, tới khi có nghén, sinh ở ao Trê. Trai gái đề huề, một đàn nòng nọc. Đương cơn sinh dục, hiện có tứ bề : danh Chép, danh mè, danh Măng, danh Trắm ; cậy người đỡ tắm, mụ Diếc, mụ Rô, mượn người thăm dò anh Lươn, anh Trấu… Tìm nơi nương náu, Cóc mới về quê, vì nỗi thê nhi, Cóc ra thăm viếng. Bốn bề im tiếng, chẳng thấy một ai, Cóc hỏi khúc nhôi, Trê liền thét mắng, sinh tình ngạnh ác, cố dạ gian tham. Đạo nghĩa cha con, khôn đường nhẫn nhục. Vi thử cụ đơn, khấu bẩm đường quan, soi xét lòng đơn, xin người cứu vấn. Nhờ ơn son phấn, yên phận thê nhi, vạn vạn bái.

Kim khấu bẩm:

Phủ quan nghe tỏ lòng đơn,
Truyền đòi nha lại các phiên vô hầu.
Xem đơn danh Cóc gót đầu,
Đoạt nhân thủ tử nhẽ đâu làm vầy.
Thực hư tình ý chưa hay,
Cứ trong đơn khất cũng ngầy lắm thôi.
Truyền cho thảo trát vô đòi,
Mấy danh chứng tá giải hồi nghiêm tra.
Các thầy vâng lệnh trở ra,
Đòi tiền thông lệ bản nha tức thì.
Trát thảo cho dấu chữ y,
Truyền cho lệ dịch tức thì phát sai.

Trát rằng:

Hải giang phủ, tri phủ Đàm, vi phát lệ binh nhất danh y phải tùy hành, cứ hương lý dịch, thân dẫn danh Trê, chứng tá các bề, truyền đòi cho hết, cùng người bàng tiếp, danh Chép, danh Mè, danh Măng, danh Trắm, cụ thử nhất đoàn, duyên cố nguyên đơn, danh Trần văn Cóc, thân tình ức khổ, vi thử đẳng danh, đồng đảng gian manh, đoạt nhân thủ tử, vi thử hợp trát, giang giải hồi trình, lập tức dẫn thôi, y như trát nội, hợp trát.

Lệ binh vâng trát thôi đòi,
Bộ hành mới kéo về nơi Thanh trì.
Truyền đòi lý dịch tức thì,
Dẫn thôi thủ phạm danh Trê ra hầu.
Nghe tin chứng tá đâu đâu,
Sửa sang chè rượu cùng nhau khuyên mời.
Lệ rằng: “Quan pháp như lôi,
Chỉ đâu đánh đấy chẳng đâu là lành.
Trê kia là đứa gian manh,
Chúng ngươi họp đảng đồng tình nhất môn.
Đây mà cứ phép việc quan,
Thời bay thịt nát xương tan chẳng lành.
Song bên lý có bên tình,
Liệu sao các việc thỏa tình người ta.
Kẻo khi quan lại còn xa,
Đây mà nổi giận lôi ra kéo vào.”
Chàng Trê ngóc cổ liền kêu,
“Dân đen có biết chi điều gian ngoan.
Vì ai nên phải tiếng ai,
Dám xin mấy cậu liệu đường giúp cho.
Chữ rằng: “Nhất nhật tại tù,”
Hết bao nhiêu cũng xin lo dám nề.
Còn như danh Chép, danh Mè,
Cũng trong luân lý một bề với tôi.
Sửa sang lễ vật lên hầu,
Có tôi đã đứng là đầu thời xong.”
Lệ nghe lời nói êm lòng,
Bèn đưa nhau đến cửa công tạ trình.
Lệ vào lạy trước công đình,
Trát sai đã bắt đẳng danh hồi trình.
Quan liền chỉ phán phân minh :
“Trê kia sao dám gian manh làm vầy ?
Nguyên đơn danh Cóc ngồi đây,
Đoạt nhân thủ tử việc này có không ?”
Trê vào lạy trước vừa xong,
Cất đầu kể hết sự lòng xa xôi:
“Sự này tại chú Cóc tôi,
Dạ gian vô cớ xuống ngồi bên ao.
Bấy giờ tôi có kêu rao,
Hỏa quang kiến diện qua rào nhảy ra.
Sợ rằng: ngỏ tiếng tăm ra,
Vậy nên trước phải quỳ thưa đỡ đòn.
Ví dù Cóc lại có con,
Lẽ đâu để cách nước non sao đành.
Đầu đen là giống phù sinh,
Dám xin soi xét ra tình kẻo oan.”
Quan rằng: “Bây khéo gian ngoan.
Truyền đòi chứng tá tiếp bàng hỏi qua.
Mèo, Nheo, Trắm, Chép nhảy ra,
Khấu đầu lạy trước quan nha diện trình :
“Chúng tôi thật kẻ vô tình,
Xưa nay vẫn thực hiền lành biết chi.
Mặc ai vùng vẫy giang khê,
Biết thân tránh khỏi lưới nghề là xong.
Biết đâu Trê, Cóc sự lòng,
Buộc cho đôi chữ phù đồng khổ thay !
Đèn trời soi xét gian ngay,
Lẽ đâu ao cá vạ lây cháy thành.”
Cóc vào bẩm trước công đình :
“Chẳng qua các chúng đồng tình mưu gian.
Người thân thích kẻ lân bang,
Cùng trong vây cánh một đoàn nó thôi.
Vả trong đất nước khác vời,
Cóc khô ở chốn quê người biết sao.
Ngửa trông lạy đứa quan cao,
Cứu đàn con nhỏ phiêu lưu kẻo mà.”
Quan truyền: “Cho Cóc lui ra,
Đem trê giam đó hậu tra vội gì.”
Lệ binh vâng lệnh tức thì,
Đem Trê vào trại liền mi chẳng chầy.
Canh giờ nghiêm cấm khổ thay !
Mười người nhắm một, đều tay lấy tiền.
Quan cứ lệnh, lính cứ truyền,
Đã ngày cổ buộc, lại đêm chân cùm.
Giam tra thịt nát xương tan,
Đánh cho mấy chục, chập đòn roi đôi.
Vợ chồng Trê những ngậm ngùi,
Ra vào phí tổn hết bao cũng đành.
Có công lặn suối trèo ghềnh,
Tìm người lý sự hỏi tình sâu nông.
Xa nghe Triều Đẩu anh hùng,
Đưa tin hoàng tước hỏi cùng phải chăng.
Đầu đuôi mấy khúc thưa rằng:
“Thực tôi là phận tảo tần chàng Trê.
Nay đơn chàng Cóc tâu quì,
Vậy nên Trê phải giam mi tại tù.
Đàn bà ngu dại vụng lo,
Đội ơn quan bác liệu cho phận nhờ.”
Kình rằng: “Chẳng ngại việc chi,
Đây ta nào phải lụy gì đến ai.
Có tên Lý Ngạnh thôn ngoài,
Cũng trong thủ hạ tôi đòi ta đây.
Vốn người độc ác xưa nay,
Cho đi giúp chúng việc này hẳn xong.”
Trê nghe thấy nói mừng lòng,
Liền quỳ lạy Ngạnh kể thông mọi lời.
Sửa sang đồ vật thảnh thơi,
Tôm he, cá mực đủ mùi trân cam.
Ngạnh rằng: “Quan sự dã am,
Những phường cáo giả oai hầm ghê thay.
Việc quan muốn xử cho xong,
Thời trong lại bộ có thầy thông Chiên.
Muốn cho trong ấm ngoài êm,
Phải đưa lễ tốt các phiên mới dành.”
Ngạnh vào tư thất bẩm trình,
Trê ra lạy trước công đình tâu thân:
“Gọi là lễ mọn kính dâng,
Dám xin soi xét phận dân ngu hèn.
Chàng Trê giam chấp mấy phen,
Cũng vì điên đảo làm thiên án từ.
Lòng ngay chẳng dám mưu mô,
Lưới Thang rộng mở ơn nhờ xiết bao.”
Quan rằng: “Kêu vậy biết sao,
Đây ta cũng chẳng xuy mao cầu tì.
Cứ trong tình lý mà suy,
Thời như đơn Cóc có khi cũng huyền.
Cho đồng đối tụng hai bên,
Có bên bị, có bên nguyên mới tường.”
Cóc ngồi chực sẵn bên tường,
Nghe lời quan phán vội vàng nhảy ra :
“Trê kia chớ có huyên hoa,
Hùm dầu có cánh ta đà chẳng ghê.
Quả tình nào có hồ nghi,
Ra điều bán dạ lâm trì khó coi.
Phù sinh mấy kiếp ở đời,
Làm cho rắn cắn được voi còn chầy.
Chỉ nghề dạy khỉ leo cây,
Xui nguyên dục bị, chỉ hay bày trò.
Ai ngờ xã thử thành hồ,
Chỉ điều cậy thế làm cho hại người.
Biết rằng hươu chết tay ai,
Mỏ chim, nanh chuột tranh hơi còn nhiều.”
Quan rằng: “Bây chớ rối điều,
Việc quan chẳng lọ nhiều kêu mới là.
Lệ đâu đòi mấy thầy nha,
Cho đi nghiệm thực hậu tra mới tường.
Trê kia quả có tính gian,
Cứ trong luật lệ y đơn mà làm.”
Các thầy vâng lệnh lên đường,
Theo chân thầy tớ một đoàn thong dong.
Kéo về đến chốn ao trong,
Cho đòi tổng tiếp điều cùng khám thăm.
Thấy đàn nòng nọc lăm xăm,
Vẫy vùng mặt nước đen rầm như Trê.
Nha rằng: “Sự chẳng hồ nghi,
Đầu đuôi hình tượng giống Trê đó rồi.”
Khám tường biên thực chẳng sai,
Sự tình nha lại tức hồi trình qua:
“Ngửa trông đôi đức cao xa,
Vâng sai án nghiệm minh tra tỏ tường.
Trê kia quả có tình oan,
Hiện có tổng tiếp ký đơn về trình.”

Đơn rằng:

Hải giang phủ, Đường hào huyện, Thái cốc xã, Hùng văn Trê trình về phúc bẩm sự. Mấy khúc đầu đuôi, hiện có mấy người, thường đi thường lại, ở chốn ao sen, bất ý đương đêm, Cóc vào xuyên tạc, Trê liền phát giác, Cóc nhảy qua rào, cậy thế hùng hào, vậy nên nại chứng. Thay trời trị chúng, tiếng trống nghìn quân, nhờ lượng đường quan, cho về khám xét, đầu đuôi tình tiết, như đã biên tường, vị thử cụ đơn, trông ơn khám xét, minh tra các tiết, tỉ đắc thân oan, vạn vạn bái, kim khấu bẩm.

Quan truyền bắt Cóc ra tra:
“Sao bây kiện sai ngoa làm vầy ?
Nay đơn nha khám về đây,
Trê kia là đứa tình ngay có gì !”
Cóc ra lạy trước sân quỳ,
Bẩm rằng: “Lại dấu cho Trê lắm điều.
Chẳng qua hối lộ đã nhiều,
Vậy nên mới nói mè nheo những lời.”
Bản nha tức giận mọi người,
Bẩm xin tội Cóc ra ngoài trại canh.
Truyền cho thẩm xét phân minh,
Ký giam ở đó kẻo tình còn oan.
Cóc ngồi dài thở ngắn than,
Những là đứt ruột, căm gan cho đời.
Biết chăng có một ông trời,
Nghiến răng có thấu xin soi đến cùng.
Ai làm oan thác sự lòng,
Thì xin tiếng sấm cửu trùng nổi lên.
Cóc ngồi trằn trọc thâu đêm,
Vợ chồng bàn định nỗi niềm trước sau.
“Phải tìm thầy thợ cho mau,
Để cho thiếp được trước sau rõ mười.
Đua nhau cái trí mà thôi,
Chẳng mừng chi được, chẳng ngùi chi thua.
Thiếp xin đi lại toan lo,
Làm cho trả được oán thù mới thôi.”
Cóc về dạo khắp các nơi,
Qua miền Chẫu chuộc, tới miền Ễnh ương.
Thôi lặn suối lại trèo nương,
Giếng sâu bụi bặm lòng càng ngẩn ngơ.
Vô tình đương lúc mây mưa,
May sao thấy Ếch ngẩn ngơ cõi ngoài.
Ếch đương quen thú ngồi chơi,
Nhác trông thấy Cóc sắp rời chân ra.
Rằng: “Đâu mà đến đây ta ?
Cớ sao thân thể coi mà kém xuân.
Hay là có việc chi chăng ?
Đầu đuôi ngỏ thực xin đừng giấu nhau.
Cóc rằng: “Có việc chi đâu,
Vì chồng con phải lo âu chưa đành.
Trê kia là đứa gian manh,
Bắt con mà lại sinh tình sai ngoa.
Làm đơn đút lót quan nha,
Vậy nên Cóc phải giam tra thế này.
Cố công lặn suối tới đây,
Nhờ chàng liệu giúp việc này họa xong.”
Ếch rằng: “Đồng trắng, nước trong,
Tôi đây tiếng cả nhà không có gì.
Thấy lời chị nói nằn nì,
May ra giúp được việc chi cũng đành.
Nghề tay thầy kiện trứ danh,
Có chàng Nhái bén thực anh bợm già.
Đơn từ, mẹo mực vào ra,
Bàn tay tráo trở coi đà ngon không.
Muốn cho các việc được xong,
Phải tìm cho đến hỏi cùng sự duyên.
Cóc nghe lời nói tự-nhiên,
290Trở về dạo khắp các miền hỏi thăm,
Nước non cây cối âm-thầm,
Một mình Cóc lại băn khoăn một mình.
Hay đâu cảnh thú hữu tình,
Lui chân bóng mát, nương mình cõi râm,
295Gió đưa ngọn cỏ lầm-rầm,
Nhác trông thấy Bén đang nằm nghỉ-ngơi.
Chào rằng: «Chị Cóc lại chơi,
«Việc gì mà phải tìm tôi những là ?
«Dặm ngàn non nước thẳm xa,
300«Cớ sao mà khéo lân-la biết đường ?»
Cóc rằng : Muôn đội ơn chàng ,
« Vì tình, nên phải đa-mang với tình.
« Nói ra lắm sự bất bình,
« Vì Trê nên phải đem mình đến anh.
305« Xiết bao kể nỗi ức tình,
« Nhịn đi chẳng được, tức mình lắm thôi.
« Cố lòng lấy của, cướp người,
« Đơn-từ điên-đảo mấy hồi khổ thay !
« Quan tham, lại cũng chẳng ngay,
310« Vậy nên bắt Cóc tội rầy bấy lâu.
« Nghĩ tình càng thảm, càng rầu,
« Biết ai là kẻ nông sâu mà bàn ?
« Vậy nên bao quản đường trường,
« Trước vì biết Ếch, sau tường tôn-nhan[4].
315« Dù trong lẽ dại, đường khôn,
« Dám xin chỉ giáo[5], tôi con được nhờ ».
Bén rằng: «Ngán chuyện đàn bà,
« Làm gì việc ấy, khéo mà nói quanh.
« Tuy cùng một kiếp phù-sinh,
320« Giống nào giống ấy, tranh giành làm chi ?
« Trê kia là đứa ngu-si,
« Chẳng qua tham dại nghĩ gì nông sâu.
« Thôi đừng kiện cáo chi nhau,
« Con đương dưới nước, dễ hầu làm chi.
325« Để cho Trê nó phù-trì,
« Đứt đuôi, nó lại tìm về là hơn.
« Muốn cho êm ái đôi bên,
« Thời đem trình Phủ mà xin Cóc về.
« Nhược bằng có dạ tranh thi,
« Lại làm đơn phục[6] cho Trê khó gì».
Nghe lời Cóc cũng nằn nì :
“Làm cho bõ ghét cho Trê mới đành.
Kẻo Trê nó cũng cậy mình.”
Nghe thôi, vợ Cóc tạ trình ra đi.
Trở về cửa phủ tức thì,
Dặn chồng sau trước mọi bề đinh ninh.
Lại về chốn cũ thăm tình,
Quả như Bén nói rành rành chẳng sai.
Cười cười nói nói tả tơi,
Sửa sang lễ vật tới nơi công đường.
Cóc vào lễ tước, quỳ đơn,
Theo sau một lũ Cóc con sang trình.

Đơn rằng:

Nguyên danh Cóc trình vi khất thôi cứu sự, vì Trê gian khiếu, nên Cóc thân oan, sự đã tỏ tường, vậy nên tục khống. Trời sinh có giống, ai dám trang càn, Trê quả lòng gian, tìm đường giam chấp; mấy phen thăm bắt, tin tức vắng không. Nay đã khỏi vòng, trở về đất cũ, trần tình cụ thử, đồng đồ nhũng tệ, Cóc tôi yếu vế, vậy phải chịu im, vị thử phục qui, ơn trên soi xét. Giãi bày các tiết, nhờ lượng cao xa, dân được điều hòa, khỏi điều oan khốc.

Trình đơn trước mặt công đình,
Phủ quan nổi giận lôi đình thét vang.
“Sự đâu có sự dị thường,
Nha môn sao dám tự đương làm vầy.”
Truyền đòi nha khám ra đây,
Giao cho Bang biện việc này mới xong.
Bản nha hiệp nghị một lòng,
Khấu đầu lại trước cửa công tạ tình.
Rằng: “Đem dấu trát tra minh,
Bắt Trê nhận thực tượng hình mới biên.
Chẳng qua con tạo đảo điên,
Sinh sinh hóa hóa, hiện truyền chi đây.
Chúng tôi giữ việc lòng ngay,
Dám đâu gian dối chuyện này cho đang.”
Quan rằng việc ấy dở dang,
Truyền Trê ra trước công đương hỏi qua,
Roi đâu mấy chập đòn tra,
Gian ngay thú thực thưa qua cho tường.
Dám đâu nhận mệnh làm thường,
Cố nhiên kiếp đoạt đường đường như chơi.
Cứ trong lý luật mà coi,
Lưu tam thiên lý tôi ngươi đã đành.
Bao nhiêu đồ vật sắm sanh,
Truyền Trê phải chịu cho thanh mọi bề.
Cóc kia thôi chớ nằn nì,
Được con là trọng, kêu chi thêm càng.
Trê kia thực có lòng tham,
Đã đem đày chốn xa đường thì thôi.”
Quan trên chỉ phán mấy hồi,
Cóc vào trình lạy mấy lời bẩm qua :
“Ngửa trông đức cả cao xa,
Non công, bể đức kể đà xiết bao.
Đoái thương đến phận nhi tào
Gọi là lễ mọn đem vào tạ ân.”
Quan rằng: “Thôi chớ ân cần,
Thế thời cũng đã có phần hậu thay.
Khéo đâu lễ vật đặt bày,
Biết thôi trả lại cho bay đem về.”
Tạ từ Cóc trở ra về,
Vợ chồng mừng rỡ đề huề ngổn ngang.
Bước ra khỏi chốn công đường,
Thông Chiên dật lễ, Đề Tôm cướp tiền.
Ôm đầu vỗ vế ngả nghiêng,
Kẻ đòi bầu rượu, người xin bao chè.
Được kiện Cóc trở ra về,
Họ hàng náo nức ngồi kề mừng vui.
Chè sen rượu cúc thảnh thơi,
Cóc ngồi chịu chuyện, Bén ngồi ngâm thơ.
Vang lừng trong hội mây mưa,
Say sưa mặc sức, xướng ca thỏa lòng.
Mới hay duyên ngộ kỳ phùng,
Anh hùng tỏ mặt anh hùng hẳn hoi.

Ngẫm xem thế sự nực cười,
Cũng là dở cái trò chơi đấy mà.
Vẽ vời mấy tiếng ngâm nga,
Tỏ tường sự lý để ra với đời.

Chú thích
▲ Dạ gian, phi đạo tắc dâm 夜 間 , 非 盜 則 淫: ban đêm (đến nhà người ta), không phải kẻ trộm thì là người gian-dâm
▲ Đỉnh đang 鼎 鐺: cái vạc và cái xanh, nói về nhà giàu sang
▲ Ấu-trùng: nhỏ thơ
▲ Tôn-nhan 尊 顏 : (Tôn : kính trọng ; nhan : mặt) : Chữ dùng để gọi người khác, tỏ ý kính trọng
▲ Chỉ giáo 指 教 : Trỏ bảo dậy dỗ
▲ Đơn phục (phục : lại một lần nữa) : đơn kêu lại

NAM ÔNG MỘNG LỤC – 南翁夢錄

Nam Ông mộng lục
của Hồ Nguyên Trừng

Nam Ông mộng lục là tập hồi kí chữ Hán do Hồ Nguyên Trừng biên soạn trong thời gian làm quan ở Trung Quốc vào khoảng thế kỉ XV. Tác phẩm gồm 31 thiên và ba bài tựa của Hồ Huỳnh, quan Thượng thư bộ Lễ đồng triều với Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống thứ năm (1440). Tiếp đến là bài tựa của chính Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống thứ ba (1438). Cuối sách có bài hậu tự của Tống Chương, người Việt Nam, làm quan cho triều Minh, viết năm Chính Thống thứ bảy (1442). Một số dị bản chỉ ghi có 28 thiên, thiếu mất ba thiên “Mệnh thông thi triệu”, “Thi chí công danh” và “Tiểu lệ thi cú”, trong đó, thiên “Tiểu lệ thi cú” bị chuyển vào phần sau của “Thi ngôn tự phụ”, bản thân thiên “Thi ngôn tự phụ” cũng bị cắt xén bớt một đoạn.
Theo lời đề tựa của tác giả, thì Nam Ông mộng lục được biên soạn, một là để “biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa”, hai là để “cung cấp điều mới lạ cho bậc quân tử”. Bên cạnh đó, đây còn được coi là tác phẩm mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.

Nam Ông mộng lục tự
Nghệ Vương thủy mạt
Trúc Lâm thị tịch
Tổ linh định mệnh
Đức tất hữu vị
Phụ đức trinh minh
Văn tang khí tuyệt
Văn Trinh ngạnh trực
Y thiện dụng tâm
Dũng lực thần dị
Phu thê tử tiết
Tăng đạo thần thông
Tấu chương minh nghiệm
Áp lãng chân nhân
Minh Không thần dị
Nhập mộng liệu bệnh
Ni sư đức hạnh
Cảm khích đồ hành
Điệp tự thi cách
Thi ý thanh tân
Trung trực thiện chung
Thi phúng trung gián
Thi dụng tiền nhân cảnh cú
Thi ngôn tự phụ
Mệnh thông thi triệu
Thi chí công danh
Tiểu thi lệ cú
Thi tửu kinh nhân
Thi triệu dư khương
Thi xứng tướng chức
Thi thán trí quân
Quí khách tương hoan
Nam Ông mộng lục hậu tự

Nam Ông mộng lục tự

南翁夢錄序(胡濙) Nam Ông mộng lục tự (Hồ Huỳnh)
夫日星昭布,雲霞絢麗,天之文也;川嶽流峙,草木華實,地之文也;名物典章,禮樂教化,人之文也。普天率土,星羅碁布之國,莫不咸有是文焉。今工部 左侍郎交南黎公澄孟源,性資明敏,才學優長,與予有同朝之好。間以南翁夢錄一帙見示,且徵言以弁其端。
Phù nhật tinh chiêu bố, vân hà huyến lệ : thiên chi văn dã ; xuyên nhạc lưu trì, thảo mộc hoa thực : địa chi văn dã ; danh vật điển chương, lễ nhạc giáo hóa : nhân chi văn dã. Phổ thiên suất thổ, tinh la kỳ bố chi quốc, mạc bất hàm hữu thị văn yên. Kim Công bô Tả Thị lang Giao Nam Lê công Trừng Mạnh Nguyên, tính tư minh mẫn, tài học ưu trưởng, dữ dư hữu đồng triều chi hiếu. Gian dĩ Nam Ông mộng lục nhất pho kiến thị, thả trưng ngôn dĩ biện kì đoan.
予 徧閱之,南翁乃孟源自號,其所著之文,簡約而 謹嚴,豐瞻而愽洽,緣情指事,陳義措辭,痛快切實,無非叙君臣之等,明彝倫之懿,闡性命道術之奧,紀家國起廢之由。以至褒賛節義,則感慨激烈,可以厲風 俗,稱揚述作,則清新俊逸,可以怡性情,與夫孟源自叙餘慶所鍾云:出自幽谷,遷于喬木;生逢聖世,深沐堯仁,而有此奇遇之說,予有以知孟源之心, 以為偏方之異跡,今得敷張於中夏,徧聞於郡邑,抑且播聲光於後世,苟非叨聖朝亞卿之寵任,則帙中所錄者,將泯滅於遐荒而無聞矣。今茲遭際,遂獲流傳於不 朽,豈不為存沒之大幸也歟?因嘉其能旌善而篤於仁厚,故不辭其請而書此,以冠于篇端云。
正統五年歲庚申,十月望日,資德大夫正治上卿禮部尚書毘陵胡濙書。
Dư biến duyệt chi, Nam Ông nãi Mạnh Nguyên tự hiệu, kì sở trứ chi văn, giản ước nhi cẩn nghiêm, phong chiêm nhi bác hợp, duyên tình chỉ sự, trần nghĩa thố từ, thống khoái thiết thực, vô phi quân thần chi đẳng, minh di luân chi ý, xiển tính mệnh đạo thuật chi áo, kỷ gia quốc khởi phế chi do. Dĩ chí bao tán tiết nghĩa, tắc cảm khái khích liệt, khả dĩ lệ phong tục, xứng dương thuật tác, tắc thanh tân tuấn dật, khả dĩ di tính tình, dữ phù Mạnh Nguyên tự tự dư khánh sở chung vân “xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc, sinh phùng thánh thế, thâm mộc Nghiêu nhân, nhi hữu thử kỳ ngộ” chi thuyết, dư hữu dĩ tri Mạnh Nguyên chi tâm, dĩ vi thiên phương chi dị tích, kim đắc phu trương ư trung hạ, biến văn ư quận ấp, ức thả bá thanh quang ư hậu thế, cẩu phi thao thánh triều Á khanh chi sủng nhiệm, tắc pho trung sở lục giả, tương dẫn diệt ư hà hoang nhi vô văn hĩ. Kim tư tao tế, toại hoạch lưu truyền ư bất hủ, khởi bất vi tồn một chi đại hạnh dã dư ? Nhân gia kì năng tinh thiên nhi đốc ư nhân hậu, cố bất từ kì thỉnh nhi thư thử, dĩ quán vu thiên đoan vân.

Chính Thống ngũ niên tuế Canh Thân, thập nguyệt vọng nhật. Tư đức Đại phu Chính trị Thượng khanh Lễ bộ Thượng thư Tì Lăng Hồ Huỳnh tự.

Dịch nghĩa
Bài tựa sách “Nam Ông mộng lục”(Hồ Huỳnh)

Kìa trời sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, văn của trời đó ; núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, văn của đất đó ; danh vật điển chương, lễ nhạc giáo hóa, văn của người đó. Khắp trong trời đất, có biết bao nhiêu nước, không đâu không có nền văn minh. Nay Công bộ Tả Thị lang Giao Nam Lê công Trừng tự Mạnh Nguyên, tư tính thông minh, tài học hơn người, với tôi có giao hiếu đồng triều. Mới rồi đem Nam Ông mộng lục một cuốn cho xem, lại nhờ dùng lời viết tựa.

Tôi xem một lượt, biết Nam Ông là tự hiệu của Mạnh Nguyên, dùng đó để viết văn, ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình kể việc, lấy ý đặt lời, thú vị thiết thực, lại không quên thứ bậc vua tôi, làm rõ được ý tứ luân thường, nêu lên chỗ sâu sa của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường hưng phế của nhà nước. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì cảm khái bừng bừng, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục ; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu sau, Mạnh Nguyên kể lại phúc trạch của tổ tiên ông hun đúc cho hậu duệ “ra tự hang núi, dời đến cây cao[1], sinh cùng thời thánh, tắm gội nhân Nghiêu nên có chuyện kì ngộ này”, tôi hiểu được tâm ấy của Mạnh Nguyên, đó là dấu tích lạ của một phương, nay được phô trương ở trung hạ, nổi danh khắp quận ấp, hoặc giả thanh danh còn để lại tới hạu thế. Nếu không được thánh triều sủng nhiệm, cho làm Á khanh thì những ghi chép trong sách này sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai nghe đến. Nay nhờ tri ngộ, sách sẽ được lưu truyền bất hủ, há chẳng phải là dịp may lớn trước nguy cơ mai một đó sao ? Nhân vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào nhân hậu của ông nên tôi đã không chối từ, viết vài lời vào đầu thiên sách vậy.

Ngày rằm tháng mười, năm Canh Thân, niên hiệu Chính Thống thứ năm (1440).
Tư đức Đại phu, Chính trị Thượng khanh, Lễ bộ Thượng thư, Hồ Huỳnh người ở Tì Lăng, đề tựa.
南翁夢錄序(胡元澄) Nam Ông mộng lục tự (Hồ Nguyên Trừng)
語稱:十室之邑,必有忠信。如丘者焉,况交南人物,自昔蕃盛,豈可以偏方而遽謂無人乎哉!前人言行才調,多有可取者,至于兵火之間,書籍灰 燼,遂令泯滅無聞,可不惜歟?興思及此,尋繹舊事,遣亡殆盡,猶得百中之一二,集以為書,名之曰南翁夢錄,以備觀覽,一以揚前人之片善,一以資君子之 異聞。雖則區區于小說,亦將少助于燕談。
Ngữ xưng “Thập nhất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu giả yên”, huống Giao Nam nhân vật tự tích phồn thịnh, khởi khả dĩ thiên phương nhi cừ vị vô nhân hồ tai. Tiền nhân ngôn hành, tài liệu, đa hữu khả thủ giả, chí ư binh, hỏa chi gian, thư tịch hôi tận, toại linh dẫn diệt vô văn, khả bất tích dư ? Hưng tư cập thử, tầm dịch cựu sự, di vong đãi tận, do đắc bách trung chi nhất nhị; tập dĩ vi thư, danh chi viết Nam Ông mộng lục dĩ bị quan lãm, nhất dĩ dương tiền nhân chi phiến thiện, nhất dĩ tư quân tử chi dị văn, tuy tắc khu khu ư tiểu thuyết, diệc tương thiểu trợ ư yến đàm.
或問予曰:君所書者,皆是善人,平生聞見,無不善乎?予應之曰:善者我所樂聞,故能記之。不善者非無,吾不 記耳。曰:錄以夢名,其義安在?曰:彼中人物,昔甚繁華,時遷事變,畧無遺迹,惟我一人,知而道之。非夢而何?達人君子,其知之乎?南翁澄自謂 也。
正統三年戊午,重九日,正議大夫資治尹工部左侍郎交南黎澄孟源序
Hoặc vấn dư viết: “Quân sở thư giả, giai thị thiện nhân, bình sinh văn kiến vô bất thiện hồ ?” Dư ứng chi viết: “Thiện giả, ngã sở lạc văn, cố năng ký chi, bất thiện giả phi vô, ngô bất ký nhĩ “. Viết: “Lục dĩ mộng danh, kỳ nghĩa an tại ?” Viết “Bỉ trung nhân vật, tích thậm phồn hoa, thời thiên sự biến, lược vô di tích, duy ngã nhất nhân tri nhi đạo chi, phi mộng nhi hà? Đạt nhân quân tử kỳ tri chi hồ? Nam Ông, Trừng tự vị dã”.
Chính Thống tam niên, Mậu Ngọ, Trùng Cửu nhật. Chính nghị Đại phu, Tư Trị doãn, Công bộ Tả Thị lang, Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên tự.
Dịch nghĩa
Bài tựa sách “Nam Ông mộng lục”(Hồ Nguyên Trừng)

Luận ngữ có câu “Trong một cái ấp mười nhà, tất có người trung tín như Khâu này vậy”, huống gì Giao Nam nhân vật phồn thịnh, chẳng lẽ vì là nơi xa xôi mà vội cho rằng không có nhân tài ? Người xưa, lời nói , việc làm, ghi chép, có nhiều điều khả thủ, nhưng qua cơn binh lửa, sách vở cháy sạch, thành ra bị mất mát không được nghe lại, chẳng đáng tiếc lắm sao ? Nghĩ tới điều này, [tôi bèn] tìm ghi việc cũ, thất lạc gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai ; góp lại thành sách, tên là Nam Ông mộng lục, phòng khi có người xem tới ; một là để biểu dương việc thiện nhỏ của tiền nhân, một là để cung cấp chuyện quái dị cho quân tử , tuy chỉ là tầm thường trong tiểu thuyết, nhưng cũng để góp vui lúc yến đàm.

Hoặc hỏi tôi rằng “Những người ngài ghi, đều là kẻ thiện, vậy thì bình sinh nghe thấy lại không có chuyện bất thiện ư ?” Tôi trả lời rằng “Chuyện thiện, tôi vốn thích nghe, nên mới ghi được, bất thiện không phải không có, chẳng qua không nhớ được thôi”. Lại hỏi “Lấy tên là mộng, ý nghĩa ở đâu ?” Trả lời “Nhân vật trong này, trước rất phồn hoa, đời thay việc đổi, dấu xưa không còn, còn mỗi một người biết chuyện mà thôi, không phải mộng là gì ? Đạt nhân quân tử có hiểu cho không ? Nam Ông, tên tự của Trừng vậy”,

Ngày Trùng Cửu, năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống thứ ba (1438).
Chính nghị Đại phu, Tư Trị doãn, Công bộ Tả Thị lang, Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên đề tựa.

Chú thích
▲ Đây là thơ trong bài Phạt mộc, phần Tiểu nhã của Kinh Thi. Hồ Nguyên Trừng trích câu này trong thiên Thi triệu dư khương, kể về tổ tiên bên ngoại của Hồ Quý Ly là Nguyễn Thánh Huấn

藝王始末
Nghệ Vương thủy mạt
安南陳家第八代王諱叔明,明王第三子,次妃黎氏所生也。為王子時,號曰恭定,性淳厚孝友,恭儉明斷,博學經史,不喜浮華。陳家舊例,有子既長,即使承正位,而父退居北宮,以王父尊稱,而同聽政,其實但傳名器以定後事,備倉卒爾,事皆取決於父,嗣王無異於世子也。
An Nam Trần gia đệ bát đại vương húy Thúc Minh, Minh Vương đệ tam tử, thứ phi Lê thị sở sinh dã. Vi Vương tử thời, hiệu viết Cung Định, tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm minh đoán, bác học kinh sử, bất hỉ thù hoa. Trần gia cựu lệ, hữu tử ký trưởng, tức sử thừa chính vị, nhi phụ thoái cư Bắc cung, dĩ Vương phụ tôn xưng, nhi đồng thinh chính, kỳ thực đãn truyền danh khí dĩ định hậu sự, bị thảng tốt nhĩ, sự giai thủ quyết ư phụ, tự vương vô dị ư Thế tử dã.
初,明王庶長子既立,是為憲王,而嫡子始生,長曰恭肅,痴昧不任人事。次曰祿星,年未出幼而憲王歿。且無嗣,祿星承父命繼立,是為裕王。庶兄恭靖拜太尉,恭定拜左相。恭定忠信誠確,事君與親,謹慎毫髪,人無間言。接物不親不疎,臨政無咎無譽。明王棄世,居喪三年,淚不干睫,服除,衣無彩色,食不重味,庵蘿果海,豚魚是南方珍味,自此絕不到口。事裕王十有餘年,裕王夭,而無嗣。大臣議曰:左相甚賢,然兄無嗣弟之義。乃以國母令,召立恭肅子忘名為王。是時,恭肅亦巳早世,子既立,以眾議進拜大尉為太宰,左相為太師,左相弟恭宣為右相。恭肅子少不學,好遊俠,人言妾母私通外人楊氏所生,故為宗族素所輕賤。既嗣位,居喪無戚容,舉動多失禮,擢用親暱小人,蔑視祖父,卿士不滿。期年,宗族無狀者,相與作亂。既捕獲,誅戮連累,枉殺甚眾。又潛謀盡去陳氏之有名目者,乃殺太宰於家。
Sơ, Minh Vương thứ trưởng tử ký lập, thị vị Hiến Vương, nhi đích tử thủy sinh, trưởng viết Cung Túc, si muội bất nhiệm nhân sự. Thứ viết Lộc Tinh, niên vị xuất ấu nhi Hiến Vương một, thả vô tự, Lộc Tinh thừa phụ mệnh kế lập, thị vi Dụ Vương. Thứ huynh Cung Tĩnh bái Thái úy, Cung Định bái Tả tướng. Cung Định trung tín thành xác, sự quân dữ thân, cẩn thận hào phát, nhân vô gián ngôn. Tiếp vật bất thân bất sơ, lâm chính vô cữu vô dự. Minh Vương khí thế, cư tang tam niên, lệ bất can tiệp, phục trừ, y vô thái sắc, thực bất trọng vị, am la quả hải đồn ngư thị Nam phương trân vị, tự thử tuyệt bất đáo khẩu. Sự Dụ Vương thập hữu dư niên, Dụ Vương yểu nhi vô tự. Đại thần nghị viết “Tả tướng thậm hiền, nhiên khuynh vô tự đệ chi nghĩa”, nãi dĩ Quốc mẫu lệnh triệu lập Cung Túc tử Vong Danh vi vương. Thị thời, Cung Túc diệc dĩ tảo thế. Tử ký lập, dĩ chúng nghị, tiến bái Thái úy vi Thái tể, Tả tướng vi Thái sư, Tả tướng đệ Cung Tuyên vi Hữu tướng. Cung Túc tử thiếu bất học, hiếu du hiệp. Nhân ngôn thiếp mẫu tư thông ngoại nhân Dương thị sở sinh, cố vi tông tộc tố sở khinh tiện. Ký tự vị, cư tang vô thích dung, cử động thất đa lễ, trạc đụng thân nặc tiểu nhân, miệt thị tổ phụ, khanh sĩ bất mãn. Cơ niên tông tộc vô trạng giả tương dữ tác loạn, ký bổ hoạch tru lục, liên lụy uổng sát thậm chúng. Hựu tiềm mưu tận khử Trần thị chi hữu danh mục giả, nãi sát Thái tể vu gia.
太師夜遁,迄旦,宗族官寮盡挈家奔,都城為之蕭索。太師間道得至竆邊蠻峒,意欲自盡,左右持之,峒人留寓,旬月,人頗知之。宗族官寮相繼尋至,恭肅子遣軍追捕者,亦盡歸投。右相唱率群寮,勸請還都,以清君側。太師鳴咽謝曰:諸君早返城邑,善護明君,易亂致治,尊安社稷。某死,亦受賜。某得罪於主,脫身逃竄,待斃山林幸矣,豈敢有他。諸君幸勿相迫。眾皆喧嘩不巳,再三懇切上書,誓死無易,逼請就途,肩轝出山,遠近雲集,歡聲震天。將至都三百裡,老將阮吾郎教恭肅子,出手書罪巳辭位,巳而擁出迎謝。恭肅子伏地請罪,太師亦僕地,相抱慟哭,盡哀曰:主上何至如此?臣之不幸,豈意有今日也。右相拔劒,厲聲曰:天命討罪,罪人安得多言。相王豈可以煦煦之仁,失於大義。乃叱將軍掖去,促有司備禮,奉太師即王位,廢恭肅子為昏德公。王入城,謁廟涕泣,告曰:今日之事,非臣意所及,以社稷故,不得辭免。有乖忠孝,慙懼在懷。願自黜尊榮,以少酬素志。乃下令:勿用王車轝,衣服器物黑漆,無以金寶丹朱,其餘飲食服用,依前節儉,終身之喪,歿世無改。乃革亂政,率舊章,明賞罰,用賢良,以巳子不才,難堪大事,期年,使弟右相嗣位,而同聽政,是為睿王。
Thái sư dạ độn, hất đán, tông tộc quan liêu tận khiết gia bôn, đô thành vị chi tiêu sách. Thái sư gián đạo đắc chí cùng biên Man động, ý dục tự tận, tả hữu tri chi, động nhân lưu ngụ tuần nguyệt, nhân phả tri chi. Tông tộc quan liêu tương kế tầm chí. Cung Túc tử khiển quân truy bổ giả diệc tận quy đầu. Hữu tướng xướng suất quần liêu khuyến thỉnh hoàn đô, dĩ thanh quân trắc. Thái sư ố yến tạ viết “Chư quân tảo phản thành ấp, thiện hộ minh quân, dịch loạn trí trị, tôn an xã tắc, mỗ tử diệc thụ tứ. Mỗ đắc tội vu chúa, thoát thân đào thoán, đãi tễ sơn lâm hạnh hĩ, khởi cảm hữu tha. Chư quân hạnh vật tương bức”. Chúng giai huyên hoa bất dĩ, tái tam khẩn thiết thướng thư thệ tử vô dịch, bức thỉnh tựu đồ, kiên dư xuất sơn. Viễn cận vân tập, hoan thanh chấn thiên. Tương chí đô tam bách lý, lão tướng Nguyễn Ngô Lang giáo Cung Túc tử xuất thủ thư tội kỷ từ vị, dĩ nhi ủng xuất nghênh tạ. Cung Túc tử phục địa thỉnh tội. Thái sư diệc phó địa, tương bão đỗng khốc tận ai, viết “Chúa thượng hà chí như thử ? Thần chi bất hạnh, khởi ý hữu kim nhật dã”. Hữu tướng bạt kiếm lệ thanh viết “Thiên mệnh thảo tội, tội nhân an đắc đa ngôn ? Tướng vương khởi khả dĩ hú hú chi nhân thất ư đại nghĩa ?” Nãi sất tướng quân dịch khứ, xúc hữu tư bị lễ phụng Thái sư tức vương vị, phế Cung Túc tử vi Hôn Đức Công. Vương nhập thành yết miếu, thế khấp cáo viết “Kim nhật chi sự phi thần ý sở cập. Dĩ xã tắc cố, bất đắc từ miễn. Hữu quai trung hiếu, tàm cụ tại hoài. Nguyện tự truất tôn vinh dĩ thiểu thù tố chí”. Nãi hạ lệnh vật dụng vương xa dư, y phục khí vật hắc tất, vô dĩ kim bảo đan chu. Kỳ dư ẩm thực phục dụng y tiền tiết kiệm, chung thân chi tang một thế vô cải. Nãi cách loạn chính, suất cựu chương, minh thưởng phạt, dụng hiền lương. Dĩ kỷ tử bất tài nan kham đại sự, cơ niên sử đệ Hữu tướng tự vị, nhi đồng thính chính, thị vi Duệ Vương.
先是,占城乘國釁,數來寇,睿王即位三年,乃親伐占城,敗績,不返。王以睿王之子晛嗣位。久之,覘聽奸臣,行不道,王憂社稷傾覆,涕泣而廢之,號曰靈德公。以王小子顒入嗣位,是為順王。歷七載,父王薨,時洪武二十七年甲戌,塟於安生山,諡曰藝。
Tiên thị, Chiêm Thành thừa quốc hán sác lai khấu. Duệ Vương tức vị tam niên, nãi thân phạt Chiêm Thành, bại tích bất phản, Vương dĩ Duệ Vương chi tử Hiện tự vị. Cửu chi, chiêm thính gian thần, hành bất đạo, Vương ưu xã tắc khuynh phúc, thế khấp nhi phế chi, hiệu viết Linh Đức Công. Dĩ vương tiểu tử Ngung nhập tự vị, thị vi Thuận Vương. Lịch thất tải, phụ vương hoăng. Thời Hồng Vũ nhị thập thất niên, Giáp Tuất, táng vu An Sinh Sơn, thụy viết Nghệ.
初,藝王為兒時,八九歲,侍明王。適床上有竹奴,試命詠之。乃佔口應曰
有偉此君
中空外勁
削汝為奴
恐傷天性。
明王異之,佯叱曰:此不成語,勿記錄。乃戒師傅,毋令作詩。君子謂天命有兆,誰能禦之?後果然矣。即位之後,盡取兄弟姊妹子女孫侄之孤幼者,鞠飬宮中,視同巳出,宗族遠近,咸被恩憐。有遭亂後,貧窶不能婚嫁者,婚嫁之;未葬者,葬之。末泒支流,莫不收錄,翕然戚裡,盎若春和,國人化之,俗漸淳厚。此土之君,斯其賢者歟。
Sơ Nghệ Vương vi nhi thời, bát cửu tuế thị Minh Vương, thích sàng thượng hữu trúc nô, thí mệnh vịnh chi, nãi chiêm khẩu ứng viết
Hữu vĩ thử quân
Trung không ngoại kính
Tước nhữ vi nô
Khủng thương nhân tính
Minh Vương dị chi, dương sát viết “Thử bất thành ngữ, vật ký lục”. Nãi giới sư phó vật linh tác thi. Quân tử vị thiên mệnh hữu triệu, thùy năng ngự chi, hậu quả nhiên hĩ. Tức vị chi hậu, tận thủ huynh đệ tỉ muội tử nữ tôn diệt chi cô ấu giả cúc dưỡng cung trung, thị đồng kỷ xuất. Tông tộc viễn cận hàm bị ân liên. Hữu tao loạn hậu, bần lũ bất năng hôn giá giả, hôn giá chi; vị táng giả, táng chi; mạt phái chi lưu, mạc bất thu lục. Hấp nhiên thích lý áng nhược xuân hòa. Quốc nhân hóa chi, tục tiệm thuần hậu. Thử thổ chi quân tư kỳ hiền giả dư ?
Dịch nghĩa
Truyện vua Nghệ Vương[1]

Vua thứ tám nhà Trần ở nước An Nam húy Thúc Minh[2], con thứ ba của Minh Vương, do thứ phi họ Lê sinh ra. Lúc còn làm Vương tử, hiệu Cung Định Vương, tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm sáng suốt, học khắp kinh sử, không thích phù hoa. Lệ cũ nhà Trần, khi con đã lớn, bèn cho kế vị, còn vua cha thì lui về ở Bắc cung, xưng làm Vương phụ[3], cùng coi chính sự, kì thực là truyền ngôi danh nghĩa để ổn định chuyện sau, phòng khi vội vã, chứ mọi việc đều do vua cha quyết định, tự vương không khác gì Thế tử vậy.

Vốn là, lúc thứ trưởng tử của Minh Vương là Hiến Vương lên ngôi, thì đích tử[4] mới sinh, trưởng là Cung Túc Vương[5], ngu dốt chuyện đời ; thứ là Lộc Tinh[6], tuổi còn thơ ấu thì Hiến Vương mất, lại vô tự, nên Lộc Tinh đã vâng mệnh lên ngôi, ấy là Dụ Vương. Thứ huynh Cung Tĩnh Vương[7]làm Thái úy, Cung Định Vương làm Tả Tướng quốc. Cung Định Vương trung tín thành thực, thờ vua thờ cha, chu đáo đến từng chân tơ sợi tóc, không ai chê trách. Giao tiếp không thân không sơ ; chính sự không chê không khen. Minh Vương qua đời, để tang ba năm, mắt không ráo lệ, trừ phục, quần áo không màu mè, ăn uống không cầu ngon ; quả muỗm cá heo[8] là trân vị phương Nam, từ đấy tuyệt nhiên không tới miệng. Thờ Dụ Vương hơn mười năm. Khi Dụ Vương mất sớm, vô tự, đại thần bàn rằng “Tả tướng rất hiền, nhưng không lẽ anh lại kế ngôi em”, bèn theo lệnh Quốc mẫu đón con của Cung Túc Vương là Vong Danh[9] làm vua. Bấy giờ, Cung Túc cũng đã sớm mất. Sau khi con Cung Túc làm vua, theo triều nghị, phong Thái úy lên làm Thái tể, Tả tướng làm Thái sư, và em của Tả tướng là Cung Tuyên Vương[10] làm Hữu tướng. Con Cung Túc nhỏ không chịu học, chỉ thích lêu lổng[11]. Người ta đồn bà mẹ tư thông với kẻ ngoại nhân họ Dương rồi đẻ con, nên Vong Danh thường bị người tôn thất khinh rẻ. Kế vị rồi, lúc cư tang không tỏ vẻ đau buồn, cử chỉ phần nhiều thất lễ, cất nhắc bọn tiểu nhân thân cận, miệt thị tổ phụ, khanh sĩ bất mãn. Năm sau, những người tôn thất bướng bỉnh cùng nhau làm loạn, bị bắt đem chém phanh thây, người liên lụy bị giết oan rất đông. Lại ngầm mưu khử sạch người họ Trần có danh vọng, bèn giết Thái tể ngay tại nhà[12].

Thái sư đang đêm lẻn trốn, sáng sớm, tông tộc quan liêu mang gia quyến chạy hết, đô thành vì vậy vắng tanh. Thái sư đi đường tắt đến tận vùng Man động, ý muốn tự tận, tả hữu ngăn lại. Người động giữ ở lại hàng tháng, ai cũng biết tiếng. Tông tộc quan liêu nối nhau tìm đến. Con Cung Túc sai quân đi bắt cũng lại quay đầu theo về. Hữu tướng đốc thúc các quan khuyên mời về kinh để dẹp yên cung cấm. Thái sư sụt sùi từ tạ “Chư quân sớm về thành ấp, khéo giúp minh quân, chuyển loạn thành trị, tôn an xã tắc, mỗ chết vẫn chịu ơn. Mỗ có tội với Chúa thượng, thoát thân chạy trốn, chờ chết ở chốn núi rừng này đã là may, dám có lòng dạ khác. Chư quân chớ gò ép”. Mọi người xôn xao, ba lần khẩn thiết dâng thư thề chết không đổi, cố ép lên đường, dùng vai làm kiệu đưa xuống núi. Gần xa mây tụ, hò reo vang trời. Về cách đô thành ba trăm dặm, lão tướng Nguyễn Ngô Lang bảo con Cung Túc tự tay viết thư nhận tội thoái vị, mang ra nghênh tạ. Con Cung Túc phục xuống chịu tội. Thái sư cũng quì xuống đất, ôm lấy, khóc lóc ai oán, nói “Chúa thượng phải đến thế này sao ? Thần bất hạnh, không ngờ có ngày hôm nay”. Hữu tướng tuốt kiếm thét lớn, nói “Trời sai trị tội, tội nhân sao được lắm lời? Tướng vương[13] lẽ nào vì chút nhân cỏn con mà bỏ đại nghĩa ?”. Bèn quát quân tướng lôi con Cung Túc đi, giục Hữu tư chuẩn bị lễ rước Thái sư lên ngôi vua, phế con Cung Túc làm Hôn Đức Công. Vua vào thành yết miếu, khóc mà cáo rằng “Ngày này thật ngoài ý muốn của thần. Vì xã tắc bền vững, không thể nào từ chối. Lỗi đạo hiếu trung, thẹn sợ trong lòng. Nguyện tự bỏ tôn vinh để thỏa phần nào chí cũ”. Bèn hạ lệnh không dùng vương xa, quần áo đồ vật sơn đen, không dùng châu báu vàng son. Các thức ăn mặc tiêu dùng tiết kiệm như trước, suốt đời mang tang trở không thay đổi. Bèn dứt loạn chính, noi theo nếp cũ, thưởng phạt công minh, dùng kẻ hiền lương. Thấy con mình bất tài khó đương đại sự, được một năm cho em là Hữu tướng kế vị, cùng coi triều chính, đó là Duệ Vương.

Trước đó, Chiêm Thành thừa lúc trong nước có việc, đến cướp. Duệ Vương lên ngôi được ba năm, thân chinh phạt tội Chiêm Thành, thua to không về. Vương cho con Duệ Vương là Hiện kế vị. Ít lâu sau, nghe lời gian thần, làm việc vô đạo, Vương lo xã tắc nghiêng đổ, than khóc mà phế đi, gọi là Linh Đức Công[14]. Lấy con út là Ngung kế vị, đó là Thuận Vương. Được bảy năm, vua cha mất. Bấy giờ là năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Vũ thứ hai mươi bảy[15]. Táng ở núi Yên Sinh, thụy là Nghệ.

Xưa kia, Nghệ Vương còn nhỏ, tám chín tuổi theo hầu Minh Vương, trên giường có chiếc chiếu trúc, bảo vịnh thử, ứng khẩu đọc rằng

Có người quân tử cao lớn
Trong thì rỗng mà ngoài thì cứng
Bắt nó dùng làm đày tớ
Sợ gây tổn thương nhân tính[16]
Minh Vương ấy làm lạ, vờ mắng rằng “Chẳng ra lời lẽ, đừng ghi chép lại”[17]. Bèn dặn Sư phó không dạy làm thơ nữa. Người quân tử nói “Mệnh trời đã hiện, không ai cản nổi”, sau quả nhiên thế. Sau khi lên ngôi, [Nghệ Vương] nhặt hết con cái cháu chắt côi cút trong anh chị em đưa vào cung nuôi nấng, coi như con đẻ. Tông tộc xa gần đều yêu thương đùm bọc. Sau cơn loạn lạc, kẻ nào nghèo khổ không thể cưới xin được, thì lấy vợ gả chồng cho họ ; người nào chưa được chôn cất, thì chôn cất cho họ ; cả điều vặt vãnh chi tiết, không có gì là không thu nhặt chép lại. Xóm giềng hòa hợp, đầm ấm như tiết xuân. Người trong nước được cảm hóa, phong tục dần dần trở nên thuần hậu. Vua ở đất này cũng có người tốt đến thế ư ?

Chú thích
▲ Vì Hồ Nguyên Trừng trước tác tác phẩm này lúc làm quan ở Trung Quốc, nên chỉ gọi miếu hiệu các vua Việt Nam bằng vương tước, là tước của Trung Quốc phong cho.
▲ Sử sách Việt Nam ghi rằng ông húy là Phủ 暊
▲ Thực ra xưng là Thái Thượng hoàng
▲ Đích tử là con của vợ đích (vợ cả, thường là Hoàng hậu), còn thứ trưởng tử là con vợ thứ (như các phi tần).
▲ Cung Túc Vương Trần Nguyên Dục (? – 1364), con trai của Trần Minh Tông và Hiển Từ Hoàng hậu
▲ Sử sách Việt Nam ghi rằng ông húy là Hạo 暭
▲ Trần Nguyên Trác (1319 – 1370), con trai của Trần Minh Tông, làm Thái tể, sau bị Dương Nhật Lễ giết vì âm mưu đảo chính
▲ Nguyên văn :hải đồn ngư với chữ đồn là con heo (lợn), nên đây có thể dịch là cá heo. Không nên lầm sang hải điều ngư tức cá hồng
▲ Sử sách Việt Nam chép tên là Nhật Lễ 日禮
▲ Tức Trần Duệ Tông
▲ Dịch chữ du hiệp, chỉ những người hiệp khách đi lại đó đây thời xưa. Nhà nho thường bài bác họ
▲ Sự kiện xảy ra vào ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1370, Thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết, hai người con của công chúa Thiên Ninh cùng người tôn thất, tất cả 18 người, ngầm mưu ám sát Nhật Lễ. Chuyện bị bại lộ, cả đám đều chết
▲ Chỉ Nghệ Tông
▲ Năm Xương Phù thứ mười hai đời Trần Phế Đế (1388), vua cùng Thái úy Trần Ngạc ngầm mưu giết Hồ Quý Ly và phe cánh, việc bại lộ, Quý Ly xui Nghệ Tông phế vua rồi giết đi, cùng giết phe cánh của vua.
▲ 1394
▲ Chiếu chúc trong Hán tự là trúc nô 竹奴. Ý nói trúc là giống cây quân tử, trong lòng rỗng mà ngoài thì cứng cáp, lấy nó làm chiếu trúc thì sợ rằng sẽ gây tổn thương tự trọng. Bài thơ khuyên vua phải biết dùng người, không nên làm nhục kẻ sĩ
▲ Theo phép chép sử ngày xưa, triều đình đặt sử quan, dùng để ghi lại việc làm và hành động của vua cũng như triều đình, quốc gia, biên chép thành thực lục để làm căn cứ soạn quốc sử. Ở đây Minh Tông ra lệnh cho sử quan đừng ghi lại bài thơ này vậy

Trúc Lâm thị tịch

竹林示寂
Trúc Lâm thị tịch
陳氏第三代王曰仁王,既傳位世子,乃出家脩行,刻苦精進,慧解超脫,為一方祖師。庵居安子山紫霄峰,自號竹林大士。其姊號曰天瑞,多失婦道,大士在紫霄聞姊病亟,乃下山往視,謂天瑞曰:姊若時至,自去見冥間,問事則應曰:願少待,我弟竹林大士且至。言訖,還山數日,至庵,分付弟子後事,奄然坐化。天瑞亦以是日卒。
Trần thị đệ tam đại viết Nhân Vương, ký truyền vị Thế tử, nãi xuất gia tu hành, khắc khổ tinh tiến, tuệ giải siêu thoát, vi nhất phương tổ sư. Am cư Yên Tử sơn Tử Tiêu phong, tự hiệu Trúc Lâm Đại sĩ. Kỳ tỉ hiệu viết Thiên Thụy đa thất phụ đạo. Đại sĩ tại Tử Tiêu, văn tỉ bệnh cức, nãi hạ sơn vãng thị, vị Thiên Thụy viết “Tỉ nhược thời chí, tự khứ, kiến Minh gian vấn sự tắc ứng viết : Nguyện thiếu đãi, ngã đệ Trúc Lâm Đại sĩ thả chí”. Ngôn bất hoàn sơn. Sổ nhật chí am, phân phó đệ tử hậu sự, yểm nhiên tọa hóa. Thiên Thụy diệc dĩ thị nhật tốt.
Dịch nghĩa
Chuyện Trúc Lâm Đại sĩ viên tịch

Vua thứ ba của họ Trần là Nhân Vương, sau khi truyền ngôi cho Thế tử, bèn xuất gia tu hành, khắc khổ tinh tiến, tuệ giải siêu thoát, là tổ sư một phương. Làm am sống ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm Đại sĩ. Chị ngài hiệu là Thiên Thụy[1], nhiều điều trái đạo đàn bà. Đại sĩ ở Tử Tiêu, nghe tin chị hấp hối, bèn xuống núi lại thăm, nói với Thiên Thụy “Nếu chị đến lúc rồi thì cứ đi, thấy Minh gian[2] hỏi chuyện thì trả lời là : Xin đợi một chút, em ta là Trúc Lâm Đại sĩ sẽ đến sau”. Nói xong về núi. Đi mấy ngày đến am, dặn dò đồ đệ hậu sự, bỗng nhiên ngồi hóa. Thiên Thụy cũng ngày hôm đó chết.

Chú thích
▲ Công chúa Thiên Thụy (? – 1308), con gái của Trần Thánh Tông, lấy chồng là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại Vương, nhưng lại thông dâm với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Có lẽ vì vậy mà Hồ Nguyên Trừng chê bà là trái đạo đàn bà. Chết cùng ngày với Trần Nhân Tông
▲ Âm phủ còn được gọi là Minh ti, Minh gian

Tổ linh định mệnh

祖靈定命
Tổ linh định mệnh
仁王示寂時,其子英王未有嫡嗣,止有庶子意,且待嫡子而後定嗣位。至茶毘後,封骨時,子孫環拜,舍利飛入庶孫袖裏而放光,既收,又入。英王拜曰:敢不奉命?收之,乃定。尋以庶子為世子。既久,嫡母生男,不育,庶子終嗣王位,是為明王。
Nhân Vương thị tịch thời, kỳ tử Anh Vương vị hữu đích tự, chỉ hữu thứ tử, ý thả đãi đích tử nhi hậu định tự vị. Chí trà tỉ hậu phong cốt thời, tử tôn hoàn bái, xá lị phi nhập thứ tôn tụ lý, nhi phóng quang, ký thu hựu nhập. Anh Vương bái viết “Cảnh bất phụng mệnh”. Thu chi, nãi định. Tầm dĩ thứ tử vi Thế tử. Ký cửu, đích mẫu sinh nam, bất dục, thứ tử chung tự vương vị, thị vi Minh Vương.
Dịch nghĩa
Linh hồn người ông định ngôi vị cho cháu

Lúc Nhân Vương viên tịch, con là Anh Vương chưa có con đích kế tự, chỉ có con thứ, có ý chờ sau khi sinh con đích sẽ quyết định người nối ngôi. Đến sau khi hỏa táng, lúc bọc cốt, tử tôn chung quanh bái lạy, xá lị bay vào ống tay áo của người cháu thứ, phát ra hào quang, lấy ra lại bay vào. Anh Vương vái rằng “Đâu dám không phụng mệnh”. Lấy ra, bèn yên. Lấy con thứ làm Thế tử. Về sau, đích mẫu sinh con trai, không nuôi được, cuối cùng người con thứ nối ngôi vua, đó là Minh Vương.

德必有位
Đức tất hữu vị
明王既嗣王位,久之,嫡母生男。至週晬時,英王巡邊在外,家事先決於嗣王。有司以周晬禮請,乃命以世子例行之。有司以王故,難之。王曰:何疑乎?初以嫡嗣未生故,我權在此位。今既生矣,待長,復闢何難?曰:此事前古多危,請慎思之。王曰:順義行之,安危何足慮也!卒以世子例行之。朞年而嫡嗣歿,王甚哀之,君子謂:明王誠心不顧於安危,讓德克光於今古,傳曰有德者,必有其位,其斯之謂歟。
Minh Vương ký tự vương vị, cửu chi, đích mẫu sinh nam. Chí chu tối thời, Anh Vương tuần biên tại ngoại, gia sự tiên quyết vu tự vương. Hữu tư dĩ chu tối lễ thỉnh, nãi mệnh dĩ Thế tử lễ hành chi. Hữu tư dĩ vương cố nan chi, vương viết “Hà nghi hồ ? Sơ dĩ đích tự vị sinh, cố ngã quyền tại thử vị ; kim ký sinh hĩ, đãi trưởng phục tích, hà nan ?”. Viết “Thử sự, tiền cổ đa nguy, thỉnh thận tư chi” Vương viết “Thuận nghĩa hành chi, an nguy hà túc lự dã”. Tốt dĩ Thế tử lễ hành chi. Cơ niên nhi đích tự một, vương thậm ai chi. Quân tử vị Minh Vương thành tâm, bất cố ư an nguy, nhượng đức khắc quang vu kim cổ. Truyện viết “Hữu đức giả tất hữu kỳ vị”, kỳ tư chi vị dư?
Dịch nghĩa

Khi Minh Vương được lên làm vua, ít lâu sau, đích mẫu sinh con trai. Đến ngày đầy tuổi tôi, Anh Vương đi tuần ngoài biên, việc nhà đều do tự vương quyết định. Hữu tư đến thỉnh về lễ đầy tuổi tôi, mệnh rằng tiến hành theo lễ Thế tử[1]. Hữu tư thấy có vương rồi, khó xử. Vương bảo “Ngại cái gì ? Trước đây đích tử chưa sinh, nên ta tạm ở ngôi này ; nay đã sinh rồi, đến khi lớn lên thì trao lại ngôi vua, khó gì ?”. Người kia nói “Việc này, trước đây thường sinh nhiều chuyện nguy hiểm, xin nghĩ cho kỹ”. Vương nói “Cứ thuận nghĩa mà làm, hơi đâu lo an nguy”. Rốt cuộc, dùng lễ Thế tử mà cử hành. Được một năm đích tử mất, vương thương xót lắm. Quân tử cho rằng Minh Vương thành tâm, bất chấp an nguy, đức nhường nhịn sáng soi kim cổ. Truyện[2] nói “Có đức thì tất có địa vị”, để chỉ chuyện này chăng ?

Chú thích
▲ Tức làm lễ đầy tuổi tôi theo nghi thức cho Thế tử, người sẽ nối ngôi vua
▲ Tả truyện

婦德貞明
Phụ đức trinh minh
陳睿王正妃黎氏,靈德之母也。初,睿王出師,不返,妃乃披剃為尼。會藝王以靈德嗣位,妃為之辭讓,不得,乃涕泣,謂親人曰:吾兒薄福,難堪大位,足以取禍爾。故主棄世,未亡人惟欲速死,不欲見世事,況兒子之將危乎。乃精脩苦行,朝夕經懺,以報主恩。不五六年,燃臂煉頂,無不備至,遂以入定示寂。後至靈德見廢,人皆服其藻鑑先知,且感事君之誠,貞婦之節,一歸佛氏,便造門庭,如此之深也,誰不哀傷而嘉獎乎。雖陳家先世妃嬪多有賢者,而此妃出於其後,又欲過之,何其偉歟。
Trần Duệ Vương Chính phi Lê thị, Linh Đức chi mẫu dã. Sơ, Duệ Vương xuất sư bất phản, Phi nãi phi thế vi ni. Hội Nghệ Vương dĩ Linh Đức tự vị, Phi vị chi từ nhượng, bất đắc, nãi thế khấp vị thân nhân viết “Ngô nhi bạc phúc, nan kham đại vị, túc dĩ thủ họa nhĩ. Cố chủ khi thế, vị vong nhân duy dục tốc tử, bất dục kiến thế sự, huống nhi tử chi tương nguy hồ ?”. Nãi tinh tu khổ hạnh, triêu tịch kinh sám dĩ báo chúa ân, bất ngũ lục niên nhiên tí luyện đỉnh vô bất bị chí, toại dĩ nhập định thị tịch. Hậu chí Linh Đức kiến phế, nhân giai phục kỳ tảo giám tiên tri. Cụ cảm sự quân chi thành, trinh phụ chi tiết, nhất quy Phật thị tiện tháo môn đình như thử chi thâm dã, thùy bất ai thương nhi gia tưởng hồ? Tuy Trần gia tiên thế phi tấn đa hữu hiền giả, nhi thử phi xuất vu kỳ hậu hựu dục quá chi, hà kỳ vĩ dư ?
Dịch nghĩa
Đức kiên trinh và sáng suốt của người đàn bà

Chính phi của Trần Duệ Vương, họ Lê, là mẹ của Linh Đức Công. Trước kia, Duệ Vương xuất quân không về, Phi bèn gọt tóc làm ni. Gặp lúc Nghệ Vương lấy Linh Đức nối ngôi, Phi đã cố từ chối, không được, mới khóc lóc nói với người thân rằng “Con ta phúc bạc, khó đương ngôi to, chỉ mắc tai vạ thôi. Cố chúa lìa đời, kẻ vong nhân chỉ muốn chết cho chóng, không muốn thấy việc đời, huống gì là thấy con mình sắp nguy khốn ư ?”. Rồi dốc chí tu hành, sớm chiều tụng niệm để báo ơn chúa, chưa đầy năm sáu năm mà chân tay đốt trán làm đủ mọi phép, rồi viên tịch trong khi nhập định. Về sau Linh Đức bị phế, ai cũng phục là người sáng suốt thấy trước sự việc. Và lại, cảm sự chân thành thờ vua, cũng như tiết tháo kiên trinh, vừa nhập cửa Phật thì đi giác ngộ đến sâu thẳm, ai mà chẳng thương xót ngợi khen ? Tuy phi tần đời trước của nhà Trần cũng có lắm người hiền, nhưng người Phi này sinh sau lại gần hơn hẳn, sao mà vĩ đại thế ?

聞喪氣絕
Văn tang khí tuyệt
陳太王女,號曰韶陽。方坐蓐時,王巳旬月不豫,數遣人起居,左右紿曰:王巳平復無事。至棄世日,忽聞鍾聲連響,曰:得非不諱事耶 ?左右紿之,不聽,乃慟哭長號,氣絕瞑目而逝。
Trần Thái Vương nữ hiệu viết Thiều Dương. Phương tọa thục thời, Vương dĩ tuần nguyệt bất dự. Sác khiểu nhân khởi cư, tả hữu đãi viết “Vương dĩ binh phục vô sự”. Chí khí thế nhật, hốt văn chung thanh liên hưởng, viết “Đắc phi bất húy sự da ?” Tả hữu đãi chi, bất thính, nãi đỗng khốc trường hào, khí tuyệt, minh mục nhi thệ.
Dịch nghĩa
Nghe tang tắt thở

Con gái Trần Thái Vương hiệu là Thiều Dương[1]. Khi đang ở cữ, vương không khỏe đã một tháng. Nhiều lần sai người đến thăm hỏi nhưng tả hữu nói dối rằng “Vua đã bình phục vô sự”. Đến ngày lìa đời, bỗng nghe tiếng chuông đánh liên hồi, nói “Có phải việc chẳng lành chăng ?”. Tả hữu nói dối, không nghe, cứ khóc lóc kêu gào, tắt thở, mắt mờ đi mà mất.

文貞鯁直
Văn Trinh ngạnh trực
朱安,號樵隱,交趾上福人也。性廉直剛介,居家,篤好讀書,學業精醇,名聞遠近,弟子盈門,相繼躡青雲,登政府者往往有之。安恬澹寡欲,不赴應舉。至元 間,陳氏明王徵拜國子司業,授世子經,尋遷太學祭酒。明王歿,其子裕王逸豫,怠于聽政,權臣稍多不法。安數諫,不聽;又上疏乞斬姦臣七人,皆權幸者,時人 號為 七斬疏,既入,不報。安乃掛冠,歸田里。後裕王歿,國頗亂,羣臣迎立藝王。安聞之,大喜,杖策上謁,旋乞還鄉,以老病辭,不受封拜,乃賜號文貞先 生,厚禮送回。久之,壽終于家。都城人士景仰高風,莫不嗟悼。
Chu An hiệu Tiều Ẩn, Giao chỉ Thượng Phúc nhân dã. Tính liêm trực cương giới. Cư gia đốc hiếu độc thư, học nghiệp tinh thuần, danh văn viễn cận. Đệ tử doanh môn, tương kế nhiếp thanh vân, đăng chính phủ giả, vãng vãng hữu chi. An điềm đạm quả dục, bất phó ứng cử. Chí Nguyên gian, Trần Thị Minh Vương trưng bái Quốc tử Tư nghiệp, thụ Thế tử kinh, tầm thiên Thái học Tế tửu. Minh Vương một, kỳ tử Dụ Vương dật dự, đãi vu thính chính, quyền thần sảo đa bất pháp, An sác gián bất thính, hựu thướng sớ khất trảm gian thần thất nhân, giai quyền giả, thời nhân hiệu vi Thất trảm sớ. Ký nhập bất bao, An nãi quải quan quy điền lý. Hậu Dụ Vương một, quốc phả loạn. Quần thần nghênh lập Nghệ Vương, An văn chi đại hỉ, trượng sách thượng yết, toàn khất hoàn hương, dĩ lão bệnh từ, bất thụ phong bái. Nãi tứ hiệu Văn Trinh tiên sinh, hậu lễ tống hồi. Cửu chi, thọ chung vu gia. Đô thành nhân sĩ cảnh ngưỡng cao phong, mạc bất ta điệu.
昔安弟子為執政者,時來問候,拜床下,得與談話片言而去者,甚以為喜。有不善者,切責唾罵, 甚至呵叱不納。其清直嚴正,名聞一時,凜然可畏。吁。其善哉。
Tích An đệ tử vi chấp chính giả, thời lai vấn hậu,bái sàng hạ, đắc dữ đàm thoại phiến ngôn nhi khứ giả thậm dĩ vi hỉ, hữu bất thiện giả, thiết trách thóa mạ, thậm chí a sất bất nạp. Kỳ thanh nghi nghiêm chính danh văn nhất thời, lẫm nhiên khả úy. Hu kỳ thiện tai
.
Dịch nghĩa
Văn Trinh cứng cỏi, ngay thẳng

Chu An, hiệu Tiều Ẩn, người Thượng Phúc[1] đất Giao Chỉ. Tính ông liêm khiết cương trực. Ở nhà thường thích đọc sách, học vấn tinh thuần, tiếng vọng xa gần. Học trò đầy cửa, gặp được hội thanh vân[2], vào trong chính phủ, thường thường vẫn có. An điềm đạm, ít ham muốn, không đi thi. Khoảng năm Chí Nguyên, Trần Minh Vương bái mời làm Quốc tử Tư nghiệp, dạy Thế tử học, chuyển làm Tế tửu Thái học. Minh Vương mất, con là Dụ Vương chơi bời, bỏ nghe chính sự, quyền thần làm nhiều điều trái phép, An nhiều lần can ngăn không nghe, lại dâng sớ xin chém bảy tên gian thần đều hạng quyền thế, người đương thời gọi là Thất trảm sớ. Dâng lên không trả lời, An treo mũ từ quan, về với vườn ruộng. Sau Dụ Vương mất, nước có loạn. Quần thần đón lập Nghệ Vương. An nghe rất mừng, chống gậy yết kiến, rồi lại về làng, già ốm từ chối, không nhận chức tước. Ban cho hiệu Văn Trinh tiên sinh, hậu lễ tiễn đưa. Chẳng bao lâu, An mất ở nhà. Nhân sĩ đô thành cảnh ngưỡng cao phong[3], không ai là không thở than thương tiếc.

Trước, học trò An có người ra chấp chính, thường đến thăm viếng, lạy dưới giường, được trò chuyện đôi câu thì ra về lấy làm mừng lắm. Ai là người bất thiện, bị quở trách thóa mạ, thậm chí quát không cho vào. Thanh cao, nghiêm chính nổi tiếng một thời, lẫm liệt đến thế. Ôi ! Thiện làm sao !

Chú thích
▲ Châu Thượng Phúc đời Trần, đời Lê là huyện Thượng Phúc trấn Sơn Nam, nay bao gồm nhiều huyện thuộc phía Nam Hà Nội. Làng Thanh Liệt quê Chu Văn An cũng nằm trong đất châu này
▲ Chỉ sự đỗ đạt, có công danh
▲ Ngưỡng mộ phong thái

醫善用心
Y thiện dụng tâm
澄先人之外祖曰范公,諱彬家,世業醫,事陳英王,為判太醫令。常竭家資,以蓄良藥,積米穀,人有孤苦疾病者,寓之于家,以給饘粥救療,雖膿血淋漓,不少嫌 避如此。來者待徤而去,床不絕人。忽連年饑饉,疫癘大作,乃築房屋,宿困竆、饑者、病者,活千餘人,名重當世。
Trừng tiên nhân chi ngoại tổ viết Phạm công, húy Bân, gia thế nghiệp y, sự Trần Anh Vương, vi phán Thái y lệnh, thường kiệt gia tư dĩ súc lương dược, tích mễ cốc. Nhân hữu cô khổ tật bệnh giả, ngụ chi ư gia dĩ cấp chiên chúc cứu liệu, tuy nùng huyết lâm ly, bất thiếu hiềm tị. Như thử, lai giả đãi kiện nhi khứ, sàng bất tuyệt nhân. Hốt liên niên cơ cận, dịch lệ đại tác, nãi trúc phòng ốc, túc khốn cùng, cơ giả bệnh giả hoạt thiên dư nhân, danh trọng đương thế.
後嘗有人扣門,急請曰:家有婦人,卒暴血 崩如注,面色稍青。公聞之,遽往,出門,而王使人至,曰:宮中貴人有發寒熱者,召公看之。曰:此病不急,今人家命在頃刻,我且救彼,不久便來。 中使怒曰:人臣之禮,安得如此!君欲救他命,不救爾命耶?公曰:我固有罪,亦無奈何。人若不救,死在頃刻,無所望也。小臣之命,望在主上,幸得免 死,餘罪甘當。遂去,救治其人,果活。少頃,來見,王責之,免冠謝罪,敷析真心。王喜曰:汝真良醫,既有善藝,又有仁心,以卹我赤子誠,副予望也。
Hậu, thường hữu nhân khấu môn cấp thỉnh viết “Gia hữu phụ nhân thốt bạo, huyết băng như chú, diện sắc sảo thanh”. Công văn chi, cử vãng. Xuất môn nhi vương sử nhân chí viết “Cung trung quí nhân hữu phát hàn nhiệt giả, triệu công khán chi”. Viết “Thử bệnh bất cấp. Kim nhân gia mệnh tại khoảnh khắc, ngã thả cứu bỉ, bất cửu tiện lai”. Trung sứ nộ viết “Nhân thần chi lễ,an đắc như thử ? Quân dục cứu tha mệnh, bất cứu nhĩ mệnh da?” Công viết “Ngã cố hữu tội, diệc vô nại hà, nhân nhược bất cứu, tử tại khoảnh khắc, vô sở vọng dã. Tiểu thần chi mệnh, vọng tại chúa thượng, hạnh đắc miễn tử, dư tội cam đương”. Toại khứ cứu trị, kỳ nhân quả hoạt. Thiếu khoảnh, lai kiến. Vương trách chi. Miễn quan tạ tội, phu tích chân tâm. Vương hỉ viết “Nhữ chân lương y, ký hữu thiện nghệ hựu hữu nhân tâm, dĩ tuất ngã xích tử, thành phó dư vọng dã”.
後之子孫,為良醫官四五品者二三人,世皆稱譽其不墜家業也。
Hậu chi tử tôn vi lương y quan tứ ngũ phẩm giả nhị tam nhân, thế giai xưng dự kỳ bất trụy gia nghiệp dã.
Dịch nghĩa
Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng

Ông tổ bên ngoại của Trừng[1] là Phạm công, húy Bân, gia nghiệp nghề y, thờ Trần Anh Vương, chức Thái y lệnh, thường hết tiền của để tích thuốc tốt, trữ lúa gạo. Người nào bị cô khổ bệnh tật, cụ cho ở nhà mình, cấp cơm cháo cứu chữa, tuy máu mũ dầm dề, không chút ghê tởm. Cứ thế, kẻ đến chờ khỏe mạnh rồi đi, trên giường không lúc nào vắng người. Bỗng mấy năm liền đói kém, bệnh dịch lan tràn, bèn dựng nhà cửa, cho kẻ khốn cùng ở, cứu kẻ đói người bệnh hơn nghìn người, đương thời trọng vọng.

Sau, có người gõ của mời gấp nói “Nhà có người vợ bỗngbị máu ra như xối, mặt mày nhợt nhạt”. Cụ nghe xong, đi ngay. Ra cửa, gặp người do vua sai tới nói “Trong cung, quí nhân lên cơn sốt rét, triệu ông vào xem”. Đáp “Bệnh ấy không vội. Nay có người tính mệnh chỉ còn chốc lát, tôi đi cứu đã, chốc nữa vào ngay”. Trung sứ giận nói “Lễ kẻ bề tôi, sao được như vậy ? Ông muốn cứu tính mệnh người, không cứu tính mệnh mình ư ?” Đáp “Tôi thật có tội, chẳng biết làm thế nào, nhưng không cứu người ta, chết trong chốc lát, trông mong vào đâu. Tính mệnh tiểu thần trông vào Chúa thượng, may ra khỏi chết, còn xin chịu tội”. Rồi đi cứu chữa, quả nhiên khỏe lại. Liền đó, vào cung. Vương quở trách. Cụ bỏ mũ tạ tội, giãi bày thực tâm. Vương mừng nói “Người thật là lương y, đã giỏi tay nghề lại có nhân tâm, để cứu con đỏ của ta, xứng đáng lòng ta mong mỏi”

Sau con cháu cụ là lương y, làm quan tứ ngũ phẩm có đến hai ba người, người đời ai cũng khen là không để mất nghiệp nhà.

Chú thích
▲ Mẹ của Hồ Nguyên Trừng họ Phạm. Đây là truyện nói về tổ tiên của bà

勇力神異
Dũng lực thần dị
安南李氏時,淸化人黎奉曉生而魁偉異常,飲食視人十倍,年十二三,身長七尺。適有外寇侵境,虜掠甚衆,隣里倉皇罔措。奉曉語其父母:不可隨人奔忙,但多 作飯,與兒子飽吃一頓,今日殺賊救民,易如反掌。
An Nam Lý thị thời, Thanh Hóa nhân Lê Phụng Hiểu sinh nhi khôi vĩ dị thường, ẩm thực thị nhân thập bội. Niên thập nhị tam, thân trường thất xích. Thích hữu ngoại khấu xâm cảnh, lỗ lược thậm chúng, lân lý thương hoàng võng thố. Phụng Hiểu ngữ kỳ phụ mẫu bất khả tùy nhân bôn mang, đãn đa tác phạn dữ nhi tử bão khiết nhất đốn, kim nhật sát tặc cứu dân dị như phản chưởng.
飯畢,持一短刀,俗呼為斫刀者,伐木為兵,直衝賊陣,縱擊潰走,盡獲隣邑被虜者千餘人而還。李氏賞賜除 授,固辭不受,乞賜田地以自耕食耳。有司議定頃畝,奉曉曰:臣以斫刀破賊,願擲斫刀,所至為界。許之,擲至十餘里,悉以與之。後人因此凡賞功田,名之 曰 斫刀田。
Phạn tất, trì nhất đoản đao tục hô vi chước đao giả, phạt mộc vi bình, trực xung tặc trận, tung kích hội tẩu, tận hoạch lân ấp bị lỗ giả thiên dư nhân nhi hoàn. Lý thị thưởng tứ trừ thụ, cố từ bất thụ, khất tứ điền địa dĩ tự canh thực nhĩ. Hữu tư nghị định khoảnh mẫu, Phụng Hiểu viết “Thần dĩ chước đao phá tặc, nguyện trịnh chước đao, sở chí vi giới”. Hứa chi. Trịnh chí thập dư lý, tất dĩ thưởng chi. Hậu nhân nhân thử, phàm thưởng công điền, danh chi viết chước đao điền.
使領軍,辭以不能,願居田里,待用兵時,請為先鋒,破陣報國而巳。後十餘年,召為先鋒,以十餘人擊數萬餘賊衆,封威遠將軍,仍在田里,壽終 于家。
Sử lĩnh quân, từ dĩ bất năng, nguyện cư điền lý, đãi dụng binh thời, thỉnh vi tiên phong, phá trận báo quốc nhi dĩ. Hậu thập dư niên triệu vi tiên phong, dĩ thập dư nhân kích tán vạn dư tặc chúng, phong Uy Viễn Tướng quân, nhưng tại điền lý, thọ chung vu gia.
Dịch nghĩa
Sức khỏe dũng mãnh thần dị

Nước An Nam thời họ Lý, có người Thanh Hóa là Lê Phụng Hiểu, sinh ra khôi ngô kì vĩ lạ thường, ăn uống thì gấp mười lần kẻ khác. Mười hai mười ba tuổi, thân hình cao bảy xích. Chợt có giặc ngoài đến, cướp bóc rất nhiều, xóm làng hoảng hốt không biết làm sao. Phụng Hiểu nói với cha mẹ không theo người trốn chạy, chỉ nấu thật nhiều cơm cho con ăn một bữa no nê, việc giết giặc cứu dân hôm nay dễ như trở bàn tay. Ăn cơm xong, cầm một con dao ngắn tục gọi là dao rựa, chặt cây làm khí giới, xông thẳng vào trận giặc, đánh dọc khiến giặc vỡ chạy, hơn nghìn người trong ấp bị giặc bắt đều được về. Nhà Lý ban thưởng phong tước, đều cố từ không nhận, chỉ xin cấp ruộng đất để tự cày làm ăn thôi. Khi bàn định số khoảnh mẫu, Phụng Hiểu nói “Thần dùng dao rựa phá giặc, xin ném dao rựa, xa tới đâu lấy tới đó”. Thuận cho. Ném xa hơn mười dặm, lấy đó thưởng cho. Người sau nhân đấy, phàm thưởng ruộng công, đều gọilà “chước đao điền”. Sai cầm quân, lấy cớ bất tài từ chối, nguyện sống ở nơi ruộng vườn, có lúc dụng binh, xin làm tiên phong, phá trận đền ơn nước mà thôi. Hơn mười năm sau được triệu làm tiên phong, đem theo hơn mười người đánh tan hơn vạn quân giặc, phong Uy Viễn Tướng quân, vẫn sống ở thôn quê, thọ chết tại nhà.

夫妻死節 Phu thê tử tiết
永樂丁亥,大軍平交趾日,頭目吳勉赴水死,其妻阮氏仰天嘆曰:吾夫事主,一生受祿,由中官至登政府。今而死節,是得所也,又何怨乎!妾若苟活,豈無所 之?但夫道君恩,一時辜負,吾不忍也,寧相隨爾。言訖,亦赴水死。
Vĩnh Lạc Đinh Hợi, đại quân bình Giao Chỉ nhật, đầu mục Ngô Miễn phó thủy tử ; kỳ thê Nguyễn Thị ngưỡng thiên thán viết “Ngô phu sự chúa, nhất sinh thụ lộc, do Trung quan chí đăng chính phủ, kim nhi tử tiết, thị đắc sở dã, hựu hà oán hồ ! Thiếp nhược cẩu hoạt, khởi vô sở chi? Đãn phu đạo quân ân nhất thời cô phụ, ngô bất nhẫn dã. Ninh tương tùy nhĩ”. Ngôn hất, diệc phó thủy tử.
嗟夫!死節者,士大夫之所當然,猶或難之,宦官如此,古所罕聞。吳勉其丈夫乎!至于阮 氏,以婦人臨危,能識大節,知夫得所而無憾,又能重義輕生,視死如歸,可謂賢婦也歟!世之愚婦,以忿投水者多矣。至于以義亡身,甚不易得也。如阮氏者,誠 可嘉哉!
Ta phù ! Tử tiết giả, sĩ đại phu chi sở đương nhiên, do hoặc nan chi. Quan quan như thử, cổ sở hãn văn. Ngô Miễn kỳ trượng phu hồ? Chí ư Nguyễn Thị dĩ phụ nhân lâm nguy năng thức đại tiết, tri phu đắc sở nhi vô hám, hựu năng trọng nghĩa khinh sinh, thị tử như quy, khả vị hiền phụ dã dư ! Thế chi ngu phụ dĩ phẫn đầu thủy giả đa hĩ. Chí ư dĩ nghĩa vong thân thậm bất dị đắc dã ! Như Nguyễn Thị giả, thành giả gia tai !
Dịch nghĩa[sửa]
Vợ chồng tử tiết

Năm Đinh Hợi niên hiệu Vĩnh Lạc[1], ngày đại quân bình định đất Giao Chỉ, đầu mục Ngô Miễn nhảy xuống nước chết, vợ là Nguyễn Thị ngửa mặt lên trời than “Chồng ta thờ chúa, một đời ăn lộc, từ Trung quan được lên Chính phủ, nay đã tử tiết, là chết đáng chỗ, còn oán hận gì ? Nếu thiếp muốn sống, há hết chốn sao? Nhưng đạo chồng ơn vua nhất thời phụ bạc, ta nỡ lòng nào. Thà chết theo vậy”. Nói đoạn, cũng nhảy xuống nước chết.

Than ôi ! Tử tiết là lẽ đương nhiên của sĩ đại phu, thế mà còn lấy làm khó. Người nào như vậy, thì cũng ít nghe. Ngô Miễn là trượng phu chăng ? Đến như Nguyễn Thị là đàn bà mà lâm nguy vẫn thấy tiết lớn, biết chồng chết đáng chỗ không ân hận, lại còn trọng nghĩa khinh sống, coi chết như về, có thể gọi là bậc hiền phụ vậy. Ở đời loại đàn bà ngu dại, bực tức mà nhảy xuống nước nhiều lắm. Đến như vì nghĩa bỏ mình, thì không mấy có ! Người như Nguyễn Thị thật đáng ca ngợi thay !

Chú thích
▲ 1407

僧道神通 Tăng đạo thần thông
李氏時,嘗有妖物,晝夜隱形,啼呌于殿梁上,連日不止。時第二代王,召僧覺海、道士通玄同來厭勝。覺海以數珠擊柱,其聲應手而止。通玄以令牌擊柱,忽見大手出梁上,將一蛤蚧擲地,其妖乃止。王占口曰
Lý Thị thời, thường hữu yêu vật trú dạ ẩn hình để khiếu ư điện lương thượng, liên nhật bất chỉ. Thời đệ nhị đại vương, danh tăng Giác Hải, đạo sĩ Thông Huyền, đồng lai yếm thắng. Giác Hải dĩ sổ châu kích cực, kỳ thanh ứng thủ nhi chỉ. Thông Huyền dĩ lệnh bài kích trụ, hốt kiến đại thủ xuất lương thượng, tương nhất cáp giới trịnh địa, kỳ yêu nãi chỉ. Vương chiếm khẩu viết

覺海心如海
通玄道更玄
神通能變化
一佛一神仙。
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo cánh huyền
Thần thông năng biến hóa
Nhất Phật, nhất Thần tiên
Dịch nghĩa
Tăng đạo thần thông

Thời họ Lý, từng có yêu quái ngày đêm ẩn hình kêu khóc trên rường cung điện, ngày ngày không dứt. Đời đại vương thứ hai, danh tăng Giác Hải, đạo sĩ Thông Huyền cùng đến yểm trừ. Giác Hải lấy tràng hạt gõ vào nóc, tiếng kêu khóc liền tay im bặt. Thông Huyền dùng lệnh bài đập vào cột, bỗng thấy một bàn tay to tướng ló ra khỏi rường, cầm con rắn mối vứt xuống đất, yêu quái bèn hết. Vương ứng khẩu nói

Giác Hải tâm như biển.
Thông Huyền đạo càng huyền
Thần thông tài biến hóa
Một Phật, một Thần tiên.

‘奏章明驗
Tấu chương minh nghiệm
交趾太清宮道士,名道甚。元世祖至元間,為陳太王祈嗣,拜章畢,乃白王曰:上帝既允奏章,即命昭文童子,降生王宮,住四紀。巳而後宮有孕,果生男,兩 膞上有文曰昭文童子,字頗明顯,因以昭文為號。年長,其文始消。
Giao Chỉ Thái Thanh cung đạo sĩ danh Đạo Thậm, Nguyên Thế Tổ Chí Nguyên gian vị Trần Thái Vương kỳ tự. Bái chương tất, nãi bạch vương viết “Thượng đế ký doãn tấu chương, tức mệnh Chiêu Văn đồng tử giáng sinh vương cung, trú tứ kỷ”. Dĩ nhi hậu cung hữu dâng, quả sinh nam, lưỡng bác thượng hữu văn viết “Chiêu Văn đồng tử”, tự phả minh hiển, nhân dĩ Chiêu Văn vi hiệu. Niên trưởng, kỳ văn thủy tiêu.
至四十八歲,臥病月餘,諸子為之建醮,請减巳壽以延父齡。道士拜章起曰:上帝覽章, 笑曰:何乃戀俗,欲久留乎?然其子孝誠,可允再留一紀。病乃瘳,後果有十二年壽。
Chí tứ thập bát tuế, ngọa bệnh nguyệt dư. Chư tử vị chi kiến tiếu, thỉnh giảm kỷ thọ dĩ diên phụ linh. Đạo sĩ bái chương, khởi viết “Thượng đế lãm chương, tiếu viết : hà nãi luyến tục, dục cửu lưu hồ? Nhiên kỳ tử hiếu thành, khả doãn tái lưu nhất kỷ”. Bệnh nãi liệu. Hậu quả hữu thập nhị niên thọ.
Dịch nghĩa
Tấu chương ứng nghiệm

Cung Thái Thanh xứ Giao Chỉ có người đạo sĩ gọi là Đạo Thậm, vào khoảng năm Chí Nguyên đời Nguyên Thế Tổ làm lễ cầu tự cho Trần Thái Vương. Đọc sớ xong, Đạo Thậm bạch với vương rằng “Thượng đế đã nhận sớ tâu, sẽ sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh nơi vương cung, ở lại bốn kỷ[1]”. Rồi hậu cung có mang, quả nhiên sinh con trai, trên hai cánh tay có chữ Chiêu Văn đồng tử, nét khá rõ ràng, nhân lấy hiệu là Chiêu Văn. Lớn lên, nét chữ mới mất đi.

Đến năm bốn mươi tám tuổi, bị ốm hơn tháng. Các con làm chay xin bớt tuổi thọ mình để kéo thêm tuổi cha. Đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dậy nói “Thượng đế xem sớ, cười bảo : Sao còn quyến luyến cõi tục, muốn ở lại lâu thế ? Song các con thật hiếu thảo, có thể cho ở thêm một kỷ”. Bệnh liền khỏi. Sau quả nhiên thọ thêm mười hai năm nữa[2]

Chú thích
▲ Mỗi kỷ là 12 năm
▲ Trần Nhật Duật (1255 – 1330), con trai thứ sáu của Trần Thái Tông, có công trong kháng chiến chống Nguyên. Đại Việt sử kí toàn thư chép rằng Thượng đế cho ở lại 2 kỉ chứ không phải 1 kỉ, cộng tuổi Nhật Duật là 6 kỉ lẻ 5 năm.

壓浪真人
Áp lãng chân nhân
宋仁宗時,安南李王親率舟師伐占城,至神投海口,風浪連日,不得航海。聞近山有道士獨居庵中,乃召請祈禱。道士曰:王自有福力,臣保萬一無憂。明日發 行,勿生疑慮。夜半風止,詰旦,行至海外,遠望風浪如山,舟師所向寧靜,時復見此道士水上步行,或前或後,宛然明白,但人不可近爾。
Tống Nhân Tông thời, An Nam Lý cương thân suất chu sư phạt Chiêm Thành. Chí Thần Đầu hải khẩu phong lãng liên nhật bất đắc hàng hải. Văn cận sơn hữu đạo sĩ độc sĩ cư am trung, nãi triệu thỉnh kỳ đảo. Đạo sĩ viết “Vương tự hữu phúc lực, thần bảo vạn nhất vô ưu. Minh nhật phát hành vật sinh nghi lự !”Dạ bán phong chỉ. Cật đán hành chí hải ngoại, viễn vọng phong lãng như sơn, chu sư sở hướng ninh tĩnh. Thời phục kiến thử đạo sĩ thủy thượng bộ hành, hoặc tiền hoặc hậu, uyển nhiên minh bạch, đãn nhân bất khả cận nhĩ.
師還,至神投山,道 士迎見,王喜謝,慰勞道士曰:臣知王福重,故無憂,此神祐王爾,非臣也。問之鄉人,曰:道士自此採藥,久不在庵。王大異之,封為壓浪真人,賞賜金 帛,皆不受。後入山去,不知所之。
Sư hoàn chí Thần Đầu sơn, đạo sĩ nghênh kiến. Vương hỉ tạ úy lạo. Đạo sĩ viết “Thần tri vương phúc trọng, cố vô ưu, thử thần hựu vương nhĩ, phi thần dã”. Vấn chi hương nhân, viết “Đạo sĩ tự thử thái dược cửu bất tại am”. Vương đại dị chi, phong vi “Áp lãng chân nhân”. Thưởng tứ kim bạch giai bất thụ. Hậu nhập sơn khứ, bất tri sở chi.
真人姓羅,亾名,人皆以壓浪呼之。弱冠,棄妻子入道,其後裔有羅脩者,舉進士,仕陳藝王,官至審刑院司而卒。余所親識也。
Chân nhân tính La, vong danh, nhân giai dĩ “Áp lãng” hô chi. Nhược quan khí thê tử nhập đạo. Kỳ hậu duệ hữu La Tu giả, cử Tiến sĩ, sĩ Trần Nghệ Vương, quan chí thẩm hình viện sứ nhi tốt. Dư sở thân thức dã.
Dịch nghĩa
Chân nhân đè sóng

Đời Tống Nhân Tông[1], vua Lý nước An Nam tự mang binh thuyền thảo phạt Chiêm Thành. Tới cửa biển Thần Đầu[2], sóng gió ngày này sang ngày khác, không vượt biển được. Nghe núi gần đấy có đạo sĩ, một mình sống trong am, bèn triệu mời cầu đảo. Đạo sĩ nói “Vua tự có phúc lực, thần cam đoan muôn một không có gì đáng lo. Ngày mai lên đường chớ sinh nghi hoặc !”. Nửa đêm dừng gió. Sáng sớm ra tới ngoài biển, xa trông sóng gió cao như núi, nhưng chu sư đến đâu yên tĩnh đến đó. Bấy giờ lại thấy đạo sĩ ấy bước đi trên nước, lúc ở trước lúc ở sau, trông rất rõ ràng, duy người không đến gần được.

Ngày khải hoàn về núi Thần Đầu, đạo sĩ ra đón. Vương mừng, úy lạo tạ ơn. Đạo sĩ nói “Thần biết vương phúc trọng, không đáng lo, ấy là thần linh giúp, không phải hạ thần”. Hỏi người trong hương, nói “Đạo sĩ từ ấy đi hái thuốc không ở am”. Vương lạ lắm, phong làm “Chân nhân đè sóng”. Ban thưởng vàng lụa, đều không nhận. Sau vào núi rồi đi, không biết đi đâu.

Chân nhân họ La, sót tên, người ta dùng hiệu “Áp Lãng chân nhân” để gọi. Từ thuở tuổi xanh bỏ vợ con nhập đạo. Hậu duệ có La Tu thi đỗ Tiến sĩ[3], làm quan thời Trần Nghệ Vương, đến chức Thẩm hình viện sứ, rồi mất. Người này chính tôi quen biết.

Chú thích
▲ 1022 – 1063
▲ Sau đổi là Thần Phù, là cửa biển quan trọng trên con đường lưu thông Bắc Nam của Việt Nam. Hầu như các cuộc hành quân Nam tiến của Việt Nam đều đi qua cửa biển này. Về sau, cửa biển dần dần bị bồi lấp, nay nằm sâu trong đất liền hơn 30km, thuộc địa phận giáp ranh giữ huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình và huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Ở đây vẫn còn đền Áp lãng, thờ vị chân nhân trong truyện này
▲ La Tu đỗ khoa Tiến sĩ năm 1374, làm Tri phủ Thanh Hóa, sau thăng Thẩm hình viện sứ

明空神異
Minh Không thần dị
交趾膠水鄉,有空路寺,昔有僧,俗姓阮,名明空,宋治平間,出家,住此寺,有德行,頗知名。一日,明空從外來,其同房僧戲隱門內,躍出,作虎聲以怖明空。 明空笑曰汝脩行,反作虎耶?我當救汝。後年,僧沒。
Giao Chỉ Giao Thủy hương hữu Không Lộ tự. Tích hữu tăng tục tính Nguyễn, danh Minh Không, Tống Trị Bình gian xuất gia trú thử tự, hữu đức hạnh, phả tri danh. Nhất nhật Minh Không tòng ngoại lai, kỳ đồng phòng tăng hí ẩn môn nội, dược xuất tác hổ thanh dĩ bố Minh Không. Minh Không tiếu viết ” Nhữ tu hành phản tác hổ da? Ngã đương cứu nhữ !”. Hậu niên tăng một.
尋國王李氏生世子,年幾弱冠,忽徧身生毛,踴躍咆哮,頭面漸變虎形。王廣求醫巫僧道,皆無措手。聞 明空有法術,遣人乘船請來。明空以小鍋炊飯,欲食水手,使者笑曰:水手人多,自有食,莫煩常住。明空曰:不然。衆皆少喫,見我厚意。四五十人各盛 滿碗,飯亦不盡,人皆奇之。臨晚,上船,戒使者與水手:皆熟睡一覺,待月出,貧僧喚起,乃開船。不然,我且不去。使者懇請,不得,皆偃臥假寢,惟覺船 下風聲冷然,移時月出,呼起其船,巳在都下灣泊矣,經行三百餘里也,乃騰空入宮中。煑水以洗世子,應手毛退,體遂平復。王問故,對曰:脩行人一念迷著, 懺洗而巳,無難也。曰:師得何神通而能空行?曰:非也,臣宿有風疾,比發時,不見萬象,不知何者為空。乃信步耳,非神通也。乃空行回去,賜賚不 受,王遂鍚以神僧封號,因以空路名其寺云。世子後為王,謚曰神王。
Tầm Quốc vương Lý Thị sinh Thế tử, niên cơ nhược quan, hốt biến thân sinh mao, dũng dược bào hao, đầu diện tiệm biến hổ hình. Vương quảng cầu y vu tăng đạo giai vô thố thủ. Văn Minh Không hữu pháp thuật, khiển nhân thừa thuyền thỉnh lai. Minh Không dĩ tiểu oa xuy phạn, dục tự thủy thủ. Sứ giả tiếu viết “Thủy thủ nhân đa tự hữu thực, mạc phiền thường trú”. Minh Không viết “Bất nhiên. Chúng giai thiểu ngật, kiến ngã hậu ý”. Tứ ngũ thập nhân các thịnh mãn uyển, phạn diệc bất tận, nhân giai kỳ chi. Lâm vãn thượng thuyền, giới sứ giả dữ thủy thủ giai thục thụy nhất giác “Đãi nguyệt xuất, bần tăng hoán khởi, nãi khai thuyền, bất nhiên ngã thả bất khứ”. Sứ giả khẩn thỉnh bất đắc, giai yển ngọa giả mỵ, duy giác thuyền hạ phong thanh lãnh nhiên. Di thời nguyệt xuất, hô khởi, kỳ thuyền dĩ tại đô hạ loan bạc hĩ, kinh hành tam bách dư lý dã. Nãi đẳng không nhập cung trung, chử thủy dĩ tẩy Thế tử, ứng thủ mao thoái, thể toại bình phục. Vương vấn cố, đối viết “Tu hành nhân nhất niệm mê trước sám tẩy nhi dĩ, vô nan dã”. Viết “sư đắc hà thần thông nhi năng không hành?” Viết “Phi dã. Thần túc hữu phong tật, thử tật phất thời, bất kiến vạn tượng, bất tri hà giả vi không, nãi tín bộ nhĩ; phi thần thông dã”. Nãi không hành hồi khứ. Tứ lại bất thụ. Vương toại tích dĩ Thần tăng phong hiệu, nhân dĩ Không Lộ danh kỳ tự vân. Thế tử hậu vi vương, thụy viết Thần Vương.
Dịch nghĩa
Minh Không thần dị

Hương Giao Thủy ở Giao Chỉ có chùa Không Lộ. Ngày xưa có một vị sư họ tục là Nguyễn, tên là Minh Không, khoảng năm Trị Bình đời Tống xuất gia đến ở chùa này, có đức hạnh, ai cũng biết. Một hôm Minh Không từ ngoài về, có nhà sư cùng phòng đùa núp trong cửa, nhảy ra làm tiếng hổ kêu để dọa Minh Không. Minh Không cười nói “Đã đi tu, lại còn muốn làm hổ ư ? Ta phải cứu anh mới được !”. Năm sau, nhà sư kia chết.

Tiếp đó, Quốc vương họ Lý sinh Thế tử, tuổi chừng hai mươi thì bỗng nhiên khắp mình mọc lông, nhảy nhót gầm thét, đầu và mặt dần dần biến thành hình hổ. Nhà vua cầu y, vu, tăng, đạo khắp nơi, nhưng đều chịu bó tay. Nghe Minh Không có phép thuật, sai người đi thuyền đến mời về. Minh Không lấy một chiếc niêu nhỏ nấu cơm, định cho thủy thủ ăn. Sứ giả cười nói “Thủy thủ người đông, tự họ đã có cái ăn, không phiền tới thường trú”. Minh Không nói “Không phải như vậy đâu. Mọi người cứ ăn một ít đi rồi sẽ thấy hậu ý của ta”. Bốn năm mươi người mỗi người xới một bát đầy, cơm vẫn không hết, ai cũng lấy làm lạ. Đến tối, khi lên thuyền, nhà sư dặn sứ giả và các thủy thủ đều nên ngủ kỹ một giấc “Đợi lúc trăng mọc, bần tăng gọi dậy hãy mở thuyền, nếu không, ta chẳng đi nữa đâu”. Sứ giả nài xin không được, mọi người đành nằm sấp giả cách ngủ, duy cảm thấy bên dưới thuyền có tiếng gió lạnh. Phút chốc trăng lên, gọi dậy, thì thuyền đã cập bến ở đô thành, vượt hơn ba trăm dặm. Nhà sư bèn nhảy lên khoảng không mà vào trong cung, nấu nước để rửa cho Thế tử, tay cọ đến đâu lông hết đến đấy, thân thể liền bình phục. Vua hỏi nguyên do, đáp rằng “Kẻ tu hành hễ mắc niềm mê thì sám hối mà rửa đi thôi, không khó khăn gì cả”. Hỏi “Sư biết phép thần thông gì mà có thể đi trên không được?” Đáp “Không phải vậy. Thần vốn có phong tật, bệnh này khi phát thì chẳng thấy muôn cảnh tượng, chẳng biết đâu là không, bèn cứ thế mà bước thôi ; không phải thần thông gì hết”. Rồi đi trên không mà về. Ban thưởng các thứ đều không nhận. Vua phong cho hiệu Thần tăng, và nhân đó, lấy hai chữ Không Lộ để đặt tên chùa của sư. Thế tử về sau lên làm vua, thụy là Thần Vương.

入夢療病
Nhập mộng liệu bệnh
東山寺僧名灌園,戒行淸白,慧解圓融,數十餘年,不下山。適陳英王患眼,月餘,醫藥不効,日夜疼痛,夢見一僧,以手摩眼,王問:僧自何來?其名為誰? 曰:我灌園也,來救王眼。夢覺,眼痛便止,數日平復。
Đông Sơn tự tăng danh Quán Viên, giới hạnh thanh bạch, tuệ giải viên dung, sổ thập dư niên bất hạ sơn. Thích Trần Anh Vương hoạn nhãn nguyệt dư, y dược bất hiệu, nhật dạ đông thống. Mộng kiến nhất tăng dĩ thủ ma nhãn. Vương vấn tăng tự hà lai, kỳ danh vi thùy. Viết “Ngã Quán Viên dã, lai cứu vương nhãn”. Mộng giác, nhãn thống tiện chỉ, sổ nhật bình phục.
訪于僧徒,果有灌園在東山者,命人請來,宛然夢中所見僧也。王大異之,封為國師,賞賜甚厚,盡將 散施,不留一錢,破衲還山,若不經意。自後行脚,徧歷山川州縣聚落,凡有淫祀邪神為民害者,盡將訶斥,伐其廟壇,至于猛烈。大神多有見形見夢,郊迎請命 者,則為之授戒,减損血食,使保護生民,無敢犯者。後世人猶德之。

Phỏng vu tăng đồ, quả hữu Quán Viên tại Đông Sơn giả. Mệnh nhân thỉnh lai, uyển nhiên mộng trung sở kiến tăng dã. Vương đại dị chi, phong vi Quốc sư, thưởng tứ thậm hậu, tận tương tán thi bất lưu nhất tiền, phá nạp hoàn sơn, nhược bất kinh ý. Tự hậu hành cước biến lịch sơn xuyên châu huyện tụ lạc, phàm hữu dâm tự tà thần di dân hại giả, tận tương ha xích, phạt kỳ miếu đàn. Chí ư mạnh liệt đại thần đa hữu hiện hình kiến mộng giao nghênh thỉnh mệnh giả, tắc vị chi thụ giới, giảm tổn huyết thực, sử bảo hộ sinh dân, vô cảm phạm giả. Hậu thế nhân do đức chi.
Dịch nghĩa
Chữa bệnh trong mộng

Sư chùa Đông Sơn tên Quán Viên, giới hạnh thanh bạch, mắt tuệ vẹn toàn, mấy chục năm không xuống núi. Khi Trần Anh Vương đau mắt đã hơn tháng, chữa thuốc không khỏi, ngày đêm chói nhức. Mộng thấy một vị sư lấy tay xoa mắt. Vương hỏi sư từ đâu tới, tên là gì. Đáp “Tôi Quán Viên đây, đến cứu mắt vương”. Tỉnh mộng, mắt liền hết đau, vài ngày khỏi hẳn.

Dò hỏi tăng đồ, quả nhiên có Quán Viên ở Đông Sơn. Sai người mời đến, y hệt vị sư đã thấy trong mộng. Vương lấy làm lạ, phong làm Quốc sư, ban thưởng rất hậu, đều đem phân phát hết không để lại một đồng nào, mặc áo tràng vá mà về núi, dường như chẳng quan tâm. Từ đấy, đi vân du khắp các nơi sơn xuyên, châu huyện, làng mạc, hễ có miếu thờ tà thần, làm hại dân, quở trách đuổi đi hết, chặt phá cả miếu đàn. Còn những vị đại thần mạnh và dữ, phần nhiều hiển hiện hay báo mộng ra đón từ ngoài thỉnh mệnh, thì thụ giới cho, giảm bớt cúng tế, bắt phải bảo vệ dân, không ai dám xúc phạm. Người đời sau vẫn còn nhớ ơn.

尼師德行
Ni sư đức hạnh
清凉尼師,俗姓范氏,交趾世祿家女。出家,庵居清凉山,毀服苦行,戒律精勤,慧觧通暢。常習禪定,面貌酷似羅漢,遠近僧俗,莫不敬仰,蔚為一國尼徒宗師, 與諸大德齊名。洪武間,陳藝王賜號慧通大師,既老,移居望東山。
Thanh Lương ni sư tục tính Phạm thị, Giao Chỉ thế lộc gia nữ. Xuất gia, am cư Thanh Lương sơn. Hủy phục khổ hạnh, giới luật tinh cần, tuệ giải thông sướng, thường tập thiền định, diện mạo khốc tự La Hán, viễn cận tăng tục mạc bất kính ngưỡng, uất vi nhất quốc ni đồ tông sư, dữ chư đại đức tề danh. Hồng Vũ gian, Trần Nghệ Vương tứ hiệu Tuệ Thông đại sư. Ký lão di cư vọng Đông Sơn.
一日,忽謂其徒曰:吾欲以此幻軀,施與虎狼一飽。乃入深山,兀坐,絕食三七日,虎狼日 日環踞,莫敢近。其徒懇請,還庵,閉門入定,經一夏,乃集衆說法,因而奄然坐化,年八十餘。荼毗,有舍利甚多,官為建塔于本山焉。
Nhất nhật hốt vị kỳ đồ viết “Ngô dục dĩ thử huyễn khu thí dữ hổ lang nhất bão”. Nãi nhập thâm sơn ngột tọa, tuyệt thực tam thất nhật, hổ lang nhật hoàn cứ, mạc cảm cận. Kỳ đồ khẩn thỉnh hoàn am. Bế môn nhập định kinh nhất hạ, nãi tập chúng thuyết pháp, nhân nhi yêm nhiên tọa hóa, niên bát thập dư. Đồ tì hữu xá lị thậm đa. Quan vị kiến tháp vu bản sơn yên.
先是,嘗囑弟子: 吾去 後,當分取吾骨留此間,磨洗人疾病。至收骨時,衆議不忍,乃盡函封。經宿,忽得肘骨在函外桌上,衆皆異其靈驗。後凡有人以病來禱,弟子磨水,與之一洗, 莫不立愈。其誓願弘深,乃至如此。
Tiên thị, thường chúc đệ tử “Ngô khứ hậu, đương phân ngô cốt, lưu thử gian ma tẩy nhân tật bệnh”. Chí thu cốt thời, chúng nghị bất nhẫn, nãi tận hàm phong. Kinh túc, hốt đắc chẩu cốt tại hàm ngoại trác thượng, chúng giai dị kỳ linh nghiệm. Hậu phàm hữu nhân dĩ bệnh lai đảo, đệ tử ma thủy dữ chi nhất tầy, nạc bất ứng dũ. Kỳ thệ nguyện hoẳng thâm nãi chí như thử.
Dịch nghĩa
Ni sư đức hạnh

Vị ni sư Thanh Lương tục tính Phạm thị, con gái nhà thế gia ở Giao Chỉ. Xuất gia, tu ở am núi Thanh Lương. Bỏ y phục khổ hạnh, giữ giới luật tinh cần, được mắt tuệ thông suốt, thường tập ngồi thiền định, diện mạo hốc hác như La Hán, xa gần tăng ni người đời không ai không ngưỡng mộ, trở thành tông sư ni đồ một nước, danh tiếng ngang với các đại đức. Khoảng năm Hồng Vũ, Trần Nghệ Vương ban hiệu “Tuệ Thông đại sư”.

Lúc già, dời về ở Đông Sơn. Một hôm, sư bỗng bảo với đệ tử rằng “Ta muốn đem tấm thân vớ vẩn này thí cho hổ sói một bữa no”. Bèn vào núi sâu ngồi thiền, tuyệt thực hai mươi mốt hôm, hổ sói ngày ngày ngồi quanh, không dám đến gần. Đồ đệ cố mời trở về am. Đóng cửa nhập định qua mùa hè, bèn tập chúng giảng đạo, nhân đó bỗng yên nhiên ngồi mà hóa, tuổi ngoài tám mươi. Lúc hỏa táng có rất nhiều xá lỵ. Quan cho xây tháp ngay trên núi ấy.

Trước đó, từng dặn các đệ tử “Sau khi ta đi, nên chia xương ta, lưu lại đây mài rửa tật bệnh người đời. Đến lúc nhặt xương, mọi người bàn không nỡ, bèn đặt hết vào rồi phong lại. Qua một đêm, bỗng được chiếc xương cùi tay ngoài hộp trên bàn, mọi người đều ngạc nhiên về sự linh nghiệm. Sau, phàm có người mắc bệnh đến cầu, đệ tử mài với nước cho rửa, không ai là không khỏi bệnh ngay. Sự thề nguyền có thể lớn sâu đến như thế đấy.

感激徒行
Cảm kích đồ hành
陳太王之孫名道載號文肅者,是仁王之從弟也。自少有才名,十四歲,乞入試塲,遂登甲科,仁王深器重之,有意大用,不幸短命而亾故,未及為相也。仁王出家,脩苦行,文肅自此徒行曰:主上行腳徧山川,我縱不能隨從,何忍棄車馬乎?卒世不易。
Trần Thái Vương chi tôn danh Đạo Tái, hiệu Văn Túc giả, thị Nhân Vương chi tòng đệ dã. Tự thiếu hữu tài danh. Thập tứ tuế khất nhập thí trường, toại đăng giáp khoa. Nhân Vương thâm khí trọng chi, hữu ý đại dụng, bất hạnh đoản mệnh nhi vong, cố vị cập vi tướng dã. Nhân Vương xuất gia tu khổ hạnh. Văn Túc tự thử đồ hành, viết “Chí thượng hành cước biến sơn xuyên, ngã túng bất năng tùy tòng, hà nhẫn thừa trác yên hồ?” tốt thế bất dịch.
仁王一時入城,文肅來謁,命官廚以海味食之,笑語盡歡,王占口曰:「紅潤剝龜脚,黃香炙馬鞍,山僧持凈戒,同坐不同餐。」觀其君臣兄弟,相得如此,足感激也。
Nhân Vương nhất thời nhập thành, Văn Túc lai yết. Mệnh cung trù dĩ hải vị tự chi, tiếu ngữ tận hoan. Vương chiếm khẩu viết

Hồng nhuận bác quy cước,
Hoàng hương chá mã an.
Sơn tăng trì tĩnh giới,
Đồng tọa, bất đồng xan.

Quan kỳ quân thần huynh đệ tương đắc như thử, túc cảm khích dã.
Bản dịch
Cảm kích đi bộ

Cháu của Trần Thái Vương tên Đạo Tái, hiệu là Văn Túc, là em họ của Nhân Vương vậy. Từ nhỏ có tài danh. Mười bốn tuổi xin vào trường thi, liền đỗ giáp khoa. Nhân Vương rất mực quí trọng, có ý dùng vào chức lớn, không may chết khi đoản mệnh, chưa kịp làm Tể tướng. Nhân Vương xuất gia tu khổ hạnh. Văn Túc từ đấy đi bộ, nói “Chí thượng đi chân trần khắp núi sông, ta đã không thể đi theo, lòng nào lên xe xuống ngựa ?”. Suốt đời không đổi. Nhân Vương một hôm vào thành, Văn Túc đến chào. Sai cung trù dọn hải vị cho ăn, cười nói rất vui. Vương ứng khẩu rằng

Quy cước bóc đỏ thắm,
Mã yên nước vàng thơm.
Sơn tăng giữ trai giới,
Cùng ngồi, chẳng cùng ăn.
Hãy xem vua tôi anh em tương đắc như thế, thật đáng cảm động.

疊字詩格
Điệp tự thi cách
陳家第二代王曰聖王,既傳位世子,晚年頗間,適甞游天長故鄉,有詩云 :
景清幽物亦清幽,
一十仙洲此一洲。
百部笙歌禽百舌,
千行奴僕橘千頭。
月無事照人無事,
水有秋涵天有秋。
四海巳清塵巳浄,
今年游勝舊年游。
Trần gia đệ nhị đại vương viết Thánh Vương, ký truyền vị Thế tử, vãn niên phả nhàn. Thích thường du Thiên Trường cố hương, hữu thi vân
Cảnh thanh u vật diệc thanh u,
Nhất thập tiên châu thử nhất châu.
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu.
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự,
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh,
Kim niên du thắng cựu niên du.[1]
此詩作時,蓋經元軍兩度征伐之後,國中安樂,故結意如此。其命意清高,疊字振響,非老于詩者,焉能道此?况自性淸高, 天然富貴, 國君風味與人自別矣。
Thử thi tác thì, cái kinh Nguyên quân lưỡng độ chinh phạt chi hậu, quốc trung an lạc, cố kết ý như thử. Kỳ mệnh ý thanh cao, điệp tự chấn hưởng, phi lão ư thi giả, yên năng đạo thử ? Huống tự tính thanh cao, thiên nhiên phú quí, quốc quân phong vị dữ nhân tự biệt hĩ.
Dịch nghĩa
Kiểu thơ điệp từ

Đời vua thứ hai nhà Trần là Thánh Vương, khi đã truyền ngôi cho Thế tử, những năm cuối đời rất nhàn. Nhân về chơi quê cũ Thiên Trường, có thơ rằng:

Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Một chục tiên châu, đây một châu.
Trăm bộ sênh ca, chim trăm giọng,
Nghìn hàng nô bộc, quất nghìn đầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng trời có thu.
Bốn biển đã trong, bụi đã lắng,
Năm nay chơi thắng cuộc năm xưa.
Thơ này làm ra, chắc sau khi trải qua hai lần chinh phạt của quân Nguyên, trong nước yên vui, nên ý câu kết mới vậy. Xem thơ này cấu tứ thanh cao, điệp tự gây nhiều âm hưởng, không phải già dặn về thơ, sao mà làm được ? Huống hồ tự tính thanh cao, vốn dòng phú quý, phong vị quốc quân với người thường vẫn tự khác biệt vậy.

Chú thích
▲ Đây là thi phẩm Hạnh Thiên Trường hành cung của vua Trần Thánh Tông

詩意清新
Thi ý thanh tân
竹林大士《詠梅詩》云
五出圓葩金撚鬚,
珊瑚沉影海鱗浮。
箇三冬白枝前面,
此一瓣香春上頭。
甘露歌凝癡蝶醒,
夜光如水渴禽愁。
嫦娥若識花隹處,
桂冷蟾寒只麼休。
其清新雄徤,迥出人表,千乘之君,趣興如此,誰謂人竆詩乃工乎?
Trúc Lâm đại sĩ “Vịnh mai thi” vân
Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải tân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Thử nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ dục ngưng si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ,
Quế lãnh thiềm hàm chỉ ma hưu.
Kỳ thanh tân hùng kiện quýnh xuất nhân biểu. Thiên thặng chi quân thú hứng như thử, thùy vị nhân cùng thi nãi công hồ?
又《山房漫興》二絕句云
誰縳更將求解脫
不凡何必覓神仙。
猿閒馬倦人應老,
依舊雲莊一榻禪。
是非言逐朝花落,
名利心隨夜雨寒。
花盡雨晴山寂寂,
一聲啼 鳥又春殘。
其瀟灑出塵,長空一色,騷情清楚,逸足超羣,有《大香海印集》,頗多絕唱,惜其地遭兵火,不得流傳。余只記誦一二而巳。吁可惜哉
Hựu “Sơn phòng mạn hứng” nhị tuyệt cú vân
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịnh thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịnh,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Kỳ tiêu sái xuất trần, trường không nhất sắc, tao tình thanh sở, dật túc siêu quần. Hữu Đại hương hải ấn tập phả đa tuyệt xướng, tích kỳ địa tao binh hỏa, bất đắc lưu truyền, dư chỉ ký tụng nhất nhị nhi dĩ. Hu khả tích tai!
Dịch nghĩa
Ý thơ tươi mới

Trúc Lâm đại sĩ[1] có thơ “Vịnh mai” rằng

Năm cánh tròn xòe vuốt chòm râu vàng,
Bóng san hô chìm, vảy cá bể nổi.
Ba tháng đông, trắng muốt phía trước mặt,
Một cành đây thơm ngát lúc đầu xuân.
Cam lộ sắp ngưng, chiếc bướm si choàng tỉnh,
Ánh trăng đêm như nước, con chim khát chạnh buồn.
Hằng Nga mà hiểu cái đẹp của hoa.
Bóng quế lạnh, vầng thiềm trong xanh, cũng bỏ mà nghỉ ngơi
Cái tươi mới chắc khỏe vượt xa khuôn khổ người thường. Vị vua nghìn xe hứng cảm như vậy, ai bảo người cùng khổ thì thơ hay ? Lại có hai bài tuyệt cú “Sơn phòng mạn hứng”, rằng

Nào ai trói buộc mà phải tìm giải thoát,
Là người bất phàm, hà tất phải tìm thần tiên.
Vượn nhàn ngựa nhọc, người phải già,
Vẫn một giường thiền chốn am mây.
Thị phi rơi dần cùng hoa buổi sáng,
Lòng danh lợi lạnh ngắt với giọt mưa đêm.
Hoa tàn mưa tạnh, núi non tịch mịch,
Một tiếng chim kêu, xuân lại sắp tàn.
Ấy trong trẻo tót vời, một màu bát ngát, tao tình thanh thoát, ý thú siêu quần. Có tập Đại hương hải ấn gồm nhiều thơ hay, tiếc nước ấy gặp binh lửa, không được lưu luyến, tôi chỉ nhớ đọc được một hài bài thôi. Ôi đáng tiếc thay !

Chú thích
▲ Tức Trần Nhân Tông

忠直善終
Trung trực thiện chung
范遇、范邁,本姓祝氏,交趾莊仁人也,兄名堅,弟名固,皆少年登高科,有才名。至正間,在陳明王,歷官清要,王以祝氏古無顯人,乃攺祝堅為范遇,固為范 邁。
王叔父為上宰,傳國柄,不避嫌疑,且與宰執有隙,適仇人上變告,誣搆上宰,國相率百官彈劾,議置大辟,獨范邁為御史中丞,固請緩獄慎刑,時上宰被收, 而家臣寮屬、親戚奴僕下獄殺戮甚衆。邁連上諫疏,面折法司,辯析冤屈,人主威怒之前,力爭不巳。
Phạm Ngộ, Phạm Mại bản tính Chúc thị, Giao Chỉ Lỵ Nhân nhân dã. Huynh danh Kiên, đệ danh Cố, giai thiếu niên đăng cao khoa, hữu tài danh. Chí Chính gian, sĩ Trần Minh Vương, lịch quan thanh yếu. Vương dĩ Chúc thị cổ vô hiển nhân, nãi cải Chúc Kiên vi Phạm Ngộ, Cố vi Phạm Mại.
Vương thúc phụ vi Thượng tể, chuyện quốc bính, bất tị hiềm nghi, thả dữ Tể chấp hữu khích. Thích cừu nhân thượng biến cáo vu cấu Thượng tể. Quốc tướng suất bách quan đàn hặc, nghị trí đại tịch, độc Phạm Mại vi Ngự sử trung thừa, cố thỉnh hoãn ngục thận hình. Thời Thượng tể bị thu, nhi gia thần liêu, thuộc thân thích nô bộc hạ ngục sát lục thậm chúng. Mại liên thướng gián sớ diện chiết pháp tư, biện tích oan khuất, nhân chúa uy nộ chi tiền lực tranh bất dĩ.
王叔既幽死,後得誣搆實跡,坐其姦人,王甚慚愧,追贈叔父極隆,乃賜邁詩云
臺烏久矣噤無聲,
整頓朝綱事匪輕,
殿上昂藏鷹虎氣,
男兒到此是功名。
尋遷 叅知政事,在政府多年,有清名。一日微恙,索筆題詩云
自從謫落下人間,
六十餘年一瞬看。
白玉樓前秋夜月,
朝真依舊傍闌干。
書畢,擲筆而逝。有《鏡溪詩集》行于世。遇亦廉正能文,與弟齊名,官至審刑院使而卒。
Vương thúc ký u tử. Hậu đắc vu cấu thực tích, tọa kỳ gian nhân, vương thậm tàm cụ, truy tặng thúc phụ cực long. Nãi tứ Mại thi vân
Ô đài cửu hĩ cấm vô thanh,
Chỉnh đốn triều cương sự phỉ khinh.
Điện thượng ngang tàng ưng hổ khí,
Nam nhi đáo thử thị công danh.
Tầm thiên Tham tri chính sự. Tại chính phủ đa niên hữu thanh danh. Nhất nhật vi dạng, sách bút đề thi vân
Tự tòng trích lạc hạ nhân gian,
Lục thập dư niên nhất thuấn khan.
Bạch Ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt,
Triều chân y cựu bạng lan can.
Thư tất, trịch bút nhi thệ. Hữu Kính Khê thi tập hành vu thế. Ngộ diệc liêm chính, năng văn, dữ đệ tề danh. Quan chí Thẩm hình viện sử nhi tốt.
Dịch nghĩa
Sống ngay thẳng, chết yên lành

Phạm Ngộ, Phạm Mại nguyên là họ Chúc, người Lỵ Nhân, Giao Chỉ. Anh tên Kiên, em tên Cố, tuổi trẻ đã đỗ đạt lớn, có tài danh. Khoảng năm Chí Chính, làm quan cho Trần Minh Vương, trải nhiều trọng chức. Vương cho họ Chúc trước không có người hiển đạt, bèn đổi Chúc Kiên thành Phạm Ngộ, Cố thành Phạm Mại.

Vương thúc[1] làm Thượng tể, nắm quyền bính, không ngại hiềm nghi, lại xích mích với Tể chấp[2]. Bỗng có kẻ thù dựng chuyện cấp biến, tâu lên vu cáo Thượng tể. Tướng quốc kéo trăm quan đàn hặc, kiến nghị tử hình, riêng Phạm Mại làm Ngự sử trung thừa, cố xin từ từ xét xử thận trọng việc hình. Khi Thượng tể bị bắt, đến gia thần liêu thuộc thân thích tôi tớ đều bị tống giam, giết chóc rất nhiều. Mại liên tiếp dâng sớ can ngăn, trước mặt bẻ bác pháp ty, biện luận phân tích nỗi oan khuất, tranh cãi không thôi trước uy giận của chúa. Vương thúc bị giam chết. Sau, được bằng chứng đáng tin về sự vu cáo, bắt giam kẻ gian, vua rất thẹn sợ, truy tặng thúc phụ cực hậu. Bèn ban cho Mại thơ rằng

Ô đài[3] lâu rồi im bặt tiếng,
Chỉnh đốn triều cương không phải dễ.
Trên điện, ngang tàng như ưng hổ,
Nam nhi như thế mới công danh.
Rồi chuyển làm Tham tri chính sự. Trong chính phủ nhiều năm, rất tiếng tăm. Một hôm ốm nhẹ, cầm bút đề thơ rằng

Từ khi bị đày rơi xuống nhân gian,
Hơn sáu mươi năm một cái nháy mắt.
Trăng đêm thu, trước lầu Bạch Ngọc,
Chầu trời, như cũ, dựa lan can.
Viết xong, vứt bút mà qua đời. Có Kính Khê thi tập lưu hành ở đời. Ngộ cũng liêm chính, giỏi văn, tên tuổi ngang với em. Làm đến Thẩm hình viện sứ thì mất.

Chú thích
▲ Tức Huệ Võ Vương Trần Quốc Chấn (hoặc Chẩn), chú ruột đồng thời là bố vợ vua Trần Minh Tông
▲ Có lẽ là Trần Khắc Chung, khi đó giữ chức Đại Hành khiển
▲ Chỉ đài Ngự sử. Theo sách Hán thư, bên cạnh đài Ngự sử của triều Hán có khóm cây, hàng nghìn con quạ đến đậu ở đó. Vì vậy, đài Ngự sử còn gọi là Ô đài tức đài Quạ

詩諷忠諫
Thi phúng trung gián
至正間,交趾陳元旦以陳家宗冑,仕裕王為御史大夫。王不勤政,權臣多不法,元旦數諫,不納。裕王沒,其侄昏德嗣立,時事愈甚。元旦上書,不報,乃乞骸骨而 去。有《寄臺中寮友詩》云
臺端一去便天涯,
回首傷心事事違。
九陌塵埃人易老,
五湖風雨客思歸。
儒風不振回無力,
國勢如懸去亦非。
今古興亡真可鑑,
諸公何忍諫書稀。
Chí Chính gian, Giao Chỉ Trần Nguyên Đán dĩ Trần gia tông trụ sĩ Dụ Vương vi Ngự sử đại phu. Vương bất cần chính, quyền thần đa bất pháp, Nguyên Đán sác gián bất nạp. Dụ Vương một, kỳ điệt Hôn Đức tự lập, thời sự dũ thậm. Nguyên Đán thướng thư bất báo nãi khất hài cốt nhi khứ. Hữu ký đài trung liêu hữu thi vân
Đài đoan nhất khứ tiện thiên nhai,
Hồi thủ thương tâm sự sự vi.
Cửu mạch trần ai nhân dị lão,
Ngũ Hồ phong vũ khách tư quy.
Nho phong bất chấn hồi vô lực,
Quốc thế như huyền khứ diệc phi.
Kim cổ hưng vong chân khả giám,
Chư công hà nhẫn gián thư hy.
後內難起,奔從藝王。王即位,拜司徒平章事,居相位,頗多年而卒。
其人通曉曆法,甞著《百世通紀書》,上考堯甲辰,下至宋元,日月交蝕,星辰纏度,與古符合,奉道精煉,祈雨有應,自號氷壼子。
Hậu nội nạn khởi, bôn tòng Nghệ Vương. Vương tức vị, bái Tư đồ bình chương sự, cư Tướng vị phả đa niên nhi tốt.
Kỳ nhân thông hiểu lịch pháp, thường trứ Bách thế thông kỷ thư, thượng thảo Nghiêu Giáp thìn, hạ chí Tống, Nguyên ; nhật nguyệt giao thực, tinh thần triền độ dữ cổ phù hợp, phụng đạo tinh luyện, kỳ vũ hữu ứng. Tự hiệu Băng Hồ tử.
Dịch nghĩa
Thơ bóng gió, trung thành can gián
Khoảng năm Chí Chính, Trần Nguyên Đán ở Giao Chỉ là tôn thất nhà Trần, làm quan cho Dụ Vương, chức Ngự sử đại phu. Vương không siêng năng chính sự, quyền thần làm nhiều điều phi pháp, Nguyên Đán luôn can ngăn, không dùng. Dụ Vương mất, cháu là Hôn Đức[1] tự lập, thời sự càng tệ. Nguyên Đán dâng thư, không đáp, bèn xin hài cốt mang về[2]. Có gửi cho đồng liêu trong đài thơ rằng

Người ở đài một khi đi là đến tận chân trời,
Ngoảnh đầu, đau lòng, việc gì cũng trái mắt.
Bụi trần đường sá chốn cửu trùng, người dễ già,
Mưa gió chốn Ngũ Hồ, khách muốn ở ẩn.
Nho phong không chấn hưng, quay lại cũng bất lực,
Thế nước như treo, ra đi cũng không phải.
Hưng phế xưa nay thật có thể làm gương,
Các ông sao nỡ ít thư can gián ?
Sau, dấy nội nạn, chạy theo Nghệ Vương. Vương lên ngôi, lấy làm Tư đồ Bình chương sự, ở ngôi tướng nhiều năm rồi mất.

Ông là người thông hiểu lịch pháp, từng soạn sách Bách thế thông kỷ, trên khảo từ năm Giáp Thìn đời Nghiêu, dưới tới Tống, Nguyên ; nhật thực nguyệt thực, triền độ các sao đều phù hợp với sách cổ, phụng đạo tinh luyện, cầu mưa có ứng nghiệm. Tự hiệu là Băng Hồ tử.

Chú thích
▲ Tức Dương Nhật Lễ
▲ Lấy ý từ câu nói của Phạm Tăng, quân sư của Hạng Vũ. Sau khi bị mắc lừa kế phản gián của Trần Bình, Hạng Vương nghi ngờ Phạm Tăng làm phản theo Hán, có ý lạnh nhạt. Phạm Tăng giận, nói với Hạng Vũ rằng “Việc thiên hạ đã định rồi, xin Bá Vương cho tôi mang hài cốt về nhà”. Nhưng mới đi đến Bành Thành thì phát ung ở lưng mà chết

詩用前人警句
Thi dụng tiền nhân cảnh cú
陳家宗冑有號岑樓者,弱冠能詩,二十七歲而卒,有《岑樓集》行于世,墳在烏鳶江上。介軒阮忠彥亦有詩名,不及相識,行過烏鳶,有追挽詩云
Trần Trần gia tông trụ hữu hiệu Sầm Lâu giả nhược quan năng thi, nhị thập thất tuế nhi tốt. Hữu “Sầm Lâu tập” hành vu thế. Phần tại Ô Diên giang thượng. Giới Hiên Nguyễn Trung Ngạn diệc hữu thi danh, bất cập tương thức. Hành quá Ô Diên, hữu truy vãn thi vân
平生恨不識岑樓,
一讀遺編一點頭。
簑笠五湖榮佩印,
桑麻數畝勝封侯。
世間此語誰能道,
萬古斯文去巳休。
欲酹騷魂何處是,
煙波萬頃使人愁。
簑笠五湖一聯,是岑樓之詩句也。
Bình sinh hận bất thức Sầm Lâu,
Nhất độc di biên nhất điểm đầu.
Soa lạp Ngũ Hồ vinh bội ấn,
Tang ma sổ mẫu[1] thắng phong hầu.
Thế gian thử ngữ thùy năng đạo,
Vạn cổ tư văn khứ hĩ hưu.
Dục loại tao hồn hà xứ thị,
Yên ba vạn khoảnh sử nhân sầu.
“Soa lạp Ngũ Hồ” nhất liên thị Sầm Lâu chi thi cú dã.
Dịch nghĩa
Thơ dùng câu hay của tiền nhân
Tôn thất nhà Trần có người hiệu Sầm Lâu[2], trẻ tuổi đã có tài thơ, hai mươi bảy tuổi thì mất. Có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Mộ trên bờ sông Ô Diên.

Nguyễn Trung Ngạn hiệu Giới Hiên cũng có tiếng thơ, nhưng không kịp quen biết. Đi qua Ô Diên, có thơ viếng rằng

Bình sinh hận không được biết Sầm Lâu,
Mỗi lần đọc thơ còn sót lại, một lần cúi đầu.
Tơi nón Ngũ Hồ vinh hơn mang ấn,
Dâu gai mấy mẫu thắng phong hầu.
Lời ấy thế gian ai nói được,
Văn này muôn thuở qua rồi thôi.
Muốn rót rượu tế hồn “tao”[3], biết ở đâu ?
Khói sóng muôn khoảnh khiến người sầu.
Một liên[4] “Tơi nón Ngũ Hồ” nguyên là câu thơ của Sầm Lâu đó.

Chú thích
▲ Đại Việt sử ký toàn thư chép là tế dã
▲ Uy Văn Vương Trần Quốc Toại, là cháu họ và con rể vua Trần Thái Tông, nổi tiếng hay thơ, có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời.
▲ Tao vốn là từ chỉ tác phẩm Ly tao của Khuất Nguyên, sau được coi như một thể loại thơ
▲ Liên cú, chỉ cặp câu tam và tứ, ngũ và lục trong thể thơ thất ngôn Đường luật. Những câu này đăng đối với nhau, tạo thành một liên

詩言自負
Thi ngôn tự phụ
阮忠彥,早有才名,頗自負,甞有長篇詩,其畧云
介軒先生廟廊器,
茂齡巳有吞牛志。
年方十二太學生,
纔登十六充廷試。
二十有四入諫官,
二十有六燕京使。
其自負矜伐如此。然事陳明王,歷樞要,登政府,卒有令名,不負儒者,官至尚書左輔,壽八十餘。有《介軒集》行于世。
Nguyễn Trung Ngạn, tảo hữu tài danh, phả tự phụ, thường hữu trường thi thiên, kỳ lược vân
Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí
Mậu linh dĩ hữu thôn ngưu chí
Niên phương thập nhị Thái học sinh
Tài đăng thập lục sung Đình thí
Nhị thập hữu tứ nhập Gián quan
Nhị thập hữu lục Yên Kinh sứ
Kỳ tự phụ căng phạt như thử. Nhiên sự Trần Minh Vương, lịch khu yếu, đăng chính phủ, tốt hữu lệnh danh, bất phụ nho giả, quan chí Thượng thư Tả phụ, thọ bát thập dư, hữu “Giới Hiên tập” hành vu thế.
Dịch nghĩa
Lời thơ tự phụ
Nguyễn Trung Ngạn, sớm có tài danh, rất tự phụ, từng có thơ trường thiên, đại lược rằng

Tiên sinh Giới Hiên tài lang miếu
Tuổi thanh niên đã có chí nuốt trâu
Năm mười hai tuổi Thái học sinh
Vừa đến mười sáu dự thi Đình
Hai mươi tư tuổi làm Gián quan
Hai mươi sáu tuổi sứ Yên Kinh
Ấy tự phụ kiêu căng như thế. Tuy nhiên thờ Trần Minh Vương, trải chức khu yếu, lên chính phủ, cuối cùng có lệnh danh, không thẹn là nho giả, quan đến Thượng thư Tả phụ, thọ ngoài tám mươi, có “Giới Hiên tập” lưu hành ở đời

命通詩兆
Mệnh thông thi triệu
黎括字伯括,清化人也。少時,游學都下,其友人為官者,當元季時,奉使燕京,括送詩云
驛路三千君據鞍,
海門十二我還山。
中朝使者煙波客,
君得功名我得閒。
識者知括將貴,後括登科,果驟遷,擢居政府,先於其友人。
Lê Quát tự Bá Quát, Thanh Hóa nhân dã. Tiểu thì, du học đô hạ, kỳ hữu nhân vi quan giả, đương nguyên quý thì phụng sứ Yên Kinh, Quát tống thi vân
Dịch lộ tam thiên quân cứ an,
Hải môn thập nhị ngã hoàn san.
Trung triều sứ giả, yên ba khách,
Quân đắc công danh, ngã đắc nhàn.
Thức giả tri Quát tương quý, hậu Quát đăng khoa, quả sậu thiên, trạc quan chính phủ, tiên ư kỳ hữu nhân
Dịch nghĩa
Số mệnh thông qua điềm thơ
Lê Quát, tự Bá Quát, là người Thanh Hóa. Lúc trẻ, du học kinh đô, có người bạn làm quan, gặp lúc phụng mệnh đi sứ Yên Kinh, Quát tiễn, có thơ rằng

Đường trạm ba nghìn, anh ngồi yên ngựa
Cửa biển mười hai, tôi về núi
Sứ giả trung triều[1], khách khói sóng
Anh được công danh, tôi được nhàn
Kẻ thức giả biết Quát sẽ quý hiển, sau Quát thi đỗ, quả nhiên được thăng chuyển làm quan trong chính phủ, hơn hẳn người bạn kia.

Chú thích
▲ Chỉ Trung Quốc

詩志功名
Thi chí ngôn hành
范五老,事陳仁王,為殿帥上將軍。平生出身戎行,頗好讀書,倜儻有大志,喜吟詩于武事,若不經意。然所領軍,必為父子之兵,每戰必勝,侍衞勤謹,首寇爪牙之臣。嘗有詩云
橫槊江山恰幾秋,
三軍貔虎氣吞牛。
男兒未了功名債,
羞聽人間說武侯。
Phạm Ngũ Lão, sự Trần Nhân Vương, vi Điện tiền Thượng tướng quân, bình sinh xuất thân nhung hạng, phả hiếu độc thư, thích thảng hữu đại chí, hỉ ngâm thi, vu võ sự nhược bất kinh ý, nhiên sở lãnh quân, tất vi phụ tử chi binh, mỗi chiến tất thắng, thị vệ cần cẩn, thú khấu trảo nha chi thần. Thường hữu thi vân
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu[1]
Dịch nghĩa
Thơ nói chí công danh

Phạm Ngũ Lão, thờ Trần Nhân Vương, làm Điện tiền Thượng tướng quân, bình sinh xuất thân trong quân ngũ, lại ham đọc sách, phóng khoáng có chí lớn, thích ngâm thơ, việc võ bị dường như không để ý, nhưng quân ông quản lãnh, thực là quân cha con, đã đánh là thắng, bảo vệ chăm chỉ cẩn thận, giặc cướp ra thú [được thu dụng thành] thuộc hạ nanh vuốt. Từng có thơ rằng

Múa giáo giữa non sông đã mấy thu
Ba quân khí thế như hổ, nuốt trôi trâu
Kẻ nam nhi vẫn chưa trả hết nợ công danh
Thẹn nghe nhân gian nói chuyện Vũ hầu

Chú thích
▲ Vũ hầu Gia Cát Lượng, danh tướng của nhà Thục Hán thời Tam Quốc ở Trung Quốc

小詩麗句
Tiểu thi lệ cú
陳家宗冑,有號愛山者,頗讀書學詩,偏好花情,多吟小詩,時有麗句,甞有詩云
寶鼎香銷沉水煙,
碧紗春帳薄如蟬。
洞章吟罷愁成海,
人在闌干月在天。
又曰
牕畔香雲暗碧紗,
平分午睡不禁茶。
相思在望登樓怯,
一樹木綿紅盡花。
Trần gia tông trụ, hữu hiệu Ái Sơn giả, phả độc thư học thi, thiên hiếu hoa tình, đa ngâm tiểu thi, thời hữu lệ cú. Thường hữu thi vân
Bảo đỉnh hương tiêu trầm thủy yên,
Bích sa xuân trướng bạc như thiền.
Động chương ngâm bãi sầu thành hải,
Nhân tại lan can nguyệt tại thiên.
Hựu viết
Song bạn hương vân ám bích sa,
Bình phân ngọ thụy bất cấm trà.
Tương tư tại vọng đăng lâu khiếp,
Nhất thụ thủy miên hồng tận hoa.
Dịch nghĩa
Thơ ngắn lời đẹp

Tôn thất nhà Trần có người hiệu Ái Sơn, rất ham đọc sách học thơ, vốn thích phong tình, hay ngâm thơ ngắn, thỉnh thoảng có câu đẹp. Từng có thơ rằng

Khói trầm đỉnh hương báu tiêu tan hết,
Màn xuân the biếc mỏng tựa cánh ve.
Bài thơ sâu sắc ngâm xong, sầu thành biển,
Người tại lan can, trăng tại trời.
Lại có

Mây thơm bên song mờ the biếc,
Thường ngủ trưa dậy chẳng kiêng chè,
Đang tương tư, sợ bước lên lầu,
Một cây gạo, màu đỏ nhuộm cả hoa

詩酒驚人
Thi tửu kinh nhân
演州人胡宗鷟,少年登科,頗有才名。初未甚顯,適至元宵,有道人黎法官者,張燈設席,以延文客。宗鷟受簡請題。一夜席上,賦詩百首,飲酒百杯,衆皆環視歎 服,無與敵者。自是名震都下,後以文學為人師,臣事陳藝王,官至翰林學士承旨兼審刑院使,詩酒無虛日。年八十餘,壽終于家。
Diễn Châu nhân Hồ Tông Thốc, thiếu niên đăng khoa, phả hữu tài danh. Sơ vị thâm hiển, thích chí nguyên tiêu, hữu đạo nhân Lê Pháp quan giả, trương đăng thiết tịch, dĩ diên văn khách. Tông Thốc thụ giản thỉnh đề. Nhất dạ tịch thượng phú thi bách thủ, ẩm tửu bách bôi, chúng giai hoàn thị thán phục, vô dữ địch giả. Tự thị danh chấn đô hạ, hậu dĩ văn học vị nhân sư. Thần sự Trần Nghệ Vương, quan chí Hàn lâm học sĩ, Thừa chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, thi tửu vô hư nhật. Niên bát thập dư, thọ chung vu gia.
Dịch nghĩa
Thơ rượu làm sợ người ta

Người Diễn Châu Hồ Tông Thốc, thi đỗ từ trẻ, rất có tài danh. Ban đầu chưa nổi tiếng lắm, nhân đến Nguyên tiêu, có đạo nhân Pháp quan họ Lê giăng đèn mở tiệc, rước khách văn chương. Tông Thốc nhận giấy mời đề thơ. Trong một đêm, trên tiệc làm trăm bài thơ, uống trăm chén rượu, ai nấy xúm nhìn thán phục, không ai địch nổi. Từ đó danh động kinh đô, sau dùng văn tài làm thầy người. Làm quan thờ Trần Nghệ Vương, quan đế Hàn lâm học sĩ, Thừa chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, thơ rượu không ngày nào vắng. Tuổi ngoài tám mươi, mất tại nhà.

詩兆餘慶
Thi triệu dư khương
澄太父之外祖曰阮公,諱聖訓,事陳仁王為中書侍郎,性甚仁厚,少年登高科,最能詩,當時無敵,後人稱為”南方詩祖”。嘗有《田園漫興詩》,其一聯云
巢鳥寄林休伐木,
蟻封在地未耕田。
識者歎其仁心及物,必有餘慶
Trừng đại phụ chí ngoại tổ viết Nguyễn công, húy Thánh Huấn, sự Trần Nhân Vương vi Trung thư thị lang. Tính thậm nhân hậu. Thiếu niên đăng cao khoa, tối năng thí, đương thời vô địch, hậu nhân xưng vi “Nam phương thi tổ”. Thường hữu “Điền viên mạn hứng thi”, kỳ nhất liên vân
Sào điểu ký lâm hưu phạt mộc,
Nghi phong tại địa vị canh điền.
Thức giả thán kỳ nhân tâm cập vật tất hữu dư khương.
後其女配我曾祖,生太父,及陳明王次妃。妃生,藝王卒,有贈典尊榮門閥,昌盛之福,果如識者所言,其兆先見于此詩乎?以至四世外孫,如澄,今者出自幽谷,遷于喬木,溝斷之餘,濫同成器,豈非先人之澤未割?乃得生逢聖世,深沐堯仁,而有此奇遇也歟!
Hậu kỳ nữ phối ngã tằng tổ, sinh đại phụ cập Trần Minh Vương thứ phi. Phi sinh Nghệ Vương. Tốt hữu tặng điển tôn vinh môn phiệt, xương thịnh chi phúc quả như thức giả sở ngôn, kỳ triệu tiên kiến ư thử thi hồ ? Dĩ chí tứ thế ngoại tôn như Trừng kim giả, xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc, càn đoạn chi dư lạm đồng thành khí, khởi phi tiên nhân chi trạch vị cát, nãi đắc sinh phùng thành thế, thâm mộc Nghiêu nhân, nhi hữu thử kỳ ngộ dã dư ?
Dịch nghĩa
Điềm thơ để phúc trạch về sau

Ông ngoại của đại phụ Trừng[1] là Nguyễn công, húy Thánh Huấn, thờ Trần Nhân Vương, làm Trung thư thị lang. Tính rất nhân hậu. Còn trẻ đã thi đỗ cao, cực hay thơ, đương thời vô địch, người sau gọi là “Thi tổ phương Nam”. Từng có thơ “Điền viên mạn hứng”, có một liên rằng

Tổ chim gửi rừng, ngừng chặt gỗ,
Ổ kiến dưới đất, chưa cày ruộng.
Thức giả khen lòng nhân đến cả loài vật, ắt để phúc cho con cháu. Sau, gả con gái cho tằng tổ[2] tôi, sinh đại phụ tôi và bà thứ phi Trần Minh Vương. Bà phi sinh Nghệ Vương. Lúc mất, phong tặng tổ tiên theo điển “tôn vinh môn phiệt”, phúc thịnh ấy quả đúng như lời thức giả nói, nó đã hiện trước trong thơ trên chăng ? Cho đến cháu ngoại bốn đời như Trừng nay, “ra tự hang sâu, dời đến cây cao”[3], một khúc rãnh thừa cũng thành khí[4], chẳng phải do phúc trạch của tiên nhân chưa dứt, mới được sinh gặp triều thánh, tắm gội nhân Nghiêu, mà có duyên kỳ ngộ này ư ?

Chú thích
▲ Tức ông nội của Hồ Nguyên Trừng, cha Hồ Quý Ly
▲ Tằng tổ là cụ nội
▲ Thơ Phạt mộc, Tiểu nhã, Kinh Thi
▲ Khí tức vật có ích

詩稱相職
Thi xứng tướng chức
陳藝王初為相時,有《送元使詩》云
安南老相不能詩,
空對金樽送客歸。
圓傘山高瀘水碧,
遙瞻玉節五雲飛。
其弟恭信,性文雅,好詩畵,後為右相,亦有《尋幽詩》云
槁七八重虹宛轉,
水東西折綠縈迴。
不因看石尋梅去,
安得昇平宰相來?
Trần Nghệ Vương sơ vi tướng thời, hữu “Tống Nguyên sứ thi” vân
An Nam lão tướng bất năng thi,
Không đối kim tôn tống khách quy.
Viên Tản sơn cao, Lô thủy bích,
Dao chiêm ngọc tiết ngũ vân phi.
Kỳ đệ Cung Tín, tính văn nhã, hiếu thi họa, hậu vi Hữu tướng, diệc hữu “Tầm u thi” vân
Kiều thất bát trùng hồng uyển chuyển,
Thủy đông tây chiết lục oanh hồi.
Bất nhân khán thạch tầm mai khứ,
An đắc thăng bình Tể tướng lai.
Dịch nghĩa
Thơ xứng chức Tể tướng

Trần Nghệ Vương khi mới làm Tể tướng, có bài thơ “Tiễn sứ Nguyên” rằng

Lão Tể tướng An Nam chẳng thạo thơ,
Ngồi suông trước chén vàng tiễn khách về.
Núi Tản Viên cao, dòng Lô Thủy biếc,
Vời trông theo cờ sứ bay vào năm mây.
Em là Cung Tín[1], tính thanh nhã, thích thi họa, sau làm Hữu tướng quốc, cũng có thơ “Tầm u” rằng

Cầu bảy tám lớp như cầu vồng uốn lượn,
Nước đông tây gấp khúc, màu xanh quanh co.
Không nhân dịp tìm mai ngắm đá,
Thì chốn này đâu mong có vị Tể tướng thời thăng bình đến chơi

Chú thích
▲ Cung Tín Vương Trần Thiên Trạch (?-1379), con trai của Trần Minh Tông, em trai Trần Nghệ Tông

詩歎致君
Thi thán trí quân
氷壼司徒《題玄天觀詩》云
白日升天易,
致君堯舜難。
塵埃六十載,
回首媿黃冠。
蓋為相時,不有功效,而興此歎。是亦憂愛在懷,情歸忠厚,詩人所可取也歟!
Băng Hồ Tư đồ “Đề Huyền Thiên quán thi” vân
Bạch nhật thăng thiên dị,
Trí quân Nghiêu Thuấn nan.
Trần ai lục thập tải,
Hồi thủ quý hoàng quan.
Cái vi tướng thời, bất hữu công hiệu nhi hứng thử thán, thị diệc ưu ái tại hoài, tình quy trung hậu, thi nhân sở khả thủ dã dư ?
Dịch nghĩa
Thơ than hai chữ “trí quân”

Băng Hồ Tư đồ[1] có thơ “Đề quán Huyền Thiên[2]” rằng

Ban ngày lên trời dễ
Giúp vua thành Nghiêu Thuấn khó
Sống ở cõi trần đã sáu mươi năm
Ngoảnh đầu, xấu hổ với đạo sĩ
Có lẽ khi làm Tể tướng, thấy không có công mới than thở như vậy, cũng là ưu ái trong lòng, tình quy trung hậu, đó là chỗ khả thủ của thi nhân chăng ?

Chú thích
▲ Trần Nguyên Đán
▲ Có lẽ là quán Huyền Thiên thuộc “Thăng Long tứ quán”, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, nay là chùa Huyền Thiên thuộc phố Hàng Khoai, Hà Nội

貴客相歡
Quí khách tương hoan
軍頭莫記,東潮人也,出身行伍,酷好吟詩。元統間,伴送元使黃裳,裳亦好詩者,旬日江行,相與唱和,多有佳句,裳甚歡之。至界上,留《別詩》云
江岸梅花正白,
船頭細雨斜飛,
行客三冬北去,
將軍一棹南歸。
Quân đầu Mạc Ký, Đông Triều nhân dã, xuất thân hàng ngũ, khốc hiếu ngâm thi. Nguyên Thống gian bạn tống Nguyên sứ Hoàng Thường, Thường diệc hiếu thi giả, tuần nhật giang hành tương dữ xướng họa, đa hữu giai cú, Thường thậm hoan chi. Chí giới thượng lưu biệt thi vân
Giang ngạn mai hoa chính bạch,
Thuyền đầu tế vũ tà phi.
Hành khách tam đông Bắc khứ,
Tướng quân nhất trạo Nam quy.
Dịch nghĩa
Khách quý cùng vui

Quân đầu Mạc Kỳ, người Đông Triều, xuất thân quân ngũ, lại rất thích thơ. Khoảng năm Nguyên Thống, tiễn đưa sứ Nguyên là Hoàng Thường, Thường cũng là người thích thơ, một tuần[1] đi trên sông cùng nhau xướng họa, có nhiều câu hay, Thường rất vui. Đến đầu địa giới, có thơ lưu biệt rằng

Bờ sông hoa mai nở trắng,
Đầu thuyền mưa nhỏ lất phất bay.
Giữa ba đông hành khách về Bắc,
Một mái chèo Tướng quân lại Nam.

Chú thích
▲ Lịch xưa, một tuần là mười ngày

南翁夢錄後序
Nam Ông mộng lục hậu tự
《南翁夢錄》者,今工部左侍郎黎公所作也。公字孟源,南翁其別號也。公交南之巨擘,賔興天朝,久沐清化,以耆才碩德,受知列聖,累遷至亞卿,實奇遇也。公文 章政事兩濟其美,每於公餘之頃,追念舊日,賢王良佐之行事、君子善人之處心、貞妃烈婦之操節、緇流羽客之奇術,與夫綺麗之句,幽恠之說,可以傳示於後者, 具載成編,名曰《南翁夢錄》。
“Nam Ông mộng lục” giả, kim Công bộ Tả Thị lang Lê công sở tác dã. Công tự Mạnh Nguyên, Nam Ông kỳ biệt hiệu dã. Công Nam Giao chi cự phách, tân hưng thiên triều, cửu mộc thanh hoa, dĩ kỳ tài thạc đức, thụ tri liệt thánh, lũy thiên chí Á khanh, thực kỳ ngộ dã.
Công văn chương chính sự lưỡng tế kỳ mỹ. Mỗi ư công dư chi khoảnh, truy niệm cựu nhật hiền vương lương tá chi hành sự, quân tử thiên nhân chi xử tâm, trinh phi liệt phụ chi tháo tiết, truy lưu vũ khách chi kỳ thuật, dữ phù ỷ lệ chi cú, u quái chi thuyết, khả dĩ truyền thị ư hậu giả, cụ tái thành biên, danh viết “Nam Ông mộng lục”.
予與公有鄉曲之好,一日以斯《錄》見示,乃遍閱之,因而言曰:地有遠近,而所同者此心;心有彼我,而所同者此理。以天下之大而言之,交南乃蕞爾之 偏方,固不敢與中國齒,以《錄》中所載者而論之,其修身制行,持心操節,又何異於中國之士君子哉!《詩》曰:民之秉彝,好是懿德。其以此歟!雖然前人 之嘉言懿行縱多,然非公之好善有誠,固不能樂聞而著之於心胷之間。今也,不徒聞之而已,而又筆之於書,使前人湮沒之餘,一旦言行彰彰然表暴於世,若予之後 生晚學,於事有所未聞者,亦得一覽而知之。匪唯前人之幸,而亦予之一幸也。是《錄》足以資見聞,乃命繡梓以廣其傳,俾覽者知仁人之用心,而亦以見遐方之多 才也歟!禮部尚書胡公既為序引,予姑識歲月于後云。
正統七年,歲在壬戌,五月中澣,亞中大夫福建等處承宣布政使司右叅政交南宋彰書
Dư dữ ông hữu hương khúc chi hảo, nhất nhật dĩ tư lục kiến thị, nãi biến duyệt chi, nhân nhi ngôn viết: “Địa hữu viễn cận, nhi sở đồng giả, thử tâm, tâm hữu bỉ ngã, nhi sở đồng giả, thử lý. Dĩ thiên hạ chi đại nhi ngôn chi, Giao Nam nãi toát nhĩ chi thiên phương, cố bất cảm dữ Trung Quốc xỉ. Dĩ lục trung sở tái giả nhi luận chi, kỳ tu thân thế hạnh, trì tâm tháo tiết, hựu hà dị ư Trung Quốc chi sĩ quân tử tai! Thi viết: “Dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức”, kỳ dĩ thử dư? Tuy nhiên, tiền nhân chi gia ngôn ý hành túng đa, nhiên phi Công chi hiếu thiện hữu thành, cố bất năng lạc văn nhi trước chi ư tâm hung chi gian. Kim dã, bất đồ văn chi nhi dĩ, nhi hựu bút chi ư thư, sử tiền nhân yên một chi dư, nhất đán ngôn hành chương chương nhiên biểu bộc ư thế. Nhược dư chi hậu sinh vãn học, ư sự hữu sở vị văn giả, diệc đắc nhất lãm nhi tri chi, phỉ duy tiền nhân chi hạnh, nhi diệc dư chi nhất hạnh dã”. Thị lục túc dĩ tư kiến văn, nãi mệnh tú tử, dĩ quảng kỳ truyền, tỉ lãm giả tri nhân nhân chi dụng tâm, nhi diệc dĩ kiến hà phương chi đa tài dã dư.
Lễ bộ Thượng thư Hồ công ký vi tự dẫn, dư cô chí tuế nguyệt vu hậu vân.

Chính Thống thất niên, tuế tại Nhâm Tuất, ngũ nguyệt trung cán, Á trung đại phu, Phúc Kiến đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty Hữu Tham chính, Giao Nam Tống Chương thư.
Dịch nghĩa
Bài tựa sau sách “Nam Ông mộng lục” (Tống Chương)

Sách “Nam Ông mộng lục” này, do Lê công hiện giữ chức Công bộ Tả Thị lang làm ra. Công tự Mạnh Nguyên, Nam Ông là biệt hiệu vậy đó. Công là cự phách của Nam Giao, thiên triều tiếp đón, tắm gội tinh hoa đã lâu, nhờ tài lạ đức cao, thánh hoàng tri ngộ, thăng mãi lên Á khanh, thật duyên kỳ ngộ vậy.

Công, văn chương và chính sự đều đẹp đẽ. Thường những lúc việc công nhàn rỗi, nhớ lại chuyện cũ, việc làm của vua hiền tôi giỏi, cái tâm của quân tử thiện nhân, tiết tháo của trinh phi liệt phụ, thuật lạ của đạo sĩ tăng nhân, cùng vần thơ đẹp đẽ, câu chuyện u quái, có thể truyền lại cho đời sau, đều chép thành sách, đặt là “Nam Ông mộng lục”.

Tôi với ngài có tình quê hương, một hôm mang sách này cho xem, bèn đọc khắp lượt, nhân đó thốt lên “Đất có xa gần, vẫn có điểm giống, là tâm, tâm tuy ta người, vẫn có điểm giống, là lý. Lấy việc lớn trong thiên hạ mà nói, thì Giao Nam chẳng qua là một phương trời, không dám sánh với Trung Quốc. Nhưng theo ghi chép trong sách mà bàn, thì tu thân tạo hạnh, gìn lòng giữ tiết, có khác gì sĩ quân tử Trung Quốc đâu ! Thi nói “Dân theo lẽ thường, ham cái đức tốt”[1], để nói điều đó ? Tuy nhiên, lời hay việc tốt của người xưa có nhiều nữa, nhưng nếu Công không thật lòng thích điều thiện, thì không thể nghe vui vẻ và khắc ghi vào lòng được. Nay thì, không chỉ nghe rồi để đấy, còn cầm bút chép vào sách, để lời nói việc làm người xưa bấy lâu mai một, một sớm được trình bày rõ ràng trong cõi đời. Như tôi kẻ sinh sau học muộn, nhiều việc chưa được nghe đến, chỉ đọc sách này một này cũng biết được cả, không chỉ là cái may của người xưa mà còn là cái may của tôi nữa”. Vì sách này giúp thêm kiến văn, đã cho khắc in, để truyền rộng rãi, khiến người xem biết được dụng tâm của bậc nhân, để cũng thấy phương xa có lắm nhân tài vậy. Quan Thượng thư bộ Lễ Hồ công đã làm tựa dẫn, tôi tạm ghi năm tháng vào sau.

Trung tuần tháng năm, năm Nhâm Tuất, niên hiệu Chính Thông thứ bảy (1442).
Á trung đại phu, Phúc Kiến đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty Hữu Tham chính, Giao Nam Tống Chương viết.

Chú thích
▲ Câu trong bài Chưng dân, Đại nhã, Kinh Thi

TRINH THỬ – 貞鼠

Trinh thử – 貞鼠
của Hồ Huyền Quy

Trinh thử nghĩa là con chuột có lòng trinh tiết. Đây là một câu chuyện ngụ ngôn: tác giả mượn chuyện của loài chuột để tán dương lòng trinh tiết và chỉ trích lòng dâm tà của người đời. Cũng có ý kiến cho rằng Hồ Huyền Quy mượn chuyện con chuột để châm biếm Hồ Quý Ly và hoàn cảnh chính trị đương thời.

Mục lục

I. Chuột đực quyến rũ chuột bạch, chuột bạch cự tuyệt
II. Chuột cái về, nổi ghen, rầy rà chuột đực và sinh sự với chuột bạch
III. Hồ sinh cứu vớt và khuyên nhủ chuột cái

I. Chuột đực quyến rũ chuột bạch, chuột bạch cự tuyệt

Vừa năm Long Khánh đời Trần,
Muôn phương triều cống mười phân thái bình.
Ngụ miền Lộc đỗng cảnh thanh,
Là Hồ sinh vốn thiện danh đang thì.
Nhiều bề cách vật trí tri,
Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.
Kinh thành nhân thủa ra chơi,
Lý lê thủ tướng gần nơi ngụ nhà.
Canh ba thánh thót đồng hồ,
10Lạ nhà chưa ngủ hồ đồ xiết bao.
Bỗng nghe bên cỗi bích đào,
Tiếng con muông sủa bào hao dậy dàng.
Chẳng là chuột bạch bên tường,
Cong đuôi mà chạy vội vàng hãi kinh.
Cửa hang sẵn ở góc thành,
Chạy ngang vào đấy ẩn mình một khi.
Mất mồi muông lại chạy đi,
Trong hang dường tiếng nam nhi hỏi rằng:
“Uẩy ai quen thuộc chưa tường !
20Đêm khuya đương đột vì chưng cớ nào ?”
Hồ sinh thấy sự lạ sao,
Đến bên tường, ghé mắt vào dòm chơi.
Thấy con chuột đực nằm dài,
Lời ăn tiếng nói như người chưa khôn.
Đương khi nói ngọt, nói ngon,
Bây giờ Chuột bạch còn run như cầy.
Một giây tỉnh lại mới hay :
Vì chưng lỡ bước biết đây chốn nào.
Tới lui khôn biết làm sao,
30Khác nào như thể cáy vào hang cua.
Dám bày nông nỗi trình thưa,
Rằng: “Tôi nhà cũng quanh co miền này.
Quá chân lạc lối tới đây,
Chẳng may bỗng gặp muông cầy bất nhân.
Phúc sao mà cũng mau chân,
Chạy vào lại được gửi thân chốn này.
Rộng cho nương náu ở đây,
Được qua nạn ấy ơn dày dám vong.”
Lời ăn tiếng nói thong dong,
40Chàng nghe cũng động tấm lòng nước mây.
Rằng: “Sao cả quyết tới đây,
Nào chồng con ở đâu, nay làm gì ?
Một mình khuya khoắt ra đi,
Dường như giống vạc, cớ gì ăn đêm ?
Hay là nhắn cá, gửi chim,
Đêm xuân đón gió đi tìm mùi hương ?
Rằng ta rộng rãi lòng thương,
Phỏng như gặp kẻ phũ phàng thì sao.”
Nàng nghe chàng nói thấp cao,
50Nỗi mình mới kể tiêu hao xa gần:
“Thiếp nay ở mãi Đông lân,
Vì cơ thương cẩu lang quân tếch ngàn.
Mối lòng khôn xiết thở than,
Thương chồng lại xót một đàn con thơ.
Rồng rồng theo nạ sớm trưa,
Của đâu cho được dư thừa miếng ăn.
Pha phôi chẳng quản nhọc nhằn,
Chân le chân vịt nào phân đêm ngày.
Nghe quan thủ tướng bên này,
60Cửa nhà tráng lệ, của dày bằng non.
Muốn ăn hét phải đào giun,
Pha bờ xông bụi nào còn biết e.
Đêm hôm cũng dấn mình đi,
Sang đây kiếm ít đem về làm lưng.
Ai ngờ gặp đứa gió trăng,
Cho nên khuất nẻo lạc chừng khốn thay !”
Chàng nghe nông nỗi giãi bày,
Quyết lòng cầm sắt một hai dỗ dành.
Rằng: “Nàng giải hết chân tình,
70Thương thay phận gái một mình long đong.
Đã hay trong đạo vợ chồng,
Nghĩa sâu tình nặng há lòng chẳng thương.
Kinh quyền đôi lẽ là thường,
Được nơi tựa ngọc nương vàng thì thôi.
Chẳng lo mẹ góa con côi,
Sớm khuya loan phượng no đôi dường nào.
Chẳng lo liễu cợt hoa chào,
Bướm gìn ong giữ làm sao cho tuyền.
Vả nàng là gái thuyền quyên,
80Phỏng khi gặp kẻ vô duyên khôn dè.
Ví mà dốc tấm lòng quì,
Giữ sao cho được trọn bề hướng dương.”
Nàng nghe ăn nói sỗ sàng,
Muôn sầu tầm tã, hai hàng chứa chan.
Cúi đầu thưa nói khoan khoan :
“Thiếp như phận liễu gặp cơn gió đoài.
Đã thương mới dám ngỏ lời,
Nhớ trong thanh sử hôm mai ghi lòng.
Chữ rằng tòng nhất nhi chung
90Gái hiền thờ chỉ một chồng chẳng hai.
Cương thường đạo cả há chơi,
Một niềm hằng giữ, mấy lời đinh ninh.
Vả nay bóng đã xế mành,
Dám đâu còn lại gieo mình nữa nao.
Mặc ai ong bướm xôn xao,
Mười phần cũng chẳng chuyển dao một phần.
Hạ qua dám ước lại xuân,
Dễ hầu gà luộc mấy lần nữa sao ?
Phận đành cho ả họ Tào,
100Mong sân hòe được thanh tao là mừng.
Bây giờ sẩy bước lỡ chừng,
Tôi đây đã đội ơn chưng lòng chàng.
Đoái tương thân phận lỡ làng,
Dạy đường phương tiện lòng càng cám ơn.
Tóc tơ giải hết nguồn cơn,
Quyết liều chịu tốt thờn bơn một bề.
Vu qui núi chỉ non thề,
Tấc lòng đá tạc vàng ghi dám rời.
Ở đời kiên ngạnh với đời,
110Kẻo e oanh yến những lời khen chê !
Chàng rằng: “Nàng vẫn chấp mê,
Chẳng hay lo trước ắt thì lụy sau.
Hãy suy cho thấu cơ mầu,
Trong khi tụy hoán dễ hầu một ai.
Chữ rằng: ‘xuân bất tái lai’,
Một ngày là mấy sớm mai hỡi nàng !
Tới lui đôi lẽ cho tường,
Tính bề xử biến hơn đường kiên trinh.
Kết làm phu phụ chi tình,
120Chẳng lo thuyền bách lênh đênh giữa nguồn.
Lòng xuân tưởng đến cũng buồn,
Chẳng nghe câu ví phương ngôn thường lề:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sồng sộc nó thì theo sau”.
Ngựa qua cửa sổ bao lâu,
Kiếp toan kiếm chốn bán sầu mua vui.
Hoa tàn nhị rữa thì thôi,
Bấy giờ ai kẻ còn lời tóc tơ.
Một mình giữ đống con thơ,
130Dễ ai lo lắng sớm trưa với nàng.
Có khi biến, có khi thường,
Suy điều cùng chiếu cùng giường vầy vui.
Song song như đũa có đôi,
Ấm no cùng thỏa, ngọt bùi cùng ăn.
Bằng khi vò võ nửa chăn,
Canh khuya trằn trọc băn khoăn vui gì.
Được chăng một tiếng tiết nghì,
Bắc đồng cân thử xem bề nào hơn.
Xưa nay mấy kẻ hồng nhan,
140Gan vàng dạ ngọc cơ hàn được đâu.
Như người phú các thư lâu,
Lòng son dạ sắt mình đâu dám bì !”
Nàng rằng: “Phận gái vụng về,
Đắn đo chút cũng thấu bề phải chăng.
Vợ chồng đạo cả lẽ hằng,
Tạo đoan lẽ ấy há rằng phải chơi.
Kể từ thủa mới thiên khai,
Nằm hang ở nội chưa ai biết gì.
Cũng còn có lễ lệ bì,
150Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.
Phu thê phong hóa chi nguyên,
Sự vong như thể sự tồn kẻo quê.
Trời đâu phụ kẻ tiết nghì,
Lân kinh, Mao giản tạc ghi còn truyền.
Đời xưa mấy gái tiết hiền,
Chẳng nên giống nọ, thì nên giống này.
Mấy người tính nước, lòng mây,
Sớm đưa gã Lý, tối vầy chàng Trương.
Sử xanh còn chép rõ ràng,
160Lòng này đâu dám ra tuồng như xưa.
Kẻ chồng còn đó trơ trơ,
Cùng người khác đã đợi chờ tình chung.
Kẻ thời mới khuất mặt chồng,
Chưa xanh ngọn cỏ, cải dong, biến nghì.
Những loài ấy kể làm chi,
Rành rành bia miệng còn ghi đến rày.”
Chàng nghe lại nói lời này:
“Nàng tuy biết một chưa hay biết mười.
Đã là tai mắt ở đời,
170Cứ mình, chớ bắt chước người vụ danh.
Ở trong thế sự vẫn thanh,
Hễ mà miễn được ích mình thời thôi.
Ví dù bắt chước như ai,
Nói màu trinh tiết, ở loài bôn ba.
Hán thời Lã hậu ai qua,
Sớm khuya cửa tía, vào ra nhà vàng.
Từ khi khuất mặt Hán hoàng,
Mà lòng tư túi với chàng Tự Cơ.
Ả Hồ dương nọ chẳng vừa,
180Cớ gì mà lại toan thờ Tống công.
Kìa như Vũ hậu cũng nồng,
Mày ngài được sánh bệ rồng mấy phen.
Vua Đường thoắt mới xe tiên,
Rủ rèm trong đã có nguyền riêng tây.
Họ Trương đôi gã đẹp thay,
Hứa Tam tư lại chuyền tay mận đào.
Điêu Thuyền há chính chuyên nào,
Khi ra Lã Bố khi vào Đổng công.
Gặp ai thời nấy là chồng,
190Cõi đời đâu đấy đều cùng cười chê.
Thử coi lấy đấy mà suy,
Người thiêng hơn vật nào nghì ở đâu.
Người thời đắc thế sang giàu,
Còn cầu thích ý còn cầu hưu danh.
Huống chi vật mọn quần sinh,
Giữ sao vẹn chữ tiết trinh mà bì.”
Gót đầu nàng lặng ngồi nghe,
Lâu lâu lại ngoảnh mặt đi thở dài.
Chàng nghĩ đàn đã êm tai.
200Kể đường lợi hại nói chơi xa gần.
Rằng: “Thương nàng chửa yên thân,
Ở nơi đình chủ đông lân bây giờ.
Khó khăn nhà xác như vờ,
Nước sông gạo chợ, củi mua củi đồng.
Thịt chẳng có, cá thời không,
Chốn nằm chẳng có màn mùng che thân.
Gà về bới nát cỏ sân,
Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài.
Chó nằm hè gậm vỏ khoai,
210Lợn ngồi dũi đất ngậm hơi gầy gò.
Vật nuôi còn chửa được no,
Của đâu thừa thãi để cho đến nàng.
Vả hay tiếc của giữ giàng,
Giang san một nắm lại càng dấu dung.
Vắt chày ra nước ròng ròng,
Miếng ăn đè cột chớ hòng mon men.
Hứng tay dưới, vắt tay trên,
Rán sành ra mỡ bon chen từng điều.
Treo cổ chó, buộc cổ mèo,
220Bình dưa lọ muối chắt chiu nom dòm.
Vặt đầu cá, vá đầu tôm,
Liệu thưng bữa sớm bữa hôm ít nhiều.
Hạt rơi hạt rụng bao nhiêu,
Chậu bồn úp lại, ai đào chẳng ra.
Thấy nàng lòng dạ xót xa,
Châu chan sầu tủi nghĩ hòa thương cho.
Anh nay nhờ phận ấm no,
Tổ nhân thiên táng, huyệt do mối đùn.
Hợi long nhập thủ chuyển khôn,
230Bao nhiêu hổ thủy cũng tuôn nhập đoài.
Rày chen vượng tướng hào tài,
Đông phương tị ngọ mấy đời đến nay.
Vả xem cây lộc tốt thay,
Quí nhân phù trợ tài này làm nên.
Lại xem tiền định chẳng hèn,
Mười thầy cũng nói như in một lời.
Số tử vi đã giãi bày,
Tham lang thủ mệnh ắt rày vượng thay.
Vậy nên gặp cửa người đây,
240Ngôi cao nhất phẩm, lộc dày thiên chung.
Tòa ngang dãy dọc trùng trùng,
Tả lâu hoa tạ, hữu cung ngọc đường.
Của thời núi bạc non vàng,
Thóc Chu, lúa Hán kho tàng xiết đâu.
Thạch Sùng tắc lưỡi lắc đầu,
Nhân sinh rất mực hòa giàu hòa sang.
Thức gì thức chẳng sẵn sàng,
Giàu lòng ăn ở nghênh ngang một mình.
Vả nhà lắm kẻ hiền lành,
250Tụng kinh chẳng nỡ sát sinh loài gì.
Khi vui khúc khích đầu hè,
Dẫu rằng: gia chủ chẳng hề dễ dui.
Ngẫm thân được chốn an vui,
Hiềm vì một chút số sui muộn màn.
Muốn cho vẹn nghĩa Tấn Tần,
Tìm phương phụ hậu ân cần những lo.
Đã từng xem quẻ bói rùa,
Còn toan bói hạc xem cho mới đành.
Nghe rằng Già pháp thần linh,
260Quyết lòng cầu tự đinh ninh đến chùa.
Trong nhà hắc hổ trấn phù,
Sinh con sinh cái nuôi cho dễ dàng.
Tìm thấy Biển Thước lập phương,
Mã đề, qui bản, sà sàng, lộc nhung.
Nhân sâm, liên nhục, mật ong,
Pha cao hổ cốt ban long luyện hoàn.
Bổ trong ngũ nội đã an,
Vợ chồng lục vị, thập toàn uống chung.
Trong lòng còn nghĩ chưa xong,
270Rắp tìm một kẻ thiên phòng chưa ai.
To đầu vú, cả giái tai,
Dày nơi ngư vĩ, cao nơi ngọa tàm.
Biết đâu như thế mà tìm,
Nhờ tay nguyệt lão khéo đem kết nguyền.
Hôm qua máy mắt cho liền,
Nhện sa trước mặt báo tin ngoài thềm.
Bẻ chân gà mới so xem,
Vững con, tươi cái, ngoài đun quá nồi.
Cho hay duyên kiếp bởi trời,
280Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai,
Hôm nay mẹ nó đi chơi,
Phỏng chừng cũng đến có đôi ba ngày.
Mà nàng lạc lối tới đây,
Vả coi hình tướng cũng tày nàng Oanh.
Khác loài tước bộ xà hành,
Lại xem phụ tưởng kiên trinh ai bì.
Muốn nên một chút nghĩa chi,
Chẳng hay nàng có khứng vì cùng chăng ?
Đưa duyên nhờ gió gác Đằng,
290Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.
Sau toan Cách cựu Đỉnh tân,
Lại vầy, lại hợp cho nhuần sớm khuya.
Nọ là núi chỉ non thề,
Bất kỳ nên nghĩa tương kỳ mới hay.
Đem con sang ở bên này,
Phòng khi ấm lạnh đỡ thay cho mình.
Nơi ăn ở chốn ở chung chinh,
Chẳng lo khó nhọc cũng đành ấm no !”
Nàng nghe chàng nói nhỏ to,
300Bây giờ mới kể sự Hồ Quí Ly:
“Làm người mang tính hồ nghi,
Thấy người cốt ngạnh chẳng vì chẳng yêu.
Vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,
Tham lam chẳng khác Lý miêu đời Đường.
Bệ rồng gác phượng tấc gang,
Quen lòng khuyển mã toan đường dong thân.
Nỡ làm đố quốc hại dân,
Những phần ích kỷ nào phần ích ai.
Rồi ra động đất chuyển trời,
310Bấy giờ có lẽ đứng ngồi làm thinh
Cá ao lệ nữa cháy thành,
Cũng nhiều cấp phải lánh mình cho hay.
Sao bằng đình chủ thiếp nay,
Ba gian oa xá tháng ngày tiêu dao.
Chẳng lo đuổi thỏ săn hươu,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Kình nghê vui thú kình nghê,
Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.
Xem loài bán thỏ buôn hùm,
320Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò.
Thà ăn cáy ngáy o o,
Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.
Chớ quen bán chó mua dê,
Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng.
Sá chi chiều ấy như không,
Xác ve luống chịu tiếng trong cõi đời.
Gặp sao hay vậy, bao nài,
Cớ chi mà phải nghe ai bây giờ.
Chàng rằng: “Hãy được nương nhờ,
330Bao giờ biến cải bấy giờ sẽ hay.
Chừa khi đến nỗi cháy mày,
Vội chi mà bỏ chốn này đi đâu.
Mặc khi báo ứng nhiệm mầu,
Quý Ly dù có về sau chẳng tuyền.
Cưỡi rồng ta đã băng nguyền,
Ứng diềm hùng hủy vầy đoàn gái trai.
Chước nào ước được như lời,
Cũng đành muôn kiếp ngàn đời chẳng quên.”
Nàng rằng: “Lời dạy quá nên,
340Song trong lòng nọ đá vàng dám nguôi.
Tuy rằng nương náu ở đời,
Dường ve gầy gục, dường giơi võ vàng.
Những lo trọn đạo thờ chồng,
Chồng sao thiếp vậy, kẻo càng xấu nhau.
Hầu mong nát ngọc trầm châu,
Lầu cao chẳng quản giếng sâu chẳng từ.
Bận vì một lũ con thơ,
Mong khi cả lớn bấy giờ sẽ hay.
Ví đeo tính nước lòng mây,
350Chí còn chim Việt đỗ rày cành nam.
Mấy thu nước mắt chan cơm,
Lưng canh đĩa muối quải đơm thường lề.
Bởi phân làm thập nhị chi,
Trong kinh ghi dạy Thử bì còn gương.
Dám đâu lỗi đạo cương thường,
Nghĩa phu phụ nỡ dám đường bội vong.
Thấy câu phu xướng phụ tòng,
Ghi lời tiên thánh, dặn lòng đinh ninh.
Há còn kén cá chọn canh,
360Cơm nem đã trải tay chanh đã từng.
Ơn chàng thương kẻ lỡ chừng,
Xin đừng dạy tiếng gió trăng nữa rày.”
Nghe lời chàng mới chau mày,
Nghĩ rằng tiết ngọc khó lay được nào.
Dỗ dành không biết chước sao,
Vẫn là hờ hững làm cao với mình.
Lại bày lời khác ướm tình,
Để xem lòng gái tiết trinh kia là;
“Rày nhân bướm được gần hoa,
370Thuyền ngư ông tới doành mà chẳng nhưng.
Chàng Lưu từ sánh ả Hằng.,
Bởi chưng gặp gỡ há rằng rắp rinh.
Bạch viên xưa kết Tôn sinh,
Chẳng vì dan díu, bỏ kinh tòng quyền.
Cầm lành dù chẳng nối huyền,
Nghe trong tình ý còn nên tiếng gì.
Bá Nha đã gặp Tử Kỳ.,
Bảo sơn ai nỡ trở về tay không.”
Nghe lời chàng mới ngán xong,
380Rằng sao quân tử ra lòng sài lang.
Qui dâm. ghi lại còn gương,
Trong kinh giới sắc sao chàng chẳng răn.
Tràng khanh tư ả Văn quân,
Tống sinh dùng gái chủ nhân chẳng vì…
Chàng sao chưa tát sông mê,
Xui ai cải tiết biến nghì sao đang.
Ví lòng thiếp chẳng đá vàng,
Thời danh tiếng ấy nữa chàng về đâu ?”
Chàng nghe thấy nói gật đầu,
390Rằng: “Anh là kẻ bất cầu lợi danh.
Chớ tin bạch diện thư sinh,
Một văn luận thử. mà khinh giá này.
Xiết bao bướm lũ ong bầy,
Chẳng quen khoét vách, chẳng hay leo tường.
Dám nào thiết ngọc thâu hương,
Gìn trong danh tiết lánh đường phiền hoa.
Ví dù đem thói dâm tà,
Mày loan tóc phượng vào ra hiếm gì.
Tin chim thư cá gửi đi,
400Cũng nhiều nơi rắp nơi vì riêng tây.
Đáp tai làm mặt chẳng hay,
Những lời hoa nguyệt xưa nay chưa hề.
Thấy nàng gái ở có nghì,
So xem khác giá nữ nhi thời này.
Ước nên chút nghĩa nước mây,
Chẳng mê gì sắc bởi say vì tình,
Chúa xuân dẫu có đành hanh,
Đến vườn cũng bẻ một cành cho cam.
Rồi ra đôi ngả bắc nam,
410Dẫu lòng thu tưởng xuân tầm được chăng.
Tình xuân ví chẳng đãi đằng,
Cũng đà mang tiếng răng răng bề ngoài.
Dứt lời nàng mới giãi bày :
“Những điều mặt dạn mày dày khó coi.
Vườn xuân chàng sẵn có nơi,
Nguyệt hoa sao nỡ ép nài như ai.
Bây giờ rừng mặt vách tai,
Việc trong mới rắp kẻ ngoài đã hay.
Vầng trăng đã ngả về tây,
420Để cho thiếp trở về rày với con.
Đường trường trở cách nước non,
Lũ hài tưởng nó hãy còn thơ ngây.
Nể lời quanh quất mãi đây,
Hoặc người về đó lời này tiếng kia.
Lại càng dại dáng nga mi,
Trăm năm danh tiết xướng tùy sao đang.
Ví xem tang bộc thói thường,
Xưa nay dạ sắt gan vàng như không.”
Biết rằng nàng chẳng chuyển lòng,
430Bấy giờ chàng mới nói sòng họa may :
“Vốn người chính thất nhà này,
Trâm anh lịnh tộc xưa nay vẫn là.
Đàn bà ấy mới đàn bà,
Ngọt ngào có một, sai ngoa chưa từng.
Chìu chồng khuya sớm nỏ nang,
Phải chăng chẳng dám cạy răng một lời.
Ra vào bặt tiếng ngậm hơi,
Một mình săn sóc hôm mai nhọc nhằn.
Muốn cho được kẻ đỡ đần,
440Quan quan bảo điểu muôn phần những mong.
Chẳng như kẻ bắc người đông,
Ghen tuông vì nỗi chồng chung nồng nàn.
Cát leo cù mộc rắp toan,
Xích thằng xui khéo tạo đoan một niềm.
Được nàng làm chị làm em,
Cùng ăn, cùng ở chẳng hiềm giận chi.
Nàng rằng: “Chàng dạy thế thì,
Phụ nhân đố kỵ xưa kia còn lời,
Phương ngôn câu ví để đời,
450Nhường cơm nhường áo dễ ai nhường chồng ?
Hiếm chi trong chốn non sông,
Thiên hương quốc sắc như bông hoa đèn.
Sá chi nửa cánh hoa tàn,
Tình kia ý nọ bàn hoàn nữa chi.
Thiên cao mà lại thính ti,
Trên đầu chẳng nghĩ còn thì có ai.
Cố lòng ép trúc nài mai,
Mượn dao thiếp quyết một bài cho xong.”
Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,
460Bát trân chàng mấy giải lòng cho qua.
Rằng: “Nàng may lại tới nhà,
Tiễn đưa một tiệc gọi là cố tri.
Dẫu rằng dưa muối chớ nề,
Còn thừa nàng phải đưa về cho con.
Gọi là của khác nước non,
Đưa ra mọi thức miếng ngon mỹ hào.
Nem lân, chả phượng, yến sào,
Đàn con chưa dễ biết bao mùi này.”
Trình rằng: “Nhà thiếp xưa nay,
470Ngày nào cũng phải như ngày thanh minh.
Vả trong cương tỉnh phong thanh,
Giang sơn một giải triều đình tri danh.
Mở mang trời cũng có mình,
Lẽ nào dám để thường tình cười chê.
Xin thôi cho thiếp trở về,
Ơn chàng non núi để thì đền sau.”
Rằng :”Bây giờ chửa thấy đâu,
Chẳng là rồi đến mai sau tích gì.
Cho hay rằng thói nữ nhi,
480Biết chăng chỉ có một bề mà thôi.”
“Chàng sao khéo nói nên lời,
Hoa kia nguyệt nọ ra người phải ru ?”
Bấy giờ trong dạ oán thù,
Lặng ngồi chàng mới nghĩ cho rạch ròi :
Như ta cứu nạn cho rồi,
Cũng nên ơn nặng muôn đời chớ sao.
Thế mà nhiều nỗi ước ao,
Thấy nào trả nghĩa thấy nào trả ân.
Khôn ngoan rất mực hồng quần,
490Tại bình mà nói dối dần cũng xuôi.
Nghĩ thương thân phận lạc loài,
Chồng con nào có biết ai hay là.
Trông người ra cách phong hoa,
Thế mà những thói dâm tà thời không.
Hay buồn lý bắc lân đông,
Cho nơi cốt cách, mà lòng chẳng yêu.
Nay ta nói đã đến điều,
Chẳng lay tiết ngọc, chẳng xiêu lòng vàng.
Tính rằng khuyên dỗ lấy nàng,
500Đỡ khi chim cá, tiện đường chung tư.
Nghĩ mình là kẻ văn thư,
Đầu đuôi nghĩ lại mà dơ dáng đời.
Thôi thì thôi cũng chịu thôi,
Kiếm đường chữa thẹn mấy lời cho qua :
“Thiềm cung bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.
Những lời ban tối nỉ non,
Thấy nàng có dạ sắt son thử tình.
Trăng hoa coi những làm thinh,
510Có trời hẳn biết cho mình mà thôi.
Ví dù đây cũng như ai,
Ép tình cá nước phải nài nẫm chi.
Nàng hay nói quái nói kỳ,
Xưa nay âm thịnh dương suy thường tình.
Khen cho một dạ kiên trinh,
Dẫu rằng nghiêng nước nghiêng thành dễ đâu.
Xin đừng để tiếng cho nhau,
Cành hoa còn giữ được màu tại ta.”
Thưa rằng: “Thân phận đàn bà,
520Trông ơn đã được khỏi qua nạn rồi.
Đức dày đành trả muôn đời,
Nghe lời thiếp phải liệu lời kêu ca.
Ơn dày trả nghĩa trăng hoa,
Lại là nghiệp chướng lại là trái duyên.
Xin chàng nghĩ lại chớ phiền,
Đừng hồ nghi nữa thiếp xin trở về.”

II. Chuột cái về, nổi ghen, rầy rà chuột đực và sinh sự với chuột bạch

Bấy giờ sắp sửa ra đi,
Vợ chàng lo lắng việc chi đã về.
Thấy chàng đưa tiễn đề huề,
530Ngâm thơ mà giải lòng quê kẻo nồng.

Thơ rằng:

“Non sông cách trở vững ba thu,
Giấc bướm mơ mồng núi vọng phu.
Khen kẻ rắp cùng gan phượng chạ,
Trách chàng toan tuốt ruột tằm khô.
Một niềm dạ sắt in vầng thỏ,
Mấy lúc lòng vàng chỉ bóng ô.
Chăn gối lẻ loi đà mấy tối,
Mà lòng đã nỡ thế kia ru !”

540Chuột bạch tức ý họa rằng:

“Danh tiết kia mà biết mấy thu,
Nghe quyên khắc khoải tiếng tư phu.
Mày ngài hoa ứ sầu khôn tả,
Má phấn châu rơi giọt chẳng khô.
Chút nghĩa đã nguyền vầng ngọc thỏ,
Tấm lòng phó mặc bóng kim ô.
Thâu đêm mang tiếng rằng kia nọ,
Dạ sắt gan vàng dễ biết ru !”

Họa thi rồi tạ lấy lòng,
550Giãi bày có cả vợ chồng cùng nghe :
“Gặp cơn sóng gió bất kỳ,
Nhờ ơn cứu vớt đêm khuya nặng tình.
Có nhà chị cũng như anh,
Người ta ai cũng lòng lành như ai.
Đè chừng bắt bóng dong dài,
Đá mòn đã vậy, miệng người thì sao ?
Xưa nay danh giá thế nào,
Vì tôi một chút ra vào cho nên.
Phải chăng chị để em xin,
560Bận lòng lo lắng giang sơn nỗi nhà.”
Bây giờ nàng đã bước ra,
Liệu điều chàng cũng giải hòa cho xuôi.
Nàng rằng: “Trong bấy nhiêu lời,
Rào sau đón trước cho ai đó mà.
Chẳng tư túi, chẳng trăng hoa,
Tội chi mà thiết việc nhà người dưng.”
Tía tai đỏ mặt bừng bừng,
Vật mình nàng lại vang lừng nói ra;
“Cớ chi thiếp mới vắng nhà,
570Đã lòng nhử nguyệt quyến hoa tơi bời.
Vừa lòng thích ý thì chơi,
Nhà này còn có xem ai ra gì,
Cửa nhà lo lắng sớm khuya,
Sướng se mạ cạn đi về xiết bao.
No cơm thì rửng hồng mao,
Dục hà dục hĩ muốn sao thì làm.
Ai ngờ mặt sứa gan hầm,
Rắn toan gà luộc rượu tăm thỏa lòng.
Khác nào như nhện đánh vòng,
580Ếch kia trong giếng còn mong kẻ dò.
Đói thì đầu gối biết bò,
No cơm ấm cật còn lo lắng gì.
Chẳng thương đến nỗi thê nhi,
Tìm mồi khuya sớm đã đi đỡ chàng.
Trở về vừa đến đầu tường,
Thấy con muông đứng cửa hang nó rình.
Đã lâu nghe vắng phong thanh,
Ngậm hơi như thóc đem mình về đây.
Lại e lũ khỉ buông dây (?),
590Đến nhà nên nỗi nước này mà thương.”
Ghen tuông nhiều tiếng dở dương,
Chàng van như cốc, bày tường đầu đuôi.
“Canh khuya chưa nhắp còn ngồi,
Lạ vì vắng vẻ thức coi cửa nhà.
Bỗng nghe ngoài chốn tường hoa,
Tiếng con muông sủa từ xa lại gần.
Chút vì nàng mới lỡ chân,
Hoặc khi muôn một trở ngăn dường nào.
Song nga chưa biết làm sao,
600Bồi hồi gan vượn xôn xao khúc tầm.
Thập thò hầu rắp ra thăm,
Thấy nàng Bạch thử đâm sầm vào hang.
Dữ lành hai lẽ chưa tường,
Giắt tay đã bảo có đường tìm ra,
Nói rằng trong nghĩa lân gia,
Phải con muông đuổi thế sa đường cùng.
Một mình thân gái long đong,
Dám xin cứu nạn ơn lòng chẳng quên.
Một làm phúc hai làm duyên,
610Chẳng nề cho ở một bên hẹp gì.
Vừa ngồi một chốc lại đi,
Há rằng có ý tứ gì cùng ai.
Cớ sao gieo nặng những lời,
Nghe ra chẳng chút vào tai cũng phiền!”
Nàng rằng sự đã quả nhiên,
Nào ai nói đặt cho nên đoạn trường,
Vợ con vừa bước ra đường.
Ở nhà thắc mắc lo lường đứng trông.
Phỏng rằng cậy dạ cậy lòng,
620Thế thì dỗ gái về phòng làm chi ?
Ngửa nghiêng như ốc biết gì,
Bặt ngay tăn hẳn dường dê mắc sừng.
Thôi thôi chẳng lọ nói năng,
Dấu voi ruộng rạ nghĩ rằng kín thay.
Hang hầm ai dám móc tay,
Chuột nào lại dám cắn dây buộc mèo.
Ắt là toan rắp thế nào,
Không dưng ai có bỗng theo về nhà.
Ruồi kia một phút bay qua,
630Biết là đực cái lọ là sự ai.
Ở trong chưa tỏ bằng ngoài,
Dễ mà ăn cáy bưng tai được nào.
Mê say chìm đắm má đào,
Như mèo thấy mỡ khát khao thật là.
Già chẳng thương, trẻ chẳng tha,
Khác nào như ếch thấy hoa thì vồ.
Thuồng luồng ở cạn có ru,
Mà toan bắt chước đứa ngu sờ sờ.
Chiếu chăn nào có hững hờ,
640Mà như voi đói thì vơ dông dài.
Quen mùi bận khác ăn chơi,
Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu.
Bấy giờ khốn đổ cho nhau,
Miệng kênh gọi chó, tay mau đuổi ruồi.
Ví dù lầm phải vợ ai,
Giòng sông bè chuối mới hay cho đời.
Sáng tai họ, điếc tai cày,
Mà lòng lại tưởng đến người đào thơ.
Những mong lại có bao giờ,
650Cho khuây khỏa dạ kẻo mơ mẩn tình.
Ví không duyên nợ ba sinh,
Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây ?
Nghĩ càng như tỉnh như say,
Mặt như đầu lợn nhìn thầy trơ trơ.
Nàng ngờ phải thuốc phải bùa,
Ve sầu xác rũ nó cho ăn quàng.
Cho nên thơ thẩn võ vàng,
Tìm lươn cho kíp cháo thang giã giùng.
Kẻo lòng tơ tưởng mơ mòng,
660Khỏi hồn Thục đế, khỏi lòng Đỗ quyên
Bấy giờ tính nết đã quen,
Chắc rằng cua lỗ khó lên trên trời.
Nàng rằng bắt chạch đằng đuôi,
Kiện vô chứng cớ khôn đời đôi co.
Nguyên viết hữu, bị viết vô,
Minh đơn so với duyên do thế nào.
Nó thời nhất hướng tại đào,
Đi lên rừng biết đường nào truy đương.
Vô tang tích tịch tình tang,
670Khôn làm lý đoán cho tường được đâu.
Rầm nhà tiếng hỏi lao xao,
Ai hay rằng sự dấu đầu hở đuôi.
Vẫn còn thèm thịt thèm xôi,
Ngày thường cơm tẻ thiếp nuôi lệ gì.
Có cãi rằng quí dịch thê,
Gái này chẳng dám nằn nì thương yêu.
Già rồi lận cận bỏ liều,
Sá chi vú sếch lưng eo sồ sề.
Chẳng ưa cà chín bầu già,
680Tuổi đà dư lạp lịch đà quá niên.
Có trăng nên nỗi phụ đèn,
Chẳng ngon thể sốt, thời liền bến hơi.
Cười ra nước mắt hổ ngươi,
Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa:
Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
Thế tình chuộng lạ tham thanh,
Thân tiên thân cú ra tình xấu chơi.
Cầu nôm đồng thủng lạ đời,
690Kẻo còn nhọc xác mệt người xông pha.
Cắn đuôi tha trứng gần xa,
Cái thân tất tả như bà đánh ong.
Dạ tràng xe cát luống công,
Tò vò nuôi nhện há mong cậy nhờ.
Ít lời chẳng muốn nói ra,
Những điều chàng ở ắt là chẳng quên.
Chèn nhau từng cạnh cho nên,
Trong bàn đã phỗng tay trên nực cười.
Tổ tôm kia thực là tài,
700Cửu vạn bát sách chờ hoài bán chi.
Âm dương bác cục được thì,
Cứ chi đứng hậu cứ chi lối lè.”
Chàng rằng: “Lời nói cũng kỳ,
Kể khoan kể nhặt thói quê thường tình.
Tiếng chua hơn nữa vắt chanh,
Toan đường tầm ngải lấn cành được sao ?
Ta đây dễ nạt được nào,
Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ roi.
Cũng toan níu náu cho rồi,
710Càng ngày càng một tỏ coi những màu.
Cắm đầu mà chịu vuốt râu,
Đã căm như ngựa cầm tàu mấy phen.
Giống lừa ưa nặng đã quen,
Thôi đừng dức lác huyên thiên tít mù.”
Bấy giờ nàng lại tri hô,
Sắn quần sắn áo thập thò cửa hang.
Rằng: “Đà mang tiếng tào khang,
Những nhờ rễ mận rễ bàng cùng nhau.
Bây giờ nên nỗi cơ cầu,
720Bà làm cho tỏ ra đầu ra đuôi.”
Miệng thời thở ngắn thở dài,
Tìm đường thăm lối kíp dời lân đông.
Cửa hang chuột bạch tới gần,
Đã phần sỉ vả lại phần mỉa mai.
Chuột bạch đỏ mặt tía tai,
Hỏi rằng: “Ai đấy mắng ai chốn này.
Con này chưa biết bà đây,
Lại toan tiếng nọ lời này đành hanh.”
Con mèo thủng thỉnh góc thành,
730Đến xem tranh đấu ra tình làm sao.
Hai bên hồn lạc phách xiêu,
Trèo non nhảy núi ra chiều lao đao.
Lạ đường chuột cái sa ao,
Thực là báo ứng trời nào có xa.
Bạch thời chạy được về nhà,
Bước qua cống gạo liền xa mình vào.

III. Hồ sinh cứu vớt và khuyên nhủ chuột cái

Ngẫm xem báo ứng kíp sao,
Hồ sinh đứng nấp tường đào thử trông.
Thấy con chuột cái vẫy vùng,
740Trên bờ mèo chực, những mong ra chào.
Hồ dơ tay mới đuổi mèo,
Vén quần lội xuống cán bèo vớt lên.
Ráo lông tỉnh lại vừa an,
Cúi đầu mà lạy khoan khoan trình bày :
“Thiếp nay là phận thơ ngây,
Phải chồng ruồng rẫy tới đây gặp nàn.
Ơn ông cứu được thân tàn,
Thửa công đức ấy muôn vàn xiết đâu.
Nhờ ông lượng bể cao sâu,
750Hẳn cơ tạo hóa quên đâu kẻ hiền.”
Sinh rằng: “Những tính hay ghen,
Hễ là già néo ắt liền đứt giây.
Rõ ràng kể nói cho hay,
Ban khuya chuột bạch tới đây tìm mồi.
Phải con muông đuổi một thôi,
Vào hang này ẩn, an rồi lại ra.
Lạ gì gái đẹp đến nhà,
Chồng mầy cũng muốn lân la với tình.
Song le phải gái kiên trinh,
760Ra chiều khôn lẽ dỗ dành lại thôi.
Ngươi về chưa tỏ đầu đuôi,
Máu ghen nghếm ngẩm nói lời éo le.
Dẫu rằng đức Phật từ bi,
Ắt là cũng giận huống gì chồng ngươi.
Há rằng việc ấy bởi ai,
Mình làm mình chịu, trách người sao nên.
Tính hay bạo hổ đã quen,
Dám tìm chuột bạch đánh ghen tại nhà.
Lại làm xấu bọn đàn bà,
770Oan lòng tiết phụ nghĩ đà phải chưa.”
Nàng vâng nghe biết sau xưa,
Rằng ơn ông dạy bây giờ mới hay.
Mấy lời nghĩ lại hổ thay,
Trăng kia đã khuyết khôn xoay được tròn.
Trót đà cả giận mất khôn,
Bây giờ cắn rốn lại còn được ru.”
Liệu lời Sinh mới dạy cho,
Lấy đường khuyên giải điển mô mọi lời.
“Việc này cơn cớ vì ngươi,
780Liệu về nói dỗ chồng nguôi thì là.
Muốn cho yên cửa yên nhà,
Chẳng gì hơn ở thuận hòa cùng nhau.
Dễ ai đội áo qua đầu,
Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tày.
Ái ân là nghĩa nặng thay,
Vợ chồng há phải một ngày rồi quên.
Ở đời vô sự là tiên,
Mà đều yên đẹp hơn bên cục cằn.
Trót đà cùng chiếu cùng chăn,
790Lẽ nào con nhện mấy lần vương tơ.
Tính sao như thể nước cờ,
Nghĩ cho một phải hai vừa thì thôi.
Chớ toan những sự tranh phôi,
Bới bèo ra bọ, tanh hôi cửa nhà.
Đàn bà như hạt mưa sa,
Gặp sao hay vậy biết là đâu hơn.
Dẫu chồng trăm giận nghìn hờn,
Cũng nên bấm bụng van lơn dỗ dành.
Một câu nhịn, chín câu lành,
800Chớ hề tật đố cậy mình cậy công.
Mới là phải đạo xướng tòng,
Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon,
Rang rang thôi hết khéo khôn đàn bà.
Mèo lành ở mả đâu là,
Của yêu đâu có bày ra ở ngoài.
Thôi đừng đua sức thi hơi,
Há rằng ba chốn bốn nơi được nào.
Tránh voi xấu mặt hay sao,
810Hãy xem sứa vượt được nào qua đăng.
Làm chi mặt vượt, mặt lăng,
Dứt dây chẳng sợ động rừng kia ru.
Thi bơi với giải thời thua,
Đàn bà đâu có tranh đua cho đành.
Kíp toan cải dữ làm lành,
Ắt là sum họp yến anh một nhà.
Dịu dàng phải phép đàn bà,
Chẳng thời chua xót lệ sa ròng ròng.”
Nàng vâng lời dạy ghi lòng,
820Trở về van lạy cùng chồng dám sai.
Hồ sinh về chốn thư trai
Giở nghiên bút mới ghi lời kẻo quên.
Nào ngờ vị vật chính chuyên,
Rằng: chê rằng cũng nên khen lệ gì.
Cũng hay trinh tiết giữ nghì,
Vật còn dường ấy huống chi là người.
Ai hay đen bạc biến dời,
Tuy người chẳng biết nhưng trời đã hay.
Những người mặt dạn mày dày,
830So xem ắt cũng chẳng tày muông dê.
Như lòng chuột đực khá chê,
Toan đường quyến rũ dạ mê đạo lành.
ấy là chuột bạch chí thành,
Ví dù nó chẳng tiết trinh ra gì.
Thấy chưng quả phụ nhân nghì,
Chẳng khuyên đường chính mà mê thói tà.
Vậy nên eo óc cửa nhà,
Chẳng nhưng chỉ trách đàn bà ngon ghen.
Khá khen chuột bạch trinh kiên,
840Trăng hoa chẳng tưởng, giữ gìn tấm son.
Dẫu rằng đá lở non mòn,
Tấm lòng tạc sắt ghi son chẳng dời.
Gặp cơn nhầm chốn sa vời,
Chẳng tham chìu đãi nghe lời bướm ong.
Mặc ai cợt diễu thử lòng,
Gan vàng chẳng chuyển chẳng long chút nào.
Đương cơn gặp bước lao đao,
Thế mà vẫn được ra vào ấm no.
Khá chê chuột cái dại rồ,
850Chồng đi hoa nguyệt chẳng cho được nào.
Phải điều khuyên dỗ thấp cao,
Cớ chi đè nén sông giao cậy mình.
Làm trai ba bảy mới sinh,
Tài nào mà giữ một mình được ru !
Cả ghen nên nỗi cay chua,
Chồng ruồng rẫy, phải sa hồ càng thương.
Người xưa câu ví còn gương,
Đàn bà cả tiếng, tan hoang cửa nhà,
Sự này dù thực dù ngoa,
860Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Xét xem giống vật cho tinh,
Mà cơ báo ứng rành rành chẳng sai.
Huống chi là đấng làm người,
Thửa lòng cho chính nào trời phụ ai.
Tóc tơ một chút chẳng sai,
Vậy nên làm chuyện đặt vài lời hoa.
Khi rồi, ai muốn ngâm nga,
Gọi là theo thói nôm na dõi truyền.

NHÂN NGUYỆT VẤN ĐÁP – 人月問答

Nhân nguyệt vấn đáp – 人月問答
Nhân nguyệt vấn đáp nghĩa là người và trăng hỏi và đáp nhau. Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm ghi tác giả là khuyết danh, có tài liệu cho là của Phan Huy Thực (1779-1846), cha của Phan Huy Vịnh.

Tiết thu dạ, thiên quang vân tĩnh[1],
Chốn lữ-đình[2], giấc tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng-vẳng bốn bề,
Gương Nga vằng-vặc soi hè quế lan.
5Thấy trăng, thêm động lòng vàng,
Ngâm câu vấn Nguyệt mà than mấy lời.
Hỏi chị Nguyệt mấy lời sau trước :
« Duyên-cớ sao mà lại thảnh thơi ?»
Nguyệt rằng : « Vật đổi sao dời,
10« Thân này trời để cho người soi chung.
« Làm cho mỏi mệt anh hùng.
« Ngàn thu sương tuyết, một lòng thanh-quang ».
Hỏi chị Nguyệt : « Có đường lên tới ?
« Chốn thiềm-cung[3] phỏng độ bao xa ? »
15Nguyệt rằng : « Ta lại biết ta.
« Có cây đan-quế[4] ấy là chị em.
« Anh-hùng thử tới mà xem:
« Kìa gương ngọc-thỏ[5], nọ rèm thủy-tinh ».
Hỏi chị Nguyệt : « Có tình chăng tá ?
20« Chứ xuân-thu phỏng đã nhường bao ? »
Nguyệt rằng : « Yếu liễu tơ đào,
« Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
« Mảnh gương vằng-vặc chẳng mòn,
« Bao nhiêu tinh-đẩu là con cái nhà ».
25Hỏi chị Nguyệt : Hằng Nga mấy tuổi ?
« Cứ năm năm đến tối lại ra ? »
Nguyệt rằng : « Ta lại biết ta,
« Minh minh trường dạ[6], ai mà biết ai ?
« Vậy nên mở mặt soi đời,
30« Biết nơi nham-hiểm, biết người tà-gian ».
Nghe Nguyệt nói, lòng càng yêu Nguyệt,
Biết lòng ta có nguyệt hay chăng ?
Muốn lên cho tới cung trăng,
Kết duyên cho được chị Hằng mới tha.
35Một trăng với lại một ta,
Biết nhau chỉ lúc canh ba điểm thùng !
Nguyệt thong-thả ướm lòng lại hỏi :
« Cõi trần-gian là cõi làm sao ?»
Ta rằng : « Thế cuộc chiêm bao,
40« Công-hầu khanh-tướng xôn-xao trong vòng.
« Tranh nhau chỉ vị hơi đồng,
« Giết nhau vì miếng đỉnh chung[7] của trời ».
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử.
Buổi vân-lôi[8], hai chữ kinh-luân,
45Ta rằng : « Có đấng thánh-thần.
« Ra tay dẹp loạn, đem công trị bình.
« Còn phường trục lợi tham danh,
« Chẳng qua như chuyện minh-linh, du-phù[9] ».
Nguyệt lại hỏi : « Rừng nho mấy kẻ,
50Rõ ra tay bẻ quế Tràng-an ?»
Ta rằng : « Cá bể, chim ngàn,
« Đời nào chẳng có phượng-hoàng, kình-nghê[10] ».
Ta hỏi Nguyệt ngẩn-ngơ ngơ-ngẩn,
Nguyệt hỏi ta thơ-thẩn thẩn-thơ.
55Chồi hoa trước gió phất-phơ,
Hiu-hiu gió thổi, hương đưa ngạt-ngào.
Canh càng thâm, Nguyệt càng cao,
Nguyệt ta, ta Nguyệt biết bao nhiêu tình !
Mấy câu ngâm chốn lữ-đình,
60Có ai biết Nguyệt biết mình cho chăng ?

Chú thích
▲ Thiên quang vân tĩnh 天 光 雲 净 : trời sáng mây tạnh
▲ Lữ đình 旅 亭 (lữ: đất khách; đình: nhà): nhà trọ
▲ Thiềm cung 蟾 宮 : thiềm là con cóc; thiềm cung là cung trăng vì Hằng-Nga, vợ Hậu-Nghệ, sau khi ăn cắp thuốc tiên của chồng trốn lên cung trăng thì hóa ra con cóc
▲ Đan quế 丹 桂 : cây quế đỏ ở cung trăng. Theo tích vua Đường Minh-hoàng lên chơi cung trăng, thấy các nàng tiên múa hát ở dưới bóng cây quế
▲ Ngọc thỏ 玉 兎 : chỉ mặt trăng. Theo tích chép trong Kinh Phật: một con thỏ nhân đức, thấy các con đói bèn nhảy vào đống lửa để làm chả cho đồng loại ăn đỡ đói. Khi các con thỏ kia ăn hết thịt rồi, đức Phật Thích-Ca đem đống xương còn lại để trên cung trăng
▲ Minh minh trường dạ 冥 冥 長 夜 : đêm dài mờ tối
▲ Đỉnh chung 鼎 鐘 : đỉnh là cái vạc ba chân dùng để nấu ăn; chung là cái chuông; hai thứ đồ dùng của nhà phú quí, bày vạc để ăn và lúc ăn thì rung chuông. Nghĩa rộng là giàu sang
▲ Vân lôi 雲 雷 : mây và sấm; nghĩa bóng là loạn-lạc
▲ Minh linh du phù : 螟 蛉 蝣 蜉 minh linh là một thứ sâu sắc xanh, ăn các lá rau, lớn lên hóa ra bướm du-phù, tức là phù-du: con vờ, một thứ côn trùng nhỏ, sinh ở dưới nước, khi hóa, có cánh bay được, chỉ ít lâu thì chết. Người ta chỉ nói con phù-du, không bao giờ nói du-phù ; ở đây tác giả vì túng vần phải đặt như thế
▲ Phượng-hoàng, kình nghê: 鳳 凰 鯨 鯢 : phượng hoàng là một loài linh điểu trong tứ linh ( phượng là con trống, hoàng là con mái ); nghĩa bóng chỉ người tài giỏi. Kình nghê là giống loài thú lớn ở bể tức là cá ông voi ( kình là con đực, nghê là con cái ) : đây chỉ người anh hùng

NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP

Ngư Tiều y thuật vấn đáp
của Nguyễn Đình Chiểu
Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ dài của Nguyễn Đình Chiểu. Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thê Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư, làm tiều, sau đó gặp được Đạo Dẫn, Nhập Môn và Kì Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời.

Ngày nhàn xem truyện “Tam công”
Thương người hiền sĩ sinh không gặp đời
Cuộc cờ thúc quí đua bơi
Mấy thu vật đổi sao dời, thương ôi!
Kể từ Thạch Tấn ở ngôi
U Yên mấy quận cắt bồi Khiết Đan
Sinh dân nào xiết bùn than
U Yên trọn, cũng giao bàn về Liêu
Theo trong người kiệt rất nhiều
Ôm tài giấu tiếng làm tiều, làm ngư
Nước non theo thú ẩn cư
Thờ trên nuôi dưới, nên hư mặc trời
Lại thêm Phật, Lão đua lời
Nghĩ lòng người với đạo đời thêm thương!
Nhà năm ba gánh cương thường
Phận ai nấy giữ, trọn giường thời thôi
Đời vương đời đế xa rồi
Nay Di mai Hạ biết hồi nào an!
Năm trăm vận ở sông Vàng
Nước còn đương cáu, không màng thánh nhân
Đã cam hai chữ “tỵ Tần”
Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruổi miền
Có tên rằng Mộng Thê Triền
Tuổi gần bốn chục, nhân duyên năm lần
Nhà nghèo ở núi Bạch Vân
Dẹp văn theo võ, tách thân làm tiều
Ngày ngày đốn củi rừng Nghiêu
Hái rau non Thuấn, phận nhiều lao đao
Đông Xuyên lại có người hào
Tên rằng Tử Phược họ Bào, làm ngư
Trong mình ba chục tuổi dư
Sinh con mười đứa bé thơ thêm nghèo
Ngược xuôi trên nước một chèo
Nay doi mai vịnh, nghề theo lưới chài
Họ Bào họ Mộng hòa hai
Trước theo nghề học đều tài bậc trung
Chẳng may gặp buổi đạo cùng
Treo kinh dẹp sử, lánh vòng loạn ly
Người nam kẻ bắc phân đi
Non sông rẽ bạn cố tri bấy chầy
Cách nhau mười mấy năm nay
Tình cờ lại đặng một ngày gặp đây
Ngư, Tiều mở tiệc vui vầy
Ngâm thi, uống rượu, đều bày chí xưa

Tiều ngâm thơ rằng:
Non xanh mấy cụm đội trời thu
Sưu thuế Tây Liêu chẳng đến đầu
Tên đã gác ngoài sân thúc quí
Mình liền dầm giữa suối Sào, Du
Vui lòng bạn cũ thi vài cuốn
Rảnh việc ngày nay rượu một bầu
Chút phận riêng nương hơi núi rạng
Trăm năm ra sức dọn rừng nhu (nho)

Ngư ngâm thơ rằng:
Nghênh ngang trên nước một thuyền câu
Chèo sóng buồm giong, trải mấy thu
Ngày xế tấm mui che gió Tấn
Đêm chầy bếp lửa chói trời U
Mặc tình sở ngộ đời trong đục
Vui thú phù sinh bến cạn sâu
Trăm tuổi trọn nhờ duyên cá nước
Dù lòng ngao ngán giữa dòng nhu

Tiều rằng: sinh chẳng gặp thời
Thân đà đến ấy, nghĩ thôi thêm phiền
Lênh chênh chữ phận, chữ duyên
Lỡ Tiên, lỡ Phật, lỡ nguyền nho phong
Nhớ câu “quân tử cố cùng”
Đèn trăng, quạt gió, non sông phận đành
Ngư rằng: hai chữ công danh
Hoàng lương nửa gối, đã đành phôi pha
Thương câu “thế đạo đồi ba”
Ngày nay chưa biết mai ra lẽ nào!
Uống thêm vài chén rượu giao
Ngâm thi hoài cổ, để rao tiếng đời

Ngư, Tiều hoài cổ ngâm, ngụ ưu đạo ý (thử xướng, bỉ họa):
Từ thuở Đông Chu xuống đến nay
Đạo đời rậm rạp mấy ai hay
Hạ, Thương đường cũ gai bò lấp
Văn, Vũ nền xưa lúa trổ đầy
Năm bá mượn vay, nhân nghĩa mọn
Bảy hùng giành xé, lợi danh bay
Kinh Lân mong dẹp tôi con loạn
Sử Mã khôn ngăn mọi rợ bầy
Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn
Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy
Lửa Tần, tro Hạng vừa nguôi dấu
Am Hán, chùa Lương lại réo dầy
Trong đám cửu lưu đều nói tổ
Bên đường tam giáo cũng xưng thầy
Khe Đào, động Lý nhiều đoàn trốn
Rừng Trúc, đình Lan lắm bạn say
Phép báu Thi, Thư dòng mọt nát
Màu xuê Lễ, Nhạc nhiễm sương bay
Mấy dòng biển nghiệt chia nguồn nước
Trăm chặng rừng hoang bít cội cây
Hơi chính ngàn năm về cụm núi
Thói tà bốn biển động vầng mây
Ngày nào trời đất an ngôi cũ
Mừng thấy non sông bặt gió tây

Thơ rồi Ngư mới hỏi Tiều:
Việc nhà con vợ ít nhiều đặng hay?
Tiều rằng: Triền rất chẳng may,
Năm lần cưới vợ, còn nay một người.
Nằm hoài biếng nói, biếng cười,
Rề rề đau máu, da tươi bàu nhàu.
Bốn người trước thác theo nhau,
Người đau sản hậu, người đau thai tiền,
Khiến thêm nghèo khổ cho Triền,
Bán bao nhiêu củi về tiền thuốc thang,
Thầy hay thời ở xa đường,
Tin theo thầy tục, giúp phương hại người.
Ngư rằng: Phược cũng như người,
Hôm mai lận đận về mười đứa con.
Chí lăm nuôi đặng vuông tròn,
Chung tư trập trập, nhà còn phúc ghi.
Nào hay tạo hóa tiểu nhi,
Rủ bầy con nít đều đi bỏ mình.
Đứa thời đau chứng cấp kinh,
Đứa thời cam tích, bụng bình rĩnh ra,
Đứa thời hai mắt quáng gà,
Đứa thời túm miệng, khóc la rốn lồi,
Đứa thời đau bụng lãi chòi,
Đứa thời ỉa kiết, rặn lòi trôn trê,
Đứa thời sài ghẻ, nóng mê,
Đứa thời hoa trái, độc về hông, vai.
Rủ nhau thỉnh thoảng chết hoài,
Đứa đôi ba tháng, đứa vài ba năm.
Trời đà hao tốn tiền trăm,
Thương con chạy bậy, lầm nhằm thuốc nhăng.
Đến nay còn sót hai thằng,
Nhờ trời khỏe mạnh, đặng ăn chơi thường.
Cảm ơn kẻ sĩ du phương,
Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y lâm.
Thê Triền nghe nói mừng thầm,
Hỏi rằng: Thầy ở Y lâm tên gì?
Ngư rằng: Chưa biết tên chi,
Nghe người nói đó là kỳ Nhân Sư.
Tiều rằng: Chữ gọi Nhân Sư,
Tiên hay là Phật, bậc gì công phu?
Ngư rằng: Vốn thật thầy nhu (nho),
Lòng cưu gấm nhiễu, lại giàu lược thao.
Nói ra vàng đá chẳng xao,
Văn ra dấy phụng, rời giao tưng bừng.
Trong mình đủ chước kinh luân,
Thêm trau đạo đức, mười phân rõ ràng,
Chẳng may gặp thuở nước loàn,
Thương câu “dân mạc” về đàng Y lâm.
Ẩn mình chôn ngọc, vùi câm (kim),
Người con mắt tục coi lầm biết đâu.
Ta nhân bệnh trẻ đi cầu,
Có nghe du sĩ đọc câu thơ rằng:

Du sĩ độc nhân sư thi:
Xe ngựa lao xao giữa cõi trần,
Biết ai thiện tử, biết ai thần?
Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng,
Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân!
Khỏe mắt Hi Di trời ngũ quý,
Mỏi lòng Gia Cát đất tam phân
Công danh chi nữa, ăn rồi ngủ,
Mặc lượng cao dày xử với dân.

Tiều rằng: Mừng gặp hiền nhân,
Nghe bài thơ ấy, thật trân bảo đời!
Bấy lâu những tưởng không người,
Nào hay hang trống còn dời tiếng rân.
Thi danh trước có Đường thần.
Tài như Lý, Đỗ muôn phần khá thương.
Thấy nay cũng nhóm văn chương,
Vóc dê, da cọp khôn lường thực hư,
Tiếc thay đời có Nhân Sư,
Lại theo bốn chữ “vô như chi hà”.
Nhớ xưa tiếng đại hiền ra,
“Rằng trời muốn trị, bỏ ta, ai dùng?”
Thôi thôi ngươi hãy gắng công,
Đem ta tới chỗ, học cùng Nhân Sư.
Ngư rằng: Nhắm chốn Đan Kỳ,
Éo le khúc nẻo, đường đi chẳng gần.
Nhiều non, nhiều núi, nhiều rừng,
Nhiều đèo, nhiều ải, nhiều chừng động hang.
Chút công khó nhọc chẳng màng,
Phần lo hóc hiểm một đàng Nhân Khu.
Nhân Khu ải ấy ở đầu,
Nẻo lành, nẻo dữ, cạn sâu khôn lường.
Tiều rằng: Ta dốc tìm phương,
Xin phân cho rõ cái đường Nhân Khu.
Ngư rằng: Một ải Nhân Khu,
Lấy da bao thịt, làm bầu hồ lô.
Trở thông chín nẻo ra vào,
Mười hai kinh lạc chia đào dọc ngang.
Ngoài thời sáu phủ Dương Quan,
Trong thời năm tạng, xây bàn Âm Đô.
Hai bên tả hữu vách tô,
Có non nguyên khí, có hồ huyết quan.
Có nơi hồn phách ở an,
Có ngôi thần chủ, sửa sang việc mình.
Rước đưa có đám thất tình,
Có vườn ngũ vị nuôi hình tốt tươi.
Lại nghe du sĩ trao lời,
Rằng trong ải ấy lắm nơi hiểm nghèo,
Có làng Lục Tặc nhóm theo,
Chia phần đón ngách, giữ đèo Tam Thi.
Hôm mai rũ quến nhau đi,
Xui lòng nhân dục, nhiều khi lang loàn,
Hoặc theo bên động Bì nang,
Thắm trêu hoa mẫu mơ màng gió xuân.
Hoặc theo bên động Tôn Cân,
Nhem thèm cho sãi về dân, bỏ chùa,
Thêm bầy quỷ quái theo lùa,
Nhóm non Thập Ác, tranh đua khuấy đời,
Ngửa xem ngoài cửa sáng giăng,
Thấy trên biển ngạch chữ rằng “Tam Công”.
Bước vô trong miếu lạnh lùng,
Thấy treo ba bức song song họa đồ.
Nhân Sư ngồi giữa xem đồ,
Thấy ta han hỏi, dở hồ linh đan.
Lấy ra thuốc đỏ hai hoàn,
Cho về cứu trẻ khỏi cơn tai nàn.
Ta nhân một thuở vội vàng,
Gặp thầy chưa kịp hỏi han việc gì.
Tiếc thay đã đến Đan Kỳ,
Mùi thơm chưa dính chút chi vào mình.
Tiều rằng: Xin hỏi nhân huynh,
Trước quen du sĩ, tính danh cũng tường?
Ngư rằng: Kẻ sĩ du phương,
Tên Châu Đạo Dẫn, đem đường cho ta.
Đang khi bối rối việc nhà,
Nào rồi hỏi việc trải qua cùng chàng.
Chỉ nghe Đạo Dẫn thở than,
Rằng bầy Lục Tặc, biết toan lẽ nào!
Tiều rằng: Lục Tặc làm sao?
Xin phân sáu ấy, âm hao cho rành,
Ngư rằng: Tai mắt nhiều tinh,
Tai tham tiếng nhạc, mắt giành sắc xinh.
Mũi thời tham vị hương hinh,
Miệng thời tham béo, ngọt, thanh, rượu, trà,
Vóc thời muốn bận sô sa,
Bụng thời muốn ở cửa nhà thếp son.
Cho hay Lục Tặc ấy còn,
Khiến con người tục lần mòn hư thân.
Tiều rằng: Nghe tiếng ngọc phân,
Chạnh lòng muốn tách cõi trần chơi mây.
Phải chi gặp Đạo Dẫn đây,
Ta xin theo dấu, tìm thầy Nhân Sư.
Ngư rằng: Phược nguyện đem đi,
Anh về sắm sửa lễ nghi sẵn sàng.
Vả nay vừa tiết xuân quang,
Hẹn năm ngày nhóm hành trang cho rồi
Thê Triền từ tạ, chân lui,
Về nhà thấy vợ ngùi ngùi đau rên,
Nhờ ơn nhạc mẫu ở bên,
Dặn dò gửi vợ, lại lên họ Bào.
Thứ này hai họ nghĩa giao,
Sắm đồ hành lý những bao, những hồ.
Bao thời đựng cá tôm khô,
Hồ thời đựng rượu, trường đồ thẳng xông,
Trải qua bờ liễu, non tùng,
Trời hiu hiu thổi gió đông đưa mình,
Mặt nhìn trong tiết Thanh minh,
U Yên đất cũ, cảnh tình trêu ngươi,
Trăm hoa nửa khóc nửa cười,
Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ cây gie nhánh đón đường,
Như tuồng níu hỏi Đông hoàng ở đâu?
Bên non đá cụm cúi đầu,
Như tuồng oan khúc, lạy cầu cứu sinh.
Líu lo chim nói trên cành,
Như tuồng kể mách tình hình dân đau.
Gió tre hiu hắt theo sau,
Như tuồng xúi dục đi mau tìm thầy.
Dưới non suối chảy kêu ngầy,
Như tuồng nhắn hỏi sự này bởi ai?
Hai người nhìn thấy than dài,
Cho hay non nước nhiều loài trông xuân,
Mưa sầu gió thảm biết chừng nào thanh!
Mảng xem cảnh cũ thương tình,
Nào hay lạc nẻo lộ trình ải xưa.
Cùng nhau ngơ ngẩn ngày trưa,
Lại may gặp bạn cỡi lừa ngâm thơ.
Hai người dừng gót đứng chờ,
Lắng nghe du sĩ lời thơ ngâm rằng:

Trời đông sùi sụt gió mưa tây,
Đau ốm lòng dân cậy có thầy,
Phương cũ vua tôi gìn trước mắt,
Mạng nay già trẽ gửi trong tay.
Trận đồ tám quẻ còn non nước,
Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.
Hỡi bạn Y lâm ai muốn hỏi,
Đò xưa bến cũ có ta đây.

Ngâm rồi thoạt thấy Tiều, Ngư,
Vội vàng Đạo Dẫn trụy lư cười ngầm.
Chào rằng: Này kẻ tri âm!
Ngày nay lại đến Y lâm cầu gì?
Ngư rằng: Đem bạn cố tri,
Đồng lòng tìm đến Nhân Sư học hành.
Dẫn rằng: Hai chữ “phù sinh”
Người non, kẻ nước, phận đành tiều, ngư.
Bấy lâu sao chẳng tầm sư,
Đến nay lại có công dư học nghề?
Tiều rằng: Thời vận bất tề,
Thêm lầm thầy thuốc làm bê việc nhà.
Ngư rằng: Ta nghĩ giận ta,
Bởi thương con vợ mới ra hết tiền.
Dẫn rằng: Trong cõi trần duyên,
Hay người chưa trả rồi tiền nợ vay.
Người xưa ba chuyến gãy tay,
Tức mình học thuốc, mới hay làm thầy,
Tiều rằng: Mấy cụm rừng y,
Đều noi đường cái Hiên Kỳ trổ ra.
Một ngày suối chảy một xa
Rốt dòng lại có chính tà khác nhau.
Ngư rằng: Cách trở bấy lâu,
Đường đi ngày trước lạc đâu khôn tầm.
Dẫn rằng: Đây thật Y lâm,
Nhân khu ải khỏi, nào lầm chớ e!
Ngư rằng: Dặm cũ vắng hoe,
Mình tuy có thấy, không nghe biết gì.
Dẫn rằng: Đó chớ vội đi,
Ngày nay chưa gặp Tôn Sư ở nhà.
Đến am Bảo Dưỡng theo ta,
Nghỉ chơi vài bữa, rồi qua Đan Kỳ.
Ngư, Tiều theo Đạo Dẫn đi,
Ở am Bảo Dưỡng một khi vui vầy.
Ba người kết bạn đông tây,
Chuyện trò sách thuốc, lối này hỏi nhau.
Ngư rằng: Trước ải Nhân Khu,
Mười hai kinh lạc, cạn sâu chưa tường,
Dẫn rằng: Ba âm, ba dương,
Ba ba số bội, chia đường hai bên,
Tay chân tả hữu hai bên,
Âm dương đều sáu, dưới trên buộc ràng.

Thập nhị kinh lạc ca (Bài ca về mười hai kinh lạc)
Dịch nghĩa:
Kinh Thủ Thái dương thông với ruột non,
Kinh Túc Thái dương thông với bọng đái,
Kinh Thủ Dương minh thông với ruột già,
Kinh Túc Dương minh thông với dạ dày,
Kinh Thủ Thiếu dương thông với tam tiêu,
Kinh Túc Thiếu dương thông với mật,
Kinh Thủ Thái âm thông với phổi,
Kinh Túc Thái âm thông với lá lách,
Kinh Thủ Thiếu âm thông với trái tim,
Kinh Túc Thiếu âm thông với thận,
Kinh Thủ Quyết âm thông với màng tim,
Kinh Túc Quyết âm thông với gan.

Hựu hữu ca (Lại có bài ca rằng)
Dịch nghĩa:
Kinh Thái dương thuộc thủy, úng với Thìn, Tuất, thông với ruột non, bọng đái,
Kinh Dương minh thuộc kim, ứng với Mão, Dậu, thông với ruột già, dạ dày,
Kinh Thiếu dương thuộc hỏa, ứng với Dần, Thân, thông với tam tiêu và mật,
Kinh Thái âm thuộc thổ, ứng với Sửu, Mùi, thông với phổi và lá lách,
Kinh Thiếu âm thuộc hỏa, ứng với Tý, Ngọ, thông với tim và thận,
Kinh Quyết âm thuộc mộc, ứng với Tỵ, Hợi, thông với màng tim và gan.

Ngư rằng: Kinh lạc là tiêu,
Chỗ nào khí huyết ít nhiều biết đâu.
Dẫn rằng: Khí huyết nhân khu,
Ta từng coi sách, thấy câu ca rằng:

Thập nhị kinh lạc khí huyết đa thiểu ca (Bài ca về khí huyết nhiều ít của mười hai kinh lạc)
Dịch nghĩa:
Nhiều khí, nhiều huyết, anh nên nhớ:
Kinh Thủ Dương minh tức ruột già, và
Kinh Túc Dương minh tức dạ dày.
Ít huyết, nhiều khi, có sáu kinh:
Tam tiêu, mật, thận, tim, lá lách, và phổi.
Nhiều huyết, ít khí chia ra bốn kinh:
Bọng đái, ruột non, màng, tim và gan.

Ngư rằng: Kinh lạc nhiều đàng,
Người đau nhiều chứng, biết toan lẽ nào?
Dẫn rằng: Chớ hỏi thầy cao,
Bệnh nào thuốc nấy đem vào đường kinh.
Tiều rằng: Xin hỏi tiên sinh,
Lệ trong năm tạng, ghi hình trạng sao?
Dẫn rằng: Tổ có lời rao:
Tạng can thuộc mộc, cây rào mùa xuân.
Sắc xanh, con mắt là chừng,
Hoa ra giáp móng, dày gân buộc lèo.
Giấu hồn, đựng máu, tiếng kêu,
Vị toan, nước mắt, mạch nêu chữ Huyền.
Quyết âm kinh túc ấy truyền,
Hợp cùng phủ đảm, ngôi liền ngoài trong.
Tạng tâm thuộc hỏa, mạch Hồng,
Mùa hè, sắc đỏ, chừng trong lưỡi này.
Giấu thần, nuôi máu, ở đây,
Đắng mùi, tiếng nói, nước vầy buồn hôi.
Thiếu âm kinh thủ phải rồi,
Hợp cùng ngoại phủ, rằng ngôi tiểu trường.
Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng,
Vượng theo tứ quý, đều tàng ý vui.
Miệng chừng, nước dãi, ngọt mùi,
Tiếng ca, mạch Hoãn, hay nuôi thịt hình.
Thái âm kinh túc đã đành,
Hợp cùng phủ vị, ngôi giành trung châu.
Tạng phế thuộc kim, mạch Phù,
Vị cay, sắc trắng, mùa thu, phách ròng.
Giấu hơi, nuôi khắp da, lông,
Mùi chừng, tiếng khóc, nước trong mũi thường.
Thái âm kinh thủ cho tường,
Hợp cùng ngoại phủ đại trường ấy thông.
Tạng thận thuộc thủy, mùa đông,
Sắc đen vị mặn, chi dùng nuôi xương,
Tiếng rên, nước nhỏ hôi ươn,
Hai tai chừng đó, giữ phương mạch Trầm.
Phần về kinh Túc Thiếu âm,
Hợp bàng quang phủ, gìn cầm hóa nguyên.
Tiều rằng: Nam tạng đã biên,
Kìa như sáu phủ, xin liền nói ra.
Dẫn rằng: Cái mật người ta,
Tượng theo xuân mộc, kinh là thiếu dương.
Đảm ngoài làm phủ cho can,
Tóm vào muôn mối, việc toan lo lường.
Mấy chiều ruột nhỏ tiểu trường,
Tượng theo hạ hỏa, thái dương kinh cầm.
Ở ngoài làm phủ cho tâm,
Nước trôi đem xuống đặng dầm nguồn sinh.
Vị là kinh Túc Dương minh,
Đựng theo đất chứa, việc mình uống ăn,
Bao nhiêu nước, xác chứa ngăn,
Phát ra các chỗ, chịu bằng quan ty.
Ở ngoài làm phủ cho tỳ,
Cái bao tử ấy thật ghi công dày.
Đại trường ruột lớn liền đây,
Dương minh kinh thủ, tượng vầy thu câm (kim).
Ngôi theo nhờ phế hơi cầm,
Vật ăn bã xác xuống hầm phẩn ra,
Bàng quang thật bọng đái ta,
Tượng theo đông thủy, kinh là thái dương.
Ngôi theo ngoài chốn thận hương,
Hóa hơi nước xuống, làm đường niệu tân.
Tam tiêu phủ ấy ba tầng,
Kiêm trên, giữa, dưới, gọi rằng tam tiêu.
Trên thâu ăn uống, nạp nhiều,
Giữa chia trong đục, dưới điều gạn ra.
Làm đường nước xác trải qua,
Nhờ ba hơi ấy tiêu hòa máu, hơi.
Trước sau bủa khắp ba hơi,
Thiếu dương kinh thủ thật nơi dinh người.
Tiều rằng: Kinh lạc mười hai,
Tạng phủ mười một biết hài thế sao?
Dẫn rằng: Trước có lời rao:
Quyết âm kinh thủ, tâm bào lạc nêu.
Tâm bào cùng phủ tam tiêu,
Trong ngoài hai ấy chia đều âm, dương.
Muốn làm thầy đặng chữ “lương”,
Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư.
Rồi đây hỏi lại Nhân Sư,
Xin phân chứng thực, chứng hư cho rành.
Ngư rằng: Kìa bến Ngũ Hành,
Chia ra nẻo khắc, nẻo sinh làm gì?
Dẫn rằng: Trên, dưới hai nghi,
Có năm hành ấy, hoa ky (cơ) xây vần.
Mộc, kim, thủy, hỏa, thổ phân,
Sinh: phần ấy tốt, khắc: phần ấy hư.
Muốn cho rõ lẽ nên hư,
Coi lời sinh khắc tổ sư ca rằng:

Ngũ hành tương sinh ca (Bài ca về ngũ hành tương sinh)
Dịch nghĩa:
Mộc sinh hỏa chừ, hỏa sinh thổ,
Thổ sinh kim chừ, kim sinh thủy,
Thủy sinh mộc chừ, năm mối sinh,
Trong khoảng trời đất đều tốt lành.

Ngũ hành tương khắc ca (Bài ca về ngũ hành tương khắc)
Dịch nghĩa:
Mộc khắc thổ chừ, thổ khắc thủy,
Thủy khắc hỏa chừ, hỏa khắc kim,
Kim khắc mộc chừ, năm mối khắc,
Trong khoảng trời đất thảy tai ương.

Ai mà rõ lẽ ngũ hành,
Việc trong trời đất dữ lành trước hay.
Trên thời mưa móc, gió mây,
Dưới thời non nước, cỏ cây muôn loài.
Giữa thời nhà cửa, đền đài,
Năm hành tóm việc ba tài nhỏ to.
Ví dù tạo hóa mấy lò,
Hóa công mấy thợ, một pho ngũ hành.
Muốn coi phép ấy cho tinh,
Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.
Ngư rằng: Nơi ải Thiên Can,
Có non Ngũ Vận để toan việc gì?
Chưa hay chủ vận là chi?
Lại thêm khách vận, sách ghi rộn ràng?
Dẫn rằng: Mười chữ thiên can,
Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai.
Anh em một gái, một trai,
Âm dương chia khác, lâu đài năm phương,
Giáp, Ất: mộc, ở đông phương,
Bính, Đinh: hỏa, ở nam phương tỏ tường.
Mậu, Kỷ: thổ, ở trung ương,
Canh, Tân: kim, ở tây phương ấy thường.
Nhâm, Quý: thủy, ở bắc phương,
Đều rằng chủ vận, sử đương việc trời.
Năm ngôi chủ vận chẳng dời,
Ngôi nào theo nấy, có lời thơ xưa.

Chủ vận thi (Bài thơ về chủ vận)
Dịch nghĩa:
Mộc vận bắt đầu từ tiết Đại hàn;
Hỏa vận bắt đầu từ ba ngày trước tiết Thanh minh;
Thổ vận bắt đầu từ ba ngày sau tiết Mang chủng;
Kim vận bắt đầu từ sáu ngày sau tiết Lập thu ;
Thủy vận bắt đầu từ chín ngày sau tiết Lập đông;
Hết vòng rồi trở lại từ đầu, muôn năm vẫn như vậy.

Năm nhà đều có túc duyên,
Vợ chồng phối hợp, tách miền theo nhau.
Anh Giáp, chị Kỷ cưới nhau,
Hóa ra vận thổ, trước sau chẳng lầm.
Ất, Canh hợp lại hóa câm,
Đinh, Nhâm hợp lại hóa trầm mộc cây.
Bính, Tân hòa thủy nước đầy,
Anh Mồ, chị Quý hóa vầy hỏa quang.
Muốn coi năm hóa tạo đoan.
Gọi rằng khách vận, này chàng nghe thơ.

Khách vận thi (Bài thơ về khách vận)
Dịch nghĩa:
Giáp Kỷ hóa ra thổ, Ất Canh hóa ra Kim,
Đinh Nhâm hóa ra mộc, tất cả thành rừng,
Bính tân hóa ra thủy, chảy đi cuồn cuộn,
Mậu Quý hóa ra hỏa, bốc lên thành ngọn lửa ở phương Nam.

Kể từ năm ấy hóa ra,
Làm năm vận khách xây mà theo niên.
Trọn mười hai tháng một niên,
Noi theo khách vận, thay phiên đi liền.
Giả như Giáp, Kỷ chi niên,
Hóa ra hành thổ, thật truyền vận sơ.
Thổ sinh kim ấy vận nhi,
Kim sinh thủy ấy, lại trì vận ba.
Thủy sinh mộc, vận thứ tư,
Mộc sinh hỏa vận, luận từ năm nay.
Mỗi vận bảy mươi hai ngày,
Lại dư năm khắc, cứ vầy tính qua.
Lấy năm Giáp, Kỷ suy ra,
Bao nhiêu năm nữa đều là như đây.
Lại xem vận khách đổi xây,
Thái quá bất cập, lẽ này cho minh.
Năm Giáp, Bính, Mậu, Nhâm, Canh,
Thật năm thái quá, đã đành dương phân.
Năm Đinh, Ất, Kỷ, Quý, Tân,
Thật năm bất cập, về phần âm can,
Thái quá trước tiết Đại hàn,
Mười ba ngày chẵn, giao bàn tiên thiên.
Bất cập sau tiết Đại hàn,
Mười ba ngày chẵn giao bàn hậu thiên.
Cho hay trời có hậu, tiên,
Mười can trên dưới, liền liền xây đi.
Ngư rằng: Kìa ải Địa Chi,
Có non Lục Khí, đường đi lộn nhầu.
Chưa hay chủ khí ở đâu,
Lại thêm khách khí, để âu việc gì?
Dẫn rằng: Trong ải Địa Chi,
Có mười hai chữ, thứ đi xây vần.
Dần, Mão thuộc mộc, mùa xuân,
Tỵ, Ngọ thuộc hỏa, ở chưng mùa hè.
Mùa thu Thân, Dậu, kim khoe,
Mùa đông Hợi, Tý, nước be dũng tuyền.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: đất liền,
Vượng theo tứ quý, chở chuyên bốn mùa.
Vậy nên sáu khí ấn bùa,
Khí phong thứ nhất, thổi lùa gió xuân,
Thứ hai, khí hỏa lửa phừng,
Thứ ba, khí thử nóng hừng viêm oai,
Thứ tư, khí thấp ướt bày,
Thứ năm, khí táo ráo bay hơi nồng,
Thứ sáu là khí hàn chung,
Sắp ra thứ lớp, giữ trong bốn mùa.
Kêu rằng chủ khí bốn mùa,
Có bài thơ cổ, để tua thuộc lòng.

Chủ khí thi (Bài thơ về chủ khí)
Dịch nghĩa:
Khí đầu tiên là khí Quyết âm (phong mộc) bắt đầu từ tiết Đại hàn.
Khí thứ hai là khí quân hỏa, bắt đầu từ tiết Xuân phân.
Khí thứ ba là là khí Thiếu dương (tướng hỏa), bắt đầu từ tiết Tiểu mãn.
Khí thứ tư là khí thái âm (thấp thổ), bắt đầu từ tiết Đại thử.
Khí thứ năm là khí Dương minh (táo kim), bắt đầu từ tiết Thu phân.
Khí thứ sáu là khí Thái dương (hàn thủy), bắt đầu từ tiết Tiểu tuyết.

Sáu hơi chủ khí chẳng dời,
Năm nào theo nấy, tại trời ở an.
Mỗi năm từ tiết Đại hàn,
Chính trong ngày ấy giao sang khí đầu.
Hơi bình chẳng trước, chẳng sau,
“Tề thiên” hai chữ, sách Tàu rõ biên.
Kêu rằng “binh khí chi niên”,
Cho hay hơi chủ, chính chuyên giữ phòng.
Kể từ sáu cặp đối xung,
Định ngôi khách khí, xây dòng chia ra.
Tý đối với Ngọ một tòa,
Làm ngôi quân hỏa, ở nhà Thiếu âm.
Sửu, Mùi cặp đối Thái âm.
Làm ngôi thấp thổ, thấm dầm năm phương.
Dần, Thân cặp đối Thiếu dương,
Làm ngôi tướng hỏa, sử đương việc mình.
Mão, Dậu cặp đối Dương minh,
Làm ngôi hàn thủy, băng sương trầm trầm.
Tỵ, Hợi cặp đối Quyết âm,
Làm ngôi phong mộc, rầm rầm gió cây.
Sáu ngôi khách khí đổi xây,
Giữ trời giữ đất, từ đây chia miền,
Giả như Tý, Ngọ chi niên.
Thật ngôi quân hỏa, việc chuyên giữ trời,
Lấy hai năm ấy làm lời,
Còn mười năm nữa, cũng dời như nhau.

Khách khí thi (Bài thơ về khách khí)
Dịch nghĩa:
Năm Tý, năm Ngọ, khí Thiếu âm quân hỏa giữ trời,
Còn khí Dương minh táo kim giữ đất.
Năm Sửu, năm mùi, khí Thái âm thấp thổ giữ trời,
Còn khí Thái dương hàn thủy giữ đất, mưa liên miên.
Năm Dần, năm Thân, khí Thiếu dương tướng hỏa giữ trời,
Còn khí Quyết âm phong mộc truyền ở trong đất
Năm Mão, năm Dậu thì ngược lại với năm Tý, năm Ngọ,
Các năm Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi, cũng vậy.
(Thìn Tuất ngược lại với Sửu Mùi; Tỵ Hợi ngược lại với Dần Thân).

Cho hay quân hỏa giữ trời,
Táo kim giữ đất, hai nơi cầm quyền.
Một khí ở trên tư thiên,
Hai khí tả hữu xen liền theo bên…
Một khí ở dưới tư tuyền,
Hai khí tả hữu xen liền theo bên.
Trên dưới sáu khí chia miền,
Mặt nam, mặt bắc, cầm quyền một niên.
Giả như Tý, Ngọ chi niên.
Đất xen bên tả, làm truyền khí sơ,
Trời xen bên hữu, khí nhì,
Tư thiên, ngôi chính, ấy thì khí ba,
Trời xen bên tả, tư ra,
Đất xen bên hữu thật là khí năm,
Tư tuyền làm khí sáu chung,
Bốn mùa hơi khách thay dòng đổi xây.
Một khí là sáu mươi ngày,
Tám mươi bảy khắc nửa rày hữu cơ.
Ta nêu hơi khách đầu bờ,
Kìa lời yếu quyết xưa thờ rất vui.
Mỗi niên thoái lại hai ngôi,
Nhận làm làng khách, cứ xuôi đến liền.
Loại như ngôi Tý tư thiên,
Thoái về ngôi Tuất, ấy biên khí đầu.
Hai heo, ba chuột, bốn trâu,
Năm hùm, sáu thỏ, trọn xâu tư tuyền.
Lại như ngôi Mão tư thiên,
Thoái về ngôi Sửu, dấy truyền khí sơ.
Hai hùm, ba thỏ, bốn rồng,
Năm rắn, sáu ngựa, trọn công tư tuyền.
Lấy hai năm ấy lệ biên,
Bao nhiêu năm nữa, cũng truyền có phiên.
Như năm thấp thổ tư thiên,
Thời ngôi hàn thủy tư tuyền, là phiên,
Như năm hàn thủy tư thiên,
Thời ngôi thấp thổ tư tuyền, đôi phiên,
Như năm tướng hỏa tư thiên,
Thời ngôi phong mộc tư tuyền, đến phiên,
Như năm phong mộc tư thiên,
Thời ngôi tướng hỏa tư tuyền trọn niên.
Lại coi khách khí dưới trên,
Chính hóa, đối hóa, hai bên chẳng đồng.
Sáu năm chính hóa gốc trồng,
Ngựa, dê, gà, cọp, heo, rồng lung tung,
Sáu năm đối hóa ngọn duồng,
Chuột, trâu, khỉ, thỏ, rắn, muông đua giành.
Chính hóa theo gốc, số sinh,
Đối hóa theo ngọn, số thành, thực, hư.
Cho hay chữ “thực”, chữ “hư”,
Rằng “tiêu”, rằng “bản” đều từ ấy ra.
Sau rồi dở sách y tra,
Tiềm tâm mới thấy lời ta tỏ bày.
Tiều rằng: Trời đất máy xây,
Năm vận, sáu khí, nghe nay tỏ tường.
Còn e khách, chủ hai đường,
Theo niên chộn rộn, khó toan rẽ ròi.
Dẫn rằng: Vận lấy vận coi,
Khí theo khí xét, có mòi sách biên.
Giả như Giáp Tý chi niên,
Khách vận, khách khí, chia quyền một năm.
Giáp làm thổ vận mối cầm,
Tý làm quân hỏa, khí thầm xây đi.
Khách gia trên chủ, chẳng vì,
Chủ lòn dưới khách, hóa khi ngưng tà.
Thời trời bởi ấy chẳng hòa,
Trái theo hơn thiệt, mới ra bất tề.
Mùa xuân hơi ấm chẳng về,
Lại thêm hơi gió thê thê, ớn mình.
Mùa hè hơi nóng chẳng lành,
Khí âm núp ở, nóng giành ngôi dương.
Mùa thu chẳng trọn khí lương,
Dầm dề mưa khổ, đi đường kêu than.
Mùa đông chẳng vẹn khí hàn,
Xen hơi nóng rực, giá tan keo hình.
Phong hơn thời đất rêm mình,
Hỏa hơn thời đất quánh hình sượng câm,
Thử hơn thời đất nóng hầm,
Thấp hơn thời đất ướt dầm bùn ô,
Táo hơn thời đất ráo khô,
Hàn hơn thời đất nứt mô, lở về.
Nhớ câu: “khí hậu bất tề”,
Nhiều hơi độc ác, đổ về dân đau.
Cho hay chủ khách sinh nhau,
Gọi rằng “tương đắc”, trước sau hòa lành.
Chỉn e khách khí khắc giành,
Rằng “không tương đắc”, mới sinh bệnh tà.
Ngũ hành con soán ngôi cha,
Gọi rằng “bất đáng” mới ra lẽ ngầy.
Tiều rằng: Khí vận biến vầy,
Mấy năm thuận, nghịch, xin thầy chia riêng.
Dẫn rằng: Y học rõ biên,
Năm nào vận khắc tư thiên, nghịch tầm,
Tư thiên sinh vận, thuận tầm,
Vận đồng với khí, rằng năm thiên phù.
Sáu mươi năm giáp một chu,
Mười hai năm gọi thiên phù rõ phân.
Loại như Mậu tý, Mậu dần,
Mậu thân, Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi.
Cùng năm Kỷ sửu, Kỷ vi,
Mão Dậu hai Ất; Hợi, Tỳ hai Đinh,
Cho hay vận khí đồng tình,
Mười hai năm ấy thật danh thiên phù.
Vận lên ngôi khí ở sau,
Gọi rằng tuế hội, đếm đầu tám chi.
Loại như Kỷ sửu, Kỷ vì,
Giáp thìn, Giáp tuất, thổ vi thổ làm.
Đinh mão mộc, Ất dậu câm (kim),
Bính tý, Mậu ngọ, nước ngâm lửa dầu.
Thiên phù, tuế hội hợp nhau,
Gọi rằng thái ất thiên phù, bốn chi.
Loại như Kỷ sửu, Kỷ vi,
Ất dậu, Mậu ngọ, hơi đi một bờ.
Lấy năm coi tháng, ngày, giờ,
Tháng, ngày, giờ cũng có cờ tư thiên.
Giả như Mậu ngọ ngày kiên (kiến),
Vận đồng với khí, là duyên thiên phù.
Cho hay tuế hội, thiên phù,
Gặp ngày năm ấy, bệnh đau khó lành.
Ta nay ước nói việc Kinh,
Máy trời lắm chỗ gập ghềnh sâu xa.
Mười hai năm gọi bất hòa,
Bởi vận khắc khí, mới ra bất bình.
Mười hai năm gọi thiên hình,
Bởi khí khắc vận, đua giành tai nguy.
Vận mà sinh khí, lỗi nghi,
Gọi rằng tiểu nghịch thị phi nhộn nhàng.
Khí mà sinh vận thời an,
Gọi rằng thuận hóa, muôn ngàn cõi vui.
Nhiệm mầu chẳng những vậy thôi,
Can chi còn có hai ngôi đức phù.
Lại đồng tuế hội, thiên phù.
Vận đi suy tỵ phải âu xét bàn.
Nội kinh câu chữ rõ ràng:
“Cang hại, thừa chế”, khuyên chàng gắng coi.
Hữu dư, bất túc rẽ ròi,
Xuất, nhập, thăng, giáng, hẳn hòi chẳng ngoa.
Mỗi năm trước vẽ đồ ra,
Xét so vận khí chính, tà thời hay.
Như vầy mới phải gọi thầy,
Giúp công hóa dục, nuôi bầy dân đen.
E người học đạo chẳng chuyên,
Vào tai ra miệng, luống phiền lòng ta.
Tiều rằng: Kinh nghĩa kín, xa,
Một câu “cang hại…” nghe qua chưa tường.
Dẫn rằng: Đây gặp giữa đường,
Nói phô kinh sách, mang trương khó lòng.
Muốn cho biết lẽ tinh thông,
Lần vào cửa đạo, hỏi ông Đan Kỳ.
Học cho thấy chỗ u vi,
Phép mầu ý nhiệm, rộng suy giúp đời.
Ngư rằng: Xin dạy cạn lời,
Trong rừng Bản thảo nhiều nơi chưa tường.
Kìa mười hai bộ đan phương,
Mấy mùi, mấy tính, mở đường từ ai?
Dẫn rằng: Bản thảo nhiều loài,
Kể ra cho hết chuyện này vả lâu.
Một bộ kim thạch ở đầu,
Trăm ba mươi tám giống sưu đá vàng.
Một bộ thảo thượng giàu sang,
Chín mươi lăm giống, rõ ràng hột hoa.
Một bộ thảo trung nối ra,
Chín mươi bảy giống gốc, chà, lá cây.
Một bộ thảo hạ rộng xây,
Trăm hai mươi có ba loài củ căn.
Một bộ mộc thụ giăng giăng,
Một trăm sáu chục bảy, rằng giống cây.
Một bộ nhân ấy thuốc vầy,
Có hai chục vị đủ xây cho dùng.
Một bộ thú vật thuốc sung,
Chín mươi mốt giống mật, lòng, da, xương.
Một bộ cầm điểu thuốc thường,
Ba mươi bốn giống, đều đường cánh lông.
Một bộ trùng ngư thuốc chung,
Chín mươi chín giống, non sông khắp vời.
Một bộ mễ cốc nuôi đời,
Ba mươi tám giống, nơi nơi vun trồng.
Một bộ quả phẩm thanh phong,
Có bốn mươi giống trái nồng hơi hương.
Một bộ sơ thái khắp phương,
Sáu mươi hai giống, lá vườn thơm thơ.
Cộng mười hai bộ toán cho,
Một nghìn bốn vị, đều lò hóa công
Từ xưa có họ Thần Nông,
Thay trời trị vật, tấm lòng yêu dân.
Trải đi nếm vị khổ tân,
Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương.
Thử rồi muôn vật âm dương,
Dọn làm Bản thảo để phương cứu đời.
Thuốc tuy nhiều vị, khác hơi,
Chẳng qua sáu tính, ở nơi năm mùi.
Năm mùi dưới đất nên hình,
Trên trời cho tính, rộng vinh theo mùa,
Đắng, cay, ngọt, lạt, mặn, chua,
Năm mùi hơi giúp, khá tua chia bàn.
Cay thời hay nhóm hay tan,
Chua hay thâu góp, mặn ăn nhuyễn bền.
Đắng thời hay dội nóng lên,
Ngọt hay lơi chậm, lạt nên lọc lường.
Vị cay, ngọt, lạt thuộc dương,
Vị chua, đắng mặn tỏ tường thuộc âm.
Có vị dương ở trong âm,
Âm trong dương, ấy máy cầm nhiệm thay,
Khác nhau hơi mỏng, hơi dày,
Hơi trong, hơi đục, chỗ thay chẳng đồng.
Trọn gìn sáu tính linh thông,
Gọi rằng “thăng, giáng” ấy cùng “ôn, lương”,
Bổ hư, tả thực mọi giường,
Cho hay tính thuốc nhiều đường sâu xa.
Xưa chia năm vị ấy ra,
Làm binh sáu cửa, ngăn tà sáu dâm.
Phong mòn cày gió ầm ầm.
Có mùi cay mát giữ cầm nửa phong.
Lửa hừng cửa nhiệt nóng hung.
Có mùi mặn lạnh, chỗ phòng nhiệt môn.
Đất trong cửa thấp ướt dồn,
Có mùi cay nóng giữ dồn thấp quan.
Vàng nằm cửa táo khô khan,
Có mùi đắng ấm giữ đàng táo hương.
Nước là cửa lạnh băng sương,
Có mùi cay nóng giữ đường hàn môn.
Lại thêm sang độc một môn,
Nhóm mùi thuốc ghẻ, đóng dồn ngoại khoa.
Phải coi năm vị ấy ra,
Gọi là úy ố, gọi là phản nhau.
Có mười tám vị phản nhau,
Lại mười chín vị úy nhau chẳng hiền.
Sách y xưa có lời biên,
Phản cùng úy ố nhà truyền lời ca.

Thập bát phản ca (Bài ca về mười tám vị thuốc trái nhau)
Dịch nghĩa:
Bản thảo nói rõ mười tám vị thuốc trái nhau:
Bán hạ, Qua lâu, Bối mẫu, Bạch liễm, Bạch cập đều trái với Ô đầu.
Hải tảo, Đại kích, Cam toại, Nguyên hoa đều trái với Cam thảo.
Các loại sâm (Nhân sâm, Huyền sâm, Đan sâm, Khổ sâm…), Tế tân, Bạch thược đều trái với Lê lô.

Thập cửu úy ca (Bài ca về mười chín vị thuốc sợ nhau)
Dịch nghĩa:
Lư hoàng vốn là tinh túy của lửa,
Một khi gặp Phác tiêu liền tranh nhau.
Thủy ngân chớ để gặp Tỳ sương.
Lang độc rất sợ Mật đà tăng.
Ba đậu là vị tính dữ nhất,
Riêng không thuận tình cùng Khiên ngưu,
Đinh hương chớ để gặp Uất kim.
Nha tiêu khó hợp cùng Kinh tam lăng.
Xuyên ô, Thảo ô không thuận với tê giác.
Nhân sâm rất sợ Ngũ linh chi.
Quan quế điều hòa khí lạnh rất hay,
Nhưng nếu gặp Thạch chi sẽ mất công hiệu.
Phàm chế thuốc phải xem tính thuận nghịch của các vị.
Nếu nghịch thì bào chế đừng để lẫn với nhau.

Ngư rằng: Xin cạn lời trao,
Lệ xưa dùng thuốc dường nào đặng tinh?
Dẫn rằng: Gắng sức học hành,
Rộng xem sách thuốc, gẫm tình dùng phương.
Nhớ câu đối chứng lập phương,
Quân, thần, tá, sứ đo lường chớ sai.
Vua tôi hòa hợp theo loài,
Đừng cho phản úy làm tai hại người.
Mở ra mấy cửa chỉ ngươi,
Bảy phương đã sẵn, lại mười tễ dư.
Phương là đại, tiểu, ngẫu, cơ,
Phức, cùng hoãn, cấp, sờ sờ khá trông.
Tễ là bổ, tả, tuyên, thông,
Trọng, khinh, hoạt, sáp, táo cùng thấp thôi.
Bảy phương, mười tễ biết rồi,
Mặc trau thang, tán, mặc dồi hoàn, đan.
Làm thang, làm tán, làm hoàn,
Ít nhiều cân lượng dón bàn phân minh.
Phải coi vị thuốc cho rành,
Gạn màu thật, giả, xét hình mới, lâu.
Lại xem bào chế phép mầu,
Khuyên đừng lỗi tính, nào cầu khéo tay.
Sẵn dùng muối mặn, gừng cay,
Dấm chua, mật ngọt, rượu say, đồng tiền (tiện).
Coi theo vị thuốc chế liền,
Hoặc sao, hoặc nướng, hoặc chuyên nấu dầm.
Chớ cho vị độc hại thầm,
Khiến vào kinh lạc chẳng lầm mới hay.
Mật ong vào phế là thầy,
Muối kia vào thận, dấm này vào can.
Nước gừng vào chỗ tỳ quan,
Rượu cùng nước đái vào đàng tâm kinh.
Cho hay mấy vị dẫn kinh.
Muốn nên công hiệu, phải tinh chế dùng.
Vị nào dùng sống, sạch tinh,
Vị nào dùng chín tốt hình mới nên.
Lại gìn năm cấm chớ quên,
Răn người uống thuốc cho bền cữ ăn.
Mặn thời máu chạy làm nhăng,
Hỡi ôi bệnh huyết chớ ăn mặn mòi.
Cay thời hơi chạy chẳng thôi,
Hỡi ôi bệnh khí chớ giồi ăn cay.
Đắng thời hay chạy xương ngay,
Hỡi ôi cốt bệnh đắng rày chớ ăn,
Chua thời hay chạy gàn săn,
Hỡi ôi cân bệnh chớ ăn chua nhiều.
Ngọt thời thịt chạy có chiều,
Hỡi ôi nhục bệnh chớ nhiều ngọt ăn.
Thánh xưa cặn kẽ bảo răn,
Hễ bưng thuốc uống, vật ăn phải dè.
Vật ăn nhiều món khắt khe,
Miệng thèm chẳng nhịn, thời e hại mình.
Giả như thuốc có Truật, Linh,
Thấy mùi tỏi, dấm thật tình chẳng ưa.
Uống trà thời chớ ăn dưa,
Hoàng liên, Cát cánh phải chừa thịt heo.
Thường sơn, hành sống chẳng theo,
Địa hoàng, củ cải, lại chèo nhau ra.
Thịt trâu, Ngưu tất tránh xa,
Xương bồ, Bán hạ chẳng hòa thịt dê.
Vật ăn khắc thuốc bộn bề,
Mỡ, dầu, thịt, cá ê hề… noi dai.
Trái cây rau sống nhiều loài,
Cữ kiêng thời khá, kèo nài thời đau.
Ta xin đón nói một câu:
“Bệnh tòng khẩu nhập”, phải âu giữ mình.
Phép dùng thuốc muốn cho tinh,
Hợp theo nước, lửa, sinh, thành số dương.
Như vầy mới thật tiên phương,
Mới rằng tâm pháp rộng đường xưa nay,
Sau rồi coi sách thời hay,
Lời ca thi quyết ta nay truyền lòng:

Dựng dược tổng quyết (Tổng quyết về phép dùng thuốc)
Dịch nghĩa:
Các vị làm quân, làm thần phải hòa hợp, không trái nghịch.
Bảy phương mười tễ đều có phép tắc,
Hoặc sắc thành thang, viên làm hoàn, tán làm bột, luyện làm đan, liệu mà châm chước.
Các vị thuốc thực, giả, mới, cũ phải xem xét tỉ mỉ.
Theo phép tắc mà bào chế, chớ cậy khéo léo,
Vị chín thì thăng, vị sống thì giáng, phép cũ định rồi.
Cho uống kịp thời, lại phải biết những điều kiêng kỵ,
Dùng cho đúng và hợp, không sơ sót, đó là thuốc tiên.

Chế dược yếu phương (Những điều quan trọng trong việc chế thuốc)
Dịch nghĩa:
Nguyên hoa vốn lợi thủy, nhưng không sao dấm không thông.
Đậu xanh vốn giải độc, nhưng để nguyên vỏ không công hiệu,
Thảo quả chữa đầy bụng, nhưng để vỏ lại sinh tức ngực,
Hắc sửu để sống lợi thủy, gặp Viễn chí thành có độc,
Bồ hoàng để sống thông huyết, dùng chín thì bổ huyết.
Địa du là thuốc cầm huyết, nhưng dùng ngọn thì huyết không cầm.
Trần bì chuyên chữa khí, nếu để cả màng trắng thì bổ vị.
Phụ tử là vị cứu dương, nếu dùng sống thì chữa được bệnh phong ngứa.
Thảo ô chữa phong tê, nhưng dùng sống lại gây bệnh.
Nhân ngôn đốt qua hãy dùng.
Các loại đá thì phải nung,
Ngâm dấm thì mới tán nhỏ được,
Lề lối phải cho khéo.
Xuyên khung phải sao bỏ chất dầu, vì dùng sống sinh tê đau.

Dược hữu cửu trần ca (Bài ca về kinh nghiệm dùng chín vị thuốc)
Dịch nghĩa:
Trần bì, Bán hạ với Hương nhu,
Chỉ thực, Chỉ xác, Ngô thù du,
Kinh giới, Ma hoàng cùng Lang độc,
Muốn hay, cần phải để cho lâu.

Tiều rằng: Xuân, hạ, thu, đông,
Bốn mùa dùng thuốc chữa thông đạo thường.
Dẫn rằng: Trời bốn khí thường,
Xuân ôn hạ nhiệt, thu lương, đông hàn.
Theo mùa dùng thuốc thời an,
Mùa nào khí nấy, phải toan nhớ dồi.
Mùa xuân thời khí nóng bồi,
Hốt trong thang thuốc gia mùi thanh lương.
Mùa hè thời khí nóng thương,
Hốt trong thang thuốc thêm lương cho nhiều,
Mùa thu khí mát hiu hiu,
Gia vào vị ấm mới điều hơi dương.
Mùa đông khí lạnh thấu xương,
Gia vào vị nóng ngăn đường tà âm,
Nào lo trị bệnh, thuốc lầm,
Bốn mùa tay thước đều cầm ở ta.
Kinh rằng: “Vật phạt thiên hòa,
Tất tiên tuế khí” ấy là lời ngay.
Đạo thường giữ vậy thời hay,
Dù nhằm bệnh biến mặc tay dùng quyền.
Làm thầy há dễ một thiên,
Lòng hay chế biến cho chuyên mới ròng.
Tiều rằng: Tinh thuốc bằng thông,
Cứ theo Bản thảo xây dùng nên chăng?
Dẫn rằng: Bản thảo ó ngằn,
Coi kinh Tố vấn bệnh căn mới tường:
Biết đau bởi khí nào thương,
Thừa theo tính thuốc, dựng phương ra dùng.
Hỡi ôi học thuốc dày công,
Còn nhiều phép bí ở ông Đan Kỳ.
Ngư rằng: Mối đạo rừng Y,
Nối qua mở lại, tên gì xin nghe?
Dẫn rằng: Ta chẳng nói khoe,
Lớn thay đạo thuốc chống bè hóa công.
Viêm Hoàng là họ Thần Nông,
Dọn ra Bản thảo, thật công mở đầu.
Có vua Hoàng Đế ráp sau,
Cùng ông Kỳ Bá hỏi nhau nạn đời.
Nội kinh từ ấy nên lời,
Văn trời, lý đất, bệnh người đủ biên.
Nhờ câu “y đạo đại nguyên”,
Một pho Tố vấn lưu truyền xưa nay.
Hai mươi bốn quyển rõ bày,
Trong chia tám chục một rày thiên danh.
Mấy lời đại luận rất tinh.
Phép màu, ý nhiệm máy linh không cùng.
Vẽ đường kinh lạc ngoài trong,
Xây năm vận khí, cách chồng theo năm,
Trị ngoài có phép biếm châm,
Trong thời thang dịch sửa cầm mạng dân.
Từ Hiên, Kỳ thị xuống lần,
Đời nào cũng có bậc thần thánh ra.
Như ông Biển Thước nhà ta,
Tám mươi mốt quyển gọi là Nạn kinh
Như ông Hoàng Phủ tài lành,
Dọn Kinh Giáp Ất để danh thơm đời,
Hán, Đường nhẫn xuống nhiều đời,
Ông Trương Trọng Cảnh mấy người dám tham?
Coi pho Kim quỹ ngọc hàm
Trong, ngoài, hư, thực, phép làm rộng xa.
Hà Gian Lưu tử nối ra,
Bệnh nguyên, yếu chỉ, sách nhà hai pho.
Đông Viên ông Lý trời cho,
Mười pho bạt tụy, ý dò thẳm sâu.
Đan Khê lại có thầy Chu,
Nhóm kinh sách thuốc đặng pho đại thành.
Ấy đều nơi gốc Nội kinh,
Diễn ra làm sách tinh anh cứu người.
Y thư kể hết các nơi,
Buồn trâu đầy cột, sách đời biết bao.
Tiều rằng: Sách thuốc chào rào,
Bọn ta tính học bộ nào cho hay?
Dẫn rằng: Đạo thuốc xưa nay,
Hơn trăm bộ sách, đều tay thánh hiền.
Người sau lấy việc công truyền,
Tới trong có chỗ chú biên lỗi lầm.
Hỡi ai muốn trọn đạo tâm,
Xét nguồn, tỏ gốc, rộng tầm trong Kinh.
Nghĩa là Kinh biết đặng tinh,
Chỗ hay nương lấy ý mình suy ra.
Lại coi các sách bách gia,
“Chiết trung” hai chữ, mặc ta học đòi.
Đạo đời ai dễ giấu mòi?
Dón nơi đại khái, hẳn hòi chỉ cho.
Trước coi Bản thảo làm đò,
Sau xem Tố vấn, chín so bệnh tình.
Muốn sai vị thuốc hành kinh,
Lôi công Bào chế phép linh để lòng.
Muốn xây thang dịch cho ròng,
Phép ông Y Doãn, tới trong lo lường.
Bệnh người ngoại cảm nhiều phương,
Học ông Trọng Cảnh một đường cho chuyên.
Nội thương học phép Đông Viên,
Bao nhiêu chứng nhiệt học quyền Hà Gian.
Kìa như tạp bệnh nhộn nhàng,
Đan Khê phép cũ, khuyên chàng sử đương.
Mạch kinh đọc sách họ Vương,
Sự thân đọc sách ông Trương Tử Hòa.
Hỡi ơi nghề thuốc lắm khoa,
Kể cho hết sách, nói ra bướu thừa.
Sách nhiều mà lý càng thưa,
Phương nhiều mà phép so xưa lỗi dòng
Muốn cho nguồn sạch dòng trong,
Nêu ngay bóng thẳng, ghi lòng lời ta.
Ngư rằng: Miếu tổ một tòa,
Thờ trong bài vị ấy là bậc chi?
Dẫn rằng: Trong miếu rừng y,
Tổ xưa vốn họ Phục Hy làm đầu.
Thiên nguyên ngọc sách trước trau,
Mười đời tới Quỷ Du Khu đọc truyền.
Linh khu, Tố vấn noi biên,
Nối theo vua thánh, tôi hiền dạy ra.
Họ tên kể đặng mười ba,
Đều người thượng cổ y khoa mở dòng.
Nho y bốn chục một ông,
Đều người kinh sử dày công học hành.
Theo trong khoa mục là mình,
Trương, Tôn bọn ấy dõi danh trên đời.
Minh y chín chục tám người,
Tần, Sào bọn ấy tài tươi sáng lòa.
Thế y hai chục sáu nhà,
Lâu, Từ bọn ấy nối cha nghiệp này.
Đức y mười có tám thầy,
Từ, Tiền bọn ấy lòng đầy yêu thương.
Tiên y như bọn Trường Tang,
Có mười chín họ, truyền phang nhiệm màu.
Tính danh cộng đếm trước sau,
Hai trăm một chục năm đầu tiên sư.
Tiều rằng: Trước họ Phục Hy,
Chưa hay nghề thuốc tên chi mở đàng?
Dẫn rằng: Người thuở Tam hoàng,
Có ông Tựu Thải mở mang mối đầu.
Dạy ông Kỳ Bá học sau,
Huyệt do kinh lạc, phép mầu cứu châm.
Ngư rằng: Trong phép cứu châm,
Chẳng chờ thuốc uống mà âm dương hòa.
Xin lời vàng ngọc nhả ra,
Sách ông nào bí, vẽ ta học hành.
Dẫn rằng: Muốn học máy linh,
Coi chừng trời đất trong hình người ta.
Độ trời giáp một năm qua,
Ba trăm sáu chục lẻ ra năm ngày,
Mình người kể khắp chân tay,
Ba trăm sáu chục năm vài lóng xương.
Đếm theo kinh lạc âm dương,
Ba trăm sáu chục năm đường huyệt danh,
Khá coi Hoàng Phủ Châm kinh,
Cảnh Khôi Cứu pháp cùng Minh Đường đồ
Huyệt nào sâu cạn phải đo,
Bệnh nào bổ tả phải dò cho thông,
Nhớ câu “đoạt dược chi công”,
Phép châm cứu ấy chẳng đồng phương thơ (thư).
Tiều rằng: Ta hãy còn mờ,
Ngoại khoa phép bí, biết thờ ông chi?
Dẫn rằng: Từ thuở Hiên, Kỳ,
Có ông Du Phủ khôn bì ngoại phang,
Bệnh người chẳng dụng thuốc thang,
Xẻ đầu, mổ bụng, rửa gan, cạo trường,
Hoa Đà sách cũng khác thường,
Hùng kinh chi cố, nhiều phương rất kỳ.
Cho hay mấy bậc thần y,
Để kinh sách lại thiếu gì ngoại khoa.
Đan Khê sau nhóm các nhà,
Bổ di một bộ ngoại khoa thêm rành.
Khuyên ngươi gắng đọc Nội kinh,
Sờ sâu, mò kín, tỏ tình ngoài, trong.
Ngư rằng: Kìa bốn lầu song,
Chưa hay bốn ấy để phòng coi chi?
Dẫn rằng: Tâm pháp nhà y,
Vọng, văn, vấn, thiết, chữ ghi bốn lầu,
Vọng là xem sắc người đau,
Văn là nghe tiếng nói màu thấp cao,
Vấn là hỏi chứng làm sao,
Thiết là coi mạch bộ nào thật hư.
Sau rồi thong thả học sư,
Bốn lời yếu quyết ta chừ đọc cho.

Quan hình sát sắc (Xem hình dáng, xét khí sắc)
Dịch nghĩa:
Thứ nhất là xem thần khí, sắc của người bệnh,
Xem nhuận hay khô, gầy hay béo, dậy cùng nằm thế nào.
Nhuận thì sống, khô thì chết, béo là thực,
Gầy là hư yếu, xưa nay vẫn truyền.
Lom khom là trong lưng đau, nhìn biết ngay.
Chau mày là nhức đầu, chóng mặt.
Tay không nhấc lên được là vai và lưng đau.
Bước đi khó nhọc là đau trong khoảng ống chân,
Chắp tay đè trước ngực là trong ngực đau,
Đè trước rốn là đau trong vùng bụng,
Trở dậy không ngủ được là đờm và nhiệt;
Thích ngủ là vì lạnh và hư khiến nên,
Quay mặt vào vách nằm co ro, phần nhiều là vì lạnh.
Ngửa mặt nằm sóng soải là vì bị nóng nung nấu.
Mặt, trên người và con mắt có màu vàng là bị bệnh thấp nhiệt.
Môi xanh, mặt xạm đen cũng là bị lạnh như trên.

Thính thanh âm (Nghe giọng, xét tiếng cười)
Dịch nghĩa:
Thứ hai là nghe xem tiếng trong hay đục;
Xét xem người bệnh nói thật hay nói xàm.
Tiếng đục biết ngay là bị đờm vướng lấp;
Tiếng trong, đó là vì bị lạnh ở bên trong,
Lời nói rõ ràng thì không phải là thực nhiệt;
Nói bậy và kêu gào thì bệnh nhiệt đã sâu lắm rồi.
Nói chuyện ma quỷ, lại còn trèo tường, leo mái nhà,
Đó là ngực bụng có đọng đờm, gọi là bệnh điên.
Lại có thứ bệnh kéo dài đã lâu ngày,
Bỗng nhiên mất tiếng, thì mạng ôi thôi!

Vấn chứng (Hỏi chứng lạnh)
Dịch nghĩa:
Thử hỏi đầu mình có đau hay không,
Nóng lạnh không ngớt thì rõ ràng là bệnh ngoại cảm.
Bàn tay nóng, ăn không biết ngon,
Đó là nội thương vì ăn uống hay nhọc mệt quá sức.
Trong lòng bồn chồn lại thêm bị ho,
Người gầy gò, đó là chứng âm hư hỏa động.
Trừ ba chứng ấy ra, còn thì các chứng khác,
Như sốt rét, kiết lỵ đều có tên.
Từ đầu tới chân phải hỏi cho rõ.
Chứng bệnh tương tự, cần nghe cho cặn kẽ.

Tạng phủ định vị (Xác định vị trí các tạng phủ)
Dịch nghĩa:
Tay trái là tim, ruột non, gan, mật, thận;
Tay phải là phổi, ruột già, lá lách, dạ dày và mệnh môn.
Tim và ruột non ứng với bộ Thốn tay trái.
Gan, mật cùng hội về bộ Quan tay trái.
Mạch thận nguyên ở bộ Xích tay trái.
Bàng quang là phủ của thận cũng ở đấy.
Phổi cùng ruột già ứng với bộ Thốn tay phải.
Lá lách, dạ dày xem ở bộ Quan tay phải.
Màng tim sóng đôi với tam tiêu, hợp với bộ Xích tay phải.
Đó là bí quyết cho kẻ mới học nghề y.

Tiều rằng: Xem bệnh tử sinh,
Phép ông nào trọn, xin rành dạy ta?
Dẫn rằng: Xưa có Thúc Hòa,
Xem hình, xét sắc, ít nhà dám chê.
Chẳng chờ miệng nói tai nghe,
Mấy mòi sống thác khôn che mắt thần.
Nay trau con mắt phong trần,
Coi lời ca quyết sáng ngần hơn châu.

Vương Thúc Hòa quan bệnh sinh tử hậu ca (Bài ca về phép xem triệu bệnh sống chết của Vương Thúc Hòa)
Dịch nghĩa:
Bệnh sắp khỏi, vè mắt có sắc vàng (vị khí đã lưu hành).
Vành quanh mắt thình lình trũng xuống, biết chắc là chết (ngũ tạng tuyệt).
Tai, mắt, mũi, miệng nổi sắc đen,
Đã lan vào đến miệng thì mười phần có đến tám là khó cứu (thận khí chế vi khí),
Mặt vàng, mắt xanh thường do uống rượu quá say,
Dể gió tà xông vào vị nên mất mạng (mộc khắc thổ).
Mặt đen, mắt trắng là mệnh môn hỏng.
Trong người lại thấy quá nhọc mệt, thì tám ngày chết.
Trên mặt thình lình thấy có sắc xanh,
Nếu như dần dần trở thành màu đen là chết, khó cứu (can và thận tuyệt).
Mặt đỏ, mắt trắng, lại thở khò khè thì rất đáng sợ,
Đợi qua mười ngày sẽ rõ sống hay chết (hỏa khắc kim).
Sắc vàng, đen, trắng nổi lên chạy vào mắt,
Vào cả mũi, miệng là có tai vạ (thận chế tỳ).
Nếu lại thêm mặt xanh, mắt vàng thì giờ Ngọ sẽ chết,
Còn lại thì cũng chỉ sống trong vài ngày là cùng (mộc khắc thổ).
Mắt không có tinh thần, lợi răng có sắc đen (tâm và can tuyệt).
Mặt trắng, mắt đen cũng là tai vạ (phế và thận tuyệt)
Miệng mở ra như miệng cá, không ngậm lại được (tỳ tuyệt),
Thở ra mà không hít vào thì mạng lên tiên (can và thận đã tuyệt trước).
Vai xo lên, mắt trợn ngược, môi khô,
Mặt sưng lên, mắt trợn ngược, môi khô,
Mặt sưng lên lại có sắc xám hay đen cũng khó thoát chết.
Nói xàm bậy bạ hay không nói gì,
Hơi thở nặng mùi như xác chết, biết là không thọ (tâm tuyệt).
Nhân trung đầy hết lên, miệng và môi xanh,
Nên biết là ba ngày mạng không còn (mộc khắc thổ).
Chỗ giáp lưỡng quyền (hai gò má) đỏ, là bệnh tim đã lâu.
Miệng há, thở ra thì mạng khó sống (tỳ và phế tuyệt).
Chân đau, ngón sưng, đầu gối sưng to như cái đấu,
Nên biết là khó giữ mạng sống trong mười ngày (tỳ tuyệt).
Gân cổ lỏng lẻo biết chắc là chết (mạch Đốc tuyệt).
Trong lòng bàn tay không còn ngấn vết cũng sống không lâu (màng tim tuyệt).
Môi xanh, mình lạnh, nước tiểu cứ són ra (bọng đái tuyệt).
Thấy đồ ăn thức uống thì quay mặt đi, hẹn trong bốn ngày sẽ chết (can tuyệt)
Móng chân, móng tay đều xanh đen,
Xương sống đau, lưng nặng, trở mình khó,
Đó là xương tuyệt, năm ngày rồi xem.
Mình nặng, nước tiểu đỏ lại són ra không ngớt,
Đó là thịt tuyệt, sáu ngày là chết.
Móng chân, móng tay xanh, thường chửi rủa la thét,
Đó là gân tuyệt, khó qua được chín ngày.
Tóc cứng như sợi gai, nửa ngày là chết (ruột non tuyệt).
Lần áo, nói chuyện chết, mười phần biết là hỏng (tâm tuyệt).

Ngư rằng: Mạch lý u vi,
Chưa hay hình trạng mạch đi ít nhiều?
Dẫn rằng: Tên mạch rất nhiều,
Hai mươi tám trang sách nêu rõ ràng.
Chẳng qua hai chữ âm dương,
Muốn cho phân biệt coi thường lề biên.

Chu mạch thể trạng (Hình trạng các mạch)
Dịch nghĩa:
Mạch Phù ấn xuống thấy yếu, nâng lên thấy mạnh,
Mạch Trầm ấn xuống thấy mạnh, nâng lên thì không thấy,
Mạch Trì, một hơi thở đến ba lượt.
Mạch Sác một hơi thở đến sáu lần.
Mạch Hoạt như chuỗi hạt trai và đi, lại mau,
Mạch Sắc đi lại vướng như róc da tre.
Mạch Đại ấn nổi thì đầy ngón tay, ấn chìm thì không có sức
Mạch Hoãn so với mạch Trì nhanh hơn chút,
Mạch Hồng như nước lụt nổi sóng lên.
Mạch Thực ấn thấy găng tay, mạnh khác hẳn.
Mạch Huyền thẳng rẵng như giương dây cung.
Mạch Khẩn như là mới kéo dây, vặn chạc.
Mạch Trường qua ngón tay, ra ngoài bộ.
Mạch Khâu hai đầu có mà giữa thưa không.
Mạch Vi như tơ nhện, khá dễ xét.
Mạch Tế đi lại như sợi chỉ càng dễ coi,
Mạch Nhu không có sức không ưa ấn.
Mạch Nhược thì như muốn đứt, nửa có, nửa không,
Mạch Hư tuy mở rộng song không chắc,
Mạch Cách, rất bền vững, như ấn vào da trống.
Mạch Động như hạt đậu lăn, không có đi, lại,
Mạch Tán chốc chốc mới thoáng tới đầu ngón tay.
Mạch Phục ấn xuống sát xương mới thấy.
Mạch Tuyệt thì không có hẳn, tìm cũng uổng công,
Mạch Đoản ngay trong bộ cũng không tới.
Mạch Xúc đến mau gấp, dần dần khoan đi là đáng mừng.
Mạch Kết đi chậm, thỉnh thoảng lại dừng.
Mạch Đại cũng dừng giữa chừng mà không trở lại được.

Tiều rằng: Tên mạch đã trao,
Mạch nào chuyên chủ bệnh nào xin nghe.
Dẫn rằng: Chẳng mếch chẳng phe,
Mạch nào chứng nấy, tay đè thì hay.
Xiết bao trong sách nhiều thầy,
Sẵn lời ca quyết ta rày vẽ ngươi.

Chư mạch chủ bệnh (Các bệnh thể hiện qua hình trạng mạch)
Dịch nghĩa:
Phù là bệnh phong, Khâu là bệnh huyết, Hoạt là nhiều đờm,
Thực là bệnh nhiệt, Huyền là bệnh lao, Khẩn là bị đau đớn.
Hồng là bệnh nhiệt, Vi là bệnh hàn, đều tích tụ dưới rốn.
Trầm là đau vì khí, Hoãn thì da tê.
Sắc là bị tổn tinh âm, hại huyết.
Trì cũng là bệnh lạnh, Phục là bệnh ở cách quan.
Nhu thường bị toát mồ hôi, riêng người già thường mắc.
Nhược là tinh khí thiếu, xương và thân thể ê ẩm,
Trường là khí tốt, Đoản thì khí bị bệnh.
Tế là khí ít, Đại là khí suy.
Xúc là bệnh nhiệt cùng cực, Kết là tích tụ.
Hư là bệnh kinh giật, Động là thoát bị ra máu liên tiếp.
Sác là bệnh trong lòng buồn bực, Đại là bệnh đang tiến.
Cách là bệnh di tinh, băng huyết, cũng lạ lùng thay.

Tiều rằng: Thầy thuốc nói thường,
Thất biểu, bát lý, chín đường mạch chi?
Dẫn rằng: Ấy thật tục y,
Thấy đâu nói đó, biết gì Mạch kinh,
Ta từng coi sách Mạch kinh,
Chín đường, biểu, lý, không danh mục đề.
Mạch kinh đã chẳng nêu đề,
Đến ông Trọng Cảnh ròng nghề nào biên.
Ngư rằng: Gốc bởi ai truyền,
Cớ sao sách thuốc còn biên làm gì?
Dẫn rằng: Sách thuốc thiếu chi,
“Hãn ngưu sung đống” câu ghi trước tường.
Gốc ra từ họ cao Dương,
Đặt tên mạch ấy mạo Vương Thúc Hòa.
Nối sau, họ Đới đồng ra,
Mạch thư san ngộ cứu tra dọn rồi.
Đan khê chẳng nỡ bỏ trôi
Để cho hậu học làm dùi chiết trung.
Hỡi ôi mạch lý nhiều ông,
Ông nào ý nấy, rồng rồng đua nhau.
Những kiêm nhau với giống nhau,
Coi vào mạch lý lộn nhầu như tương.
Nói cho rộng chước y phương,
Rọt đồng hồ, cũng về đường tứ tông.
Phù, Trầm, Trì, Sác, tứ tông,
Tóm coi ba bộ cho ròng thời hay.
Nghìn xưa bốn mạch đón thay!
Lời ca tâm pháp ta nay thuộc lòng:

Tổng Khan tam bộ mạch pháp (Tổng quát về phép xem mạch ba bộ)
Dịch nghĩa:
Mạch hội ở kinh Thái âm, xem ở đó có thể biết sống chết,
Thốn, Quan, Xích đủ cả tình hình âm dương.
Bằng ba cách ấn nổi, ấn giữa, ấn chìm mà biết mạch đi trì hay sác.
Thuận hay nghịch, thực hay hư đều ứng với ngũ hành.
Nào cửu hậu, nào thập biến, rất là phiền phức
Nhưng đều do tạng phủ hợp lại mà thành ra.
Mạch ba bộ mà đủ thì dễ biết bệnh,
Nhưng nếu khi đến, khi không đến thì thật khó có bằng cứ.
Mạch lên, xuống, đi, lại đều có dấu vết,
Nên tìm mạch, tay phải cứng và nằm ngang.
Duy có mạch Thiên hòa thì không ứng,
Nhảy gấp khác thường là thuộc kỳ kinh.
Một mạch mà biến hai lần chớ lo là lạ,
Nam hay nữ cũng vậy, nếu thấy nó giữa giờ Dần chớ lo sợ hão,
Năm mươi là số chót của phép Thái diễn,
Theo ngôi chủ tiên thiên mới biết là thiêng liêng.
Bốn mùa đều lấy khí của vị làm gốc,
Sáu Giáp kế tiếp nhau như anh với em.
Gọn gàng thay phép tứ mạch để lại cho ngàn đời,
Lập ra then chốt để xem động tĩnh thật giản dị và rõ ràng.
Chẳng cần hỏi ở kinh nào hay tạng phủ nào,
Chỉ cần đinh ninh xét rõ mạch mạnh hay yếu.
Muốn rõ gốc nguồn, không có sự khéo léo nào khác,
Chỉ cốt là khi xem mạch thì tâm thần phải trong sạch.

Phép hay nhóm một thiên này,
Ý sâu, nghĩa kín, vốn thầy bách gia.
Thêm còn Y quán dọn tra
Kiêm lời tiểu tự biên ra hẳn hòi.
Cứ theo thiên ấy tóm coi,
Thực hư ba bộ, biết mòi tử sinh.
Lạ thay mấy mạch kỳ kinh,
Thiên hòa, chẳng ứng nhiều anh dốt ngầm.
Ngư rằng: Tấm biển Y lâm,
Chữ “Tam Công” ấy, chủ cầm ý chi?
Dẫn rằng: Bốn chữ phép kỳ,
“Vọng, văn, vấn, thiết”, bậc ghi ba tầng.
Thượng công là chữ “vọng văn”,
Trung công chữ “vấn” chủ rằng thông minh.
Hạ công chữ “thiết” đã đành,
Trong ba bậc ấy tài lành khác nhau.
Ba công nghề nghiệp lau làu,
Coi kinh Tố vấn thấy màu thợ hay.
Ngư, Tiều, đều dậy vòng tay,
Rằng: Xin lạy tạ gặp nay lời lành.
Tuy chưa đến cửa cao minh,
Trước dà nghe dạy mở tranh lấp rào.
Mấy hồi lòng chịu miệng trao,
Phá ngu phát rậm, biết bao nhiêu lời.
Bấy lâu ngồi giếng xem trời,
Dòm beo trong ống, đạo đời biết đâu.
Dẫn rằng: Bằng hữu giúp nhau,
Miễn cho trọn nghĩa theo câu ngũ thường.
Phần ta học hãy tầm thường,
Còn nhờ một bạn tê Đường Nhập Môn.
Nhập Môn học có tiếng đồn,
Rộng thông kinh sử, trí khôn vượt bầy.
Nhà nho đèn sách công dày,
Tài kiêm tám đấu, sách đầy năm xe.
Văn chương ai cũng muốn nghe,
Phun châu, nhả ngọc báu khoe tinh thần.
Vì câu “sinh bất phùng thần”,
Dẹp nghề cửa Khổng theo phần kỹ lưu.
Đan Kỳ đồ đệ trước sau,
Đều nhường tên ấy ở đầu y sinh.
Ngư, Tiều nghe nói tỏ tình,
Nhìn rằng tên ấy tiền trình vốn quen,
Nhớ xưa cũng bạn sách đèn,
Nước loàn nên mới thân hèn lìa nhau.
Tấm lòng mơ tưởng bấy lâu,
Chưa hay tông tích ở đâu đi tầm (tìm).
Ngư, Tiều đang lối mừng thầm,
Xảy nghe ngoài cửa tiếng ngâm thơ rền,
Gió trong đưa dắt hơi lên,
Trước am Bảo Dưỡng nghe rền lời thơ.

Nhập môn ngâm thơ rằng:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi, có hay không?
Mây giăng ải bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời chung,
Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông

Nghe rồi Đạo Dẫn vội vàng,
Bước ra trước cửa rước chàng Nhập Môn.
Ngư, Tiều nhìn thấy Nhập Môn,
Chạnh lòng bạn cũ, bôn chôn hỏi chào,
Miệng cười mà nước mắt trào,
Mừng thương giao cách, biết bao nhiêu tình.
Mừng là mừng gặp bạn lành,
Thương là thương đạo ở mình hèn lâu.
Luống ôm báu tốt minh châu,
Ở nơi nước tối, ai hầu biết ai.
Cách nhau mười mấy năm dài,
Gặp nhau một thuở, dễ phai lòng này.
Việc nhà ấm lạnh rủi may,
Cùng nhau trót đã tỏ bày căn duyên.
Môn rằng: Cám cảnh bạn hiền,
Người sông, kẻ núi lưu liên bấy chầy.
Từ năm dứt hội rồng mây,
Những ngờ chúng bạn theo bầy tinh chiên.
Buồn xem trong đất U Yên,
Y quan xưa hóa nón chiên áo cầu.
Người so cầm thú khác nhau,
Vì noi lễ nghĩa, giữ câu cương thường.
Tuy rằng ở cuộc tang thương,
Tấm lòng ngay thảo nào thường đổi xây.
Hai người tài trí vượt bầy,
Chẳng tham danh lợi buổi này khá khen
Dẫn rằng: Mấy mặt như sen,
Đứng trong bùn lấm, mà bèn sạch trơn.
Chưa hay trong ý cao nhơn (nhân),
Lời thơ ngâm trước còn hờn, trông chi?
Môn rằng: Ta đọc sách y,
Thấy trong vận khí xây đi nhiều tòa,
Trời đông mà gió tây qua,
Hai hơi ấm mát chẳng hòa, đau dân.
Nhớ câu “vạn bệnh hồi xuân”,
Đòi ngày luống đợi Đông quân cứu đời.
Tiều rằng: Nào xiết lo đời,
“Vinh, khô” hai chữ, mặc trời chủ trương.
Thánh kinh còn chữ “xuân vương”,
Trong, ngoài, há dễ lộn đường Hoa, Di.
Đạo đời có thịnh có suy,
Hết cơn bế bĩ, đến kỳ thái hanh.
Ngư rằng: Gặp thuở thái hanh,
Bọn ta cũng đặng rạng danh nước nhà,
Chỉn e đời xuống càng xa,
Tấm lòng nhân dục đắm sa lở bờ.
Dẫn rằng: Gặp bạn Thi, Thư,
Luống bàn lý sự, bao giờ cho xong.
Ai ai cũng có tấm lòng,
Biển sâu chưa hẳn đục trong lẽ nào.
Nay xin mở tiệc tửu hào,
Phú thi vài lối tầm phào nghe chơi.
Ngư, Tiều, Môn, Dẫn bốn người,
Cùng nhau ăn uống vui cười ngỏa nguê.
Môn rằng: Nam, bắc, đông, tê (tây),
Gặp nay thơ biết cảnh đề ra chi?
Dẫn rằng: Nào phải trường thi,
Ra đề hạn vận, một khi buộc ràng!
Trượng phu có khí ngang tàng,
Rộng cho phóng tứ làm bàn thi tiên.
Noi theo đạo cũ kim liên,
Cùng nhau xướng họa đoản thiên nối bài.
Mặc dù hai chữ tả hoài,
Việc xưa được mất bởi ai, cớ gì?
Người xưa sao có thị phi?
Đạo đời sao có thịnh suy chẳng đồng?
Học theo ngòi viết chí công,
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu.
Họ Đường mở vận xướng đầu,
Sau Châu Đạo Dẫn nối theo họa liền.

Nhập môn xướng rằng:
Đời hoàng rồi đế, đế rồi vương,
Từ dấu vương sau bá dọn đường.
Ai cấm đỉnh Chu người Sở hỏi,
Máy trời đã mở tiệm giày sương.

Đạo Dẫn họa rằng:
Nghìn năm có một hội minh lương,
Vua thánh tôi hiền vững bốn phương.
Nhớ thuở khóc lân treo bút đạo,
Mặc tình trời đất với quân vương.

Nhập môn xướng rằng:
Tà thuyết đua ra lấp nẻo đường,
Bủa lời Dương, Mặc, nét Thân, Hàn.
Sự đời bóng rối cười ông Lão,
Nợ nước khô lâu khóc họ Trang.

Tiều họa rằng:
Nửa nghìn chưa gặp vận sông Vàng,
Năm nhạc, hơi che một chữ quang,
Khổng thánh còn mang lời hạ quỷ,
Mạnh hiền luống chịu tiếng Tàng Thương.

Nhập môn xướng rằng:
Kiếm phù Hán tổ đãi Hàn công,
Nệm gối Đường tông sánh vợ chồng.
Hai chữ cương thường như thế ấy,
Dầu lân, điềm phụng, vội khôn trông.

Ngư họa rằng:
Bạo Tần dọn chỗ sẵn cho Lưu,
Trời khiến bầy hùng dấy đuổi hươu.
Lửa đốt A Phòng đền lửa sách,
Hầm chôn hàng tốt trả hầm nhu (nho).

Đạo Dẫn ngâm rằng:
Thuở nào năm ngựa lội sông nam,
Lắm bậc tài danh mấy có làm
Người Địch chống chèo thề cũng luống,
Họ Đào vận bịch sức còn tham.

Nhập môn ngâm rằng:
Công danh bọn trước rủi xiêu bè,
Biển bụi lênh đênh sóng gió đè.
Rồng phụng Kinh Châu còn mắc núp,
Chó gà Tề khách chớ nên khoe.

Tiều ngâm rằng:
“Mông thỏ, cung chim” tiếng trước de,
Tôi người họ Lục chở đầy xe,
Kén tơ kéo hết ra thân nhộng,
Hơi tiếng kêu còn nhọc sức ve.

Ngư ngâm rằng:
Tàu ngựa cầm trâu, trước lỗi nghì.
Năm Hồ roi dấu lấp đường đi.
Việc đời hỏi tới người mò rận,
Nạn nước trông về kẻ bán ky.

Nhập Môn ngâm rằng:
Cuộc cờ thúc quý ngựa xe đua,
Nay chúa, mai tôi, lộn ấn bùa.
Một núi ông Đoàn riêng trốn khách,
Năm triều ngươi Đạo nhọc thờ vua.

Bốn người họa xướng thơ rồi,
Thứ này Đạo Dẫn phản hồi Đông Thanh.
Dẫn rằng: Bên quán Đông Thanh,
Ngày mai đã đến giờ lành luyện đan.
Ta xin về chốn luyện đan,
Ngư, Tiều ngươi phải theo Đường Nhập Môn.
Hai ngươi nay gập Nhập Môn,
Theo nhau cho trọn một phồn nho y,
Phần ta theo việc tiên y,
Ngày sau cũng tới Đan Kỳ hợp nhau.
Ngư, Tiều nghe nói dàu dàu,
Muốn theo Đạo Dẫn trước sau vuông tròn.
Riêng hiềm một nỗi vợ con,
Trần duyên chưa mãn, khó lòng động tiên,
Trót đà chịu phép chân truyền,
Ở am Bảo Dưỡng hỏi biên năm ngày.
Tuy chưa đủ thấy nghề hay,
Song nhờ dạy vẽ, công dày, ơn sâu.
Nửa đường đây lại chia nhau,
Khiến lòng bịn rịn, mặt sầu chẳng vui.
Rót ba chén rượu phụng bồi,
Lễ đưa Đạo Dẫn, một hồi tạm ly.
Tiều rằng: Chưa đến Đan Kỳ,
Mười phần đường thuốc, mới đi năm phần.
Mấy ngày nghe đạo truân truân,
Như mình ngồi giữa gió xuân hơi hòa.
Xưa rằng: “Ích hữu có ba”,
Giúp ta lành ấy cũng là ngô sư.
Môn rằng: Đạo Dẫn đã đi,
Bữa nay cũng vắng Đan Kỳ thầy ta.
Nhân khi gặp tiết thưởng hoa,
Bạn hiền mời nhóm chơi tòa Thiên Thai.
Mỗi phen chơi cảnh Thiên thai,
Cầm, kỳ, thi, tửu, tiệc dai quên về,
Thầy đi chưa hẹn ngày về,
Xin hai người hãy đề huề theo ta.
Theo ta tới chỗ riêng nhà,
Ở chờ vài bữa rồi qua Đan Kỳ.
Ngư, Tiều theo Nhập Môn đi,
Tách am Bảo Dưỡng đến Y quán rồi.
Từ nay Y quán lần hồi,
Đến nhà thong thả tiệc bồi vui say.
Họ Bào, họ Mộng lối này,
Ở nơi đường thị lâu ngày học riêng.
Sẵn sàng nghề nghiệp thầy truyền,
Vầy nhau bàn luận, hỏi biên phép mầu,
Lại đem vấn đáp chuyện đầu,
Tra vào sách thuốc, câu câu chẳng lầm.
Môn rằng: Bạn cũ thanh khâm,
Mừng nay đặng chữ đồng tâm giúp đời,
Chi lan thơm cũng một hơi,
Chớ chê bỉ thử, mờ lời keo sơn.
Nhớ câu “Thủ thiện phụ nhân”,
Nhờ người biết trước mở lần biết sau.
Mấy lời Đạo Dẫn vẽ đâu.
Chỗ nào sót ý, phải âu xét bàn,
Miễn cho thấy đạo rõ ràng,
Chớ e hỏi dưới ngỡ ngàng hổ ngươi.
Tiều rằng: Muốn học làm người,
Đã đi cầu đạo, sợ cười chê chi.
Chưa hay trước cõi rừng Y,
Có truông Âm Chất, việc gì kể ra?
Môn rằng: Thứ nhất y khoa,
Chữ kêu “âm chất”, thật là âm công.
Xưa rằng: Thầy thuốc học thông,
Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh.
Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghẻ tài,
Biết không, không biết mặc ai,
Chuyên nghề làm phải, chẳng mài thiệt hơn.
Trọn mình noi nghĩa ở nhơn (nhân).
Bo bo giữ việc ra ơn, làm lành.
Bệnh nào cho thuốc chẳng lành,
Nhỏ lòng lo sợ, xét mình phải chăng.
Vốn không theo thói tham nhăng,
Nhân khi bệnh ngặt, đòi ăn của nhiều.
Cũng không ghé mắt coi dèo,
Chỗ giàu trân trọng, chỗ nghèo đảo điên.
Đời nhiều thầy thuốc bất thiên,
Đủ tiền đủ vị, thiếu tiền hốt vơ.
Mở coi trong sách y thư,
Nêu thiên Âm chất chỗ nhờ sinh linh.
Phong, lao, các chứng thiên hình,
Gặp thời thương xót, bệnh tình khôn toan.
Chẳng nên láu táu khoe khoang,
Lấy tiền ăn trước, cuốn đàng chạy sau.
Thấy người đau, giống mình đau,
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Ăn mày cũng đứa trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không.
Tổ xưa thuốc điểm mắt rồng,
Thuốc châm môi cọp, khổ công dường nào,
Chữ Kinh “ngô dữ ngô bào”.
Nghĩ dân cùng vật lẽ sao cũng đồng.
Nhớ câu “Y tích âm công”,
Ta nên chứa phúc để dùng lâu thay!
Hỡi ai có bụng như vầy,
Đạo y ngày sáng, tiếng thầy nào hư.
Ngư rằng: Nhà đạo chẳng hư.
Bởi thầy trước để phúc dư đã đành.
Đến như người tục làm lành,
Chưa hay âm chất có thành cùng chăng?
Môn rằng: Âm chất không ngần,
Việc làm lành ấy, há ngăn người nào?
Giàu thời bắt chước xưa hào,
Nợ lâu đốt khế, lúa vào đong ra,
Con ai cô quạnh mẹ cha,
Lớn khôn chọn gả, bé nhà gìn nuôi.
Thấy người đói khó chớ nguôi,
Chỗ cho cơm áo, chỗ giồi tiền lương,
Chỗ thời thí dược, thí quan,
Chỗ thời giúp táng, trợ tang vuông tròn.
Bạn nghèo chôn bạn giùm con,
Nhà con vợ sẵn hầu non cho về.
Vàng quên, của gửi trả về,
Thế thường, thay nạp, người bia nhờ mình.
Sang thời bắt chước xưa minh,
Án từ rửa sạch tình hình dân oan.
Noi câu “xuất tội hoạt hàng”,
Cứu tai muôn họ, dấy đàng lợi sinh,
Nghèo thời bắt chước xưa thanh,
Gặp nàn trút đãy, cứu sinh mạng người.
Tập theo nghề thuốc cứu người,
Cứu đui, cứu ngọng, ai cười trối thây.
Phóng hư, phóng hạc theo bầy,
Bắc cầu đưa kiến, làm thầy quạ đau.
Hèn thời bắt chước xưa tu,
Vá giày, vá dép, công phu lợp nhà.
Hoặc khi khâm liệm, khiêng ma,
Việc người khó nhọc, thảy ra sức giùm.
Ấy là âm chất cả dùng,
Lấy câu “vi thiện” kể chung phẩm người.
Đến như âm chất gốc trời,
Ở câu hiếu thuận, đời đời bia son.
Người xưa giữ vẹn đạo con,
Thảo nhờ cha mẹ, thuận tròn nghĩa thân.
Sống thời bắt chước thầy Tăng,
Hôm mai nuôi miệng lại phăn nuôi lòng.
Thác thời bắt chước Chu công,
“Lành noi lành nối”, dấu ông chú rằng.
Thường thời bắt chước vua Văn,
Sớm khuya thăm hỏi, bữa ăn kính hầu.
Biến thời bắt chước họ Ngu,
Lần lần dỗ dắt, khỏi câu gian tà.
Chuyện khôn xiết kể trăm nhà,
Kia làm con thảo, sinh ra cháu lành.
Hễ như mấy kẻ có danh,
Hai mươi bốn thảo, tiếng lành đồn xa,
Bằng ai bắt chước nhà va,
Hết lòng thảo thuận, ấy là âm công.
Cho hay gốc lớn vững trồng,
Vậy sau dòng lớn mới không mối dường.
Coi pho Vĩnh loại kiềm phương,
Thể nhân vị lục, thời tường các danh.
Tiều rằng: Hỏi việc bất bình,
Xưa nay nhiều kẻ làm lành làm duyên.
Những người cùng Phật, cùng Tiên,
Cất chùa, cất miễu, bạc tiền đua nhau.
Những người đắp sửa đường cầu,
Làm chay hát bội, của giàu thí ra,
Ta nghe làm phúc nhiều nhà,
Cớ sao mắc họa lại ra bần xừ?
Môn rằng: Đời lắm danh hư,
So câu “tích thiện hữu dư” sao nhằm?
Kẻ giàu muốn đặng nghìn trăm,
Cho vay một vốn, bốn năm mười lời,
Kẻ sang cậy thế lấn hơi,
Tham lam của quấy, ăn chơi mấy ngày
Lấy câu hãn huyết chi tài,
Cúng cho chùa miễu, nào ai chứng lòng.
Trong mình thảo thuận vốn không,
Gọi là làm phước, phước trồng vào đâu?
Coi câu “Thiện ác đáo đầu…”,
Lành đâu có trả, dữ đâu có đền.
Người tua xét lại hai bên,
Ít lành, nhiều dữ, chẳng nên trách trời.
Tiều rằng: Trước Đạo Dẫn mời,
Đến am Bảo Dưỡng kề nơi truông này.
Chưa hay Âm Chất truông này,
Có am Bảo Dưỡng ở vầy theo chi?
Môn rằng: Chỗ dạy nhà y,
Đã tu âm chất phải vì tấm thân.
Tiếc yêu hai chữ “tinh thần”,
Nhảy vòng thực sắc, theo phần đắm lung.
Dù không biết chước gìn long,
Theo bề Lục Tặc hại trong lẽ trời.
Ở mình đã tối lẽ trời,
Làm thầy cứu mạng giúp đời sao xong,
Muốn cho thần sáng, tinh ròng,
Giữ nuôi khí huyết, ngăn lòng dục sâu,
Thử coi Tố vấn thiên đầu,
Kỳ Hoàng tôi chúa hỏi nhau rõ ràng,
Kỳ Hoàng xưa đã mở đàng,
Sách y nay có lời bàn Thiên chân.
Thiên chân tiết giải rõ phân,
Coi vào thấy gốc, giữ thân nuôi lòng.
Muốn bề ăn ở đặng xong.
Rượu trà có bữa, việc phòng chớ dâm.
Người nào đàm hỏa hư âm,
Lời bàn Nhự đạm phải tầm (tìm) chín coi,
Người nào tình dục không soi,
Lời bàn Âm hỏa phải coi cho ròng.
Cho hay thực sắc đắm lòng,
Người nhiều thèm muốn, khá phòng khá răn.
Ta nghe thánh trước bảo răn :
“Đau hay cầu thuốc, chi bằng ngừa đau”.
Biết người trước khỏi bệnh đau,
Máu hơi đầy đủ, tuổi đầu sống dai.
Tiều rằng: Xưa ấy sống dai,
Nay nhiều chết trẻ, cũng loài vi nhân.
Cớ sao thọ yểu khác phần,
Hoặc là thiên quý độ lần sai chăng?
Nhập môn giây phút than rằng:
“Xưa nay một lẽ”, thầy hằng dạy ta.
Người xưa ăn ở thật thà,
Ít ai đắm rượu tham hoa quên mình.
Vốn không làm quấy nhọc hình,
Nào lo mắc bệnh thất tình, lục dâm.
“Thiên niên” hai chữ trọn cầm,
Vừa chừng trăm tuổi mới trầm về quê.
Người nay ăn ở khác bề,
Rượu dầm trong bụng, sắc kề bên thân.
No say rồi lửa dục hừng,
Đốt trong khí huyết, tinh thần còn chi?
Chịu đau lấy chứng nan y,
Bốn năm mươi tuổi chết đi uổng đời,
Coi thiên Bảo dưỡng mấy lời,
Biết người thọ, yểu, số trời nào riêng,
Thường nghe thiên quý số biên,
Con trai, con gái, xưa truyền như nay,
Gái sinh, bảy tuổi răng thay,
Tóc lần lần rậm, phần đầy hơi âm.
Hai bảy thông mạch Xung Nhâm,
Gọi “thiên quý chí”, mở trầm nguyệt kinh.
Ba bảy hơi thận quân bình,
Răng cùng mọc đủ, trong mình mới sung,
Bốn bảy gân cốt đều sung,
Tóc đen dài tóc, hình dung tráng phì.
Năm bảy Dương minh mạch suy,
Tóc dài hầu rụng, diện bì hết non.
Sáu bảy hơi dương trên mòn,
Tóc râm mặt ngấn, ít còn như xưa.
Bảy bảy Xung Nhâm mạch hư,
Gọi “thiên quý kiệt” mới từ đường kinh.
Hỡi ôi! phận gái chữ trinh,
Bốn mươi chín tuổi, hết sinh đẻ rồi.
Con trai tám tuổi thận bồi,
Răng thay, tóc rậm, vừa ngôi tiểu đồng,
Hai tám hơi thận mới sung,
Rằng “thiên quý chí” mạch thông, tinh đầy.
Ba tám răng cứng, tóc mây,
Bốn tám xương đá, gân dây, mạnh kỳ.
Năm tám hơi thận mới suy,
Tóc răng hầu mỏi, diện bì hầu tiêu.
Sáu tám tóc rụng răng xiêu,
Bảy tám xương mỏi, gân teo, da dùn.
Tám tám tạng phủ đều thun,
Rằng “thiên quý kiệt” lạnh lùng hơi dương.
Cho hay thiên quý số thường,
Con trai, con gái, một đường xưa nay,
Bằng ai bảo dưỡng thời may,
Ngoài tuần thiên quý còn bày gót lân.
Bằng ai tửu sắc quá chừng,
Dầu còn thiên quý trong tuần, cũng hư.
Tiều rằng: Rõ lẽ nên hư,
“Dưỡng sinh” hai chữ tinh như lời này,
Cớ sao còn kẻ chơi mây,
Lìa đời, dứt thói, gọi thầy tu tiên?
Môn rằng: Một việc tu tiên,
Xưa vua Hoàng Đế phép truyền gây ra.
Sau rồi phép ấy sai ngoa,
Đời sau phương sĩ lấy tà hoặc nhân.
Vậy thà theo lẽ an phần,
Trăm năm nhờ mạng trong thân có trời.
Coi Vương Bao tụng mấy lời,
Sáng giơ đường chính, dạy đời báu to,
Làm chi nghiêng ngửa duỗi co,
Như ông Bành Tổ riêng lò hóa công.
Làm chi như họ Kiều, Tùng.
Thổ hà, xì hít hơi hung luyện hình.
Xin lòng nhân dục cho thanh,
Trau mình nào phải đọc kinh Hoàng đình.
Xin lòng luân lý cho minh,
Nuôi lòng nào phải đọc kinh Âm phù.
Cho hay Tiên, Phật rằng tu,
Cũng trong bảo dưỡng đương đầu trổ ra.
Cả than Đạo Dẫn bạn ta,
Học y một cửa, nay đà tách thân.
Lòng va muốn chữ xuất trần,
Để câu phụ tử quân thần mặc ai.
Tiếc đời ôm đức cưu tài,
Sĩ đều có khí khôn nài đó sao.
Ngư rằng: Thời vậy nài sao.
Dù Tiên, dù Phật, bề nào cũng xong.
Nay ta còn chỗ nghi lòng,
Nghề y, nghề bốc, khác dòng nhau xa.
Cờ sao ba tượng trong tòa,
Tiên thiên đồ ấy treo ra làm gì?
Môn rằng: Tám quẻ Bào Hy,
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Tiên thiên, một bức đồ khai,
Để coi phương hướng muôn loài hóa sinh.
Kiền, tây bắc, Tuất, Hợi đình,
Khảm phương chính bắc, ngôi đành Tý cung,
Cấn, đông bắc, Sửu, Dần thông,
Chấn ngôi đương Mão, chính đông phương trời.
Tốn, đông nam, Thìn, Tỵ vời,
Ly cung đương Ngọ, hướng trời chính nam.
Khôn: Mùi, Thân, phía tây nam,
Đoài đương ngôi Dậu, chính nhằm tây phương.
Xét trong tám hướng âm, dương,
Máy trời xây bủa, bốn phương năm hành.
Hậu thiên Ly, Khảm vẽ hình.
Cho hay khí huyết trong mình chủ trương.
Ly là hơi, lửa, thuộc dương,
Khảm là nước, máu, lẽ thường thuộc âm.
Song mà Ly trống vốn âm,
Khảm cung đầy giữa, thật cầm chân dương.
Ấy chia hư thực âm dương,
Nước đầy, lửa trống, khôn lường máy sâu.
Mạnh thời nước lửa, hòa nhau,
Yếu thời nước lửa chia đau trong mình.
Đạo y nửa ở Dịch kinh,
Chưa thông lẽ Dịch, sao rành chước y.
Tổ rằng “Muốn học Hiên Kỳ,
Trước tua đọc quẻ Bào Hy mới tường “.
Tiều rằng: Một tượng Minh Đường,
Một đồ khí hậu chủ trương việc gì?
Môn rằng: Trên dưới hai nghì,
Giữa thì người vật, tóm ghi một đồ.
Vẽ mười vòng nhóm một đồ,
Để coi khí hậu xây bồ ứng nhau.
Năm ngày một hậu đến xâu,
Ba hậu một khí, cứ đầu toán ra.
Hai khí một tháng kể ra,
Giáp mười hai tháng, ấy là một niên.
Một niên chia bốn mùa riêng,
Hai mươi bốn tiết, theo liền dựng giao.
Đoanh xây hai chục tám sao,
Trải ba mươi sáu cung nào chẳng xuân.
Mỗi năm khí hậu xây vần,
Mười vòng lớn nhỏ, có chừng thủy chung.
Việc người, lẽ vật ở trong,
Một hồ trời đất, mười vòng tóm giơ.
Lặng lòng coi bức đồ thơ (thư),
Ba ngàn thế giới, thấy bờ cõi xinh.
Sách châm lại vẽ ba hình,
Ba hình người ấy gọi Minh Đường đồ.
Một hình nằm sấp để đo,
Thái dương kinh túc, huyệt dò sau lưng.
Một hình nằm ngửa làm chừng,
Dương minh kinh túc, huyệt ngưng trước mình,
Một hình ngồi mé hông trinh,
Thiếu dương kinh túc, huyệt hành hai bên.
Ba hình tóm lại một nền,
Ba trăm sáu chục năm tên huyệt rời.
Rộng coi kinh lạc nơi nơi,
Minh người đủ ứng độ trời một niên,
Dón coi thủ túc đôi bên,
Trong ba âm, với ngoài liền ba dương.
Mười hai kinh huyệt chia đường,
Sáu du, sáu hợp, chỗ thường phép châm.
Bệnh nào đau ở kinh âm,
Huyệt du cấp cứu, khỏi lầm tai ương.
Bệnh nào đau ở kinh dương,
Cứu theo huyệt hợp ngăn đường tà đi.
Cứ theo du hợp phép ghi,
Chân trời kíp tỉnh, bệnh gì còn lo.
Kinh dương sáu phủ đếm cho,
Bảy mươi hai huyệt, đủ dò tay chân,
Kinh âm, năm tạng có chừng,
Sáu mươi chỗ huyệt, tay chân chia đều.
Kể mười hai huyệt tóm nêu,
Có lời toát yếu, đặt điều thơ ca.
Sáu âm, sáu dương đã ca,
Lại thêm khí huyết theo ra sáu bài,
Kể thơ, mười có tám bài,
Âm dương khí huyết theo loài quán thông.
Muốn cho châm cứu phép ròng,
Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng thi ca.

Dương kinh lục phủ tỉnh, vinh, du, nguyên, kinh, hợp ca (Bài ca về các huyệt tỉnh, vinh, du, nguyên, kinh, hợp của dương kinh thuộc sáu phủ)
Dịch nghĩa:
Tay chân đều có ba dương kinh, tổng cộng ba mươi sáu huyệt, cả hai bên phải và trái tổng cộng là bảy mươi hai huyệt.

1. Túc thiếu dương: Mật (đởm)
Khiếu âm làm huyệt tỉnh.
Hợp khê làm huyệt vinh.
Lâm khấp làm huyệt du,
Khưu khư làm huyệt nguyên.
Dương phụ làm huyệt kinh.
Dương lăng làm huyệt hợp.
(Khiếu âm biệt hậu, hận tương khiên,
Kỷ hiệp khê lâm khấp đỗ quyên.
Hoài bảo khưu khư tinh vị tất
Phiền quân dương phụ ký lăng tuyền.)

2. Thủ thiếu dương: tam tiêu
Quan xung làm huyệt tỉnh.
Dịch môn làm huyệt vinh.
Trung chữ làm huyệt du.
Dương tri làm huyệt nguyên.
Chi câu làm huyệt kinh
Thiên tỉnh làm huyệt hợp.
(Quang xung đào lý dịch môn tài,
Trung chữ, dương trì thứ đệ khai.
Hoa lạc chi câu hương mãn giản.
Nhất thiên tỉnh tự diệp phi lai).

3. Túc dương minh: Dạ dày
Lệ đoái làm huyệt tỉnh.
Nội đình làm huyệt vinh.
Khê cốc làm huyệt du.
Xung dương làm huyệt nguyên.
Giải khê làm huyệt kinh.
Tam lý làm huyệt hợp.
(Nhất phàm phong tống đoái đình tê (tây)
Hãm cốc xung dương quá giải khê.
Tam lý vị trí hà nhật đáo,
Kỷ phiên kiều thủ dục tư tề).

4. Thủ dương minh: Ruột già
Thương dương làm huyệt tỉnh,
Nhị gian làm huyệt vinh.
Tam gian làm huyệt du.
Hợp cốc làm huyệt nguyên.
Dương khê làm huyệt kinh.
Khúc trì làm huyệt hợp.
(Thương dương mao ốc nhị tam gian.
Hợp cốc dương khê độ kỷ loan
Cưu khúc trì biên minh nguyệt sắc,
Mãn thiên tinh đẩu dục ba lan).

5. Túc thái dương: Bọng đái
Chí âm làm huyệt tỉnh.
Thông cốc làm huyệt vinh.
Thúc cốt làm huyệt du
Kinh cốt làm huyệt nguyên
Côn lôn làm huyệt kinh
Uỷ trung làm huyệt hợp,
(Mao đinh kết khởi chí âm biên,
Thông cốc phù vân tứ vọng yên.
Kinh, thúc lưỡng phong long thổ phục,
Côn lôn sơn cận ủy trung liên).

6. Thủ thái dương: Ruột non
Thiếu trạch làm huyệt tỉnh,
Tiền cốc làm huyệt vinh.
Hậu khê làm huyệt du,
Hoãn cốt làm huyệt nguyên.
Dương cốc làm huyệt kinh.
Thiếu hải làm huyệt hợp.
(Phù bình thiếu trạch nhậm đông tê (tây)
Tiền cốc nguyên lưu quá hậu khê
Hoãn cốt hựu thông dương cốc giản,
Tận cung thiếu hải lý ngư đê).

Âm kinh ngũ tạng tỉnh, vinh, du, kinh, hợp ca (Bài ca về các huyệt tỉnh, vinh, du, kinh, hợp của các kinh âm thuộc ngũ tạng)
Dịch nghĩa:
Tay chân đều có ba kinh âm, tổng cộng ba mươi huyệt, cả hai bên phải và trái tổng cộng sáu mươi huyệt.

1. Túc quyết âm: Gan
Đại đôn làm huyệt tỉnh.
Hành gian làm huyệt vinh.
Thái xung làm huyệt du.
Trung phong làm huyệt kinh.
Khúc tuyền làm huyệt hợp.
(Vân hà yên tỏa đại đôn hề,
Tiếu chỉ hành gian lộ thái mê.
Dã tự trung phong vô đạo nhập,
Khúc tuyền hoàn hữu lão tăng quy).

2. Thủ quyết âm: Màng tim
Trung xung làm huyệt tỉnh.
Lao cung làm huyệt vinh,
Đại lăng làm huyệt du.
Gián sứ làm huyệt kinh.
Khúc tuyền làm huyệt hợp.
(Trung xung cô nhạn triệt vân tiêu,
Kỷ độ lao cung chỉ tự liêu.
Cánh hữu đại lăng biên gián sứ.
Xung dương khúc trạch mạc chiêu diêu).

3. Túc thiếu âm: Thận
Dũng tuyền làm huyệt tỉnh.
Nhiên cốc làm huyệt vinh.
Thái khê làm huyệt du.
Phục lưu làm huyệt kinh.
Âm cốc làm huyệt hợp.
(Tam thu vi khách dũng tuyền biên,
Nhiên cốc, khê, lưu quá tiểu niên.
Âm cốc hữu thuyền hồi tiện đáp,
Văn cừ quy khứ kỷ đa tiền).

4. Thủ thiếu âm: Tim
Thiếu xung làm huyệt tỉnh.
Thiếu phủ làm huyệt vinh.
Thần môn làm huyệt du.
Linh đạo làm huyệt kinh.
Thiếu hải làm huyệt hợp.
(Thiếu xung, thiếu phủ bả sư ban.
Binh mã thần môn đắc thắng hoàn.
Linh đạo chiến thư tiền nhật phát,
Như kim thiếu hải tận quy hàng).

5. Túc thái âm: Lá lách
Ẩn bạch làm huyệt tỉnh.
Đại đô làm huyệt vinh.
Thái bạch làm huyệt du.
Thương khưu làm huyệt kinh.
Lăng tuyền làm huyệt hợp.
(Ẩn bạch vân trung nhất lão tăng,
Đại đô ly tục thiểu nhân tăng.
Kỷ hồi thái bạch thương khưu quá,
Ngập tận lăng tuyền thủy cộng chưng).

6. Thủ thái âm: Phổi
Thiếu thương làm huyệt tỉnh.
Ngư tế làm huyệt vinh.
Thái uyên làm huyệt du.
Kinh cừ làm huyệt kinh,
Xích trạch làm huyệt hợp.
(Thiếu thương hồ hải đổ ngư ông,
Ngư tế thái uyên bất khả phùng.
Kim nhật kinh cừ thuyền mã tải,
Tu tri xích trạch hoạch xà long).

Khí huyết quán chú thập nhị kinh, trú dạ chu nhi phục thủy ca (Bài ca về vòng tuần hoàn trong một ngày đêm của khí huyết vận hành qua mười hai kinh mạch)
Dịch nghĩa:
Hiểu trình trung phủ mã đề mang,
Hoài bảo tư lương xuất thiếu thương.
Cực mục thương dương tòng thử khứ,
Gia tiên nhất trực thượng nghênh hương.

Tự thừa khấp biệt lưỡng vi mang,
Ức tích phân huề lệ đoái hương,
Quy ẩn bạch vân chuyên mại túc,
Đại bao lường tận, tiểu bao lường.

Tâm xuất cực tuyền tự thủy thanh,
Thân như bình diệp thiếu xung linh.
Tự tòng thiếu trạch thừa tra khứ,
Hốt thính cung nga hữu tiếu thanh.

Tình minh lưỡng mục phán phù dung,
Vũ chí âm trầm nguyệt sắc mông.
Tịch mịch dũng tuyền nhân bất kiến,
Không văn du phủ báo thời chung.

Kỷ niên hạp kiếm dược thiên trì,
Vân quyển trung xung nhập tử vi.
Tam vũ quan xung vô trú trở,
Trúc ty liêm ngoại bá lao phi.

Đồng tử hiểu tư tự diểu nhiên,
Thời thời lưu luyến khiếu âm biên,
Đại đôn nhật nguyệt thường lai vãng
Phục nhập kỳ môn hựu nhất thiên.

Tiều rằng: Tạng phủ trong ngoài,
Mười hai kinh nguyệt gẫm bài thơ hay.
Hơi đi máu chạy dần quay,
Sáu bài khí huyết nghe nay mặt mờ.
Môn rằng: Khí huyết sáu thơ,
Mỗi câu mỗi huyệt luôn bờ lại qua.
Lần nghe thứ lớp kể ra:
Bài đầu từ phế chạy qua đại trường.
Xung phủ đến huyệt Thiếu thương,
Mối theo hung ức, ra đường ngón tay.
Thương dương cũng ngón cái tay,
Chạy lên trước mũi, tên bày Nghênh hương,
Bài nhì, vị với tỳ hương,
Thừa khấp tủa xuống dưới đường ngón chân.
Lệ đoài lên ngón cái chân,
Ẩn bạch xuống ngón thẳng chừng Đại bao
Đại bao vú tả làm rào,
Bài ba tâm chủ, cùng ao tiểu trường.
Cực tuyền chỗ tột da xương,
Hữu ra ngón út, đầu đường Thiếu xung.
Thiếu trạch ngón út tả thông,
Thính cung tai tả ở lồng bên tai.
Bài tư bàng quanh, thân cai,
Tình minh gốc mũi xuống dài Chí âm.
Ngón chân út tả Chi âm.
Giữa bàn chân hữu lại xâm Dũng tuyền.
Dũng tuyền ấy chạy lên liền,
Đến Du phủ huyệt tả biên hữu điều.
Bài năm tâm bào, tam tiêu,
Thiên trì giữa bụng ra chiều Trung xung.
Tay hữu ngón giữa: Trung xung,
Tay tả ngón cái: Quan xung trổ màu,
Quan xung tả chạy lên đầu,
Trúc ty huyệt ấy ở sau chặng này.
Bài sáu đảm với can vầy,
Ra từ Đồng tử, xuống đầy Khiếu âm.
Đồng tử gò má tả cầm,
Ngón chân út tả, Khiếu âm chỗ phòng.
Ngón chân út hữu Đại đôn,
Thẳng bên vú hữu, Kỳ môn đóng đồn.
Ngày đêm khí huyết xây vòng,
Mười hai kinh lạc, ngoài trong khắp hòa.
Khí như mã, huyết như xa,
Xa nhờ mã kéo, mã hòa xa đi,
Thử xem bộ sách Lý y
Vẻ hình gương giá dùng thì khá tra.
Ngư rằng: Như gấm thêm hoa,
Nhớ lời đạo hữu dạy ta đành (rành?) rành.
Dạy rằng : “Muốn thấy phép linh,
Coi chừng trời đất trong hình người ta”.
Đường huynh nay lại vẻ ra,
Máy trời đất nhắm trong ba hình người.
Môn rằng: Coi tấm thân người,
Mười hai chi hóa, cùng mười can sinh
Nội kinh câu chữ luận rành:
“Thân tứ đại hóa hữu sinh”, phải lời.
Dung y mấy biết thời trời,
Nỡ đem thuốc độc thử chơi mạng người,
Ta thường lo sợ mạng người,
Gắng công đọc sách hơn mười năm nay,
Nhiệm màu mới thấy chỗ hay,
Minh Đường thơ cổ, ngâm rày người nghe:

Minh Đường Thi (Bài thơ về minh đường)
Dịch nghĩa:
Giáp thuộc mật, Ất thuộc gan, Bính thuộc ruột non,
Đinh thuộc tim, Mậu thuộc dạ dày, Kỷ thuộc lá lách,
Canh thuộc ruột già, Tân thuộc phổi,
Nhâm thuộc bọng đái, Quý do thận giữ,
Tam tiêu cũng gởi về ở cung nhâm,
Màng tim cùng tụ về ở cung quí.

Lại có thơ rằng (Bài thơ về minh đường)
Dịch nghĩa:
Phổi ứng với Dần, ruột già ứng với Mão, dạ dày ứng với Thìn,
Lá lách ứng với Tỵ, tim ứng với Ngọ, ruột non ứng với Mùi,
Thân ứng với bọng đái, Dậu ứng với thận, màng tim ứng với Tuất,
Hợi ứng với tam tiêu, Tý ứng với mật, Sửu ứng với gan.

Coi hai thơ ấy tỏ tình,
Thấy trời đất ở trong mình người ta
Cho hay máy tạo chẳng xa,
Âm dương qua lại, trẻ già trong thân.
Tiều rằng: Đạo hữu trước phân,
Mười hai kinh lạc có phần thơ ca.
Còn lo tính thuốc nhiều khoa,
Dẫn kinh mấy vị, hỏi qua chưa rành.
Môn rằng: Học phải có hành,
Hợp coi vị thuốc dẫn kinh cho tường.
Thái dương kinh túc bàng quang,
Kinh thủ tiểu trường, phần biểu nêu tên.
Khương hoạt, Cao bản, dẫn lên,
Hoàng bá dẫn xuống, chớ quên mà lầm.
Trong ấy là kinh Thiếu âm,
Gọi rằng túc thận, thủ tâm hai phần.
Vào trong Hoàng bá, Tế tân,
Khương hoạt, Tri mẫu, về phần thận chuyên.
Thiếu dương kinh hỏa biểu truyền,
Túc là phủ đảm, thủ liền tam tiêu.
Sài hồ, Xuyên khung lên điều,
Thanh bì xuống dắt, trị tiêu nhờ chàng.
Trong rắng Túc Quyết âm can,
Thủ mệnh môn hỏa, hai đàng kinh đi.
Sài hồ, Xuyên khung, Thanh bì
Tuy chia biểu lý, cũng y một đường.
Dương minh kinh túc vị hương,
Kinh thủ đại trường, chỗ chứa đồ ăn,
Thăng ma, Bạch chỉ, Cát căn,
Thạch cao lên xuống, nêu rằng dẫn kinh,
Phần trong là Thái âm kinh
Túc tỳ, thủ phế, hai tình cũng y.
Bạch thược, Thăng ma vào tỳ,
Cát cánh, Bạch chỉ, Thung đi phế đình.
Ấy đều vị thuốc dẫn kinh,
Trong ngoài nhận chứng cho tinh khỏi lầm.
Ngư rằng: Ba dương, ba âm,
Sáu kinh dón lại chứng làm dường nào?
Môn rằng: Bệnh mới cảm vào,
Sáu kinh kiến chứng, xưa rao rõ ràng.
Thái dương phát nóng, ghét hàn,
Cứng đơ xương sống, đau ngang lưng quần.
Thiếu dương nóng lạnh không chừng.
Tai bùng, miệng đắng, ẩu lừng nách hông.
Dương minh nóng khát nước sòng,
Mũi khô, mắt nhức, ngồi chong chẳng nằm.
Lại thêm ỉa bón hãn dầm,
Ngầy xem ban mọc, da ngâm nước vàng.
Thiếu âm họng lưỡi khô khan,
Nóng lòng thèm nước dựa màn nằm co,
Quyết âm gân giật, hung no,
Lưỡi cong, dái thụt, môi lò sắc xanh.
Thái âm đau bụng no cành,
Ỉa không, khát nước, nóng hình chân tay.
Âm dương các chứng tỏ bày,
Lại còn hợp bệnh, lâu ngày truyền kinh.
Trong ngoài nhận chứng chẳng tinh,
Mang câu “dẫn khấu nhập đình”, tội to.
Học y muốn khỏi tội to,
Hợp kinh mấy chứng phải dò căn nguyên.
Sẵn lời ca quyết thầy truyền,
Ta xin thuật lại người biên giúp đời:

Tam dương kinh kiến chứng tổng quyết (Khái quát về triệu chứng các bệnh thuộc ba dương kinh)
Dịch nghĩa:
Phát nóng, sợ rét, lưng và xương sống đau (Thái dương).
Mắt đau, mình nóng, trong mũi khô (Dương minh).
Tai ù, miệng đắng, cổ ọe khan.
Nóng rét liên tiếp xen kẽ nhau, dưới hông đau ê (Thiếu dương).

Tam âm kinh kiến chứng tổng quyết (Khái quát về triệu chứng các bệnh thuộc ba âm kinh)
Dịch nghĩa:
Tay chân nóng hâm hấp, lúc lúc lại đau bụng (Thái âm).
Đi lỵ mà không khát nước, vốn là tạng bị hàn (Thái âm).
Mạch trầm, sợ khô, vốn liên quan với thận,
Uống ừng ực, cổ khô, nước dãi ít (Thiếu âm).
Gân rút, môi xanh, tứ chi đau,
Tai ù, lưỡi cuốn lại thụt dái (Quyết âm).

Lưỡng cảm chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh lưỡng cảm)
Dịch nghĩa:
Chứng thương hàn lưỡng cảm nửa âm nửa dương,
Lúc bắt đầu, đầu nhức chịu không nổi.
Trong người bứt rứt, miệng khô, hay khát nước,
Vốn là do thận và bọng đài cùng bị bệnh.

Lưỡng thương bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh lưỡng thương)
Dịch nghĩa:
Nguyên là Thái dương và Dương minh cùng bị bệnh,
Bệnh cả hai kinh dồn lại làm một.
Nếu còn chứng về Thái dương thì nên làm ra mồ hôi (phát hãn),
Nếu không còn chứng về Thái dương thì nên dùng phép hạ (xổ).

Biểu bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng các bệnh thuộc biểu)
Dịch nghĩa:
Phát nóng, sợ rét là chứng biểu,
Mạch Phù, đau mình là thuộc kinh Thái dương.
Sợ rét ấy là biểu hư,
Dùng thuốc phát biểu nên xét rõ nặng nhẹ.
Mùa xuân, dương khí còn kém và yếu,
Nếu dùng thuốc phát hãn (làm ra mồ hôi) quá thì âm sẽ thắng,
Mùa đông, dương khí nấp sâu ở trong thì phát hãn là đúng.
Nếu dùng thuốc nhẹ thì bệnh không khỏi.

Lý bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng các bệnh các bệnh thuộc lý)
Dịch nghĩa:
Mạch của chứng lý, Trầm mà Hoạt,
Không sợ lạnh chừ, lại sợ nóng,
Lòng bàn tay và dưới bụng mồ hôi dầm dề,
Cổ ráo miệng khô, phân táo kết,
Bụng đầy, bị suyễn, có khi nói sàm,
Đại tiện không đều, càng lúc càng nóng,
Ấy là nóng ở trong, đúng là bệnh lý thực,
Đó là các chứng thuộc kinh Dương minh, nên dùng thuốc hạ (xổ)

Luận biểu lý tạng phủ sở thuộc ca (Bài ca luận về các bệnh biểu lý thuộc tạng phủ)
Dịch nghĩa:
Các chứng bệnh ở bọng đái, dạ dày và mật thuộc về dương,
Các chứng bệnh ở lá lách, thận và gan thuộc về âm,
Mạch Phù, Trường, Huyền thuộc dương, mạch Tế, Trầm, Vi, Hoãn thuộc âm.
Trước hãy xem mạch và chứng thuộc về biểu hay lý.

Trong ngoài hợp chứng tỏ truyền,
Phải coi vận khí theo niên đổi dời,
Năm vận, sáu khí ở trời,
Năm tạng, sáu phủ ở người ứng nhau,
Cho hay năm vận chủ đau,
Sáu khí lâm bệnh, trước sau có lề,
Bởi câu “khí vận bất tề”
Khiến dân bệnh hoạn trách về thấy lo.
Chưa thông vận khí khôn mò,
Nhóm lời ca quyết đọc cho biết đáng.

Cơ bênh ngoại cảm ôn thử thương hàn Hà Giản Lưu tiên sinh ôn thử soạn yếu (Nguyên nhân các bệnh ngoại cảm – ôn thử thương hàn. Tóm tắt bài soạn về ôn thử của ông Lưu Hà Giản)
Dịch nghĩa:
Các chứng phong, co giật, choáng váng thuộc về can mộc.
Các chứng đau, ngứa nhọt, lở thuộc về tâm hỏa.
Các chứng thấp, thũng, đầy vốn thuộc về tỳ thổ.
Các chứng tức, uất, mòn mỏi thuộc về phế kim.
Các chứng lạnh, co rút thuộc về thận thủy.
Đó là danh mục chủ yếu các bệnh do ngũ vận gây ra.

Các chứng bất thình lình bị cứng thẳng chân tay,
Gân cốt co lại hay mềm oặt thật nhanh,
Vốn thuộc hai kinh Túc chủ về gan và mật,
Do khí Quyết âm phong mộc gây ra.

Các chứng thở khò khè, ợ và nôn ra nước chua,
Thình lình ỉa chảy như rót nước, có khi bị chuột rút,
Tiểu tiện đục như có cặn, lẫn cả những tia máu,
Nổi hạch, nổi nhọt, phát ban, lên sởi,
Ung thư, thổ tả do bị chứng hoắc loạn,
Trong người bực bội, phù thũng, mũi nghẹt và khô,
Chảy máu cam, đái rát, mình phát nóng.
Sợ lạnh, phát run, hay giật mình hoảng hốt,
Khi cười, khi khóc, nói sàm, mất máu,
Bụng chương lên, vỗ vào có tiếng bồm bộp.
Đó là do khí Thiếu âm quân hỏa gây ra,
Lỗi của hai kinh Thủ chủ về tim và ruột non.

Các chứng chi và người cứng đơ, hay tích muốn thành trệ,
Hoắc loạn, đầy do các chứng cách, bĩ,
Trong mình thấy nặng nhọc, thổ tả, chân sưng,
Thịt phù mềm, như bùn, ấn vào lõm xuống không nổi lên,
Đó là do khí Thái âm thấp thổ của hai kinh Túc,
Chủ về lá lách và dạ dày gây ra.

Các chứng nóng, mê man, vật vã, gân giật giật,
Hồi hộp, co giật, lăn lộn quá mức,
Thình lình cấm khẩu, hôn mê, bứt rứt, điên cuồng,
La thét, hoảng sợ, hơi xông ngược lên.
Đùi sưng đau ê, hắt hơi, mửa, phát lở,
Cổ họng buốt, tai ù tưởng chừng điếc đặc.
Lợm mửa, ăn uống không thể nuốt trôi,
Mắt mờ, nhìn không rõ, kéo màng, thịt giật,
Hoặc là phát run, nói ngọng, ngơ ngác như mất hồn,
Đau thình lình, tả lỵ thình lình.
Đó là do khí Thiếu dương tướng hỏa của hai kinh Thủ,
Chủ về màng tim và tam tiêu gây ra,

Các chứng khô, cạn, sáp, bí
Cứng ráo, da rộp lên,
Đều do khí Dương minh táo kim,
Chủ về hai kinh thuộc phổi và ruột già gây ra,

Nước dãi và nước tiểu trong và lạnh.
Bị khối u, sa đì, báng đều rắn,
Đầy bụng, đau gấp, đại tiện chỉ có nước,
Ăn uống không thấy đói, thổ tả đều có mùi tanh.
Co duỗi khó khăn, thấy lạnh giá,
Lạnh giá, bế tắc thuộc về kinh Thái dương,
Chủ về thận và bọng đái tức là khí hàn thủy gây nên.
Âm dương, gốc ngọn chỉ trong vòng lục khí.

Phong, hỏa, thử thấp táo hàn,
Bốn mùa qua lại, chàng rằng hơn thua.
Khí nào hơn lại vẽ bùa,
Khiến hơi tà nghịch theo lùa làm đau.
Người cùng trời đất ứng nhau,
Khí mùa chẳng chính, chứng đau không thường,
Ngoại rằng cảm, nội rằng thương,
Ngoài tiêu trong bản, âm dương khác phần.
Từ ngoài sáu phủ vào lần,
Đến trong năm tạng, tinh thần chẳng an.
Thử xem một chứng thương hàn,
Tạng nào mạch nấy, chia bàn tử sinh.
Tâm can, tỳ, phế, thận danh,
Noi trong sinh khắc năm hành đoán ra,
Giả như tâm hỏa chịu tà,
Vì nơi thận thủy đắm sa gây loàn.
Lấy hai tạng ấy so bàn,
Thổ tỳ, kim phế, mộc can cũng vầy.

Thương hàn ngũ tạng thụ bệnh ca (Bài ca về bệnh thương hàn mà ngũ tạng bị bệnh)
Dịch nghĩa:
Nhói tim, lưỡi cứng, cười thì mặt đỏ lên.
Bực bội, bàn tay nóng, miệng ráo,
Trên rốn động hơi, mạch nên Hồng, Khẩ, Sác,
Nếu đi Trầm, Vi, thì mạng không toàn.
(thủy khắc hỏa)
Bệnh gan thì mặt xanh, mắt đau, nhắm,
Gan co, vẻ giận dữ, bên trái rốn thấy tưng tức,
Mạch nên Huyền và Trường
Nếu Phù, Sắc, Đoản đều không chữa được!
(kim khắc mộc)
Bệnh tỳ thì không ăn, da mặt vàng,
Mình nặng, chân tay đau, thích nằm liệt giường,
Hơi động giữa rốn, mạch nên Hoãn và Đại,
Huyền, Trường và Khẩn ấy là tai ương.
(mộc khắc thổ)
Bệnh phổi thì mặt nhợt, vẻ lo buồn,
Thở dốc, đổ máu cam, nóng rét, ho, suyễn.
Thấy tưng tức ở bên phải rốn, mạch nên Trầm, Tế, Sắc,
Đại mà Lao là căn do của sự chết!
(hỏa khắc kim)
Bệnh thận thì mặt đen, móng tay, móng chân xanh,
Chân lạnh bụng đau, trong tai ù,
Hơi động dưới rốn, mạch nên Trầm, Hoạt,
Hoãn mà Đại là tình tạng chết.
(thổ khắc thủy)

Ấy rằng của đệ nhất quan,
Chứng nào chẳng bởi thương hàn gây ra.
Đến chừng biện các khí tà,
Bệnh người mới cảm gọi là trúng thương,
Sách nêu chữ “trúng”, chữ “thương”.
Cho hay khí độc không thường người xuông.
Lắm cơn mưa gió luông tuồng,
Núi, đầm, khe, suối, độc duồng hơi bay,
Rằng ai gặp ấy chẳng may,
Chứng nào thuốc nấy nhờ tay thấy điều.
Trong là bản, ngoài là tiêu
Ta từng nhận chứng học nhiều bài ca:

Biểu lý nhị chứng ca (Bài ca về hai chứng biểu, lý)
Dịch nghĩa:
Khi phát nóng, sợ lạnh, thân thể đau,
Mạch Phù là thuộc biểu, anh nên nhớ,
Nếu không sợ lạnh, chỉ sợ nóng,
Mạch Trầm, mồ hôi nhiều, thì đúng là lý không còn ngờ gì nữa.

Biên phong thấp chứng ca (Bài ca biện luận chứng phong thấp)
Dịch nghĩa:
Xưa nay vẫn truyền có chứng phong, thấp hợp làm một bệnh.
Hơi thở khò khè, lừ đừ chỉ muốn ngủ,
Trong người thấy nặng nhọc, mạch Phù, hay ra mồ hôi,
Nếu cho uống thuốc phát hãn ắt sinh nói xàm.

Trúng thấp chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh trúng thấp)
Dịch nghĩa:
Mạch mà Trầm, Hõa là trúng thấp,
Chỉ vì mưa gió, hơi xông lên nhiễm vào,
Đau khắp thân thể và khắp người nổ sắc vàng,
Đại tiện thì nhanh, nhưng tiểu tiện lại khó.

Ôn độc chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh ôn độc)
Dịch nghĩa:
Bệnh ôn độc toàn thân nổi vằn như gấm,
Phát ban, lên sởi, nôn mửa thường xuyên,
Hoặc có lúc lại trở ho, trong lòng buồn bực,
Đó là mùa đông cảm lạnh mà mùa xuân mới phát ra.

Nhiệt bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh nhiệt)
Dịch nghĩa:
Bị cảm mùa hè phần lớn là bệnh nhiệt,
Vốn cùng là một chứng với thương hàn.
Sợ lạnh, thân thể đau và nhức đầu,
Phát nóng lại thêm mạch Hồng mạnh.

Trúng thử chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh cảm nắng)
Dịch nghĩa:
Đổ mồ hôi trong mùa hè, gọi là cảm nắng,
Mạch Hư, Vi, Nhược, người rất bực bội, khát nước nhiều.
Mạch cáu, lưng lạnh toát, thân thể không đau,
Triệu chứng bên ngoài đại khái tựa bệnh nhiệt.

Kính bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh kính)
Dịch nghĩa:
Nguyên bệnh kính là thuốc về bọng đái,
Cấm khẩu giống chứng giản, mình ưỡn cong,
Đó là trúng thương phong, hoặc cảm phải khí hàn thấp,
Cho nên chia gồm hai chứng: nhu kính và cương kính.

Ngư rằng: Hà chỉn sáu hơi,
Nghe nhiều chứng bệnh dưới trời khác nhau,
Sư huynh vào cửa đạo lâu,
Mấy tầng nhà kín, buồng sâu thấy nhằm.
Chứng chi thầy thuốc nhiều lầm,
Có lời ca quyết xin ngâm truyền lòng?
Môn rằng: Ta rất dày công,
Hôm mai lòn lõi theo ông Đan Kỳ.
Tôn sư vốn bậc nho y,
Lòng cưu kinh tế, thiếu gì chước hay.
Thường rằng: Sáu khí ấy xây,
Biến ra muôn bệnh, làm thầy phải lo.
Ra nghề cặn kẽ dạy cho,
Tây cơ ứng biến, tột mò gốc đau.
Mấy lời ca quyết truyền nhau,
Đều thầy ta đặt, trước sau cứu người.
Chứng nào khúc mắc lầm người,
Nay ta tóm kể cho ngươi ghi lòng:

Thương hàn kiến phong bệnh chứng ca (Bài ca về bệnh thương hàn mà có triệu chứng bệnh thương phong)
Dịch nghĩa:
Chứng này lạnh nhiều mà nóng ít,
Không bực bội trong mình, mà tay chân hơi lạnh,
Đó chính là bệnh thương hàn mà có triệu chứng bệnh thương phong.
Mạch thì Hoãn mà Phù, không thể nói khác được.

Thương phong kiến hàn bệnh chứng ca (Bài ca về bệnh thương phong mà có triệu chứng bệnh thương hàn)
Dịch nghĩa:
Chứng này chân tay hơi ấm chớ coi lầm,
Phát nóng, sợ gió, lại thêm trong người bực bội.
Nếu lại thấy mạch đi Phù mà Khẩn,
Đó chính là bệnh thương phong mà có triệu chứng bệnh thương hàn.

Biểu nhiệt lý hàn bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh ngoài nóng trong lạnh)
Dịch nghĩa:
Người bệnh ngoài nóng nhưng lại thích mặc áo,
Lạnh ở trong xương, nóng chỉ ngoài da.
Trong lạnh ngoài nóng, mạch đi Trầm, Hoãn,
Tay chân hơi giá, đại tiện lỏng.
(Những chứng âm (lạnh) mà lại phát nóng, Thì thang Tứ nghịch thật đúng là thuốc chữa).

Biểu hàn lý nhiệt bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng của bệnh ngoài lạnh trong nóng)
Dịch nghĩa:
Mình lạnh lại không muốn mặc áo,
Lạnh ở ngoài da, nóng trong xương tủy.
Ngoài lạnh, trong nóng, mạch đi Trầm, Sác,
Miệng ráo, lưỡi khô, nên rõ như vậy.
(Cho nên lúc gặp chứng về Thiếu âm sợ lạnh, Trong người bứt rứt, không muốn mặc áo, nên dùng thuốc công).

Âm chứng tự dương bệnh ca (Bài ca về bệnh âm chứng tự dương)
Dịch nghĩa:
Âm chứng tựa dương nên nhận rõ,
Buồn bực, bứt rứt, mặt đỏ, mình hơi nóng. Đó là âm lạnh phát buồn bực, nên dùng thuốc ôn (ấm).
Bệnh ấy bộ Xích và Thốn mạch đi Vi và Trầm, nói cho anh biết.

Dương chứng tự âm bệnh ca (Bài ca về bệnh dương chứng tựa âm)
Dịch nghĩa:
Dương chứng tựa âm, lấy gì mà lường biết,
Chân tay lạnh giá, tiểu tiện đỏ,
Đại tiện thì hoặc bón, hoặc đen,
Bệnh ấy mạch đi Trầm, Hoạt, anh nên rõ.

Vưu quyết chứng ca (Bài ca về chứng giun sân)
Dịch nghĩa:
Đói mà chẳng ăn, đó là bệnh giun sán,
Ăn xong lại vì thế mà thổ ra giun.
Đó là vì trong dạ dày vốn bị lạnh tích tụ lại,
Nên dùng thang Lý trung, Tứ nghịch và Ô mai.

Yết hầu bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh yết hầu)
Dịch nghĩa:
Phát ban, khạc ra máu là chứng dương độc,
Nếu là chứng âm độc thì trong cổ ắt có mụn.
Bệnh này ra mồ hôi nhiều, các mạch âm dương (Xích Thốn) đều đi Khẩn và Sác,
Phép để trị bệnh đau cổ họng gọi là vong dương.

Thương hàn tổng luận ca (Bài ca tổng luận về thương hàn)
Dịch nghĩa:
Muốn hỏi về bệnh thương hàn,
Trước hết nên định rõ tên.
Dương kinh phần nhiều mình nóng,
Âm chứng ít bị nhức đầu.
Bổ dương nên dùng thuốc chín,
Thuốc tốt, sống chẳng hề gì.
Rành rành việc trong lòng,
Xa xa dưới đầu ngón tay.
Sách Bách vấn quả đã rõ ngọn ngành,
Sách Thiên kim nên lấy làm khuôn mẫu,
Các bậc danh hiền nghĩ cách giúp đời,
Tên đã chua trong sách tiên.

Phát cuồng bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh phát điên)
Dịch nghĩa:
Bứt rứt, buồn bực, nói nhảm, mặt đỏ,
Nóng dữ, cổ đau gọi là Trùng dương.
Lại chữa bằng phép chữa dương độc,
Dùng các vị Đình lịch, Thăng ma và Đại hoàng.

Hoắc loạn bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh hoắc loạn)
Dịch nghĩa:
Chân tay co quắp, lại thêm lạnh giá,
Phát nóng, thêm lạnh, dùng thang Tứ nghịch.
Ỉa mửa đã cầm rồi mà mình còn đau,
Dùng thang Quế chi hòa giải là tốt nhất.

Bất khả hãn bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng các bệnh không thể phát hãn được)
Dịch nghĩa:
Mạch đi Nhược là vô dương, đi Trì là thiếu máu
Bệnh thấp ôn, chứng phát nấc, mệt mỏi và bứt rứt,
Đàn bà bị khi vừa có kinh,
Những người khi bị động cùng là hư nhược rất không nên dùng thuốc phát hãn.

Bất khả hạ bệnh chứng ca (Bệnh ca về triệu chứng các bệnh không thể dùng thuốc xổ được)
Dịch nghĩa:
Mạch đi Phù, Hư, Tế lại có các chứng biểu,
Nôn mửa, sợ lạnh, không thể trung tiện được,
Đại tiện rắn, táo, tiểu tiện trong,
Hoặc ít, hoặc nhiều, hoặc đại tiện lỏng.

Phúc thống bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng các bệnh đau bụng)
Dịch nghĩa:
Bệnh thương hàn đau bụng phải xem cho rõ,
Có chứng hư, chứng thực, có chứng âm, chứng dương,
Bệnh về kinh Thái dương mà xổ thì sinh ra đau ruột,
Nên dùng thang Quế chi thêm Thược dược, nếu đau quá thì thêm Hoàng
Bệnh về kinh Thiếu âm mà đau ruột thì tháo dạ rất nhanh.
Nên dùng thang Tứ nghịch thêm Thược dược,
Đau trong ruột nên xem người bệnh già hay trẻ,
Nếu là thực thì dùng thang Thừa khí rất hay

Cước khí bệnh chứng ca (Bài ca về triệu chứng bệnh cước khí)
Dịch nghĩa:
Chứng cước Khí tương tự chứng thương hàn,
Đầu nhức, mình nóng, đại tiện bì,
Các khớp chân tay đau, thêm cả nôn ọe,
Chỉ khác ở chỗ bệnh cước khí khó co chân tay hơn.

Tiều rằng: Trước đạo hữu truyền,
Năm tạng, sáu phủ, lệ biên đủ chừng
Tuy rằng bệnh, mạch rõ phân,
Chỉ ư cùng thực chưa từng biện minh.
Môn rằng: Người chịu khí sinh,
Ốm, gầy, béo, chắc, vóc hình khác nhau.
Vậy nên tạng phủ chịu đau,
Chứng hư, chứng thực lố màu tựa như.
Thực là khí thịnh có dư,
Hư là bất túc, lừ đừ ốm o.
Can thực thời hay giận lo,
Hai tròng mắt đỏ, nét co sảy sần.
Can hư dưới nách giựt gân,
Móng tay khô biếc, phăn phăn ê hoài,
Tâm thực thời mừng cười dai,
Nhức trong cánh nách, xuống dài hông đau.
Tâm hư sợ sệt lao chao,
Cứng trong gốc lưỡi, mặt sầu thương lo.
Tỳ thực thời bụng đầy no,
Nặng nề mình mẩy, mỏi giò, lộ hung.
Tỳ hư bốn vóc chảng dùng,
Ít ăn, nhiều ỉa, ẩu lung, ruột lồi.
Phế thực thời suyễn ho đồi,
Vai lưng vế nhức, buồn hôi ra dầm.
Phế hư hơi thở vắn trầm,
Miệng khô mũi nhức rên ngâm mạc hình.
Thận thực thời dạ trướng bành,
Đái vàng, ỉa rót, thủng hình, mặt thâm.
Thận hư lạnh lẽo như dầm,
Lưng co đau nhức ầm ầm tai kêu.
Chứng trong năm tạng chẳng đều,
Bệnh ngoài sáu phủ cũng nêu khác chừng.
Đảm thực thời khí mộc hừng,
Trong minh hồi hộp ngập ngừng chẳng an.
Đảm hư hay ẩu nước toan,
Đắng mồm nhăn nhò, mơ màng luống nghi.
Tiểu trường thực ắt hỏa suy,
Nóng khô khát uống, dưới đì nhỉ vung.
Tiểu trường hư ắt lạnh lùng,
Mấy lèo ruột nhỏ hơi sùng sục đau,
Vị là chỗ chứa cơm rau,
Thực thời bụng nhảy, no trào hơi nhăng.
Vị hư cơm chẳng chịu ăn,
Ẩu lên hôi hám, ỉa rằng chẳng tiêu.
Đại trường thực khí kim nhiều,
Ruột như dao cắt chín chiều quặn đau.
Đại trường hư, ắt trống sau,
Khách hàn vào ngụ, làm no ỉa liền.
Bàng quang thực khí nước truyền,
Nóng ran khát uống, đan điền mếch chưng.
Bàng quang hư át lạnh dần,
Bào trơn đái láo không chừng chảy tuôn.
Tam tiêu là phủ hơi luồn,
Uống ăn, tiêu hóa, nhờ luồng ba hơi.
Thực thời da sủi sững hơi,
Đái vàng, ỉa bón, là nơi thăm chừng.
Hư thời ngôi trống, hàn ngưng,
Đái xót, ỉa bón, ăn ngừng, chậm tiêu,
Chứng đau hư, thực chẳng đều,
Bởi nơi tạng phủ bệnh nhiều khác nhau.
Hợp chia bệnh mới, bệnh lâu,
Bệnh già, bệnh trẻ, gan cầu thực hư,
Lâu cùng già ấy, nhiều hư,
Mới mà trẻ ấy, thực dư hơi tà.
Rẽ phân biểu lý chia ra,
Hoặc hàn, hoặc nhiệt ở ta xét bàn.
Tóm câu biểu, lý, nhiệt, hàn,
Chẳng qua hư, thực nẻo đàng ấy thôi.
Một lời ta dón ngươi ôi!
Thực thời tả thực, hư rồi bổ hư,
Dẫu lầm chứng thực làm hư,
Chứng hư làm thực khôn từ lỗi ngươi
Thực, hư, thầy thuốc giết người,
Độc hơn ôn dịch bắt tươi oan hồn.
Nào lời đạo hữu dạy khôn,
Trong ngoài tạng phủ, phải dồn sánh coi.
Sánh coi tật bệnh mở mòi,
Đến khi trị liệt lại soi mạch hình.
Trong, ngoài, hư, thực tỏ tình,
Mặc dầu đối chứng phẩm bình thuốc thang,
Bổ hư xưa đã sẵn phương,
Chỉn e tả thực lắm đường sai ngoa.
Các kinh đều có hỏa tà,
Thuốc đi hỗn nghịch gây ra sự loàn,
Bùa linh thầy vẽ rõ ràng,
Cầm coi các đạo cứu an hỏa tà:

Chư dược tả chư kinh chi hỏa tà (Các vị thuốc trị hỏa tà ở các kinh mạch)
Dịch nghĩa:
Hoàng liên trị hỏa tà ở tim,
Chi tử, Hoàng cầm trị hỏa tà ở phổi,
Bạch thược trị hỏa tà ở lá lách,
Sài hồ, Hoàng liên trị hỏa tà ở gan và mật.
Tri mẫu trị hỏa tà ở thận,
Mộc thông trị hỏa tà ở ruột non.
Hoàng cầm trị hỏa tà ở ruột già,
Sài hồ, Hoàng cầm trị hỏa tà ở tam tiêu.
Hoàng bá trị hỏa tà ở bọng đái.

Ngư rằng: Bệnh nhiễm hơi tà,
Sao là ngoại cảm, sao là nội thương?
Chứng kiêm ngoại cảm nội thương,
Phép thầy trị liệu theo đường nào ôi?
Môn rằng: Sách có biện rồi,
Nội thương, ngoại cảm, hai hồi phân minh.
Nội thương đều bởi thất tình,
Đau từ năm tạng trong mình gây ra.
Ngoại thương đều bởi xông pha,
Khiến nên sáu phủ chịu tà lục dâm.
Hợp coi mạch lý dương âm,
Mạch Phù ngoại cảm, mạch Trầm nội thương.
Bệnh nào ăn uống nội thương,
Tay hữu Khí khẩu mạch cường nhảy to,
Bệnh nào cảm mạo ngoại lo,
Nhân nghênh tay tả mạch to nhảy về.
Nội thương nóng lạnh chẳng tề,
Thoạt nóng, thoạt mát, rề rề nào kham,
Ngoại thương nóng lạnh đều làm,
Buổi không xen hở, nằm dầm rên than.
Ngoại thương chứng thật ố hàn,
Dù gần bếp lửa chẳng tan hơi hàn.
Nội thương chứng cũng ố hàn,
Đăng mền nệm ấm bèn tan lạnh lùng,
Ngoại thương chứng cũng ố phong,
Ghét luồng gió lớn thổi giông đùng đùng.
Nội thương chứng cũng ố phong,
Ghét hơi gió nhỏ lòn trong cửa nhà.
Ngoại thương rõ ở mũi va,
Mũi hơi nghẹt cứng, hoặc ra nước bồi.
Nội thương rõ ở miệng môi,
Miệng không biết vị, trong ngôi chẳng hòa.
Lại coi trên bàn tay va,
Lưng bàn tay nóng, ấy là ngoại thương.
Khác thay mấy chứng nội thương,
Lòng bàn tay nóng, phép thường chẳng sai,
Ngoại thương thường nhức đầu hoài,
Bao giờ truyền lý mới phai nhức đầu.
Nội thương cũng có nhức đầu,
Thoạt êm thoạt nhức, mau lâu không chừng.
Ngoại thương tiếng nói lẫy lừng,
Lời ra trước nhẹ, sau ngừng nặng hơi.
Nội thương tiếng dức ra lời,
Trước nặng sau nhẹ, ít hơi đã đành.
Đến như mấy chứng truyền kinh,
Trong ngoài đều có bệnh tình đua nhau.
Hợp coi lời biện trước sau,
Phép làm hoãn, cấp, theo đau trị điều.
Bằng tay chứng ngoại cảm nhiều,
Chứng nội thương ít, kíp theo ngoại điều.
Bằng tay chứng nội thương nhiều,
Chứng ngoại cảm ít, kíp theo trong điều.
Ấy rằng trị bản, trị tiêu,
Hoặc chầy, hoặc kíp, phép điều ở ta.
Trị tiêu thời phát tán ra,
Gọi rằng ngoại cảm, thật là hữu dư.
Trị bản thời chuyên bổ hư,
Gọi rằng bất túc, gốc từ trong đau.
Dù cho nội ngoại đều đau,
Bản, tiêu kiêm trị, có màu thuốc phân.
Ngoài nhiều trong ít chẳng cần,
Sáu phần trị ngoại, bốn phần trị trong.
Ngoài chầy trong kíp chẳng đồng,
Trị ngoài phần ít, trị trong phần nhiều,
Cho hay thương, cảm chẳng đều,
Xưa nay trị luận sách nêu nhiều bài.
Tục công học thuốc sơ sài,
Lấy trong bất túc làm ngoài hữu dư,
Chẳng thông hai chữ thực, hư,
Phép dùng hãn, hạ rối như tơ vò.
Tiều rằng: Sông biển dễ dò,
Bệnh tình chân giả ít mò đặng ra.
Phép y thổ, hãn, hạ, hòa.
Làm sao nhằm bệnh, dạy ta khỏi lầm?
Môn rằng: Nóng lạnh hầm hầm,
Giả hàn, giả nhiệt, dễ lầm dung y.
Giả hàn ngoài lạnh tứ chi,
Họng khô, khát nước, đái đi vàng già.
Giả nhiệt nóng ở ngoài da,
Trùm không khát nước, đái ra trong ngần,
Lạnh giả thời nóng ắt chân,
Nóng giả thời lạnh, thật phân cho tường.
Như chứng cách âm đới dương,
Ngoài rờ giống hực, trong thường lạnh hâm.
Lại như mấy chứng tự âm,
Ngoài rờ nóng lạnh, trong hầm nóng ran.
Phép y trị nhiệt, trị hàn,
“Ôn lương” hai chữ khuyên chàng chớ quên.
Muốn chia chân giả hai bên,
Vọng, văn, vấn, thiết, phép trên hợp lường.
Cho hay là khí nhiều đường,
Vốn không định vóc, biến dường trở tay.
Phép y thổ, hãn, hạ hay,
Quả như thực chứng, dùng dày mới nên.
Thổ vì tà thực ở trên,
Thượng tiêu tức nghẹn, đóng bền hơi ngăn,
Hãn vì biểu thực tà giăng,
Buồn hôi chẳng rịn, nằm lăn vật mình.
Hạ vì tà nhóm âm kinh,
Gấp đau bụng dạ thực tình bởi trong,
Tà như xen nửa ngoài trong,
Hợp làm hòa giải mới ròng nghề hay.
Biểu hư phép hãn chớ bày,
Hợp làm thanh giải cho tày kinh dương.
Lý hư phép hạ bất lương,
Hợp làm tiêu bổ, gìn đường kinh âm.
Cho hay mấy bệnh u thâm,
Hạ lầm âm thoát, hãn lầm vong dương,
Hỡi ôi sách thuốc lắm phương,
Bổ hòa, công, tán, vẽ đường sẵn cho.
Tổ sư lời dạy bo bo,
Chứng soi hư thực, mạch dò ngoài trong.
Học sau sách thuốc chẳng thông,
Đáng bổ làm tả, đáng công làm hòa.
Khiến nên mở cửa dắt tà,
Chứng khinh hóa trọng, học ra khuấy đời.
Ngư rằng: Nhiệm bấy cơ trời,
Coi vào sách thuốc nhiều nơi mịt mù.
Trong Kinh có luận một câu :
“Cang hại thừa chế” ở sau khí vần.
Vốn chưa rõ đặng máy thần,
“Cang hại” hai chữ xin phân cho rành.
Môn rằng: Khí bẩm trong mình.
Gốc nơi thái cực sinh thành người ra,
Âm dương nam tạng bình hòa,
Tiên thiên phối ngẫu đôi đà xứng nhau,
Quân hỏa có âm tinh theo,
Tướng hỏa có thủy khí theo rằng thừa.
Thủy xuống có thổ khí thừa,
Thổ xuống có mộc khí thừa vần theo.
Mộc xuống có kim khí theo,
Kim xuống có hỏa khí theo vốn hòa,
Âm, dương, đã sánh đôi nhà,
Năm hành mếch thắng mới ra tai nàn.
Hơi dâm thái quá là cang,
Hơi theo chờ trả thù oan là thừa.
Khí cang thời có khí thừa.
Lẽ trời báo ứng nào chừa đâu đâu.
Trong Kinh luận ấy một câu,
Nghĩa con vì mẹ trả thù mới an.
Trên dầu cậy thế lăng loàn,
Chờ thời dưới cũng thầm toan việc mình.
Loại như quân hỏa chẳng bình,
Động cang thời hại, âm tình phế kim.
Thận thủy là con phế kim,
Theo bèn chế hỏa dằn kìm hơi cang.
Lấy đôi thủy, hỏa làm dàng,
Còn kim, mộc, thổ, cũng bàn như đây.
Ấy bèn tạo vật máy xây,
Âm dương sinh sát lẽ này rất công.
Cho hay chỗ diệu hóa công,
Trong động có tĩnh, hết cùng lại thông.
Suy ra lẽ ấy cả đồng,
Vật tột thời phản, vốn không tột hoài.
Lẽ đâu cang hại đặng dai,
Đến khi cang cực, nghiêng vai chịu cầm.
Chữ rằng: mộc cực tự câm (kim),
Kim cực tự hỏa, nóng xâm sắt ruồng,
Hỏa cực tự thủy, đổ buồn,
Thủy cực tự thổ, đọng duồng cáu doanh.
Thổ cực tự mộc, động mình.
Ấy là tạo hóa máy linh lố màu.
Thử xem phong mộc làm đau,
Giãy vùng tột sức, rồi sau nghiêng mình.
Mộc cực tự kim đã đành,
Động qua phải tĩnh, hết tình thời thôi.
Thấp thổ làm bệnh cực rồi,
Gân run thịt động giựt rồi tay chân,
Thổ cực tự mộc đã ưng,
Tĩnh lâu phải động, theo chừng mới xong.
Lấy hai chứng ấy ghi lòng,
Dù muôn bệnh cũng tới trong xét lường.
Chỗ rằng “Âm chứng tự dương,
Dương tự âm ấy” y phương dễ lầm,
Dù không xét máy dương âm,
Biện câu “cang hại” ít làm giết người.
Lại như tạp chứng đau người,
Lạng qua nóng lại, khuyên ngươi thám tình.
Đau sau buổi trọng buổi khinh,
Hoặc chờ ngày đến truyền kinh rồi lành.
Xưa rằng “chẳng thuốc mà lành”,
Gẫm câu “thừa chế”, bệnh tình khá trông.
Dịch rằng “Tạo hóa linh thông”,
Máy xây chẳng đến chung cùng lại lâu.
Bệnh chờ thời vận đến đầu,
Nhớ hơi thừa chế, đau đâu cũng lành.
Hỡi ôi thầy thuốc tài lành.
Thể theo ý ấy cứu sinh cho người.
Trị bệnh hợp xét thời trời,
Khí cang làm hại, trách nơi khí thừa.
Cớ sao cang hại trách thừa?
Bởi thừa chẳng đủ sức ngừa hơi cang.
Thiên này nhiều tiếng ngọc vàng,
Chớ nề lời tục phụ phàng nôm na.
Ngư rằng: Tạng phủ khác xa,
Âm chứng, dương chứng sao mà giống nhau.
Âm dương máy hiểm vả sâu,
Thị phi muốn biện theo đâu khỏi lầm?
Môn rằng: Dương chứng tự âm,
Ngoài da lạnh ngắt, trong hầm nóng ran.
Trừng ra con mắt đỏ vàng
Miệng môi khô khát, hai đàng tiện nan.
Mạch Sác ỉa bón, đái vàng,
Thực là dương thịnh giả hàn hơi xen.
Dù cho lạnh đắp run en,
Hợp cùng thuốc mát, trị bèn đăng an.
Tự âm vốn chẳng phải hàn,
Thừa khi, Giải độc, các thang nên đầu,
Lạnh lâu thời nóng cũng lâu,
Trong khi nói ấy một câu nghĩa tường.
Lại như âm chứng tự dương,
Ngoài da nóng rực, trong thường lạnh tanh.
Trừng ra nước dãi trong thanh,
Dộp môi, nhớt miệng, mục thanh, mạch Trì.
Nằm co trùm đắp bố vi,
Ít đòi uống nước, ỉa đi bã hèm.
Ví dù nói quấy nói sàm,
Muốn bôn nê thủy cũng làm tự dương,
Thuốc ôn trị chứng tự dương,
Lý trung, Tứ nghịch các phương hợp dùng.
Hỡi ôi đời lắm tục công,
Lẽ âm dương tột, chẳng thông ắt lầm.
Âm phản dương, dương phản âm,
Cang cực thời biến, cổ câm (kim) lẽ thường
Muốn cho rộng chước y phương,
Đọc lời ca quyết, thấy đường chẳng xa.

Âm chứng tự dương bệnh ca (Bài ca về bệnh âm chứng tự dương)
Dịch nghĩa:
Âm chứng tựa dương nên nhận rõ,
Buồn bực, bứt rứt, mặt đỏ, mình hơi nóng.
Đó là âm lạnh phát buồn bực, nên dùng thuốc ôn (ấm).
Bệnh ấy bộ Xích và Thốn mạch đi Vi và Trầm, nói cho anh biết.

Dương chứng tự âm bệnh ca (Bài ca về bệnh dương chứng tựa âm)
Dịch nghĩa:
Dương chứng tựa âm, lấy gì mà lường biết,
Chân tay lạnh giá, tiểu tiện đỏ,
Đại tiện thì hoặc bón, hoặc đen,
Bệnh ấy mạch đi Trầm, Hoạt, anh nên rõ.

Ngư rằng: Vận khí vốn hòa,
Bệnh không thuốc uống, thời qua cũng lành.
Cang cực thừa chế đã đành,
Bệnh người nặng nhẹ, tử sinh có trời.
Chuyên theo vận khí ở trời,
Còn làm thầy thuốc ở đời làm chi?
Môn rằng: Hợp lấy lẽ suy,
Bằng cầm một mạch, biết chi giúp đời?
Tượng người tùy ứng tượng trời,
Chỉn người vật dục lắm hơi chẳng đồng,
Hoặc vì tửu sắc đắm lung,
Hoặc vì đói lạnh, sức nông nhọc làm.
Mình gầy đau ốm đã cam,
Trách trời, trời biết xuống làm sao cho?
Vậy nên tạo vật sớm lo,
Mở rừng dược phẩm, nhen lò tế sinh,
Nấy cho các bậc thánh minh,
Dựng phương pháp trị trong mình người ta.
Sách nho rằng “trí trung hòa”.
“Tham thiên tán hóa” ấy là lương y.
Chỗ rằng “bất dược trúng y”,
Ấy là nhân bệnh thiên thì ứng nhau.
Hơi trời vay phất làm đau,
Chớ khi thừa chế theo sau bèn lành.
Đến như nhân dục hại mình,
Đau không uống thuốc sao bình máu hơi.
Nên rằng vận khí ở trời,
Cũng có vận khí ở nơi mình người.
Thời trời hơn ấy theo trời,
Bệnh người hơn ấy theo người xét tra.
Lấy trong hai ấy chia ra,
Đâu là y biến, đâu là y nguyên.
Hỡi ôi ai biết y nguyên,
Trọn nơi vận khí, ấy chuyên theo trời.
Mới hay y biến theo người,
Luống cầm phương sẵn lầm đời sao nên?
Muốn cho rõ lẽ dưới trên,
Lời thơ Trương tử chớ quên mà lầm.

Trương Tử Hòa thi (Bài thơ của Trương Tử Hòa)
Dịch nghĩa:
Bệnh nếu không hợp với vận khí trong năm,
Thì xem nó hợp với vận khí năm nào.
Cứ theo năm ấy mà châm chước cách chữa,
Mới biết là đều trong vòng chí lý.

Tiều rằng: Ba bộ mạch thường,
Thốn, Quan, Xích đủ âm dương ra vào.
Chia nam, bắc chính cớ sao ?
Thiên hòa bất ứng, năm nào bộ chi?
Môn rằng: Vận khí xây đi,
Nam chính, bắc chính, định vì chúa, tôi,
Sáu hơi quân hỏa cao ngòi,
Chẳng dùng làm việc, một ngồi rảnh rang.
Năm vận thấp thổ quyền sang,
Dùng nên số ở giữa bàn trung ương,
Cho hay vận thổ làm vương,
Mặt nam ra lệnh bốn phương đến chầu.
Mộc, kim, thủy, hỏa ứng hầu,
Đều tôi mặt bắc, cúi đầu xưng phan (phiên).
Chia ngôi nam, bắc rõ ràng,
Lấy trong mười chữ thiên can hóa vời.
Nam chinh ấy nói đạo trời,
Bắc chính đạo đất thật lời sách biên.
Thử xem Giáp, Kỷ hai niên,
Hóa ra phận thổ, thật quyền nam quân.
Tám năm bắc chính đều thần,
Đinh, Nhâm, Canh, Ất, Bính, Tân, Quý, Mồ (Mậu).
Lấy hai ngôi chính phân đồ,
Theo niên bàn mạch nói phô mới rành.
Thiên hòa mạch ấy vốn binh,
Mạch trầm chỉn luận tình hình tam âm.
Thái âm, Thiếu âm, Quyết âm.
Giữ trời, giữ đất, xét tầm theo niên.
Nam chinh Thái âm tư thiên,
Bộ thốn tay hữu mạch chuyên đi chìm,
Nam chinh Thái âm tại tuyền,
Bộ Xích tay hữu mạch chuyên đi chìm,
Nam chinh Quyết âm tư thiên,
Bộ Thốn tay tả mạch chuyên đi chìm.
Nam chinh Quyết âm tại tuyền,
Bộ Xích tay tả mạch chuyên đi chìm.
Nam chinh Thiếu âm tư thiên,
Bộ Thốn, tả, hữu đều chuyên đi chìm.
Nam chinh Thiếu âm tại tuyền,
Bộ Xích tả, hữu đều chuyên đi chìm.
Bắc chính Thái âm tư thiên,
Tay hữu, bộ Xích, mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Thái âm tại tuyền,
Tay hữu, bộ Xích, mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Quyết âm tư thiên,
Tay tả bộ Xích mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Quyết âm tại tuyền,
Tay tả bộ Thốn mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Thiếu âm tư thiên,
Tả, hữu bộ Xích đều riêng đi chìm.
Bắc chinh Thiếu âm tại tuyền,
Tả, hữu bộ Thốn đều riêng đi trầm.
Ấy là mạch lý tam âm,
Gọi rằng bất ứng đều trầm trong tay.
Cam châu sách lại tỏ bày,
Coi ngôi quân hỏa năm nay bộ nào.
Ở nơi Xích Thốn bộ nào.
Mạch rằng chẳng ứng chìm vào lột xương.
Cho hay phép mạch ấy thường,
Bốn mùa bệnh biến nhiều đường chẳng câu.
Kinh rằng trời đất máy sâu,
Khí làm thắng phục mạch đâu thấy hình.
Xem hơi thắng phục cho tinh,
Chữ thời, chữ bệnh, mặc tình trị theo.
Đạo y lắm chỗ cheo leo,
Chẳng nên chấp nhất làm nghèo người ta.
Dón thay một mạch thiên hòa,
Tổ xưa sẵn đặt bài ca dạy đời:

Ca viết (Ca rằng)
Dịch nghĩa:
Nói về mạch Thiên hòa chỉ bàn đến ba khí âm,
Nam chính tư thiên thì bắc chính tại tuyền.
Thái âm chuyên chủ bộ Thốn và Xích tay phải,
Quyết âm chuyên chủ bộ Thốn và Xích tay trái,
Thiếu âm thì Xích và Thốn cả hai bên đều không ứng.
Nếu giao hay phản là sắp chết.

Ngư rằng: Gẫm lẽ dưới trời,
Đã sinh dược phẩm cứu đời nhân gian.
Cớ sao lắm kẻ ngỗ ngang,
Đau thời cầu phép dị đoan độ mình.
Hoặc cầu thầy sãi tụng kinh,
Hoặc cầu thầy pháp rập rình chữa chuyên,
Hoặc cầu thần quỷ cho thuyên,
Hoặc cầu đồng bóng chúc nguyền chư linh?
Thấy làm những việc bất kinh,
Bùa đeo, thuốc giải, bệnh tình cũng thuyên.
Chẳng hay đạo thuốc xưa truyền,
Phương nào trị đặng thói xiên nhân tình?
Môn rằng: Trong cuộc u, minh,
Người cùng thần quỷ yêu tinh khác đường,
Bởi người ăn ở không thường,
Hơi tà duồng gió vấn vương tai nàn.
Như nay miễu sập chùa hoang,
Thần nghèo, quỷ đói mượn đàn làm ôn.
Như nay hồ mị hớp hồn,
Vực giao bắn bóng, đều phồn yêu tinh.
Có nơi quỷ mị hiện hình,
Làm cho bệnh nhiễm trong mình người si.
Sách rằng “trúng ác truyền thi”,
Ấy là tật quấy, bệnh kỳ xiết bao.
Tổ xưa làm thuốc ấy cao,
Có phương lại có phép màu nhiều môn
Ông thời lấy thuốc đuổi ôn,
Lấy trâm trừ quỷ, tiếng đồn đã vang,
Ông thời ếm huyệt Cao hoang,
Chích hang Quỷ nhãn, giải nàn cứu tai.
Ông thời mũ áo trắng trai,
Phá hình cày gái trừ loài yêu ma.
Đao ta lắm chước trừ tà,
Yêu tinh, quỷ quái khó qua thánh hiền.
Vậy nên trong sách thuốc biên,
Chữ rằng hoạt pháp rộng truyền nhiệm thay!
Thầy nay chấp nhất chẳng hay,
Gặp cơn tà thắng khoanh tay, lắc đầu.
Khiến bầy thuật sĩ theo sau,
Ra làm phép bậy đua nhau dối đời.
Dân ngu chẳng tỏ lẽ trời,
Đau thời sợ chết, khắp vời chư sư.
Lòng tà gây bởi chư sư,
Dân phong lần nhiễm ngày hư thói đời.
Dù người đau tỏ lẽ trời,
Y còn phép bí, ai vời dị đoan?
Muốn cho dẹp lũ dị đoan
Dò theo phép tổ, rỡ ràng đạo ta.
Người đau có chính có tà,
Nhà y phép trị có khoa biến thường.
Bệnh chính thời dụng thuốc thường,
Bệnh tà thời dụng biến phương phép ngoài
Trời sinh muôn vật đều tài,
Học cho tột lẽ, trừ loài yêu tinh,
Loại như vật uế trừ tinh,
Vật hương trừ quái, quỷ kinh A ngùy.
Hồ tinh sợ chó săn đi,
Xà yêu sợ tỏi, lại nghi Hùng hoàng,
Lấy vài vật ấy suy bàn,
Biết trong tạo hóa nhiều đàng thuốc tinh,
Vật đều có chỗ hợp sinh,
Khác nhau thời ắt có hình chế nhau.
Cho hay vật có chế nhau,
Khắp xem Bản thảo trước sau chẳng đồng.
Sách nêu tinh dược nhiều ông,
Nếm mùi chẳng một Thần Nông xưa truyền.

Bản thảo dẫn (Lôi công soán tiệp kinh) (Lời dẫn về bản thảo. Tóm tắt sách Lôi công bào chế)
Dịch nghĩa:
Bản thảo truyền trong nghề thuốc; còn lưu cho tới ngày nay.
Vua thánh tôi hiền lịch đại, ai cũng lưu tâm;
Người nhân, con hiếu từ xưa, thảy đều chú ý.
Sinh làm người trong khoảng hai nghi; Đúc nên xác nhờ công bốn chất,
Phong hàn, thử, thấp, nấu nung; Mừng, giận, nghĩ lo, uất kết,
Héo tươi, khổ, sướng, tất tổn đến tinh thần;
Nhọc, rỗi, đói, no, đều hại cho khí huyết.
Đã có sống khó mà trốn khỏi;
Đã có thân ai cũng thế thôi.
Bẩm thụ người hư thực chẳng đồng, phải giữ mực thường mới được;
Cây cỏ chất độc lành đều khác, chưa rõ tính nó chớ dùng.
Thuốc nào mà chẳng hiệu; Dùng đúng thì hay.
Thử ngậm ô mai, răng ê ngay mà nước dãi chảy;
Vừa thổi Bồ kết, hắt hơi liền mà lỗ mũi thông.
Ăn cải cay mà lệ vòng quanh; Nhai Hoa tiêu mà hơi bế tắc.
Âm giao dò biết nhọt trong ở đâu;
Tiêu mạt chữa chứng đầu đau tưởng chết!
Đái vặt, dái săn, đêm sắc Tỳ giải; Mình lạnh, bụng lớn, nhờ cả Lô từ.
Nước đái rùa chữa được cấm khẩu;
Xương xảu chuột làm cho mọc răng.
Từ thạch bắt được mũi kim;
Hổ phách nhặt được hạt cải.
Mật rái rẽ được nước, Keo loan nối được xương;
Cho ngó sen mà tiết không đông;
Bỏ xác cua mà sơn tan rữa.
Nhựa có thể nấu tan quế ra nước;
Mỡ cóc có thể làm mềm ngọc như bùn.
Tạm kể ít điều để làm chứng nghiệm rõ ràng;
Cho rõ hết thảy đều có công dụng riêng biệt
Thường khi dùng một, khí thuần nhất thì công hiệu càng nhanh.
Hoặc lúc kiêm nhiều, vị phức tạp mà kết quả hơi chậm.
Tá, sứ biết để tâm kén kỹ, giúp đỡ thêm thì chóng thu công;
Uý, ố lầm những vị trái nhau, ganh ghét lộn sẽ thành rắc độc.
Mừng, lo trông cả ở bệnh lui hay tiến;
Chết sống quan hệ bởi phương dở hay hay.
Phải tinh tường theo sách định bài;
Chớ quấy quá gặp chăng hay chớ!
Đối chứng lập phương, phải lọc lấy sở trường trong các sách;
Tùy nghi dùng thuốc, họa là mong công hiệu được vạn toàn.

Tiều rằng: Hỏi phụ nhân khoa,
Xin nghe các chứng đàn bà có thai.
Coi trong kinh lạc mười hai,
Chia theo mười tháng nuôi thai xưa bàn
Dưỡng thai một tháng kinh can,
Hai tháng kinh đảm, ba sang tâm bào,
Bốn tháng kinh tiểu trường trao,
Năm tháng tỳ dưỡng, sáu vào vị hương,
Bẩy tháng kinh phế nuôi thường
Bước qua tám tháng đại trường thay phiên
Chín tháng kinh thận nối liền,
Trọn phần mười tháng về miền bàng quang.
Mười kinh, mười tháng chia đàng,
Âm dương thủ túc nuôi bàng Xung Nhâm
Cớ sao kinh Thiếu Tâm,
Cùng Tam Tiêu phủ chẳng cầm nuôi thai?
Môn rằng: Một việc dưỡng thai,
Có lời Sào thị để bài sách biên.
Tâm làm mẫu tạng chủ chuyên.
Tam tiêu phủ ấy làm truyền tống quan,
Gốc thai lấy máu làm sang,
Máu nhờ tâm chủ tóm đàng mạch kinh.
Cho hay mạch máu các kinh,
Nhóm nuôi chửa nghén nên hình bởi tâm.
Phải nhường kinh Thủ Thiếu âm,
Chẳng chia phiên thứ mối cầm chủ trương,
Gẫm trong kinh lạc âm dương,
Năm hành đắp đổi lẽ thường sinh nhau,
Có ông Phùng thị nối sau,
Gốc theo Kinh chỉ, lời mầu luận cao,
Kinh rằng “tâm với tâm bào”,
Tuy chia hai mạch thực vào một nơi.
Mười hai kinh lạc máu hơi,
Ngày nào chẳng khắp vần nơi trong mình,
Có thai rồi lại bế kinh
Vầy hơi nhóm máu, đồng tình nuôi thai.
Lấy lời Sào thị luận thai,
So lời Phùng thị vắn dài khác nhau,
Học thời sáng lẽ làm đầu,
Lời nào xác lý phải cầu xét coi.
Tiều rằng: Thai đã đặng nuôi,
Có thai thời đẻ xong xuôi vuông tròn.
Cớ sao lắm kẻ chửa non,
Hoặc năm ba tháng, rồi con chẳng thành.
Môn rằng: Một việc thai sinh,
Nên hư trách ở trong mình phụ nhân.
Thuần Khôn là người phụ nhân,
Máu hơi đầy đủ trong thân tốt lành.
Có thai đủ tháng thời sinh,
Ấy là trời đất thường tình xưa nay.
Bởi người khí huyết chẳng đầy
Mạch Xung Nhâm yếu giống gầy sao nên,
Thai nguyên gốc đã chẳng bền
Lại thêm bệnh hoạn dưới trên nhộn nhàng,
Trách chi chửa nghén chẳng an,
Tiểu sản, bán sản, liền mang nơi mình.
Ví như trái trổ trên nhành,
Gốc cây chẳng vững, trái đành rụng non,
Máu hơi mỏng yếu đẻ con ra gì.
Thêm lòng dâm dục lỗi nghi,
Ăn chơi chẳng kể vật chi dữ lành.
Thêm thầy hốt thuốc bất kinh,
Lầm đem vị độc hại tinh huyết người.
Muốn cho xen giúp thợ trời,
Trị thai phải dụng coi lời cấm xưa.

Nhâm thần cấm phục ca (Bài ca về các vị thuốc cấm dùng cho đàn bà có thai)
Dịch nghĩa:
Nguyên trùng, ban miêu, đỉa và manh trùng
Ô đầu, Phụ tử và Thiên hùng
Dã cát, Thủy ngân cùng Ba đậu,
Ngưu tất, ý dĩ và Ngô công (con rết),
Tam lăng, Nguyên hoa, Đại giả thạch, Xạ hương,
Đại kích, Xà thuế (Xác rắn), Thư hoàng, Hùng hoàng,
Nha tiêu, Mang tiêu, Mẫu đơn, Quế,
Hòe hoa, Khiên ngưu, Tạo giác (bồ kết),
Bán hạ, Nam tinh, Thông thảo,
Cồ mạch, Can khương cùng Đào nhân,
Chu sa, Can tất, Giải trảo giáp (mai cua),
Địa đảm, Mao căn (gốc cỏ tranh) đều không được dùng.

Tiều rằng: Phép trị trước thai,
Bao nhiêu chứng nhiệt, dùng bài thuốc lương.
Đến như chứng lạnh không thường,
Cấm dùng thuốc nóng, còn phương pháp gì?
Môn rằng: Muốn rộng chước y,
Bệnh thường, bệnh biến, phải suy cho tường.
Thai tiền hợp dụng thuốc lương,
Ấy là chỗ luận bệnh thường phép y.
Đến như bệnh biến chứng kỳ,
Quen theo thường trị, lấy gì làm công?
Như đau lạnh thấu tử cung,
Can khương, Quế, Phụ chẳng dùng sao an?
Như đau máu chứa bàng quang,
Phương nào khỏi hốt Đại hoàng, Đào nhân?
Bệnh thời bệnh chịu đã ưng,
Chỗ đau có cớ, nào từng phạm thai?
Xưa rằng y biến thật tài,
Ứng theo máy trị, nhiều loài, nhiều phương.
Coi thiên “thai dựng biến thường”
Việc người chữa nghén lắm đường bất kinh.
Có người gọi chứng “ám kinh”,
Tháng không nhơ uế mà mình nên thai.
Có người gọi chứng “cấu thai”,
Nghén rồi, kinh nguyệt xầy xầy máu ra.
Máu ra mà nghén chẳng sa,
Gọi rằng “thai lậu”, thật là huyết dư.
Có người nghén một năm dư,
Hoặc mười bảy tám tháng chừ mới sinh.
Gọi “thai bất trưởng” là danh,
Bởi người khí huyết trong mình chẳng sung.
Gặp thai mấy chứng lạ lùng,
Khuyên người chẩn mạch cho ròng, khỏi sai.
Lại còn chứng gọi “quỷ thai”,
“Trưng hà”, “bĩ khối”, cũng loài bụng to,
Nhớt nhau hơi hết, giả đò giống thai.
Máu hư chứa đọng ngày dài,
Gọi rằng “súc huyết”, giống thai một dường.
Hỡi ôi bệnh biến khôn lường,
Dị thường trong lại dị thường biết bao,
Kinh rằng bảy bảy tuổi cao,
Dứt đường thiên quý, lẽ nào có thai.
Vợ người Tịnh Phổ là ai,
Mình đà sáu chục tuổi ngoài, còn mang.
Kinh rằng hai bảy tuổi nàng,
Thông thường thiên quý mới toan gả chồng.
Tô Khanh có gái má hồng,
Mới mười hai tuổi lấy chồng liền thai.
Coi hai dấu sử biên ngoài,
Nghiệm vào sách thuốc, khá nài sao ôi!
Học thời thông biến mà thôi,
Biến không chừng hiện, nào rồi liệu lương.
Luận người gặp biến cứ thường,
Bệnh người gặp biến cứ thường sao xong.
Muốn cho lớn mật, nhỏ lòng,
Gặp cơn y biến nên công mới tài.
Tiều rằng: Chẩn mạch trước thai,
Chia tay hữu gái, tả trai đã đành.
Tả di hoạt tật trai sinh,
Hữu di hoạt tật gái sinh phải rồi.
Còn e người nghén thai đôi,
Hai tay sáu bộ, chủ coi mạch gì?
Môn rằng: Ba bộ mạch đi,
Âm dương hai chữ, thịnh suy khác hình.
Gốc trong tạng phủ, năm hành,
Sánh duyên chồng vợ, tỏ tình mẹ con.
An ngôi chồng vợ, mẹ con,
“Tung, hoành, thuận, nghịch” xây còn trong tay.
Bộ âm mà mạch dương vầy,
Chồng thừa ngôi vợ, lẽ này rằng “tung”
Lại như vợ đến ngôi chồng,
Bộ dương mà mạch âm thông, rằng “hoành”.
Con thừa ngôi mẹ nghịch danh,
Mẹ thừa con ấy thuận tình ở nhau.
Lặng lòng theo mạch xét cầu,
Máy âm dương nhóm, biết đầu gái trai.
Ba dương mạch thịnh, con trai,
Ba âm mạch thịnh, gái thai hẳn hòi.
Tả đới tung, ấy trai đôi,
Hữu đới hoành ấy gái đôi hơi hòa.
Tả dương mạch nghịch, trai ba,
Hữu âm mạch thuận, gái ba nên hình.
Muốn coi tạo hóa máy linh,
Đọc lời bí quyết Mạch kinh truyền lòng.

Chẩn nhâm thần mạch quyết (Bí quyết xem mạch người có thai)
Dịch nghĩa:
Can chủ huyết chừ, phế chủ khí.
Huyết là vinh chừ, khí là vệ,
Âm dương đôi lứa chẳng so le,
Hai tạng thông hòa cùng một lệ,
Huyết suy, khí vượng quyết không thai.
Huyết vượng, khí suy chắc có thai,
Thốn Vi, Quan Hoạt, Xích hơi Sác,
Đi lại trơn tru, hoặc tước trác:
Ấy mạch con trẻ hiện hình rồi,
Mới vài tháng nên chưa biết thôi!
Tả mau là trai, hữu là gái,
Trơn tru thông nhau, mau đi, lại
Quan bộ hai tay Hoạt cùng Đại,
Có thai nhưng có cũng là mới.
Thấy hình con trẻ, hai là phải…
Tay tả thấy tung hai đứa trai:
Tay hữu thấy hoành gái một đôi;
Tay trái mạch thuận, ba gái rồi…
Thốn, Quan, Xích, hai bên đều nhau:
Một trai, một gái, có sai đâu.
Tay trái Trầm Thực, trai chắc hẳn…
Tay phải Phù Thực, gái rõ màu.
Dương mạch là trai, âm mạch gái,
Rõ ràng dưới ngón nhớ kỹ lấy,
Ba bộ Trầm đều chẳng còn ngờ,
Xích bộ không dứt, có thai đấy!
Mạch thê thừa phu gọi là hoành,
Mạch phu thừa thê tung đã rành,
Mạch tử thừa mẫu thực nghịch khí,
Mạch mẫu thừa tử mới thuận tình.
Huyền, Khẩn, Lao, Hoạt, Cường yên ổn,
Trầm, Tế và Vi, chết đã rành.

Tiều rằng: Trong bụng đàn bà,
Có thai mấy chứng sách đà rõ biên.
Loại như tử giản, tử huyền,
Tử thũng, tử khí, tử phiền, tử lâm.
Bao nhiêu chứng “tử” hoài nhâm,
Đều nhân hơi nghén gây thầm đau trong.
Đã hay chứng giản là phong,
Thũng khí là thấp, đều trong bụng truyền.
Hơi đi nghịch ấy làm huyền,
Nóng trong, nóng dưới làm phiền, làm lâm.
Đàm nhiều làm chứng ác tâm,
Dưới hư làm chứng đau xăm chuyển bào,
Thai động thời bụng đau bào,
Lậu thai bụng lớn, đều trào máu ra.
Chứng thai động lậu khác xa,
Động là khí bách, lậu là nhiệt thương,
Thấy lời thai luận biến, thường,
Phong đàm, nhiệt, thấp, nội thương khác ngoài.
Khử tà mới giữ đặng thai,
Chứng nào thuốc nấy, theo loài trị an.
Chỉn lo một chứng mơ màng,
Nghén chưa đủ số, bụng nàng liền đau.
Nghén vừa bảy tám tháng sau,
Thoắt la chuyển bụng, giống đau giả đò,
Khiến nên thầy hốt thuốc dò.
Chứng không thấy sách, lò mò lênh chênh.
Nửa thời muốn hốt thôi sinh,
E chưa đủ tháng hại mình người thai.
Nửa thời muốn hốt an thai,
E cạn ngày tháng hoa khai lỗi kỳ.
Muốn cho khỏi tiếng tục y,
Xin phân chừng ấy thuốc chi vạn tuyền (toàn)?
Môn rằng: Mấy chứng thai tiền,
Người đà biết đặng sách biên luận tường,
Lệ thai mười tháng là thường,
Đến ngày con đỏ tìm đường chun ra.
Bụng đau cấp xúc rên la,
Lưng đau như gãy, mắt hoa bay ngời.
Ví như dưa chín cuống rời,
Trái muồi mới thấy bay hơi thơm lành.
Gọi rằng “chính sản” cho mình,
Hợp coi chứng mạch, thẩm tình gần xa.
Thai vừa bảy tám tháng qua,
Thoắt la chuyển bụng ấy là lộng thai.
Tên rằng “thí nguyệt”, “lộng thai”,
Bụng đau xăm xỉa, lài xài nhặt lơi.
Tục rằng đau dạo đường chơi,
Con chưa đủ tháng, nào rời mẹ đâu.
Làm thầy chẳng khá cầu mau,
Hỏi tra ngày tháng trước sau cho rành.
Chỉn coi một mạch ly kinh,
Lộng thai, chính sản, tình hình khác xa.
Nhâm thần đến bữa khai hoa,
Dù không thuốc gục, đẻ ra cũng thành.
Lẽ trời nào đợi thôi sinh,
Thôi sinh lỗi dụng, hại mình người ta,
Thử xem kén bướm, trứng gà,
Đủ ngày rồi cắn mỏ ra con bầy,
An thai lỗi dụng cũng gay,
Đến ngày ưng đẻ, bị thầy cản con.
Muốn nên đều lẽ vuông tròn,
Lộng thai, chính sản, chừng còn tay ta,
Đã Ly kinh ấy cho ra,
Chưa Ly kinh ấy, hợp hòa máu hơi.

Ly kinh mạch quyết (Phép xem mạch ly kinh)
Dịch nghĩa:
Một hơi sáu lần đến: Ly kinh,
Trầm Tế mà hoạt cũng cùng danh.
Nửa đêm thấy đau chắc sắp cữ,
Sớm mai, trưa mai sẽ thấy sinh.

Tiều rằng: Sinh sản có trời,
Chửa rồi thời đẻ, nào lời ai than.
Có sao còn kẻ sản nan,
Coi loài súc vật đẻ an hơn người?
Môn rằng: Ấy bởi người đời.
Ở an lỗi đạo, trích trời hà can?
Trời nào nỡ khiến sản nan,
Sản nan hệ bởi mình nàng gây ra.
Thánh xưa làm thuốc phụ khoa,
Nhân nêu bảy chuyện đàn bà sản nan.
Một nhân an dật, thanh nhàn,
Chẳng quen khó nhọc việc vàng xông pha.
Khiến nên khí huyết lấp sa,
Đến kỳ chuyển bụng năm ba bảy ngày,
Hai nhân phụng dưỡng vị dày
Miếng ngon vật lạ liền ngày ăn no,
Khiến nên thai béo bào to,
Đến ngày sinh đẻ bụng gò đau lâu.
Ba nhân dâm dục tình sâu,
Nệm loan gối phụng liền hầu phòng lao,
Gây nên lửa đốt tinh hao,
Đến cơn chuyển bụng thai bào khô khan.
Bốn nhân đẻ chút chậm gàn,
Ưu nghi hai chữ buộc ràng vào thân.
Khiến nên vấn bốc cầu thân,
Lăng xăng thăm hỏi gây phần loạn sinh.
Năm nhân nhuyễn khiếp trong mình,
Bụng đau nhặt thúc cúi hình khom lưng.
Ngửa nghiêng trằn trọc không chừng,
Khiến trong cửa đẻ bít dừng khôn toan,
Sáu nhân hai chữ sản hoàng,
Con chưa quày xuống vội vàng rặn khan.
Nghe lời bà mụ rặn khan,
Khiến con ra ngược ra ngang lỗi đường.
Bảy nhân hư phạp nội thương.
Trong mình ốm yếu nào thường máu hơi.
Sớm dùng sức rán rặn khơi,
Nước nguồn khô rít, khôn dời con ra,
Hỡi ôi phận sự đàn bà,
Có nhân bảy ấy mới ra tai nàn.
Sách y mấy chuyện sản nan,
Điều biên phép trị rõ ràng, khá coi.
Tử, sinh, người đẻ có mòi,
Xưa truyền phép tướng hẳn hòi chẳng ngoa.
Sản nan coi tướng đàn bà,
Mặt là chừng mẹ, lưỡi là chừng con.
Mặt tươi lưỡi thắm vuông tròn,
Mẹ còn cứu mẹ, con còn cứu con.

Tướng sản phụ bí pháp, Diện dĩ hậu mẫu, thiệt dĩ hậu tử (Bí quyết xem đàn bà khi sinh, Mặt để xem mẹ, lưỡi để xem con)
Dịch nghĩa:
Người đẻ khó, triệu chứng sống chết gần giống nhau.
Xem sắc lưỡi và mặt đỏ hay xanh,
Lưỡi xanh và lạnh giá, mẹ sẽ chết.
Lưỡi xanh mặt đỏ riêng con chết,
Mặt xanh, lưỡi đỏ riêng mẹ sống,
Môi miệng đều xanh, lại nhễu dãi,
Mẹ con chết cả rõ rành rành.

Tiều rằng: Người mới đẻ rồi,
Trong mình khí huyết hư đồi biết bao.
Phép y điều lý dường nào,
Chứng cùng mạch lý xin trao cho nhờ.
Môn rằng: Sản hậu một khoa,
Chứng nào thuốc nấy sách đà luận riêng.
Ta nghe tâm pháp thầy truyền,
Bệnh người sản hậu có nguyên ba điều.
Một là máu trống lửa diêu (dao)
Gây trong nóng táo, chứng nhiều cuồng kinh,
Một là bại huyết vọng hành,
Bụng đau đầu nhức, rêm mình tay chân.
Một là ăn uống quá chừng,
Gây nên mửa ỉa, trên ngưng, giữa đầy.
Lại nghe sản hậu bệnh gay,
Ba xung, ba cáp, chứng này nguy hung.
Xung là bại huyết làm hung,
Xung tâm, xung phế với xung vị tào.
Cấp là mới đẻ hơi hao,
Hoặc thổ, hoặc tả, hoặc trào buồn hôi.
Tổ xưa dùng thuốc đẻ rồi,
Có ba lời cấm, người ôi ghi lòng.
Cấm thang Phật thủ chớ dùng,
Bởi vì trong có vị Xuyên khung chẳng lành.
Xuyên khung tán khí đã đành,
Lại hay phát hãn, trong mình hư thêm.
Cấm thang Tứ vật phương kèm,
Địa hoàng, Thược dược chẳng hiềm dụng sinh.
Địa hoàng sống lạnh máu kinh,
Ngặt thời phải dụng, chín mình chế đi,
Đẻ sau khí huyết đang suy,
Thược dược chua lạnh, dùng thì tửu sao.
Cấm dùng thang Tiểu sài hồ,
Hoàng cầm tính mát, ngăn hồ huyết đi.
Cho hay bệnh sản nhiều nguy,
Mấy lời Kinh huấn chủ trì chớ quên.
Đẻ rồi phát hãn chẳng nên,
Chẳng nên làm hạ, chẳng nên lợi tiền (tiện),
Mấy mùi tính dược chẳng hiền,
Chớ cho phạm vị, phạm miền tam tiêu.
Ví dù biểu chứng thấy nhiều,
Đều làm giả tượng, rất nhiều trong hư.
Xưa nay biết mấy tiên sư,
Trị khoa sản hậu rõ từ Đan Khê.
Đan Khê Chu tử ròng nghề,
Đẻ sau khá bổ, chủ về máu hơi.
Gốc làm khá bổ máu hơi,
Dù nhiều chứng tạp, đều nơi ngon ngành.
Gốc bền thời ngọn cũng xanh
So cùng bá thuật khác tình thiên uyên,
Có lời mạch quyết xưa truyền,
Coi người sản hậu thấy duyên mất còn:

Chẩn sản hậu mạch quyết (Phép xem mạch đàn bà sau khi sinh)
Dịch nghĩa:
Mới sinh, mạch Hoạt, Hoãn là tốt,
Thực, Đại, Huyền, Cấp chết tới nơi,
Nếu được Trầm, Tiểu thì cũng tốt,
Còn như Lao, Khẩn, mạng thôi rồi.
Thốn khẩu: Sáu nhanh không đều, chết,
Trầm, Tế sát xương thì sống thôi.
Xét các mạch ấy, ghi cho rõ,
Khắc cốt ghi tâm nhớ suốt đời.

Ngư rằng: Xin hỏi tiểu nhi.
Một hai ba tuổi mạch đi chưa đầy.
Đau thời coi Hổ khẩu tay,
Trong ngón thực chỉ vằn bày chứng cai.
Phép coi hữu gái, tả trai,
Ngón trỏ ba lóng chia bày ba quan.
Lóng gốc làm ải phong quan,
Lóng nhì ải khí, ba bàn mệnh quan.
Vằn xanh ngang thẳng gió can,
Vắn điều đỏ ấy nóng ran trong mình.
Vằn xanh đỏ loạn, chứng kinh,
Vằn hồng nhợt nhạt, ấm mình bụng đau.
Vằn còn lóng gốc trị mau,
Vằn qua lóng giữa bệnh lâu hơi tà.
Vằn to chạy tới ải ba,
Bắn lên trảo giáp, ấy là chứng nguy.
Vằn đen như mực loạn bì,
Xâm vào ba ải, lương y chạy rồi.
Phép coi chừng ấy mà thôi,
Còn phương nào nữa vốn tôi chưa rành.
Môn rằng: Con nít mới sinh,
Máu hơi chưa đủ, mạch hình khó coi.
Giáp năm có biến chưng rồi,
Gân xương mạch lạc lần hồi mở ra.
Nhân Sư rành trị nhi khoa,
Trước coi khí sắc, sau là mạch kinh.
Tướng xem trên huyệt Tình minh,
Thấy trong tạng phủ bệnh tình vạy ngay.
Mạch thời chẩn một ngón tay,
Chuyên coi một mạch Sác rày có không.
Sác cùng chẳng sác coi ròng,
Sác nhiều thời nhiệt, Sác không thời hàn.
Sác trong Phù, ấy phong truyền,
Sác trong Trầm, Hoãn, thấp hàn chứng pha.
Sác trong thấy Sắc bệnh tà,
Sác trong thấy Hoạt, ấy là đàm lung.
Phép coi chừng ấy cũng xong,
Chẳng còn bộ vị ngoài trong nhộn nhàng.

Tướng tiểu nhi bí pháp ca. Trung chính tình minh huyệt tại tỷ, Thượng mục chủy hoành giao xứ (Bài ca về phương pháp bí truyền xem bệnh trẻ con. Chỗ chính giữa huyệt Tình minh trên mũi, nơi hai đầu mắt giao nhau)
Dịch nghĩa:
Nơi đầu sống mũi, chỗ hai mắt giao nhau,
Chính là huyệt Tình minh, xem cho kỹ càng.
Sắc đỏ thuộc tim (tâm), sắc trắng thuộc phổi (phế),
Sắc vàng thuộc lá lách (tỳ), sắc xanh thuộc gan (can),
Sắc đen thuộc thận, nên phân biệt rõ;
Hoặc chạy ngang, hoặc chạy dọc, đó là những đường gân.
Gân đỏ hiện lên, đó là bệnh tâm nhiệt,
Gân xanh nổi, đó là bệnh phong (can phong),
Gân vàng phần nhiều là bệnh tỳ vị,
Gân đờm là đờm tích tụ lại, gân đen là bị lạnh.
Gân chạy dọc là bệnh từ dưới lên, chạy ngang là bệnh từ trên xuống.
Manh mối của căn bệnh bộc lộ ở chỗ đó.

Tiểu nhi mạch ca (Bài ca về mạch trẻ con)
Dịch nghĩa:
Trẻ con có bệnh phải xem mạch,
Một ngón tay ấn ba bộ mạch, giữ hơi thở cho điều hòa.
Mạch đi Trì là lạnh, đi Sác là nóng; xưa nay vẫn truyền,
Đi Phù là bệnh phong, đi Trầm là bệnh tích; nên biết như thế.
Huyệt Nhân nghênh tay trái chủ chứng ngoài,
Huyệt Khí khẩu tay phải chủ bệnh trong.
Ngoài thì xem các chứng phong, hàn, thử, thấp.
Trong thì xem ăn và bú bị đờm tích không trôi.
Mạch đi Hồng và Khẩn, không có mồ hôi là bệnh thương hàn,
Đi Phù và Hoãn, có mồ hôi là bệnh thương phong,
Đi Phù và Hồng, phần lớn là bị bệnh phong nhiệt,
Đi Trầm và Tế là cơm sữa không tiêu,
Đi Trầm và Khẩn là trong bụng đau không ngớt,
Đi Huyền và Khẩn là bị đau trong cổ họng,
Đi Khẩn và Xúc là sắp lên sởi, đậu,
Đi Khẩn và Sác là bệnh kinh phong,
Đi Hư và Nhuyễn là bị mạn kinh, co giật nhẹ,
Đi Khẩn và Thực là bị phong giản, co giật gấp,
Đi Nhuyễn và Tế là bị chứng cam và giun sán.
Đi Lao và Thực là bị bí đại tiện và tiểu tiện,
Đi Khâu thì đại tiểu tiện có máu,
Đi Hư và Nhu thì bị bệnh khí và chứng giật mình,
Đi Hoạt là bị lạnh, cảm sương, cảm nắng,
Đi Huyền và Cấp là bị “phải vía”.
Mạch lớn nhỏ không đều là mạch xấu,
Trong một hơi thở đến hai lần là thoát, ba lần là thốt,
Bốn lần là tổn, năm lần gọi là hư,
Sáu lần là bình thường, gọi là không bệnh,
Đến bảy, tám lần bệnh còn nhẹ,
Đến chín mười lần là bệnh đã nặng, sốt dữ,
Đến mười một, mười hai lần thì chắc là chết.
Phép này xem cả vạn lần không sai một.

Ngư rằng: Sách gọi thuần dương,
Về phần con nít bệnh thường nhiệt dâm,
Đã thuần dương vô âm,
Sao còn phát lãnh trầm trầm cớ chi?
Môn rằng: Tạo hóa máy đi,
Âm dương nghĩa kín mấy suy đặng rành,
Chữ âm ấy thật âm tinh,
Âm tinh đâu có trong mình tiểu nhi.
Chừng nào thiên quý đến kỳ,
Tinh thông mới đặng sánh nghì dương âm.
Sách rằng thuần dương vô âm.
Thật câu chữ luận tinh âm chưa đầy.
Ấy nên bệnh trẻ thơ ngây,
So cùng người lớn chỗ gây chẳng đồng,
Bảy tình vốn chẳng hại trong,
Sáu dâm ngoại cảm cũng không luận tà.
Một mai có bệnh chẳng qua,
Kinh, cam, thổ, tả, tích hòa trường đông.
Cảm thời hàn, nhiệt, thử, phong,
Ngoại khoa: đậu chẩn, sang cùng đơn ban.
Vốn không tạp bệnh nhộn nhàng,
Có mười lăm chứng nguy nàn dễ coi.
Tử, sinh ngoài đã lố mòi,
Nào chờ chẩn mạch hợp coi quẻ dò.

Tiểu nhi nguy chứng thập ngũ hậu (Mười lăm chứng nguy ở trẻ con)
Dịch nghĩa:
Trên mi mắt nổi tia đỏ,
Tia đỏ chạy suốt cả con ngươi,
Mỏ ác sưng phù lên,
Kể cả có khi trũng xuống,
Mũi khô đen xạm,
Bụng to nổi gân xanh,
Mắt thường trợn ngược,
Nhìn không chuyển con ngươi,
Móng chân, móng tay đen,
Đột nhiên mất tiếng,
Lưỡi thè ra ngoài miệng,
Nghiến răng, cắn người khác,
Thở gấp, miệng ngáp như cá,
Khóc không ra tiếng,
Giun quài ra mồm, mũi,
Ấy đều là những chứng chết.
Dù cho dùng thuốc cứu ngay,
Thì mười đứa cũng chết cả mười

Tiểu nhi phát nhiệt trong mình,
Có mười sáu chứng trọng khinh khác thường,
Tuy rằng bệnh chứng nhiều phương,
Chẳng qua hư thực hai đường ấy thôi.
Chứng hư, chứng thực xét coi,
Sách đà rõ luận hẳn hòi chẳng sai.
Cho hay mười bệnh anh hài,
Chín hư một thực gái trai đều còn.
Ví như đầu tháng trăng non,
Lòng gương mới tượng, rạng tròn chưa ra.
Nên xưa làm thuốc nhi khoa,
Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư,
Cảm ơn liệt vị tổ sư,
Tấm lòng hoạt ấu nhân từ biết bao.
Chế ra làm tễ sẵn trao,
Bệnh nào thuốc nấy, uống vào thấy hay.
E sau thế tục nhiều thầy,
Chẳng thông y thuật hại bầy tiểu sinh.
Hỡi ôi học đạo Kỳ Huỳnh (Hoàng),
Mấy ai trị bệnh thẩm tình thực hư.
Xin coi phương sẵn Nhân Sư,
Đỡ cơn bệnh rộn tầm tư nhọc lòng.
Sau rồi rõ chước biến thông,
Máy huyền phép diệu dù lòng sử đương.

Tiểu nhi bệnh chứng dụng dược ca (Bài ca về việc dùng thuốc chữa bệnh trẻ con)
Dịch nghĩa:
Nghề y đã có riêng một khoa chữa bệnh trẻ con,
Phải nhớ kẻo khi cần không biết làm thế nào.
Sài giật, phát nóng cùng là ho có đờm,
Bảo mệnh đơn nhất thiết phải cho uống.
Cấp kinh, mạn kinh, hai chứng ấy phải dùng Tử kim đĩnh.
Sởi đậu chưa mọc, phải dùng thang Trợ vị,
Môi miệng bị lở, nên dùng thang Hóa độc.
Sốt liên miên, nên dùng Bảo long tinh tinh tán.
Nôn mửa, phần nhiều nên dùng Thiên châm hoàn.
Các chứng cam thường nên dùng Lô hội.
Các thầy thuốc nên nhớ, khỏi phải tìm tòi.

Lối này Ngư nói với Tiều:
Bấy lâu học hữu nghe nhiều phương hay.
Phận ta gặp bạn còn may,
Nhân Sư kết bạn lại hay dường nào.
Bạn thầy tài đức bậc nào,
Thầy theo chơi muộn, biết bao giờ về.
Môn rằng: chẳng những tài nghề,
Bạn thầy như ngọc chương khuê đức tuyền.
Ngươi, ta mong học hy hiền,
Thầy ta hy thánh, bạn nguyền hy thiên.
Bạn thầy mong học hy thiên,
Có nghe tên họ, đời truyền hai ông.
Hiệu xưng rằng Hưởng Thanh Phong,
Rằng Ảnh Minh Nguyệt, hai ông bạn thầy,
Thanh Phong cầm tiết chẳng day,
Bụi nhơ chẳng chút, so tày giá trong.
Lấy lòng tạo hóa làm lòng,
Cho người nghe tiếng khó mong thấy hình.
Thanh Phong vốn đã sạch mình,
Lại thêm Minh Nguyệt tài lành thú cao.
Tốt thay Minh Nguyệt thú cao,
Đường trong trời đất chỗ nào chẳng thông,
Lòng gương soi khắp non sông,
Đêm thanh cảnh vắng bạn cùng văn nhân,
Hai ông khí tượng tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân rõ ràng.
Ở theo một bậc thanh nhàn,
Lành trau đạo vị chẳng mang lụy đời.
Thầy ta thường bữa ngâm chơi,
Khen hai ông ấy có lời thơ hay:

Hưởng Thanh Phong tự ngâm (Nhập Môn tụng truyền)
Dịch nghĩa:
Tiếng ra đời bụi chẳng nhơ mình,
Người triết yêu ta một chữ thanh.
Nhẹ thổi chòi trời tan tiếng oán,
Sạch nồng đãy đất giúp hơi sinh.
Êm lòng Sào, Hứa chơi khe biếc,
Mát mặt Di, Tề ngó núi xanh.
Ba chục sáu cung đâu chẳng biết,
Đức làm quân tử đặng thơm danh.

Ảnh Minh Nguyệt tự ngâm (Nhập Môn tụng truyền)
Dịch nghĩa:
Khỏi vòng hối thực thấy ra mình,
Đời tối trông ta một chữ minh.
Bóng thỏ ven mây lồng đất trắng,
Gương thiềm đáy nước vẽ trời xanh,
Ra vào chẳng nhọc người dong bước,
Tròn méo nào cho vật giấu hình.
Hai chục tám sao đều chạy mặt,
Theo thời biết mấy lúc hư dinh (doanh).

Nhập Môn đọc mới dứt lời,
Phút đâu có khách tới chơi nói dồn.
Khách rằng: Nghe tiếng người đồn,
Chúa Liêu khiến sứ tới môn Đan Kỳ.
Sứ đem lễ rước Nhân Sư,
Về Liêu làm chức Thái y trong tòa.
Nhân Sư xưng bệnh chẳng ra,
Chưa hay xưng bệnh ấy là bệnh chi.
Nhập Môn nghe nói sợ nghi,
Vội vàng ngày ấy liền đi thăm thầy.
Ngư, Tiều sắm lễ học thầy,
Đều theo Đường thị lối này đem đi,
Ba người lên chốn Đan Kỳ,
Gió nam riu thổi, vừa khi nắng chiều.
Trời tây cảnh vật buồn hiu,
Hồ sen ngút tỏa, non Kiều mây bay.
Nơi nơi tang giá bóng day,
Canh lui dặm liễu, mục quày đường lê.
Ngày chiều nhả bức hồng nghê,
Hươu vào động núi, hạc về đình xưa.
Ba người tới cửa vừa ưa,
Thấy người Đạo Dẫn đứng ngừa trước sân.
Cùng nhau gặp mặt chào mừng,
Đem vào tịnh thất vừa chừng hoàng hôn.
Ngư, Tiều cùng gã Nhập Môn,
Một đêm han hỏi chuyên tôn sư dài.
Dẫn rằng: Việc chẳng khá nài,
Nhân Sư bệnh, ở Thiên Thai lánh người.
Dạy ta thay mặt, đổi lời,
Về đây từ tạ sứ vời Tây Liêu.
Thầy ta chẳng khứng sĩ Liêu,
Xông hai con mắt bỏ liều cho đui.
Gặp cơn trời tối thà đui,
Khỏi gai con mắt, lại nuôi tấm lòng.
Nhập Môn nghe nói não nùng,
Trách rằng Minh Nguyệt, Thanh Phong phụ thầy.
Hai ông đã chẳng khuyên thầy,
Phần ngươi sao nỡ để vầy, không can.
Vả xưa lắm kẻ từ quan,
Ai từng ở ẩn lại mang tật sầu.
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu (Chu).
Ăn rau non Thú phải âu trọn mình.
Thà như Quỷ Cốc tiên sinh,
Gặp đời Chiến quốc thanh danh chẳng sờn.
Thà như bốn lão Thương Sơn,
Hồng bay phụng lánh, ai ràng buộc đâu.
Thà như hai họ Nghiêm, Châu,
Chẳng tham lộc Hán, cày câu mặc tình.
Thà như Ngũ Liễu tiên sinh,
Gặp cơn Tấn loạn giữ mình cũng xong.
Họ Đào Tể tướng sơn trung,
Chúa Lương khuất lễ mới dùng đặng va.
Họ Vương dạy học Phần Hà,
Buổi Tùy không đạo, ở nhà cũng hay,
Trúc Lâm là bọn đắm say,
Nước loàn bầu rượu còn hay che mình,
Rong chơi là bọn Lan đình,
Bụi Hồ chẳng đến nhơ hình chiếc ghe.
Sách nêu xử sĩ nhiều phe,
Hành tàng hai chữ ít nghe phụ lòng.
Vòng danh, xiềng lợi, thả dong,
Vật ngoài gió bụi, người trong tiên thần.
Thôi thời thôi vậy đành phần,
Làm chi cho khổ tấm thân mới từ,
Nghĩ nay khác thuở Yêu Ly,
Phòng toan khổ nhục kế kỳ trừ hung,
Há lo tiếng nhạc khó thông,
Như ông Sư Khoáng mà xông mắt mù.
Hỡi ôi tạo vật ở đâu,
Nỡ xui thầy mỗ chịu đau tật này.
Dẫn rằng: Ta dốc can thầy,
Nghe thầy phân giải lời này rất hay.
Thầy rằng: Trời đất xưa nay,
Khí vần vốn có đổi xay chính, tà.
Xen hình hơi chính trôi ra,
Dưới là ngũ nhạc, trên là tam quang,
Nhờ hơi quang nhạc sáng đường,
Ở đời ngũ đế tam vương trị vì,
Ấy rằng khí vận thịnh thì,
Ba giềng năm dạy trọn nghì nhân luân.
Đến khi vận ách thời truân,
Ghe keo chằm Sở tạm lần châu đông.
Nối ra năm bá, bảy hùng,
Đua tranh công lợi, lấp dòng nghĩa nhân.
Ấy rằng quang nhạc khí phân,
Thánh hiền dấu tối, di luân rối nùi.
Khiến nên mọi rợ dể duôi,
Tôi loàn, con giặc, phanh phui sự đời.
Hơi tà ngăn bủa khắp nơi,
May còn hơi chính ở đời bao nhiêu,
Cho hay hơi chính chẳng nhiều,
Thời cùng mới thấy tiết nêu phẩm đề.
Kìa như cái giản nước Tề,
Ba phen quan sử nối đề “thí vua”.
Cám vua nước Tấn vô cô,
Chính làm ngòi viết Đồng hồ biên ra.
Làm cây chùy Bác Lãng Sa,
Trương Lương vì chúa đánh xa Tần hoàng.
Làm cây cờ tiết Tô lang,
Đất Nô đày đọa trải đàng gian nan.
Chính làm đầu lão Nghiêm Nhan,
Thua thời chịu chém, chẳng hàng Trương Phi.
Chính làm máu nhuộm đế y,
Như ngươi Kê Thiệu cứu nguy chúa mình.
Chính làm cái lưỡi Cảo Khanh,
Thường Sơn chửi giặc, chịu hình cũng ưng,
Chính làm lỗ miệng Trương Tuần,
Tuy Dương mắng giặc tưng bừng đều kinh,
Gặp cơn Tam quốc chia giành,
Chính làm cái mão Quản Ninh sạch mình,
Gặp khi Bắc Ngụy tiếm danh,
Chính làm lời biểu Khổng Minh xuất Kỳ.
Hoặc làm chèo Tổ Địch đi,
Qua sông thề dẹp Yết Đê mọi loàn.
Hoặc làm cái hốt họ Đoàn,
Đánh đầu kẻ hoạn mưu gian soán Đường,
Ấy đều hơi chính vấn vương,
Người làm oanh liệt một trường dấu ghi.
Đời suy người triết phù trì,
Nên câu “thiên trụ địa duy” vững vàng.
Đến nay người triết xa đàng,
Dưới trời hơi chính cũng tan lần mòn.
Thử xem trong cuộc nước non,
Bốn chia, năm xé, thon von dường nào.
Nhảy vòng phú quý lao xao,
Sớm tôi, tối chúa, ra vào gườm nhau.
Muôn dân ép ráo mỡ dầu,
Ngày trau khí giới, tháng xâu điện đài.
Thêm bầy gian nịnh chen vai,
Gây nên mọi rợ từ ngoài lấn trong,
Đánh nhau thây bỏ đầy đồng,
Máu trôi đọng vũng, non sông nhơ hình,
Xừng xừng giành đất, giành thành,
Ngựa xe rần rộ, bụi binh tối trời,
Mây sầu gió thảm đòi nơi,
Sấm đông, tuyết hạ, khác đời trung nguyên,
Ấy rằng quang nhạc khí hôn,
Năm giềng ba mối rối dồn như tơ.
Dù sinh Y Phó đời giờ,
E khi cày ruộng cuốc bờ mà thôi.
Huống ta là kẻ không ngôi,
Tài chi lạy cúi làm tôi nước loàn?
Đã cam chút phận dở dang,
“Trí quân” hai chữ mơ màng năm canh.
Đã cam lỗi với thương sinh,
“Trạch dân” hai chữ luống doanh ở lòng.
Lại cam thẹn với non sông,
“Cứu thời” hai chữ luống trông thuở nào.
Nói ra thời nước mắt trào,
Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi.
Thời trời đã vậy, thôi thôi nào cầu.
Thà cho trước mắt mù mù,
Chẳng thà ngồi ngó kẻ thù quân thân.
Thà cho trước mắt vô nhân,
Chẳng thà ngồi ngó sinh dân nghiêng nghèo,
Thà cho trước mắt vắng hiu,
Chẳng thà thấy cảnh trời chiều phân xâm.
Thà cho trước mắt tối ngầm,
Chẳng thà thấy đất lục trầm can qua.
Dù đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha chẳng thờ,
Dù đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn nhơ tanh rình.
Dù đui mà đặng trọn mình,
Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu.
Sáng chi theo thói chiên cầu,
Dọc ngang chẳng đoái trên đầu có ai.
Sáng chi đắm sắc, tham tài,
Lung lòng nhân dục, chuốc tai họa trời
Sáng chi dua nịnh theo đời,
Nay vinh, mai nhục, mang lời thị phi.
Sáng chi nhân nghĩa bỏ đi,
Thảo ngay chẳng biết, lỗi nghì thiên luân,
Thấy rồi muôn việc trong trần,
Xin còn hai chữ “tâm thần” ở ta.
Nguyện cùng tạo hóa lại qua,
Làm xe, làm đạn, phận già thảnh thơi.
Kêu trâu, kêu ngựa mặc người,
Cánh trùng, gan chuột, theo trời phú cho.
Nói rồi Đạo Dẫn dặn dò,
Anh em ai nấy chớ cho lậu tình,
Nhân Sư dù đặng an mình,
Bọn ta lui tới sử kinh nhờ thầy.
Ngư rằng: Xin hỏi bạn thầy,
Thanh Phong, Minh Nguyệt, lối này ở đâu?
Hai ông là bạn đồng du,
Cớ sao nỡ để mắt mù Nhân Sư?
Dẫn rằng: Việc ấy hữu từ,
Hai ông bạn cũng vô như chi hà!
Hai ông thường nói cùng ta,
Khen rằng thầy ấy thật là triết nhân.
Như thầy chẳng những bảo thân,
Lại hay bảo đạo mười phân vững vàng.
Thánh xưa lời dạy rõ ràng,
“Nước an làm trí, nước loàn làm ngu”,
Từ xưa có kẻ cạo đầu,
Giả câm, giả dại, lánh xâu nước loàn,
Vả nay trời bước gian nan,
Thà không mắt thấy, khỏi mang dạ sầu,
Hoa Di mão dép lộn nhầu,
Mấy ai giữ phép Xuân Thu đặng rồi,
Chớ khinh mang tật đui ngồi,
Trời còn hơi chính gởi đôi mắt thầy,
Sau trời thúc quý tan mây,
Sông trong, biển lặng, mắt thầy sáng ra.
Khuyên ngươi lòng chớ sai ngoa,
Coi lời thơ tặng thầy ta hẳn hòi.

Minh Nguyệt Thanh Phong (hợp tặng Nhân Sư thi)
Dịch nghĩa:
Đang thuở tinh chiên giậm bấy đường,
Trăm nhà, mấy trọn dấu thư hương?
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Tần đế còn nhường danh họ Lỗ,
Hán vương đâu biết bệnh thầy Trương.
Thôi thôi đả vậy thôi thà vậy,
Một túi kiền khôn mặc mở mang.

Thấy hai ông ấy tặng thơ,
Lòng ta thêm kính Nhân Sư muôn phần.
Nhớ xưa đức Khổng thánh nhân,
Kính ông Sư Miện vân vân chiếu, thềm.
Ấy là đạo vị khá xem
Học theo ý thánh, để chiêm nghiệm lòng.
Chu công làm sách Bân phong,
Trao người tối mắt dạy lòng Thành vương.
Làm thầy chẳng những một vương,
Trăm vua đều dụng vào đường Nhạc sư.
Xưa cho làm chức Nhạc sư,
Gọi người tối mắt, ít hư tấm lòng.
Thi rằng “mông tẩu tấu công”,
Khen hay nghe nhạc, thực ròng thẩm âm.
Cho hay hai chữ “đạo tâm”,
Người đui lặng giữ, ít lầm lỗi chi.
Thánh hiền xưa cũng kiêng vì,
Nay bầy ngu xuẩn thấy khi, chê cười.
Tiều rằng: Còn ức việc đời,
Nghe hai ông biết số trời trước sau.
Trăm năm muốn rõ việc sau,
Xin đi tới chỗ lạy cầu dạy ta.
Một là thăm bệnh thầy ta,
Một là hỏi chuyện nước nhà căn duyên.
Chẳng hay người ở U Yên,
Thuở nào đặng thấy Trung Nguyên chúa mình.
Dẫn rằng: Chuyện ấy minh minh,
Ta từng trước hỏi sự tình U Yên.
Hai ông thật đấng thần tiên,
Máy trời chẳng lậu xuống miền nhân gian.
Hai ông chẳng khứng nói bàn,
Cho bài thơ sấm chỉ đàng kín sâu.
Dạy ta để nghiệm ngày sau,
U Yên chuyện ở tám câu năm vần.

U Yên sấm thi
Năm quý đua cờ pháo ngựa qua,
Hai vua một gánh gửi vai bà.
Trời nam có thẻ cây sơn cắm,
Đất bắc còn vàng cốt đính pha.
Con thú một sừng binh mới gặp,
Cái người một mắt đá chưa ra.
Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng,
Bốn biển âu ca hợp một nhà.

Ý trong thơ sấm sâu xa,
Ta từng phân giải chẳng ra lẽ gì.
Xưa nay lẽ có thịnh suy,
Gặp sao chịu vậy, hỏi chi sự đời.
Ta nghe quân tử vui trời,
Chỗ lo chẳng vượt khỏi nơi ngôi mình.
Dù còn lòng chính làm lành,
Lựa là phải hỏi tiền trình mà chi?
Hai người muốn học Nhân Sư,
Đợi thầy trở lại Đan Kỳ sẽ hay.
Nợ con, nợ vợ còn vay,
Thần tiên người ấy, e nay khó tìm.
Ngư rằng: Chí dốc đi tìm,
Nho thầy dạy vẽ trọn niềm y tông.
Hay đâu việc học rồng rồng,
Còn ngoài cung bích luống trông ngỡ ngàng,
Trót đà nhờ bạn chỉ đàng,
Đi chưa tột chỗ e mang tiếng cười.
Phép y trước đã trao lời,
Chưa hay tay thước đón nơi thiên nào?
Dẫn rằng: Thầy đã có trao,
Phép dùng thuốc ấy dón vào hai thiên.
Một bài Tiêu bản luận biên,
Một bài Tạp trị phú truyền cho ta.
Để lòng bữa bữa ngâm nga,
Thuộc hai bài ấy; đủ ra làm thầy.

Tiêu bản luận (Bàn về lẽ gốc ngọn)
Dịch nghĩa:
Phàm kẻ trị bệnh, nên biết gốc ngọn, Đem thân người mà bàn, thì ngoài là ngọn, trong là gốc; dương là ngọn, âm là gốc; sáu phủ thuộc dương là ngọn, năm tạng thuộc âm là gốc. Các kinh lạc của tạng phủ thì ở ngoài là ngọn, ở trong là gốc. Cho nên lại như trong thân thể thì khí là ngọn, huyết là gốc. Đem bệnh người mà bàn, thì các bệnh mắc trước là gốc, biến chứng về sau là ngọn. Phàm việc trị bệnh át phải trước trị gốc, sau trị ngọn. Nếu trước trị ngọn, sau trị gốc thì tà khí thêm tăng mà bệnh càng chất chứa, còn nếu trước trị gốc, sau trị ngọn thì dẫu bệnh có hàng chục chứng cũng lui. Như trước mắc bệnh nhẹ, sau thành bệnh nặng thì cũng trị bệnh nhẹ trước, trị bệnh nặng sau, như vậy thì tà khí sẽ lui. Đại khái trị gốc trước vì như vậy.

Như có chứng đầy bên trong, thì không cần hỏi gốc ngọn, hãy chữa chứng đầy bên trong trước, vì nó là chứng gấp. Nhưng nếu sau chứng đầy bên trong còn có chứng đại tiểu tiện bất lợi, thì cũng không cần hỏi gốc ngọn, hãy chữa chứng đại tiểu tiện bất lợi trước, rồi sau hãy chữa chứng đầy bên trong, vì nó còn gấp hơn.

Lại như trước thì mắc bệnh phát nhiệt, thêm chứng nôn mửa, tả lỵ, cơm cháo thuốc men đều khó nuốt, thì khoan chữa bệnh nhiệt mà hãy chữa chứng nôn mửa trước. Khi ăn uống đã tạm bình thường mới trị kèm luôn chứng tả. Đợi cho nguyên khí bắt đấu phục hồi thì mới chữa bệnh nhiệt. Đó là điều người ta vẫn nói là “Hoãn thì chữa gốc, gấp thì chữa ngọn” vậy. Nói chung ngoài các chứng đại tiểu tiện bất lợi, đầy bên trong và thổ tả ra, đều nên chữa gốc trước, không thể không cẩn thận vậy.

Giả sử như can chịu tà của tâm hỏa, đó là tà khí từ trước lại, là thực tà.”Thực thì tả con nó”. Nhưng không phải tả thẳng vào hỏa, mà phải dùng thuốc dẫn vào can kinh mà dùng vị tả hỏa làm quân, đó là cách trị bệnh thực tà. Giả sử như can chịu tà của thận, đó là tà khí từ sau lại, là hư tà.”Hư thì bổ mẹ nó”, dùng thuốc dẫn vào thận kinh mà vị bổ can làm quân, thế là đúng.

Nội Kinh chép “Bệnh là gốc, phép chữa bệnh là ngọn. Nếu hiểu cả gốc ngọn để trị liệu, tà khí sẽ lui”. Người làm thuốc đối với phép xem sắc coi mạch không được quên lãng, không được dùng lầm, đó là phép tắc lớn của việc chữa bệnh. Nếu làm ngược trái lẽ, mỗi làm mỗi sai, sao có thể chữa bệnh cho người. Người bệnh nếu thần bí bị hại thì nên bỏ ông thầy cũ chữa bệnh trái lẽ mà tìm đến ông thầy mới hiểu rõ y lý. Được chữa bằng phép tắc cẩn thận đúng đắn thì mới toàn sinh được. Hai phép ấy là điều chí lý trong việc chữa bệnh, là mẫu mực của nghề làm thuốc vậy.

Tạp trị phú (Bài phú về phép chữa các tạp bệnh) (Dọn theo của Nhân Trai cùng các sách Bệnh cơ, Dược tính biên chú)
Dịch nghĩa:
Trăm bệnh không ra ngoài tám trận; Chữa bệnh tất phải theo ba phép.
Chính khí ở trong người, dương là biểu mà âm là lý, danh ngôn truyền tự thuở xưa; Tà khí hại người, biểu là âm mà lý là dương, phép mầu lập tự Trọng Cảnh.
Thực thì mạch đi mạnh, da nóng, bụng đầy, đại tiểu tiện không thông; Hư thì mạch đi yếu, da lạnh, khí nhược, tả lỵ, ăn ít.
Bệnh mới phần nhiều là nhiệt; Đau lâu thường trở lại hàn.
Nội thương vì năm tà, cốt phải điều hòa; Ngoại cảm vì lục dâm, liệu mà phát hãn.
Phong là do hỏa bốc; Hàn gốc bởi hư ra.
Nắng làm hao khí dịch tinh thần, thường dùng vị ngọt chua mà bổ liễm; Thấp làm hại da thịt gân cốt, tạm uống bài cay, đắng để hãn thăng. Táo phải phân có thực, có hư; Hỏa phải xét nên bổ, nên tả.
Đuổi bệnh tật như theo giặc cướp, trừ chúa trùm mà tha lũ hùa theo; nuôi chính khí như chiều tiểu nhân, cốt ngay thẳng chớ quá lòng xét nét.

Vả như:

Thương thực chứa ở dạ ruột, tẩy rửa sẽ khỏi; Đình ẩm thuộc về kinh lạc, tiêu bổ kiêm dùng.
Cá thịt ăn càn mà thấp nhiệt thịnh, phải chữa cho tỳ thổ ráo, cho tiêu hóa lại hồi; Trai gái chơi quá mà tướng hỏa xông, phải bổ cho thận thủy lên, cho phần âm tính được vững.
Khí có dư mà đầy, suyễn, bĩ, tắc, hỏa nhẹ nên cho rút xuống; Huyết không đủ mà ho lao, thổ huyết, kim (phổi) ráo nên cho mát đi.
Bệnh khí thì chữa khí mà huyết có nơi tựa nương; Bệnh huyết phải hòa huyết, mà khí khỏi nỗi ngừng đọng.
Chữa khí phải cay mát cho tan cái nóng; Hòa huyết phải cay nóng mới thông được dòng.

Đến như:

Đờm đọng vì hỏa, trị hỏa chớ chậm; Hỏa uất vì khí, chữa khí nên tăng.
Đờm thì làm cho trong, cho ấm, cho nhuận, cho ráo, chữa có nhiều cách; Uất thì phải nào phát, nào tiết, nào đạt, nào đoạt, khai có, nhiều đường.
Uất lâu sinh đờm, sinh hỏa, mà bệnh càng tăng; Bệnh lâu hao khí, hao huyết, sinh hư từ đó
Dương hư ngoài sợ lạnh, thêm thấp nhiệt đọng thì sinh phù thũng; Âm hư trong sinh nóng, nếu phong táo thịnh thì thành dệt tê.
Dương hư hỏa suy, thuốc ông dễ bề bổ ích; Âm hư thủy thiếu, vị đắng hàn khó cách tưới vun.
Âm, dương đều hư, cứ bổ dương rồi âm sẽ lại; Khí, huyết cùng bệnh, cứ chữa khí mà huyết thấy yên.
Chữa nhiệt bằng thuốc hàn, hàn khí lấp mà khó tiêu được miếng cơm, ngụm cháo; Chữa hàn bằng thuốc nhiệt, nhiệt khí tắc liền thấy sinh ra trằn trọc, hôn mê.
Cho uống thuốc nóng mà không thấy ôn lại, nên bổ tâm phủ; Cho uống thuốc hàn mà không thấy mát đi, nên bổ thận âm.
Âm bình, Dương bí là kẻ sống lâu; Hỏa giáng, thủy thẳng là mạnh khỏe.

Lại nghe rằng:

Con trai dương nhiều hơn âm, nên bổ âm cho dương khỏi bệnh; Con gái khí trệ vì huyết, nên khai huyết cho khí được thông.
Người béo khí hư nhiều đờm, từ xưa dạy nên khoát đờm, bổ khí; Người gầy huyết hư hỏa thịnh, nhất định phải tả hỏa mà bổ âm.
Trẻ khỏe, bệnh còn nhẹ, công ngọn có sợ gì; Già yếu, bệnh đã sâu, giữ gốc mới là phải.
Người già khí nhiều huyết ít, chỉ nên liệu cách điều hòa. Trẻ con thuần dương không âm, chớ có quá tay công phạt,
Miền tây bắc gió cao, đất ráo, khát, bí, ung, nhọt thường đau luôn; Miền đông nam đồng trũng. ẩm nhiều, lỵ, ngược (sốt rét), sưng, phù hay mắc phải.
Cao lương thừa mứa, thanh nhiệt, nhuận táo là thuốc thần tiên; Rau cháo lần hồi, trừ thấp, tán hàn là phương tiện tuyệt diệu!
Than ôi! Bệnh có thứ nặng, thứ nhẹ; Chữa có phép nghịch, phép tòng,
Nhẹ thì cứ nghịch mà công; Nặng phải theo tòng mà chữa,
Hàn phải dẫn bằng vị hàn, nhiệt phải dẫn bằng vị nhiệt; Tắc chữa nhân ngay bế tắc, thông chữa nhân ngay thế thông.
Đập ghế mà thu được thần hồn của người khiếp sợ, tay lương y mới khéo làm sao; Sao hành mà khỏi được cơn đau của kẻ bị thương, viên quân lại thật tài quá đỗi,
Chứng thi quyết người như chết thật, nhưng mạch chạy vẫn thường, cứu huyệt Bách hôi sẽ khỏi; Chứng đầy hơi khí cứ tức hoài, nhưng ăn uống bình thường, dùng phép đạo dẫn sẽ lành.
Đường tiết đi thất thường, chỉ vì chân thủy không vượng; Oẹ nôn ăn chẳng được, thường là tà hỏa bốc xông.

Hỡi ơi!

Phương thuốc cữ không nên câu nệ, khỏi bệnh là hay; Phép chữa xưa chớ hiểu hẹp hòi, tùy cơ ứng biến.
Hoàng liên, Khổ sâm là vị hàn, sách dạy uống nhiều hóa nhiệt; Phụ tử, Cam khương là vị bổ, ai hay dùng mãi hại to.
Đúng mà lầm rồi lầm mà đúng, phải rõ cơ mầu; Hư thì bổ mà thực thì tả, chớ dời phép gốc.
Xưa dạy rằng: Đọc sách Trọng Cảnh, cần phải hiểu bản ý của Trọng Cảnh; Tôi cũng khuyên: theo phép Đan Khê, phải có kiến thức của Đan Khê,

Nói tóm lại:

Thuộc phép chữa thương hàn, thì khi chữa tạp bệnh càng thêm rõ ràng; Thuộc phép chữa tạp chứng thì khi chữa thương hàn càng thêm chín chắn,
Y đạo vốn nhất quán, định phép tắc nguyên từ các thánh xưa; Học tập phải dụng công, dù thông minh chớ nên cậy mình giỏi.

Môn rằng: Nghề thuốc rộng đường,
Trước nêu các phép khuyên chàng chớ quên.
Dùng thời tông biến làm trên,
Chẳng nên chấp nhất, chẳng nên hiếu kỳ.
Cũng đừng cầu tốc làm chi,
Mau thời sớn sác lỗi nghì âm dương.
Năm mùi thuốc có âm dương,
Dùng bằng lỗi thứ, lập phương nào lành.
Ví như ông tướng dùng binh.
Binh không kỷ luật, trao mình giặc đâm.
Ngàn xưa một đám Y lâm,
Phép lòng hay nhóm, nào lầm lỗi chi.
Dón vào hai chữ “bất khi”,
Khí thời chẳng trọn y quy ở mình,
Học rồi phải tính có hành,
Làm đừng nhút nhát mà danh chẳng tròn,
Thánh y dạy chỗ muốn còn,
Mật to, lòng nhỏ, trí tròn, nết vuông.
Hỡi ôi, sách thuốc luông tuồng,
Chữ “y”, chữ “ý”, tiếng luôn trắc bình.
Y là ý vậy, cho mình,
Gẫm qua xét lại nghĩa Kinh mới tường.
Tuy rằng y bất chấp phương,
Gốc nhờ phương ấy dọn đường trổ ra,
Chữ rằng: Khử, thủ, giảm, gia,
Hợp, xuyên, trích, biến, ở ta vận dùng.
Dẫn rằng: Chuyện nói đã xong,
Ta xin trở lại, thưa cùng nhân sư.
Cùng nhau làm lễ từ quy,
Họ Bào, họ Mộng, đều tùy Nhập Môn.
Ngư, Tiều qua chỗ Nhập Môn,
Riêng làm lễ tạ, bôn chôn tính về.
Tiều rằng: Nay phải trở về,
Việc nhà còn vợ rề rề chưa xong,
Nghiệp y còn chỗ chưa thông,
Xin sau thong thả học cùng sư huynh.
Môn rằng: Ta vốn hậu sinh,
Nhớ ơn người trước tỏ tình kẻ sau,
Sách y lắm chỗ kín sâu,
Trước sau trọn đạo phải âu học thầy.
Muốn nên tài đức vượt bầy,
Xưa nay ai có bỏ thầy mà hay.
Hai người phải gắng công dày,
Theo thầy mới đặng tài hay đức tuyền.
Có câu “y bát chân truyền”,
Đặng nghe chước bí thánh hiền mới hay.
Chớ e đui mắt tật này,
Việc trong giáo quán khó đầy công phu.
Chớ rằng “hạt luyện manh tu.
Rừng văn biển học che mù khôn trông”.
Có trời thầm dụ trong lòng,
Tuy ngồi một chỗ suốt thông trăm đời.
Nho, y, lý, bốc, đạo đời,
Mấy mươi pho sách đều nơi bụng thầy,
Ta từng đứng cửa chầy ngày,
Ngưỡng xem khí tượng so tày Thái San.
Lời ngay cặn kẽ khuyên chàng,
Trước sau chẳng khá lỗi đàng sư sinh.
Ta, ngươi kết nghĩa đệ huynh,
Tới lui một cửa học hành thêm xuê.
Ngư, Tiều vâng dạy ra về,
Nhập Môn đưa khỏi Liễu Khê một hồi.
Chỉ đường rồi mới trở lui,
Bâng khuâng phần hữu, ngậm ngùi phần sư,
Ngư, Tiều cất gánh chẳng đi,
Cùng nhau than thở, một khi nói cười.
Tiều rằng: Ta trước nhờ ngươi,
Đem đường nay đặng làm người y khoa.
Những ngày e lụn tháng qua,
Học hành mạnh lãng chẳng ra vẻ gì.
Những e tơi nón bỏ đi,
Búa rìu mục cán, lấy chi cứu bần.
Hay đâu trời đã định phần.
Chẳng đành cho sĩ tấm thân nhọc nhằn
Xuất gia chưa trọn hai trăng,
Đem danh rừng củi đổi rằng rừng y.
Khỏi nơi gai góc kéo trì,
Hươu nai, khỉ độc còn gì dễ ngươi.
Của trong rừng núi giúp người,
Hai vai gánh vác khô tươi đã nhiều,
Nay xin cổi lốt lão tiều,
Làm ông thầy thuốc tiêu diêu cứu đời.
Ngư rằng: Ta bởi có ngươi,
Gắng công cũng đặng làm người tri y.
Bấy lâu thương lũ tiểu nhi,
Chìu lòn theo kẻ dung y tơi đầu.
Tưởng là đạo thuốc thâm u,
Hay đâu y cũng trong nho một nghề.
Đã nên chài lưới dẹp nghề,
Khỏi lo tôm cá chở về chợ tan.
Tha cho loài thủy tộc an,
Long vương nào giận quăng bàn thầy Viên.
Từ đây sóng gió xa thuyền,
Khỏi nơi lặn lội, lên miền sạch thơm.
Đặng theo sâm quế mùi thơm,
Dù cho bữa cháo bữa cơm cũng đành.
Nguyện làm một kẻ y sinh,
Lấy câu âm chất đổi danh lão chài.
Hai người nói chuyện xầy xầy,
Nửa ngày đi mới khỏi ngoài Y lâm.
Trời vừa xế bóng quang âm,
Phút đâu một trận mưa dầm tối tăm.
Ngư, Tiều vội bước xăm xăm,
Muốn tìm quán khách, phải dầm mưa đi.
Hai bên cây núi rậm ri,
Tiếng chim, dấu thỏ, đường đi lộn nhầu,
Hai người nhìn lại thuở đầu,
Nẻo ngươi Đạo Dẫn đem đâu, lạc rồi.
Xiết bao trong dạ bồi hồi,
Trời đà hầu tối biết ngồi nằm đâu.
Gió mưa vi vút giây lâu,
Trong mình ướt lạnh, mà bầu rượu không.
Đường xa khao khát rượu nồng,
Hạnh thôn muốn hỏi, mục đồng vắng tin.
Cùng nhau ngơ ngẩn trông nhìn,
Có nơi hang đá dạng in nhà rừng.
Hai người lại vái lâm quân.
Vào nơi hang đá nghỉ chân đêm này
Mưa rồi trăng tỏ tan mây,
Cùng nhau cơm nước tạm vầy đỡ thân
Than rằng: Đi thuở mùa xuân,
Nay về mùa hạ, quên chừng đường đi.
Cho hay đường ít kẻ đi,
Dây bò cây mọc, cỏ gì chẳng ra.
Ví như đạo học bọn ta,
Một ngày chẳng thấy, như ba tháng dài.
Đương khi than vắn, thở dài,
Xảy nghe trống đánh lối ngoài cửa hang,
Cùng nhau lo sợ nghi nan
Ai dè trong núi có quan quân nào.
Chưa hay lành dữ lẽ nào,
Hai người lấp ló chào rào nom coi.
Thấy đi đèn đuốc sáng soi,
Bảng đề hồi tỵ hẳn hòi chữ son.
Tiền hô, trống lệnh rền non,
Cờ vuông, lỗ bộ, ngay bon hai hàng.
Một ông ngồi kiệu che tàn,
Quạt lông, trần phất, nghiêm trang lạ lùng.
Quân hầu rần rộ quá đông,
Mang đao, cầm thẻ, chập chồng đi theo.
Có năm người trói dẫn theo,
Một đoàn già trẻ dân nghèo theo sau,
Nghe như oan khúc hỏi nhau,
Trong đơn có tỏ chứng đau khoản này,
Giết người vậy cũng làm thầy,
Lẽ trời nào để cho mầy hại dân.
Ngư, Tiều nghe nói ngập ngừng,
E khi lũ ấy kiện sừng sẻ chi.
Cùng nhau đang lúc thai nghi,
Bị quân sai đến bắt đi vội vàng,
Quân rằng :Phụng lệnh bản quan
Sao không hồi tỵ? Thực chàng khinh quan.
Ngư, Tiều chịu phép chẳng than,
Theo quân đến chỗ dinh quan tỏ tình,
Quân đem ngồi xó công đình,
Chờ quan tra án, rồi mình sẽ thưa,
Thấy dân quỳ trước sân thưa,
Kẻ vô đơn cáo, người chờ làm cung,
Thấy ông đai mão ngồi trong,
Có bàn hương án đốt xông trầm đàn.
Thấy quân hộ vệ hai hàng,
Trước sân vồ nọc, roi, giàn hình ra.
Lệnh rằng: Dẫn lão Đậu ra,
Hỏi làm thầy thuốc đậu khoa mấy đời.
Học hành phương pháp mấy nơi,
Đầu đuôi gốc ngọn làm lời cung khai.
Đậu rằng: Vốn chẳng học ai,
Nhờ cha, thuốc trái để bài lại cho.
Ba ngày trái mới nóng ca,
Có thang Thanh giải hốt cho mát rồi.
Sáu ngày trái mọc chẳng vui,
Có thần công tán hốt bồi cho xong.
Chín ngày trái chẳng quán nung,
Đâu đâu cũng hốt Lộc nhung thang thầy.
Mười hai ngày chẳng đóng dày,
Thiên kim nội thác thang này dùng ra,
Quá kỳ trái chẳng lạc già.
Thanh biểu tán độc phép cha tôi truyền.
Phán rằng: Cứ phép gia truyền,
Còn như kinh sách thánh hiền để chi?
Đậu sang mấy bữa có kỳ,
Trở tay thấy biến, phép y sao thường?
Chứng thời hàn, nhiệt không thường,
Hoặc hư, hoặc thực, nhiều đường khác nhau.
Đậu bằng thực nhiệt nóng lâu,
Thần công, Thanh giải ấy đầu, cũng cho.
Đậu bằng hư lạnh nóng co,
Thần công, Thanh giải hốt dò sao nên?
Đậu nhờ khí huyết làm lên,
Mủ đầy vẩy kết, mới nên công dùng.
Lộc nhung thời huyết hãm thông,
Khí hư hôi bạch quên dùng sao xong?
Thiên kim thời khí hãm thông,
Huyết hư tử hắc quên dùng sao nên?
Thiên sang, hoa trái nhiều tên,
Ai từng trị đậu mà quên mùa trời,
Đã không gia giảm theo trời,
Lại quên chấp nhất khuấy đời biết bao!
Trước cha mày để tầm phào,
Nay mày cũng ỷ sẵn dao thuốc nhà.
Cha con bây hại người ta,
Hai đời gây nợ oan gia để dồn.
Lệnh truyền cho lũ âm hồn,
Kéo ra đòi mạng, lấy côn đánh đầu.
Phán rằng: Nào lão Cứu đâu?
Làm thầy châm cứu năm lâu ăn nhiều,
Vả xưa châm cứu sách nêu,
Cứu khi cấp xúc khôn điều thuốc thang,
E sau còn đứa bạo tàn,
Học chưa tới phép, làm ngang hại mình,
Minh Đường đồ đã vẽ hình,
Mười hai kinh huyệt biên danh điểm đầu,
Phép châm phép cứu rất mầu,
Bổ hư, tả thực, cạn sâu có chừng.
Cớ sao làm việc pha rừng,
Đau đâu cứu đó, không chừng đỗi chi,
Châm thời máy chảy loang bì,
Cứu thời cháy thịt, thẹo ghi nát mình.
Tưởng là phép trị bệnh tình,
Nào hay châm cứu quá hình quan tra.
Cấp kinh chứng đã cấm la,
Dám đem ngải hỏa giúp tà cho phong,
Bảy ngày ngoại trị chứng ung,
Còn đem lửa đốt thêm xông độc vầy.
Học thầy nào dạy cho mầy,
Làm ngang không phép hại bầy sinh linh?
Cả gan riêng lập phép hình,
Khảo dân lấy của, lung tình ăn chơi,
Nghênh ngang chẳng sợ lẽ trời,
Không riêng phép nước, coi đời có ai.
Lệnh truyền vồ nọc căng dài,
Đánh cho văng thịt lấy khai thật tình.
Cứu rằng: Tôi học thầy Kinh,
Ba năm hết sức đợ mình cố công.
Phép thầy dạy vẽ vốn không,
Phần nhà con vợ bần cùng thêm lo.
Theo thầy mới biết lò mò,
Trở về làm bậy đỡ cho khỏi nghèo.
Dù hay cứ sách làm theo,
Lỗi thầy mặc sách ai kèo nài chi,
Thật tình tôi chẳng biết chi,
Coi vào châm cứu, sách y bời bời.
Ban đầu tôi mới thử chơi,
Đau đâu cứu đó, có nơi bệnh lành.
Làm vầy may cũng đặng danh,
Có danh rồi biết đem mình trốn đâu,
Bởi người thiên hạ theo cầu,
Quen chừng nóng mật, phải âu làm đùa.
Phán rằng: Mày đã làm đùa,
Đỡ cơn nghèo ngặt rồi tua học hành.
Cớ sao lại phụ thầy Kinh,
Luống tham của lợi quên mình oan khiên.
Vài liều thuốc cứu mấy tiền,
Đòi ăn trăm chục, lại thêm thưởng ngoài.
Nhà giàu chẳng luận chi tài,
Kẻ nghèo đàn cuộc kèo nài bất nhân,
Làm chi mang tiếng bất nhân,
Để cho quỷ giận thần hờn khắp nơi,
Làm chi ác nghiệp thấu trời,
Đạo y cũng mắc tiếng đời chê bai.
Vậy thà buôn bán cầu tài,
Tính lời tính vốn theo loài làm ăn.
Đong lưng, cân thiếu lăng nhăng,
Đời còn ít oán mấy thằng con buôn,
Tham lam là thói con buôn,
Chưa làm vượt phép, luông tuồng hại dân.
Huống chi thầy thuốc cứu dân,
Sao đành tham của, lột trần người ta.
Đời kêu ăn cướp gian tà,
Ai dè thầy thuốc quá cha giặc mùa.
Gây nên nhân quả một tua,
Tội mầy làm bậy tính dùa về đâu.
Âm hồn oan uổng bấy lâu,
Lệnh cho sách mạng kéo đầu nó ra,
Kim châm lửa đốt nát da,
Có vay có trả kêu la lẽ nào.
Phán rằng: Còn lão Tam sao,
Dám đem thuốc bắc trộn vào thuốc nam.
Thầy chi sách vở lam nham,
Nửa nam nửa bắc, lại làm chia hai.
Vả xưa Bản thảo nhiều loài,
Hơn nghìn vị thuốc, thang bài rõ biên,
Trải đời vua thánh tôi hiền,
Dọn in kinh sách, rộng truyền nghiệp y.
Sau rồi còn sách Bổ di,
Theo trong xảm vá, thiếu đi phương nào,
Nay mầy sao dám cầu cao,
Thuốc kiêm nam bắc, bán rao tiếng kỳ,
Chẳng qua một đứa tục y,
Học đòi nếm thuốc, muốn bì thánh nhân,
Cũng chưa phải bậc nho trân,
Dấy xưa chỗ sót, làm tân thư truyền.
Đọt tre gạo lứt hốt liền,
Lá cây Đoan ngọ ấy chuyên trị gì.
Vị nam vị bắc loạn bì,
Như vầy cũng tiếng thế y thuốc lành,
Làm chi đến nỗi chịu hình,
Đầu đuôi chớ dấu, thật tình cung ra.
Tam rằng: Tôi sớm khoản cha,
Thấy nghề làm thuốc trong nhà có ông,
Ông tôi kinh sử ít thông,
Quen theo cây núi, nghề ròng thuốc nam.
Đời ông mặc ý ông làm,
Đến tôi mới cải thuốc nam nửa phần,
Để xem thuốc bắc nửa phần,
Hốt cho lớn gói, bệnh nhân phỉ nguyền.
Cũng vì thuốc bắc mắc tiền,
Hốt theo cân lượng người phiền nhỏ thang,
Bởi người tham thuốc lớn thang,
Vậy nên tôi phải mượn đàng mồng năm.
Nghe cây lá bữa mồng năm,
Chúng đều bẻ uống, nào làm hại gì.
Đọt tre, gạo lứt phạm chi,
Thuở ông tôi, hốt thang gì không gia.
Phán rằng: Thằng miệng lưỡi già,
Cả gan làm hại người ta níu vày.
Mồng năm cây lá rằng hay,
Mấy pho sách thuốc xưa nay làm gì.
Thuốc nam mầy biết tính chi,
Đắng cay chua ngọt, vị đi kinh nào?
Chữ rằng phản, úy, ố sao,
Nửa nam, nửa bắc, trộn vào chẳng lo.
Người đau hoắc loạn gân co,
Đọt tre, gạo lứt, hốt cho còn gì.
Trước ông mày đã ngu si,
Túng ăn làm bậy, dám khi đến trời.
Nay mày còn ỷ ba đời,
Noi theo nghiệp báo quấy vời quấy thêm.
Quân thần tá sứ lỗi niềm,
Sao rằng hốt thuốc, thuốc Xiêm, thuốc Lào?
Dám đem cây lá tầm phào,
Mười tiền một gói, ngỏ trao đành lòng.
Vậy thà theo gốc nghề nông,
Sẵn vườn, sẵn ruộng của ông cha mày.
Mặc tình cấy lúa, trồng cây,
Làm ăn theo thủa, khỏi gây oan cừu.
Nay mày gây những oan cừu.
Có ăn có chịu, còn cưu hận gì?
Lệnh truyền lấy phép âm trì,
Quay chân, vả miệng, trả khi già hàm.
Oan hồn nửa bắc nửa nam,
Cho theo đòi miệng, roi hàm đánh pha.
Phán rằng: Dẫn lão Pháp ra,
Mày làm thầy pháp trừ tà bấy lâu.
Chớ nào binh tướng đi đâu,
Để bầy oan quỷ theo hầu lao xao.
Phép làm chuyên chữa đường nào,
Âm hồn đến cửa chào rào kêu oan.
Cớ sao lại hốt thuốc ngang,
Lời cung cho thật, khỏi mang khổ hình.
Phán rằng: Đã tới tụng đình,
Lẽ nào dám giấu thần linh soi lòng.
Tôi nhờ đạo sĩ một ông,
Truyền cho quyển sách thần thông trừ tà.
Dạy tôi đọc phép giáo khoa.
Về cờ lập trận, mở ra cuộc đàn.
Đánh chiêng, gióng trống rềnh rang,
Sai đồng, luyện tướng, lên đàn đại hô.
Án năm phương có vẽ bùa,
Bắt hai tay ấn phép đùa yêu ma.
Bệnh ai mắc vị các bà,
Phép ngồi gươm tréo, mặc va kéo quần,
Bệnh ai dái dưới lẻ sưng,
Phép đi hỏa thán, lửa hừng chân chuyên.
Bệnh nào thằng Bố làm điên,
Phép dùng cung tiễn, dây huyền, chữa cho.
Bệnh nào mắc nghiệt vong cô,
Phép làm nịch thủy, bó xô sông đằm.
Bệnh nào tinh quái trúng nhằm,
Phép dùng linh kiếm chém bằm thây mê.
Phép làm vượt vức, vượt lề,
Cúng sao, cúng hạn, bộn bề thiếu chi.
Thật tình tôi chẳng học y,
Nhân đau bệnh rét, mới đi cầu thầy,
Xin toa thuốc rét các thầy.
Uống lành, sau mới cho lây cứu người.
Ai đau chứng rét đến vời,
Trước tôi chuyên chữa, sau thời hốt cho,
Cứ thang Tiệt ngược hốt dò,
Có nơi uống khá, cũng cho tiếng đồn.
Phán rằng: Đạo sĩ một môn,
Từ ông Lão tử đạo tôn mở đầu.
Tiên bay biến hóa chước màu,
Thuốc đan, bùa lục, xưa cầu cũng linh.
Đến sau đạo sĩ trộm danh,
Lánh đời vào núi, tu hành mình riêng.
Học đòi luyện phép thần tiên,
Dối trời dối đất, đảo điên việc người,
Kể ra tên biết mấy mười,
Hán thời Trương Bảo ba người tướng quân.
Đua nhau làm giặc hoàng cân,
Tướng rơm binh đậu, rần rần kéo đi.
Ngụy thời có Khấu Khiêm Chi,
Dời non trở biển phép kỳ kinh nhân.
Đường thời có Triệu Quy Chân,
Kêu mưa, hú gió, bùa thần trong tay.
Ấy đều đạo sĩ chước hay,
Đời nào suy yếu, chẳng may gặp chàng.
Gặp chàng ở nước, nước loàn,
Ở nhà, nhà bại, rõ ràng sách ghi,
Nay mày tay ấn cao chi,
Xưng làm thầy pháp, liền đi trừ tà!
Đít ngồi gươm tréo máu ra,
Chân đi hỏa thán, cháy da xèo xèo.
Phép làm bó giác cheo leo,
Tà đâu chẳng thấy, thêm nghèo bệnh dân.
Trống chiêng tung rục tiếng rân,
Rán hơi hò hét lòi gân cổ mày,
Yêu tinh nào sợ phép mày,
Bày ra rộn đám, nhóm bầy giỡn chơi.
Tử sinh có số ở trời,
Vượt lề, vượt vức, thói đời làm điên.
Thánh rằng : “Hoạch tội vu thiên”,
Sao gì cứu đặng, mà nguyền cúng sao?
Làm chi những việc tầm phào,
Đã hư phong hóa, lại hao tiền tài.
Vậy mà nuôi sức hơi trai,
Bách công kỹ nghệ, theo tài làm ăn.
Dù làm một thợ bện đăng,
Còn hơn thầy pháp lăng nhăng khuấy đời.
Mạng dân nào phải trái chơi,
Dám đem thuốc thử bệnh vời thêm đau.
Rét thời có mới, có lâu,
Có hư, có thực, há cầu một phương.
Sách rằng: hàn, nhiệt, ôn, lượng,
Bổ, hòa, công, tán nhiều đường khác nhau,
Y thời dò dắt trước sau,
Vọng, văn, vấn, thiết rồi đầu thuốc thang,
Biết sao mày dám hốt ngang,
Một phương Tiệt ngược khoe khoang đủ rồi?
Đạo y chẳng biết thời thôi,
Ai theo bắt tội mà giồi quấy chi.
Mày đà quen thói khinh khi,
Nhảy vòng quả báo phép gì trở ra.
Truyền cho lũ nợ oan gia,
Nắm đầu đòi mạng, kéo ra đánh nhàu.
Phán rằng: Còn lão sãi đâu,
Xin làm thầy giải bệnh đau cho người.
Dương gian giải đặng mấy mươi,
Sao không âm đức lại vời oan gia.
Sao rằng giải cứu bệnh tà,
Thật tình mày phải cung ra đuôi đầu.
Giải rằng: Tôi đã cạo đầu,
Theo làm tôi Phật lẽ đâu chẳng lành.
Hôm mai niệm kệ đọc kinh,
Xin nhờ phép Phật độ mình chúng sinh.
Phép tôi giải cứu bệnh tình,
Chẳng nhờ dược tính, thang danh làm gì.
Vẽ bùa hòa nước uống đi,
Tro hương, vàng bạc, kinh y cũng lành.
Thuốc này cây trái, cỏ tranh,
Lấy cho bệnh uống, lòng thành cũng hay,
Đấm lưng, vỗ trán bằng nay,
Giải cho trăm bệnh, nhờ tay Phật truyền.
Bệnh nào ăn uống dương yên,
Ống nồi thâu, hết sức ghiền thời thôi,
Mặc tình ai chịu phép tôi,
Ít nhiều lễ vật cúng rồi quy y,
Nam-mô hai chữ từ bi,
Cứu trong bản đạo, hại chi ai mà.
Nay sao còn nợ oan gia,
E khi kiếp trước phúc nhà ít chẳng?
Phán rằng: Mày thật ác tăng,
Bán rao tiếng Phật, kiếm ăn bày lời.
Đã không phương pháp giúp đời,
Lại làm ác nghiệp, dối trời cao xa.
Sách nào trị bệnh người ta,
Nước hòa tro giấy, gọi là thuốc linh,
Phép nào vỗ, đấm, đạp hinh,
Khiến người tật bệnh trong mình thêm đau.
Vốn lòng mày giải nhang dầu,
Giải trà, giải sáp, giải cầu của dân.
Giải chi mà rát ngứa trân,
Bướu đeo còn bướu, phong sần còn phong,
Phật đâu có phép bất thông,
Đổ thừa cho Phật, mông lung người đời,
Vả xưa họ Thích ra đời,
Gọi rằng Bồ Tát gốc nơi làm lành.
Dù ai có bụng tu thành,
“Ba-la” hai chữ, độ mình phương tây.
Từ đời Đông Hán đến nay,
Phật vào Trung Quốc bời bời chẳng an.
Bày ra ba cảnh, sáu đàn,
Nhà chay nhà thí, nhộn nhàng tăng ni.
Nghênh ngang hòa thượng, pháp sư,
Đua nhau làm phép Mâu-ni tưng bừng.
Có danh như Phật Đồ Trừng,
Áng sen rửa ruột, chết chưng về hồn.
Có danh như họ Sa Môn,
Chặt tay đúc Phật, tiếng đồn luống xa,
Có danh như họ Cưu-ma,
Nuốt châm chữa bệnh, yêu tà sợ răn.
Giảng kinh như kẻ cao tăng,
Hoa trời bay xuống, đá ưng điểm đầu.
Cám thương Tiêu Diễn công tu,
Bỏ mình ba thứ, theo cầu Thích ca.
Đài thành xin Mật Hằng Hà,
Nào hay đạo Phật ấy là không không.
Đạt Ma gậy lách qua sông,
Bảy mươi hai cảnh chùa đông sãi đầy.
Đạt Ma chiếc dép về Tây,
Chúa Lương mất nước, biết thầy đâu ôi!
Mục Liên tu đã thành rồi,
Sao không rước mẹ lên ngồi tòa sen.
Để chi đến nỗi thân hèn,
Ăn mày ngục quỷ mới men đi tìm,
Ai rằng đạo Phật vớt chìm,
Mấy người sa đắm khôn tìm Như Lai.
Dường qua Thiên Trúc chông gai,
Người trong biển khổ trông ai độ mình.
Hỡi ôi bầy dại tham sinh,
Nghe lời sãi dụ quên mình làm dân.
Đạo người hai chữ quân thân,
Quân thân chẳng biết, còn luân lý gì,
Nay mày mượn tiếng A-di,
Cạo đầu đổi phục, làm kỳ hoặc nhân.
Mang câu “vô phụ, vô quân”,
Tội mày chẳng giải, giải phần tội ai.
Vậy thà theo chữ “hóa trai”,
Nhờ người bố thí, hôm mai nuôi lòng,
Đừng mơ sức tượng, sức long,
Khoe khoang phép Phật hại lòng dân ta.
Dù cho Phật tổ lại ra,
Chắp tay ngồi đó, nước nhà nhờ chi.
Huống mày giả dạng tu Trì
Gạt người lấy của, âm ty biên đầy,
Lệnh truyền dây sắt treo cây,
Đánh cho văng thịt, coi mầy giải sao,
Đánh rồi địa ngục đem giao,
Diêm La nghĩ xử bậc nào tội cai.
Đáng cho thằng sãi đầu thai,
Kiếp heo, kiếp chó, theo loài mọi xa.
Xảy nghe trống điểm canh ba,
Phán quan thong thả, án tra vừa rồi.
Quân hầu bẩm việc đầu hồi,
Bắt hai người khách, giam ngồi chờ thưa,
Ngư, Tiều vào lạy trước thưa,
Phán quan chợt thấy, tình ưa vui chào.
Phán rằng: Họ Mộng, họ Bào,
Hai người cầu đạo dường nào đến đây?
Đến đây mắt đã thấy vầy,
Gắng công học thuốc, làm thầy cho tinh.
Đọc thư chẳng khá lênh chênh,
Một phơi, mười lạnh, dối mình biết chi,
Dùng phương gẫm lại xét đi,
Chẳng nên lạo thảo một khi lấy rồi.
Sao cho âm đức dài trôi,
Khỏi vòng nhân quả đền bồi thân sau,
Nhớ câu “thiện ác đáo đầu”,
Phúc đền, họa trả, đâu đâu không trời.
Phán rồi trà nước cho mời,
Ngư, Tiều nào dám mở hơi nói gì.
Uống trà rồi lính đem đi,
Qua nơi nhà túc, một khi nghỉ mình.
Ngư, Tiều phách khiếp, hồn kinh,
Đến nằm liền ngủ, thiên minh dậy rồi.
Dậy rồi mắt thấy, hỡi ôi,
Một tòa thần miếu, cảnh ngồi vắng hoe,
Bên thềm cỏ lạ le te,
Trước sân tùng bách, tàn che im lìm.
Trong liêu ba bức châu liêm,
Rồng leo cột vẽ, lân tiềm vách tô.
Trước tòa sen nở sáng hồ,
Hai bên non núi, đá phô hàng chầu,
Trời trong gió lặng, mưa thâu,
Tiếng khe suối chảy, như tâu dịp đờn.
Miếu môn có tấm bảng sơn,
Chữ in “Y Quán Trạng Ngươn (nguyên) chi Từ”.
Ngư, Tiều vào giữa miếu từ,
Ngưỡng xem thần tượng nghiêm như sống ngồi.
Tốt thay tướng mạo khôi khôi,
Rồng chầu, cọp nép, thêm dồi uy nghi.
Hai người lòng sợ kính vì,
Lâm dâm vái lạy, xin tỳ hộ tôi.
Lạy rồi vội vã bước lui,
Ra ngoài cửa miếu nhắm xuôi tìm đường.
Đường đi lui tới chưa tường,
Ngó mông nào thấy người thường vãng lai.
Chim kêu, vượn hú bên tai,
Nguồn Đào vắng dấu, biết ai hỏi cùng.
Đang khi lo sợ phập phồng,
May đâu lại gặp một ông bạc đầu.
Gậy lê tay chống qua cầu.
Cười rằng: hai gã đi đâu chỗ này?
Xóm ta ở cũng gần đây,
Hai người lần tới ngõ này, theo ta!
Ngư, Tiều mừng gặp lão già,
Vội vàng theo gót về nhà hỏi thăm.
Đi vừa vài dặm tăm tăm,
Chó chu, gà gáy, tiếng tăm đông đầy,
Lăng xăng kẻ cuốc, người cày,
Vườn dâu, đám ruộng, cùi đày làm ăn.
Ngư, Tiều đều thấy than rằng:
Bàn phong thói cũ, nay bằng còn đây,
Đến nhà lão trượng tiệc vầy,
Đãi nhau cơm, rượu, lối này hết lo.
Ba người ăn uống say no,
Cùng nhau han hỏi chuyện trò một giây.
Ngư rằng: Đi lạc đến đây,
Chưa hay châu huyện đất này gọi chi.
Trong non có miếu tổ y,
Đời nào sùng phụng, cất chi xa đường?
Lão rằng: Ta thuở Đại Đường,
Cháu ông Cung tử ở làng Thanh Cao.
Từ năm chạy giặc Hoàng Sào,
Mới đem làng xóm dời vào cõi đây.
Vừa ngoài bảy chục năm nay,
U Châu lại bỏ đất này Liêu xâm.
Đời còn nhớ đức Vân Lâm,
Nhóm nhau lập miếu, thờ thần trong non.
Bốn mùa hương hỏa vuông tròn,
Khỏi nơi gió bụi, thật còn anh linh.
Tổ ta hiển thánh rất linh,
Ứng cho điềm mộng sự tình đêm nay.
Dạy ta kịp buổi sáng ngày,
Vào non chỉ dẫn hai thầy đường ra.
Thần linh bằng chẳng mách ta,
Hai thầy đi, bị hùm đà ăn thây.
Ngư, Tiều nghe chuyện đêm nay,
Ngó nhau sảng sốt như ngây một hồi.
Bèn đem việc thấy đầu đuôi,
Nói cùng lão trượng, ngùi ngùi thở than.
Lão rằng: Hai chữ “oan oan”,
Một vay một trả, người mang nợ đời.
Đạo y xen giúp công trời,
Hay là quốc thủ, dở vời họa môn.
Các thầy học thuốc sồn sồn,
Hại người sao khỏi âm hồn theo sau,
Dụng y chẳng những họa sâu,
Đến thầy địa lý, phải âu lành nghề.
Thanh Ô xưa có sách đề,
Phép đi coi đất, lành nghề kham dư.
Học nay gọi tiếng địa sư,
Nhìn sai phương hướng, làm hư tộc người.
Lỗi y hại một mạng người,
Lỗi thầy âm táng, chết tươi một dòng.
Cho hay phong thủy rồng rồng,
Trọn gây nghiệp báo, lại đông âm hồn,
Hỡi ôi nghề nghiệp khéo khôn,
Chớ tham của lợi, để dồn nợ oan,
Nghề nào nghiệp nấy buộc ràng,
Gặp cơn vận thịnh, khuyên chàng ngó sau,
Có câu phúc tội theo sau,
Lẽ trời báo ứng, chẳng mau cũng chầy.
Một lời vàng ngọc lão này.
Đinh ninh gửi nói các thầy tục y.
Chữ “hành” xét lại chữ “tri”.
Biết thời làm biết, chớ khi quỷ thần.
Ngư, Tiều từ biệt lão nhân,
Hỏi thăm đường sá, lần lần ra đi.
U Châu từ ấy ra đi,
Xông pha trời hạ, đang khi nắng nồng.
Đi gần đến phủ Minh Công.
Mặt trời xế mát, ngó mông xa chừng.
Trọn ngày đi đã mỏi chân,
Ghé vào xóm quán vừa chừng nghỉ ngơi,
Thấy quân phủ dẫn một người,
Mang xiềng rổn rảng vào nơi quán này.
Ngư, Tiều hỏi tội sao vầy?
Phủ quân đều nói là thầy thuốc cao.
Ngư rằng: Người bán thuốc cao,
Tội chi đến nỗi xiềng vào khổ thân.
Cao rằng: Mang tiếng sát nhân,
Án đày biển bắc, chung thân khó về.
Thói quen sinh nghiệp, tử nghề,
Cây rừng đủ đọt, hái về nấu cao.
Thuốc cao là thuốc bán rao,
Người quen mua uống lẽ nào hại ai.
Bởi câu “vận kiển, thời quai”,
Bệnh lành chẳng gặp, gặp loài bệnh hung.
Chẳng dè người mắc chứng phong,
Thuốc cao cho uống vào lòng, chết tươi.
Nói ra non nước hổ ngươi,
Lá cây đủ đọt giết người bao nhiêu.
Bấy lâu Cao mượn đã nhiều,
Phen này cao trả, xiềng đeo cổ đầy.
Bấy lâu Cao khiến làm thầy,
Phen này Cao bỏ theo bầy tội danh.
Ngư, Tiều nghe nói giật mình,
Nhớ đêm trong miễu, sự tình như đây.
Trạng Nguyên miễu bắt năm thầy,
U Châu phần đất cách đây xa chừng.
Nay còn sót một thầy rừng,
Minh công phủ bắt lại trưng án đày,
Hỡi ôi một việc làm thầy,
U minh hai chữ, khó lây lất rồi.
U thời có quỷ thần soi,
Minh thời có phép nước coi đề hình.
Tiều rằng: Nghề thuốc đặng tinh,
Nào lo ràng rạc khổ hình xiềng gông.
Bởi đời nhiều kẻ bất thông,
Học không chỗ gốc, riêng trông cửa rèm.
Học nho vài chữ lem nhem,
“Mân” coi ra “kiển” “lỗ” nhèm ra “ngư”.
Hoặc là dở sách y thư,
Luận đâu trị đó, hốt vơ lấy tiền.
Hoặc là dở sách địa biên,
Nhắm phương coi hướng làm xiên cầu tài.
Có người vốn nghiệp sơ sài,
Đến đâu khua mỏ, khoe tài rằng hay.
Có người vốn nghiệp chẳng hay,
Giả làm mặt biết lời bày chê khen.
Đua nhau trở trắng làm đen,
Hình hươu lốt chó, thói quen dối đời.
Mấy thằng láo xược theo chơi,
Ví như ếch giếng, thấy trời bao nhiêu.
Trộm nghề tay khéo vẽ theo,
Vẽ hùm ra chó, để treo chúng cười.
E khi gặp rượu tiên mời,
Đãi cho vài chén, xui hơi cáo bầy.
Hai ta mắt đã thấy vầy,
Học xin giữ gốc, làm thầy nhà ta.
Ngư rằng: Phược trước một khoa,
Tiểu nhi trăm chứng, chính tà cho tinh.
Lần lần rồi trị các kinh,
Học cho tột lẽ bệnh tình bách gia.
Tiều rằng: Triền cũng một khoa,
Phụ nhân trăm chứng, trẻ già cho xong.
Sau rồi nhóm sách các dòng,
Học cho thấy đạo, thời lòng mới an.
Hai người nằm quán luận bàn,
Sáng ngày cơm nước lên đàng Minh Châu.
Ngư, Tiều từ cảnh Minh Châu,
Về nơi quê quán, đi lâu hơn ngày.
Đến nhà con vợ mừng thay,
Tính đường đi lạc ba ngày có dư.
Từ đây cải nghiệp tiều, ngư
Làm qua nghề thuốc tổ sư mở lòng,
Khi nên trời cũng giúp lòng,
Bệnh giàu cho của mua ròng sách y.
Sau dù có chỗ bất tri,
Cùng nhau thay đổi liền đi Đan Kỳ.
Cùng đều nhờ phép Nhân Sư,
Dọn trong phép bí nghề y gia truyền.
Phụ khoa cho gã Thê Triền,
Đàn bà trăm chứng đều chuyên trị lành.
Nhi khoa cho Tử Phược rành,
Trị trăm chứng trẻ, hậu sinh đều nhờ.
Hai thầy ra sức công thư.
Cám ơn Đạo Dẫn, trọn nhờ Nhập Môn.
Nghề hay tiếng nổi như cồn,
Trị đâu lành đó, xa đồn danh y.
Hai thầy đặng chữ nho y,
Quan yêu dân chuộng, sách ghi giúp đời,
Đến đây tuyệt bút hết lời,
Nôm na một bản để lời hậu lai.

NỮ TÚ TÀI

Nữ tú tài

Nữ tú tài là truyện thơ Nôm Việt Nam, khuyết danh, gồm 914 câu lục bát. Đề tài lấy từ truyện “Nữ tú tài di hoa tiếp mộc” (Nữ tú tài lấy hoa nọ chắp cành kia) trong “Kim cổ kì quan” của Trung Quốc, ca ngợi trí tuệ, tài năng, đức hạnh của người phụ nữ.

Thung dung nhân thủa thanh nhàn,
Thấy trong “Kim cổ kỳ quan” sách ngoài.
Họ Văn, có nữ tú tài,
Con quan Tham tướng tuổi vời xuân xanh.
Vả thêm quốc sắc khuynh thành,
Đã hay nghề ngựa, lại lành nghề cung
Chân thiếu nữ, giả anh hùng,
Trượng phu, mấy kẻ địch cùng kém xa.
Đặt tên là ả Phi Nga,
Huyên đường, sớm vắng, còn nhà nghiêm quân.
Tống triều đại chấn tư văn,
Nho phong thì thắm, vũ thần thì khinh.
Phi Nga có chí cậy mình,
Quyết lòng nấu sử, xôi kinh, theo thì.
Quần chân, áo chít, cài khuy,
Trá hình làm đấng nam nhi, học hành.
Cải danh hiệu đích Tuấn Khanh,
Lạy cha, thôi mới khởi trình tòng sư.
Đêm ngày luyện tập thi, thư,
Phong tư chỉnh chệ ngôn từ khoan dung.
Bạn cùng Ngụy Soạn, Tử Trung,
Đua nhau trận bút vẫy vùng kình, côn.
Một phen cá vượt vũ môn,
Ba chàng cùng chiếm khôi nguyên tú tài.
Tiếng đồn vang động khắp nơi,
Kẻ xin sửa túi, người nài nâng khăn.
Bướm dờn, ong liệng vườn xuân.
Ai hay rằng kẻ văn nhân, nữ tài.
Ba chàng kinh sử, dùi mài,
Mặt ai kết chỉ, mặc ai gieo cầu.
Một hôm thanh vắng thư lâu
Tử Trung nói cợt trình hầu Tuấn Khanh.
Rằng: “Hai ta tuổi xuân xanh,
“Đồng niên, đồng cán, khoa danh cùng đồng.
“Ước gì biến dịch thư, hùng,
“Một trai một gái vợ chồng đẹp đôi!”
Soạn Chi nghe nói mỉm cười,
Rằng: “Âm dương vốn khí trời bẩm sinh.
“Ví mà biến tướng cải hình,
“Lấy nhau, đây cũng thuận tình gả cho!”
Tuấn Khanh có ý thẹn thò,
Lệ khi ngồi đứng lõa lồ hình dong.
Thời ta khôn nẻo đề phòng,
Giả rằng qui tỉnh phủ công ra về.
Nghĩ mình phận gái khôn bề,
Sớm khuya bè bạn gần kề lửa hương.
Cùng nhau chung chiếu, chung giường,
Tử Trung, Ngụy Soạn hai chàng xưa nay.
Họa là có kẻ biết hay,
Thời ta xa chạy cao bay nẻo nào ?
Dẫu mà khép nép ra vào,
Nương long đột khởi má đào hây hây.
Dễ mà gìn giữ đêm ngày,
Lửa gần rơm, lỡ sự này biết sao!
Đã hay rằng chẳng thế nào,
Song xem Đỗ Tử ước ao tính tình.
Tuổi cùng thập bát xuân xanh,
Soạn Chi nhị thập hai anh quốc tài.
Âu ta phải lấy một người,
Kết làm phu phụ hợp đôi phỉ nguyền.
Cát đằng nhờ gió đưa duyên,
Song hai gã ấy tài hiền ngang nhau.
Nào đâu đã hẳn hơn đâu,
Dễ mà kết chỉ gieo cầu cho xong.
Đôi tay bưng lấy quả bồng,
Thuyền quyên thì một, anh hùng thì hai.
Chẳng hay duyên phận bởi trời,
Mượn cơ tạo hoá thay lời nhân gian.
Còn đang nghĩ ngợi lo toan,
Bỗng nghe chim tước kêu ran ngoài lầu.
Càng như khêu giục cơn sầu,
Ngẩn ngơ mặt ngọc, âu sầu nét hoa.
Nàng bèn ngước mắt trông ra,
Trên cành, tước đỗ xa xa vừa tầm.
Lấy tên miệng nhổ tay cầm,
Đề thơ bát tự lâm râm khấn nguyền.
Đề rằng: “Phát tất ứng huyền.”
Bắn con chim tước phải tên rõ ràng.
Chim bay rơi xuống học tràng.
Tử Trung thoắt đã vội vàng ra xem.
Thấy tên cắm ở đầu chim,
Nhổ ra chàng mới nhận xem chữ đề.
Vô tình ai biết việc chi,
Trông sau bỗng có tuỳ nhi lại thì…
Cầm tên giao lại Soạn Chi,
Rằng: “Tay diệu thủ, tài kỳ xuyên dương.
Tử Trung từ tạ bản trường,
Theo hề hồi tỉnh lưỡng đường xuân huyên.
Soạn Chi thấy chữ đề tên,
Rằng: “Tay này hẳn quả nhiên đại tài!
“Song hiềm một nỗi sự người,
“Phi Nga chưa rõ gái, trai nhường nào ?”
Một mình nghĩ ngợi thấp cao,
Tuấn Khanh thoắt đã trở vào cải trang.
Lại y nam tử đường đường,
Xăm xăm bước tới học đường mà lo.
Thấy Soạn Chi mặt ngẩn ngơ,
Cầm tên mà ngắm câu thơ chữ đề.
Tuấn Khanh mới hỏi: “Rằng thì,
“Tên này bắt được chữ gì mà coi ?”
Soạn Chi rằng: “Lúc vừa rồi,
“Thấy tên bắn tước có đôi thơ đề.
“Đã hay rằng của dị kỳ,
“Phi Nga tự ký thực thì nữ nhân.
“Song còn nghĩ ngợi phân vân,
“Đàn bà chưa dễ mấy thân lành nghề!”
Tuấn Khanh rằng: “Dám giấu gì,
“Phi Nga tên ấy thực thì chị tôi.
“Phải khi dạo cảnh hiên mai,
“Bắn con chim tước bay rơi bên này.
“Sự tình trình để anh hay,
“Thực tay thiếu nữ, cũng tay anh hùng!”
Soạn Chi rằng: “Mới lạ lùng!
“Nữ nhân tài kể đầu dòng thủ khoa.
“Hỏi thăm chị ả Phi Nga,
“Xuân xanh độ mấy ? Mặt hoa nhường nào ?
“Đã tìm nơi sánh anh hào ?
“Hay còn cung cấm, lầu cao đợi thì ?”
Tuấn Khanh rằng hỏi làm gì ?
“Tôi thì mười tám, chị thì đôi mươi!
“Hình dung thể dáng con người,
“Chị tôi thì cũng như tôi khác nào!
“Ngọc lành còn đợi giá cao,
“Hôn nhân chưa định nơi nào kết nghi.
“Phép nhà chẳng dám phi vi,
“Nhìn làm chi, hỏi làm chi, hỡi chàng ?”
Soạn Chi nghe nói tỏ tường,
Khác nào Lưu, Nguyễn gặp nàng tiên nhân.
Rằng: “Em muốn kết Châu, Trần,
“Cậy anh gánh vác, đỡ đần cho nên.
“May mà hương lửa bén duyên,
“Cũng vì mấy chữ trúc tiên thơ đề.”
Tuấn Khanh rằng chẳng nệ gì,
“Vâng lời, em sẽ thử về hỏi xem,
“Liệu lời mà nói cho êm,
“May ra chị lại nghe em chờ thì.
“Dù mà nên chữ vu qui,
“Thời anh phải lấy vật gì đưa sang.”
Soạn Chi mở tráp lấy vàng,
Đưa ngay một chiếc ngọc trang báu kỳ.
Lại đề tiểu luật một thi,
Rằng: “Đưa vi vật làm ghi tấm lòng.
“Phiền anh đưa đến tướng công,
“Xin cho chị Ả lầu trong xem tường.
Gọi là ghi tấm lòng vương,
“Hễ xem thấy của thời thương đến người,”
Tuấn Khanh xem của chịu lời,
Tạ từ thôi mới tái hồi bản gia.
Mặt hoa luống thẹn đường hoa,
Than rằng: “Sự bởi trăng già trêu ngươi,
“Lòng ta rắp lấy một người,
“Bói tên thời lại lạc loài khác tên.”
Nàng buồn, than thở sự duyên,
Rằng: “Lòng chẳng rắp mà nên lạ lùng.
“Tiếc thay chàng Đỗ Tử Trung,
“Đồng niên vả lại oai dung đức tài.
“Lòng ta muốn kết duyên hài,
“Song tên thì lại ở nơi tay người!”
Soạn Chi chắc hẳn mười mươi,
Sự mình chẳng lộ cho ai biết tình.
Đêm ngày tơ tưởng một mình.
Tuấn Khanh lại đến tập tành làm văn.
Soạn Chi sẽ hỏi sự nhân,
Tuấn Khanh rằng: “Sự mười phân đã đành.
“Thơ tiên em đã đệ trình,
“Chị rằng: “Hội thí danh thành sẽ hay.
“Ngọc trang chị đã cầm tay,
“Vâng lời em mới sang đây tức thì.
Xin anh chớ nệ điều chi,
“Vu qui cùng với vinh qui cũng mầu!”
Soạn Chi rằng: “Chẳng bao lâu,
“Nguyện xin như ý sở cầu cho cam.
“Xin đừng ra dạ bắc nam,
“Mà chê lươn ngắn, lại tham trạch dài!”
Tuấn Khanh nghe nói mỉm cười,
Trình rằng: “Đã có đôi nơi cao dày.
“Có tiên thì hậu mới hay,
“Đã trồng cây đức, ắt dày nền nhân,
“Mấy lời gắn bó ân cần,
“Đành rằng thiên địa, quỉ thần chứng ta!”

Còn đương trò chuyện lân la,
Bỗng nghe chiếu chỉ Khai khoa cầu hiền.
Soạn Chi thoắt thấy tin truyền,
Rủ hai anh bạn cùng lên kinh kỳ.
Tuấn Khanh cố ý trở về,
Trình quan Tham tướng xin thi kịp người.
Dạy rằng: “Phận gái nữ hài,
“Thi Hương đã đỗ tú tài thì thôi.
“Thôi đừng thi cử theo người,
“Nữa người ta biết nữ hài thì sao ?
“Âu là cáo bệnh mới cao,
“Anh em ai biết sự nào mà nghi!”
Thoắt thôi Đỗ Tử, Soạn Chi,
Hai anh đều đến rủ đi vào trường.
Tuấn Khanh vâng cứ nghiêm đường,
Giả rằng bị bệnh phi thường, cáo thi.
Hai người khi ấy ra đi,
Tới nơi nộp quyển vào thi đua tài.
Công danh ai dễ nhường ai,
Hai chàng cùng chiếm tam khôi bảng vàng.
Tiếc thay tài Tuấn Khanh chàng,
Có thi thì cũng bảng vàng tam khôi.
Soạn Chi xem bảng xuân rồi,
Đinh ninh bèn nhớ đến lời đinh hôn.
Về nhà Tham tướng họ Văn
Nào hay thời vận gian truân quở người.
Phải thằng Binh Đạo vô loài,
Cùng quan Tham tướng bất hài đã lâu.
Nó làm một bản vọng tâu,
Vua đòi Tham tướng về chầu khám tra.
Biên phong điền sản cửa nhà,
Cùng là thân thích chẳng tha một người.
Nhưng cho có một tú tài,
Vì rằng công tử là người văn nhân.
Tuấn Khanh bèn cũng theo chân,
Theo vào trong ngục ân cần trình cha.
Mấy lời sau trước thưa qua,
Mưa tuôn giọt ngọc, lệ sa nên doành.
Rằng: “Xưa có gái Đề Oanh,
“Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.
“Tôi nay cũng phận nữ hài,
“Xin soi gương trước, báo nơi đạo thường.
Nói thôi mở túi lấy vàng,
Chia cho những kẻ ngục trường làm ăn:
“Đã hay : quan pháp vô thân” ,
“Song lẽ giữ lấy chữ “nhân” làm đầu.
“Khoan cho lão tướng giải sầu,
“Đôi ơn lượng cả các hầu ngục quan.”
Ngục trường mấy kẻ cũng ngoan,
Nghe lời bèn để lão quan ở ngoài.
Tướng công sẽ bảo tú tài,
Rằng: “Con là phận nữ hài ngây thơ.
“Tiến kinh vạn lý trình đồ,
“Lệ khi ấm lạnh lõa lồ thì sao ?”
Nàng rằng: “Ngựa cỡi, cũng đeo,
“Rừng hoang, núi ngát, hiểm nghèo quản ru!
“Miễn là khỏi được oan vu,
“Một đoàn phụ tử thiên thu yên lành.
“Lạy cha con kíp khởi trình,”
Về nhà khi ấy một mình lo toan.
Gọi Văn Long đến thở than,
Rằng: “Bây giờ lúc gian nan hiểm nghèo.
“Ta là thân gái bọt bèo,
“Vì cha nên phải quyết liều mình đi.
“Quan san nghìn dặm quản chi,
“Song hiềm thiếu kẻ nữ nhi theo đòi.
“Phiền ngươi kiếm lấy một người,
“Trá hình nam tử với ngươi theo cùng!”
Long rằng: “Xin cả vợ chồng,
“Quẩy bầu, giắt ngựa, mang cung theo hầu.”
Vợ chồng Long mới bảo nhau,
Rằng: “Trong nghĩa nặng ân sâu chưa đền.
“Bây giờ người mắc oan khiên,
“Không dưng ai có cần phiền đến ai.
“Con người quốc sắc nữ tài,
“Còn liều chẳng nghĩ dặm dài xông pha.
“Huống chi thân kẻ chúng ta,
“Mình đừng e lệ đường xa nỗi gần!
“Hễ lòng ta ở có nhân,
“Ắt là thiên địa đền ân sau này.”
Vợ Long người cũng ngoan thay,
Nghe lời chồng bảo bước ngay vào nhà.
Đổi thay quần áo đàn bà,
Mặc đồ nam tử bước ra tức thì.
Vợ chồng khi ấy cùng đi,
Tuấn Khanh được kẻ nữ nhi theo hầu.
Đêm ngày mưa nắng giãi dầu,
Một cung một ngựa, một hầu lân la.
Chẳng nề muôn dặm đường xa,
Chân đi miệng niệm Di Đà độ thân.
Khấn rằng: “Thái thượng lão quân,
Cỡi trâu hóa phép phong vân chớ chầy.
Kìa trời cao nọ đất dày,
Xét soi kíp giải oan này mới xong.
Bèn làm văn sớ một phong,
Khẩn cầu thiên địa, Thổ công linh thần.
Cẩn phong một sớ vân vân,
Ngày đi tối lại nương thân khẩn cầu
Mưa tran nắng nấu giãi dầu,
Thành đô phủ ấy, đã hầu tới nơi.
Lầu Tần, quán Sở thảnh thơi,
Tạm vào trú ngụ ở nơi nhà hàng.
Nào ngờ cách bức hòe tường,
Trông sang thấy có một nàng tiểu thư.
Nhìn xem vẻ mặt nhân từ,
Long lanh mắt phương, nõn nà vóc mai.
Vén mành mành liếc trông ra,
Thấy chàng, len lét gót hoa đứng rình.
Người quốc sắc, vẻ khuynh thành,
Khoé tường ghé mắt, bậc rành phong tư.
Ngẫm rằng thực khách thi thư,
Dung nghi chỉnh chện, ngôn từ khoan thai.
Hẳn người danh sĩ cao tài,
Đi đâu đồ đệ lạc loài đến đây ?
Hay là ông Nguyệt xe giây,
Giẩy giun chàng đến chốn này cùng ta ?
Mặt hoa ẩn bóng tường hoa,
Liếc xem thử ý người ta thế nào ?
Càng nhìn càng nổi trận rào,
Nương long thổn thức, áo bào chứa chan.
Biết ai mà đặng thở than,
Ước gì đây đấy giao hoan một phòng.
Thuyền quyên đã rõ anh hùng,
Sao anh hùng chẳng rõ lòng thuyền quyên ?
Ruột tằm bối rối nào yên,
Bồi hồi chưa định kinh quyền làm sao.
Tuấn Khanh lập chí làm cao,
Gọi hề lấy rượu đưa vào bình phong.
Chàng cùng đồ đệ thung dung,
Tạm bày tiệc ngọc chén chung sa đà.
Bỗng đâu thấy một mụ già,
Tay bưng tiểu níp đồ trà, cam, lê.
Trình rằng: “Lấy tấm lòng quê,
“Nhà nàng tôi ở gần kề lân la.
“Trộm nghe công tử đường xa,
“Trà thang sẵn có của nhà đưa sang.
“Vật tuy bé nhỏ lạ thường,
“Song le nghĩa ví nghìn vàng trọng thay!”
Tuấn Khanh đương lúc giở say,
Rằng: “Lòng cho khách, khách rày đội ơn!
“Từ ra, sợ bảo rằng hờn,
“Lấy ra, chưa kể căn nguyên nhường nào ?
“Đã hay vay mận trả đào,
“Song ơn này để biết bao giờ đền ?
“Vả bấy nay chưa từng quen,
“Nào ai biết họ tường tên bao giờ ?”
Mụ rằng: “Nàng Cảnh tiểu thư,
“Con quan Tướng quốc khi xưa, kén chồng.
Ở cùng ông ngoại tướng công,
“Thấy chàng tướng mạo uy dung khác thường.
“Nay chàng muôn dặm đường trường,
“Qua đây là chốn phố phường hôi tanh
“Sẵn đây có của ngon lành,
“Gọi là vật mọn, vi thành sai đưa.
“Để mà ghi tấm lòng thơ,
“Họa may kim cải duyên ưa cùng người!”
Tuấn Khanh bèn chịu mỉm cười,
Mới ngâm tiểu luật thử chơi xem lòng.
Bút hoa tay thảo cẩn phong,
Gửi lời mụ lão tạ lòng ân nhân.
Lĩnh lời mụ mới ra sân,
Gọi hầu bèn hỏi vân vân mọi lời.
Văn Long mách bảo một hai;
Rằng: “Chàng Công tử tú tài họ Văn.
Chưa đâu xứng kết hôn nhân,
“Cớ sao mụ hỏi ân cần làm chi ?”
Nghe lời mụ lão trở về,
Mấy lời bộc bạch dâng thơ cho nàng.
Nàng từ tiếp được thơ chàng,
Đã say tướng mạo lại tường họ tên.
Bỗng đâu như chất lửa phiền,
Bèn đề một bức thư tiên họa vần.
Giục già đem đến Văn quân,
Cứ lời thưa thốt ân cần cho thông.
Nàng bèn vào gửi Phú ông,
Rằng: “Tôi thấy gã con dòng họ Văn.
“Thực là tài tử giai nhân
“Hình dung, tướng mạo mười phân chỉnh tề.
“Trọ bên tửu điếm gần kề,
“Lòng tôi cũng muốn kết nghì hợp duyên.
“Đã tra tường họ tường tên,
“Dám trình ông dạy có nên chăng là ?”
Phú ông tính khí thực thà,
Rằng: “Xưa con nguyện, ông đà nhớ đây!
“Bây giờ đã đẹp duyên này,
“Gọi hề lấy áo ông nay ra mừng.”
Tuấn Khanh đương tiệc tưng bừng,
Đã nghe tin nhạn bay chừng tới nơi.
Mụ già len lén trình lời,
Rằng: “Thơ này của cô tôi trong lầu.
“Dạy tôi đem đến thưa hầu,
“Nguyện xin quân tử hảo cầu kết duyên.”
Chàng bèn mở bức vân tiên,
Đọc xong, mình cũng ngợi khen rằng tài.
Tiếc thay nàng cũng một loài,
Trượng phu mà kết duyên hài, đẹp đôi!
Lặng ra, sợ bảo rằng tồi,
Chê ra lại sợ người cười hẹp dong!
Phải tìm quỉ kế mới xong,
Rằng: “Ta đã đội ơn lòng biết bao.
“May chân bước tới vườn đào,
“Giáng Hương, Từ Thức lẽ nào gặp tiên!
“Lửa gần hương muốn bén duyên,
“Anh hùng nỡ phụ thuyền quyên rẫy ruồng,
“Sợ rằng đã có tao khang,
“Mới hay bất khả hạ đường biết sao ?
Mụ rằng: “Thục nữ anh hào,
“Làm chi e lệ thấp cao rẫy ruồng!
“Nguyên xưa nàng đã tỏ tường,
“Mới đem duyên kết cùng chàng, không đâu!
“Nỡ nào ruồng rẫy, tủi nhau,
“Nỡ nào khẩn nguyện nơi cầu, nơi vong!”
Mụ còn năn nỉ chưa xong,
Trông ra đã thấy Phú ông bước gần
Tuổi vừa thất thập ngoại tuần,
Phơ phơ tóc bạc, xoăn xoăn râu rồng.
Đến chào chàng: “Tiểu tướng công!
“Mừng rằng hạnh ngộ tương phùng đến đây.
“Già còn cháu gái thơ ngây,
“Là con Cảnh Tướng quốc nay ở cùng.
“Bồ côi, vả giữ con dòng,
“Theo đôi kim chỉ nữ công kịp người.
“Chưa nơi nào đẹp duyên hài,
“Bằng lòng lấy, nó chọn người hợp duyên.
“Thấy chàng công tử sĩ hiền,
“Dám xin hạ cố tòng quyền nên chăng ?
Tuấn Khanh bèn mới thưa rằng:
“Đội ơn quốc lão xem bằng Thái san.
“Đoái thương đến kẻ sĩ hàn
“Chẳng so hơn thiệt, chẳng màng trọng khinh.
“Song nàng dòng dõi tướng khanh,
“Đã khuynh quốc sắc, lại danh nữ tài.
“Tôi là vũ tướng nhi hài,
“Hổ thân ít chữ phải mài cung đao.
“Dám đâu đọ khách lầu cao,
“Bao giờ đai bạc cẩm bào mới hay.
“Vả còn nghiêm phụ khi nay,
“Mắc oan còn phải đợi ngày giải oan.
“Dám xin lạy đấng tôn nhan
“Xót tình cho kẻ sĩ hàn đội ơn!”
Lão ông nghe nói căn nguyên,
Khen rằng: “Thực kẻ sĩ hiền hiếu trung.
“Dỗ người, người chẳng nghe cùng,
“Về không thì sợ mất lòng cháu ta.
“Âu là già dụng mưu già,
“Tìm lời phương tiện ắt là phải nghe.”
Nhủ rằng: “Ngọc diệp kim chi
“Lứa đôi xem cũng phải thì lứa đôi.
“Nghe già chàng hãy chịu lời,
“Gửi qua nghiêm phụ để người được hay.
“Việc rồi chàng trở về đây,
“Lễ nghênh hôn ấy, già nay xin giùm.”
Thấy lời lão trượng gạn gùng,
Chàng liền xảy nhớ Tử Trung bạn hiền.
Hiện còn chưa định nhân duyên,
Bèn toan một bước tạm quyền giả danh.
Rằng: “Ơn lão trượng hậu tình
“Đoái thương đến kẻ lữ hành, tha hương.
“Dạy lời phương tiện đôi đường,
“Vâng lời kẻo bận lòng vàng nặng thương.”
Trong mình cởi lấy ngọc trang,
Tay dâng, rằng: “Chút vật thường làm tin.
“Gọi là tiểu lễ tòng quyền,
“Trao người đành dạ, tôi xin khởi trình.
“Nguyện cho vạn sự giai thành.
“Thì tôi sẽ biện vấn danh lễ thường.”
Phú ông lĩnh lấy ngọc trang,
Đưa về lại phó cho nàng tiểu thư.
Nàng vâng lĩnh lấy bấy giờ,
Như khơi bể ái, như khua cơn sầu.
Lão ông bèn trở về lầu,
Truyền làm tiệc rượu mừng hầu tân lang.
Gọi là lễ tiễn lên đường,
Phó kinh, thành sự thì chàng hồi qui.

Tiệc rồi từ tạ ra đi,
Buộc yên, cột ngựa, hai hề theo sau.
Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu
Thẳng dong dặm liễu, vó câu bước dồn.
Gập ghềnh cách trở quan san,
Kìa non Thúy lĩnh, nọ ngàn Tương dương.
Xa xôi muôn dặm đường trường,
Tuấn Khanh thoắt đã tới phương kinh kỳ.
Tìm anh Đỗ Tử, Soạn Chi,
Trước mừng, sau nữa hoan hùy giải oan.
Tử Trung thoắt thấy ngọc nhan,
Chân hài giở gót miệng khoan khoan chào.
Rằng: “Xin quí hữu tạm vào,
Tha hương ngộ cố biết bao là mừng.
Hai người trò chuyện tưng bừng,
Kẻ vui cố hữu người mừng tân quan.
Cùng nhau đồng tịch đồng bàn,
Tuấn Khanh hỏi: “Ngụy tôn nhan đâu rày ?”
Tử Trung bèn mới kể bày,
Rằng: “Anh Ngụy Soạn từ ngày thấy tên.
“Bảng vàng chiếm được khôi nguyên,
“Thẳng dong xe ngựa về miền bên anh.”
Tuấn Khanh nghe rõ chân tình,
Làm thinh kẻo sợ sự mình hở hang,
Rằng: “Tôi muôn dặm đường trường,
“Thành đô chẳng gặp, Ngụy chàng vinh qui.
“May còn quí hữu đây thì,
“Thương em xin nặng lòng vì phụ thân.”
Tuấn Khanh kể hết vân vân,
Tử Trung nghe rõ ân cần duyên do.
Hỏi rằng: “Phải kẻ oán thù,
“Cho tôn bá phải oan tù gian truân.
“Anh thì làm một bản văn,
“Để tôi tâu với thánh quân cửu trùng.
“Thiên triều khi ngự thung dung,
“Xin soi chẳng để oan vòng kẻ ngay.
“Tôi xin gánh sức việc này,
“Gọi là kẻ mỏng, người dày giúp nhau!”
Tuấn Khanh mới giải mạch sầu,
Bèn làm sớ tấu đệ hầu quan nhân.
Tử Trung xem hết phân vân,
Cân đai áo mũ rời chân tức thì.
Tuấn Khanh mới bảo tùy nhi,
Đi chơi cho biết kinh kỳ tẻ vui.
Mảng còn xem ngắm mọi nơi,
Lâu rồi, Trung đã gót rời chủ gia.
Nhác trông bên gốc chiếu hoa,
Tiểu hàm bỏ ngỏ, người đà vắng tanh.
Đến liền xem của Tuấn Khanh,
Giở ra thấy sớ tính danh nữ hài.
Khen rằng thực đáng nữ tài,
Bấy nay ai biết rằng ai là gì ?
Trung bèn lấy sớ cất đi,
Tiểu hàm lại để như y bao giờ.
Nực cười tơ tưởng ngồi chờ,
Tuấn Khanh đâu đã ngẩn ngơ trở về.
Tử Trung rằng hội giai kỳ,
Giắt tay cười mãi ngồi kề với nhau.
Rằng: “Anh em đã bấy lâu,
“Bây giờ đã phỉ sở cầu từ đây!”
Tuấn Khanh biết ý nào hay,
Gẫm mình, mình lại ngại thay sự mình!
Nghĩ khi cử động, ngôn, hành,
Thôi ta giữ chẳng lộ hình khi nao!
Họa chăng một chút má đào,
Nương long song đã cao cao vừa tày.
Ví mà chàng có biết hay,
Lả lơi thì đã đến đây làm gì.
Vậy nên phải nói lảng đi,
Việc chi quí hữu cười, chê, dạy cùng”
Tử Trung rằng: “Buổi tương phùng,
“Ai ngờ công tử là chàng nữ nhân.
“Khi xưa đã thấy sự chân,
“Ước gì biến dịch Châu, Trần một khi.
“Mới hay nhân nguyện thiên tùy,
“Lọ là đòi hỏi làm chi nữa mà!”
Tuấn Khanh đã tỏ bệnh ra,
Phải thầy diệu thủy Pháp loa khôn đành.
Nhưng mình phải biết sự mình,
Hãy còn khép nép dạng hình như không.
Sớ trong tay áo Tử Trung,
Giở ra hỏi: “Chữ cẩn phong ai đề.
“Của này dấu tích còn ghi,
Há không dấu tích mà phi bạn này.”
Tuấn Khanh đỏ mặt, tía mày
Nương long giộn giật, giở bài rời chân.
Hình như phi điểu thất quần,
Lạ lùng khôn nẻo ẩn thân, náu hình.
Nghĩ mình tủi xót phận mình,
Dám xin bày thực chân tình biết sao ?
“Thương hoa xin chớ ngại nào,
Hãy khoan khoan để má đào gửi thân.
“Ngửa trông bể ái nguồn ân,
“Song thời đã trót định thân cùng người.
“Lòng tôi ái sắc tham tài,
“Hai anh cốt lấy một người kết duyên.
“Ngựa nào gác được hai yên,
“Cho nên tôi phải gửi nguyền bói tên.
“Bắn chim vừa thủa ứng huyền,
“Ai mà bắt được thì nên vợ chồng,
“Phải tay Ngụy Soạn anh hùng,
“Được tên lại viết thư phong, ngọc lành.
“Chữ rằng: tòng nhất bất canh,
“Chẳng thì dám tiếc tiện hình này đâu!”
Trung rằng: “Báo ứng nhiệm mầu,
“Lặng nghe ta kể trước sau cho tường.
“Nguyên xưa ở chốn học đường,
“Nhổ tên đầu tước, thực chàng Tử Trung.
“Mới hay thiên địa chí công,
“Bây giờ lại tỏ hình dung rõ ràng.
“Giũ tên hạ thủ vi cường,
“Ngọc này sẵn đợi ngọc trang chăng là ?
“Việc xưa phảng phất gần xa,
“Nghĩ lâu thì lại nhớ ra rõ ràng.
“Đề thơ chim tước bay sang,
“Phát tất ứng huyền, chữ ký Phi Nga!”
Tuấn Khanh rằng: “Mới dị kỳ,
“Thế mà anh Ngụy Soạn Chi nhận càn.”
Chàng rằng: “Thiên vận tuần hoàn,
“Kẻo kêu rằng chịu, kẻo van rằng đừng.
“Giục lòng hương lửa tưng bừng,
Khen thay nguyệt lão xích thằng xe dây.”
Trăng trăng, gió gió, mây mây,
Kẻ yêu quốc sắc, người say văn tài.
Duyên sâu sánh với tình dài,
Bõ công đăng hỏa, dùi mài xưa nay.
Bỗng đâu giong ruổi đến đây,
Tưởng rằng cố hữu, ai hay duyên hài.
Trượng phu thiện kính anh tài,
Thuyền quyên dẫu đấng vạn loài chẳng tha!
Vén cành âu hẳn hái hoa,
Khỏi lầu mới gọi nàng Ba bước vào.
Chàng liền cởi áo cẩm bào,
Thuyền quyên sánh với anh hào
Trướng loan nghiêng ngửa gối loan
Thắm duyên Thần nữ, phỉ nguyền Tương quân.
Vui vầy bể ái nguồn ân,
Mưa trên đỉnh Sở, mây vần ngàn Tương.
Khắc giờ hơn nợ nghìn vàng,
Say sưa vẻ nguyệt, mơ màng giấc mai.
Cùng nhau đã phỉ duyên hài,
Nàng bèn năn nỉ trình lời vân vân…
“Thiếp nay là phận nữ nhân,
“Một thân đã phó lang quân cầm quyền.
“Lòng còn nghĩ ngợi chưa yên,
“Soạn Chi đã trót nhận tên phải lầm.
“Ta nay đã hợp sắt cầm,
“Ắt chàng Ngụy Soạn tủi thầm không đâu.
“Tôi xin đoan một chước mầu,
“Tích xưa dĩ mã dịch ngưu hay là.
“Nguyên tôi ngày trước đi qua,
“Nghỉ Thành đô phủ, gần nhà Phú ông,
“Thấy nàng thục nữ hình dung,
“Trầm ngư lạc nhạn tuyệt vòng trần gian.
“Con Cảnh Tướng quốc ở quan,
“Thấy tôi muốn kết phượng loan duyên lành.
“Tôi đà làm chước từ hành,
“Song nàng chỉ quyết một tình khăng khăng.
“Vậy tôi phải lấy ngọc trang,
“Mượn đồ chàng Ngụy đưa sang tức thì.
“Gọi là lễ mọn xá chi,
“Rắp ranh để kết duyên nghì đủ đôi.
“Kẻo tôi đã trót chịu lời,
“Bói tên thấy ở tay người biết sao ?
“Ai ngờ thiên võng nan đào,
“Giẩy giun thiếp bỗng tìm vào tới đây.
“Ơn chàng thương đến hậu thay,
“Muốn đem nàng ấy vào tay Ngụy chàng.
“Khác nào vàng lại đổi vàng,
“Kẻ về bên ấy, người sang bên này!
“Tử Trung nghe nói mừng thay,
“Rằng: “Thi diệu kế ta nay bằng lòng.
“Còn đi xem việc Tham công,
“Hôm qua đã tấu Cửu trùng ngự coi.
“Phán quan Lại bộ tra rồi,
“Ta đi xem thử lượng tài làm sao ?”
Tử Trung lên tới lầu cao,
Gặp quan Lại bộ vừa vào tấu tri.
Lượng tâu Tham tướng lão kỳ.
Lại ra trọng trấn biên thùy an dân.
Thằng Binh Đạo ở bất nhân,
Mưu mô phản kẻ trung thần oan khiên.
Tội thằng Binh Đạo đương nhiên,
Đem đày Đông hải mười niên sẽ về.
Họ Văn phủ nội vật gì,
Phó hoàn Tham tướng lĩnh về phủ trung.
Lại sai trọng trấn đổng nhung,
Truyền Công án viện cứ công phụng hành.
Tử Trung nghe rõ phân minh,
Vợ chồng sắm sửa khởi trình vinh qui.
Nhà quan Tham tướng đã về,
Ngoài dinh, Ngụy Soạn chực kề đợi tin.
Tưởng rằng về đến thì nên,
Chẳng ngờ đã phõng tay trên nực cười.
Tổ tôm kia mới bất tài,
Thập thành ngồi đợi một hai lấy tiền.
Tuấn Khanh việc rõ tòng quyền,
Đổi thay quần áo như in mọi ngày.
Đến mừng Ngụy Soạn trình bày,
Rằng: “Em cam chịu lỗi này biết sao.
“Nghe tin anh đỗ bảng cao,
“Vội mừng kể đã biết bao là mừng.
“Cho cam lặn suối qua rừng,
“Thần kinh chỉ nẻo tách chừng thăm tin.
“Đành hay có chí thì nên,
“Khôi nguyên mừng mới, nhân duyên phải thì.
“Chữ rằng: “Thiên tải nhất thì,
“Lọ gieo lá thắm, lọ xe chỉ hồng.
“Nay mừng gặp hội kỳ phùng,
“Dám xin tạm trú thong dong mấy ngày.
“Em về minh bạch trình bày,
“Gửi qua nghiêm phụ người hay sự lòng.”
Nàng bèn vào lạy Tướng công,
Nỗi niềm gia sự thỉ chung trần tình.
Rằng: “Con nhân việc lai kinh,
“Một mình mình biết, một mình mình hay.
“Bởi chưng văn sớ cầm tay,
“Tiện khi cầu khấn đêm ngày cho cha.
“Bỗng quên bỏ ngỏ hòm ra,
Tử Trung xem thấy biết là nữ nhân.
“Lộ tình và nặng niềm ân,
“Cho nên chàng ép hôn nhân đã thành.
“Lạy cha xin thú thực tình,
“Chẳng tham hoa nguyệt mà khinh phép nhà.”
Tướng công mừng rỡ thay là,
“Rằng: “Khen gái trả ân cha mới tài.
“Mừng con đã đẹp duyên hài,
“Việc gì bởi phận, tại trời xui ra.
“Có sao thấy gã tân khoa,
“Ngựa xe đến chực bên nhà đã lâu ?
“Ngày xưa có thấy vào hầu,
“Hỏi han xem ý ra màu rắp ranh.
“Cha thì giả cách vô tình,
“Khách thì vốn dạ đinh ninh một lòng.
“Vắng con cha chẳng nói cùng,
“Bây giờ đã vậy khách mong nỗi gì ?”
Nàng bèn thưa thớt vân vi :
“Bói tên chàng Ngụy toan khi lộn sòng.
“Được tên là Đỗ Tử Trung,
“Con đà tra thực thỉ chung rõ ràng.
“Trình qua nghiêm phụ được tường.”
Soạn Chi đến quán chào chàng Tử Trung.
Rằng: “Tôi thấy sự lạ lùng,
“Cho nên tôi đến trình cùng quí huynh.
“Nguyên tôi giao với Tuấn Khanh,
“Chị chàng tôi đã rắp ranh Tấn Tần
“Giao rằng chiếm được bảng xuân,
“Trở về rồi sẽ hôn nhân kết nguyền.
“Nay tôi đã chiếm khôi nguyên,
“Cứ lời giao ước cho nên tới hầu.
“Ngỡ là y ước sở cầu,
“Ai ngờ biến cải ra màu bạc đen.
“Nỡ nào ở thế cho nên,
“Nhẹ bên đai ấn, nặng bên má hồng.
“Thuyền quyên nỡ phụ anh hùng,
“Để anh hùng luống chốc mòng thuyền quyên.
“Phiền anh gắng sức một phen,
“Gửi qua Tham tướng có nên chăng tường.”
Thấy lời chân thực khá thương,
Tử Trung mới bảo rõ ràng cho hay :
Rằng: “Trang tình nghĩa xưa nay,
“Há rằng mới có một nay ru mà!
“Lần lần năm đã kể ba,
“Tuy hình nam tử, thực là nữ nhân.
“Bởi chưng để lộ sớ văn,
“Cho tôi mới biết ân cần hỏi tra.
“Nàng bèn sự thực nói ra,
“Cùng tôi lời đã giao hòa kết duyên.
“Mới hay thành sự tại thiên,
“Một lời nói cợt mà nên vợ chồng!
“Nàng thì đã vẹn chữ tòng,
“Chị thì chẳng có, anh hòng làm chi ?
“Rõ ràng còn có giấu gì ?
“Anh em là nghĩa lan chi bạn vàng ”
Soạn Chi nghe nói bàng hoàng,
Giục hề sắm sửa lên đường hồi gia.
Giận rằng sa kế đàn bà,
Soạn Chi nghĩ lại tưởng mà hổ ngươi.
Tìm lời chữa thẹn đỡ thời,
Một ngày mắc tiếng, muôn đời tạc bia,
Thế gian họa hổ họa bì,
Tri nhân, tri diện, ai thì tri tâm.
Sự nay ta đã trót lầm,
Vậy bèn kể lể nghĩ thầm xưa sau:
“Sắc tài ai kém ai đâu,
“Rủi may là phận, ai hầu biết sao ?
“Sắt cầm duyên những ước ao,
“Lượng công trình kể biết bao công trình.
“Vô tình thay, khách vô tình,
“Nỡ đem lòng bạc mà khinh nghĩa vàng!
Thấy lời than thở cũng thương,
Tử Trung mới bảo Ngụy chàng cho hay :
“Đã nên may khéo là may,
“Lễ nghênh hôn đã đặt bày vừa xong,
“Phiền anh vào gửi tướng công,
“Cho vào làm lễ cúc cung từ đường.
“Tiệc rồi em lẻn lên đường,
“Thì anh sắm sửa vinh hương cũng vừa.”
“Soạn Chi mặt mũi ngẩn ngơ,
“Đười ươi giữ ống hẫng hờ tính sao ?
Chẳng đi ra ý làm cao,
Đi thời còn mặt mũi nào mà đi!
Thôi thôi ở cũng mà chi,
Lời rằng chữ vị là vì quản bao!
Gọi hề sắm sửa cho tao,
Văn cân đai cước, cẩm bào nghiêm trang.
Bèn vào Văn tướng từ đường,
Cứ trong hôn lễ phần hương khấn cầu.
Nguyện xin báo ứng nhiệm mầu,
Họ Văn, họ Đỗ cùng nhau thọ tràng.
Tướng công mở tiệc giữ giàng,
Khuyên mời tân khách họ hàng no say.
Đương khi tiệc yến vui vầy,
Tráp trầu nàng mở sắp bày đưa ra.
Lễ mừng hai họ gần xa,
Rồi nàng lại trở gót hoa về phòng.
Vợ chồng vào lạy tướng công,
Tạ cùng Ngụy Soạn, giải lòng vân vi;
“Nàng ba là nghĩa lan chi,
“Phiền anh tạm trú đợi thì sẽ hay.
“Để tôi tuyển trạch được ngày,
“Cùng nhau ta sẽ vui vầy vinh hương.”
Soạn Chi ngồi lặng tư lường
Ra chiều có ý bẽ bàng lắm thay!
Giờ lâu Soạn mới thưa bày,
Trình rằng: “Đợi một vài ngày thì vâng!”
Vợ chồng Đỗ thị vào phòng,
Sắm sanh đồ đệ Tử Trung lên đường.
Vó câu khoan bước dặm trường,
Trỏ thành đô phủ chốn hàng ngày xưa.
Mong sao gặp mặt tiểu thư,
Nạp nghênh hôn lễ mà đưa nàng về.
Gả cho anh Nguỵ Soạn Chi,
Cùng nhau ta sẽ lưỡng qui nhất đoàn.
Những mong than thở sự duyên,
Thành đô phủ ấy gần miền tới nơi.
Bỗng nghe tiếng nhạc vang trời,
Giục lòng thiếu nữ viễn hoài nhớ mong.
Vội mừng ngỡ tiểu tướng công,
Nào ngờ Đỗ Tử vào trong sảnh đường.
Phú ông sắm sửa vội vàng,
Ra hầu quí khách chưa tường duyên do:
“Tôi là già lão hèn ngu,
“Việc gì xin chỉ giáo cho mừng lòng ?”
Bấy giờ chàng Đỗ Tử Trung,
Khuyên mời quan lão tướng công cùng ngồi:
“Tôi xin trình gửi vài lời,
“Có tin hỉ sự vầy vui đó mà!
“Rằng anh Ngụy Soạn Thám hoa,
“Đồng song vả lại đồng khoa bảng vàng.
“Ngày xưa có gửi ngọc trang,
“Vốn đem duyên kết cùng nàng tiểu thư.
“Lễ nghênh hôn cậy tôi đưa,
“Trình quan lão tướng chọn giờ lên xe.”
Mấy lời lão tướng ngồi nghe,
Rằng: “Tôi tuổi tác hàn vi bất tài.
“Có con cháu gái nữ hài,
“Nguyên xưa đã kết Tú tài họ Văn.
“Chàng còn dở việc nghiêm quân,
“Cho nên chưa định hôn nhân đưa về
“Gửi trình lời thực lòng quê
“Còn không lão dám tiếc chi nói càn.”
Tử Trung rằng vốn ngọc trang,
“Tuấn Khanh đã đổi cho chàng Soạn Chi.
“Họ Văn đã hẹn vu qui,
“Lại làm một bức thư đưa rõ ràng.
“Phiền người đưa đến cho nàng,
“Nhận xem tự dạng mới tường sự duyên.
“Nàng nhìn trong bức thư tiên,
Thì bài thơ họa quả nhiên của mình.
Song hiềm một nỗi Tuấn Khanh,
Bấy lâu vắng bóng phong thanh cá nhàn
Ước ao thấy mặt tiểu quan
Cho cam công khách hồng nhan đợi chờ.
Quải người thay, bấy ông tơ,
Xe duyên chểnh mảng, thẫn thờ niềm đơn.
Ước gì rõ được căn nguyên,
Thắm phai cho biết, bạc đen cho tường.
Nhân sao chiếm nhận ngọc trang,
Xưa nay ai biết Ngụy chàng là ai.
Rày chi những sự trái tai,
Thiên duyên chẳng lọ vật nài ép duyên!
Ví mà ỷ thế cậy quyền,
Thì đành bình thủy, hoàng tuyền thấy ai ?
Phiền ông ra gửi lại người,
Phú ông lại cứ như lời trình qua.
Tử Trung thấy nói thực thà,
Sai quân về đón hầu bà tới nơi.
Dẫn cho rõ nỗi niềm tây,
Trước sau minh bạch chuyện này mới xong.
Nàng vâng lĩnh mệnh thẳng dong,
Lên xe bèn tới Phú ông thảo đường.
Nực cười thay Cảnh thư nương,
Nhác trông xa ngỡ em chàng Tuấn Khanh.
Ghé nom trong bức mành mành,
Nhìn xem nhan sắc dáng hình như in.
Nghĩ rằng nàng tới đem tin,
Ắt là ta hẳn phỉ nguyền từ đây,
Vội vàng bèn trở gót giày,
Mời rằng nương tử vào ngay trong phòng.
Ong mừng bướm, bướm mừng ong,
Kẻ mong tin nhạn, người mong thư truyền,
Hỏi thăm công tử bình yên,
Đến đây nương tử hàn huyên việc gì ?
Tuấn Khanh rằng phận nữ nhi,
“Chấp kinh quyền cũng phải tùy mới thông.
“Tôi đà phận đẹp cỡi rồng,
“Muốn cho nàng cũng chữ đồng vinh hoa.
“Thực là ngày trước đi qua,
“Trá hình nam tử nay ta rõ ràng.
“Bởi chưng có việc nghiêm đường.
“Cải tang cho tiện đường trường xông pha.
“Nay tôi đã vẹn thất gia,
“Phu quân là Trạng tân khoa nhà ngoài.
“Còn chàng Ngụy Soạn quốc tài,
“Chưa nơi nào đẹp duyên hài xứng cân.
“Thấy nàng đáng giá phu nhân,
“Cho nên tâm sự ân cần đem sang.
“Vốn ngày xưa chiếc ngọc trang,
“Thực là của Ngụy Soạn chàng vấn danh.
“Bởi tôi ngày trước trá hình,
“Nên bây giờ phải thân hành thưa qua.
“Nàng nên sắm sửa bước ra,
“Chào quan Hoàng bảng tân khoa lấy lòng.
“Trở vào lạy tạ Phú ông,
“Chị em ta cũng đều cùng vinh qui.”
Mấy lời nàng Cảnh ngồi nghe,
Nghĩ rằng chưa tỏ Soạn Chi dạng hình.
Nhưng mà khoa mục tướng khanh,
Có hình thì mới có danh ắt là.
Nàng bèn minh bạch trình qua,
Phú ông nghe nói lòng hòa mừng thay.
Truyền làm yến tiệc vui vầy,
Lễ nghênh hôn cũng đặt bày nghiêm trang.
Nàng vào bái tạ từ đường,
Lạy ông thôi mới mời chàng Tử Trung,
Tiệc rồi thầy tớ thung dung,
Xe xe, ngựa ngựa, thẳng dong lên đường.
Vui chân chẳng ngại dặm trường,
Đến nơi gia tướng Ngụy chàng văn nhân.
Nhìn xem quốc sắc mười phân,
Nghĩ rằng khách cũng là xuân càng mầu.
Mừng lòng đã thỏa sự cầu,
Người xe chỉ thắm, ta xâu hạt vàng,
Song song anh, yến, phượng, hoàng,
Cùng nhau mở tiệc lên đàng vinh qui.
Tiệc bày hồng nhạn tứ vi,
Họ hàng thân thích, hả hê vui vầy.
Xướng ca đàn hát ba ngày,
Tiệc rồi ai nấy chia tay ra về.
Tử Trung mới hỏi Soạn Chi:
“Ngọc trang đã hợp, nào thì trúc tiên ?
“Giao hoàn cho phỉ sở nguyền,
“Các tuỳ kỳ tiện mới yên dạ này.”
Trúc tiên Soạn đã cầm tay,
Vâng lời bèn mới gửi ngay trả chàng.
Giao rằng bốn họ vinh xương,
Có người khoa mục, có nàng thục nhân.
Đời đời xuân lại gặp xuân,
Dõi truyền Đỗ, Ngụy, Cảnh, Văn bốn nhà.
*
* *

Truyện này dù thực dù ngoa,
Cứ trong tiểu thuyết diễn mà chép chơi.
Miễn là lầm lỗi theo lời,
Chẳng ca Bạch tuyết, chẳng tài Thanh liên.
Ít nhiều chắp chảnh một thiên,
Ai chê mặc ý, ai khen mặc lòng.
Dõi truyền phúc, lộc, thọ chung,
Kiêm toàn bách phúc, hưởng đồng thiên xuân.

ĐẠI NAM QUỐC SỬ DIỄN CA

Đại Nam Quốc sử Diễn ca

Đại Nam Quốc sử Diễn ca (năm 1870)
của Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái (Trương Vĩnh Ký diễn âm lục bát)

1 Thời kỳ mở nước (Thế kỷ 29 – thế kỷ 2 TCN)
1.1 I Nhà Hồng Bàng (2879 – 256 TCN)
1.1.1 1. Mở đầu
1.1.2 2. Kinh Dương vương
1.1.3 3. Lạc Long Quân và Âu Cơ
1.1.4 4. Hùng vương và nước Văn lang
1.1.5 5. Giao thiệp với Trung Hoa
1.1.6 6. Chuyện Phù Đổng Thiên vương
1.1.7 7. Chuyện Sơn tinh và Thủy tinh
1.1.8 8. Chuyện Chử Đồng tử và Tiên dung
1.1.9 9. Hết đời Hồng Bàng
1.2 II. Nhà Thục (258 – 207 TCN)
1.2.1 1. Thần Kim quy giúp vua Thục
1.2.2 2. Trung quốc đánh Âu Lạc
1.2.3 3. Trọng Thủy và Mị Châu
1.2.4 4. Triệu Đà diệt Thục
1.3 III. Nhà Triệu (207 – 111 TCN)
1.3.1 1. Triệu Vũ vương thần phục nhà Hán
1.3.2 2. Triệu Văn vương và Triệu Minh vương
1.3.3 3. Cù thị xin nhập Hán
1.3.4 4. Lữ Gia phá mưu Cù Thị
1.3.5 5. Hán đánh Nam Việt
1.3.6 6. Nhà Triệu mất
2 Thời kỳ chống Bắc thuộc (Thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 10 SCN)
2.1 IV. Nhà Hán và Hai bà Trưng (111 TCN 43 SCN)
2.1.1 1. Chính sách nhà Tây Hán
2.1.2 2. Hai bà Trưng dựng nền độc lập
2.2 V. Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 – 544)
2.2.1 1. Chính sách nhà Đông Hán
2.2.2 2. Lý Tiến, Lý Cầm làm quan nhà Hán
2.2.3 3. Họ Sĩ tự chủ
2.2.4 4. Bà Triệu Ẩu đánh Ngô
2.2.5 5. Ngô Tấn tranh nhau Giao Châu
2.2.6 6. Chính sách nhà Tấn
2.2.7 7. Họ Đỗ ba đời làm thứ sử
2.2.8 8. Giao châu loạn
2.3 VI. Nhà Tiền Lý (544 – 603)
2.3.1 1. Lý Nam Đế dựng nền độc lập
2.3.2 2. Triệu Quang Phục phá Lương
2.3.3 3. Lý Phật Tử đánh Triệu quang Phục
2.3.4 4. Lý Phật Tử hàng Tùy
2.4 VII. Nền đô hộ của nhà Đường (603 – 905)
2.4.1 1. An nam đô hộ phủ
2.4.2 2. Mai Thúc Loan khởi nghĩa
2.4.3 3. Giặc Đồ Bà
2.4.4 4. Phùng Hưng khởi nghĩa
2.4.5 5. Chuyện Lý Ông Trọng
2.4.6 6. Quan lại nhà Đường
2.4.7 7. Giặc Nam Chiếu
2.4.8 8. Cao Biền dẹp Nam Chiếu
3 Thời kỳ xây dựng Độc lập và thống nhất (Thế kỷ thứ 10)
3.1 VIII. Nhà Ngô (906 – 967)
3.1.1 1. Họ Khúc dấy nghiệp
3.1.2 2. Ngô Quyền phá quân Nam Hán
3.1.3 3. Dương Tam Kha tiếm ngôi
3.1.4 4. Nhà Ngô phục hưng
3.2 IX Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 1009)
3.2.1 1. Thập nhị sứ quân
3.2.2 2. Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia
3.2.3 3. Chính sách nhà Đinh
3.2.4 4. Nhà Đinh mất ngôi
3.2.5 5. Lê Hoàn phá quân Tống
3.2.6 6. Nhà Lê thất chính
4 Thời kỳ phát triển (Thế kỷ 11 – đầu thế kỷ 19)
4.1 X. Nhà Hậu Lý (1010 – 1225)
4.1.1 1. Lý Thái Tổ
4.1.2 2. Lý Thái Tông bình Nùng, phục Chiêm
4.1.3 3. Lý Thánh Tông, một ông vua nhân dũng
4.1.4 4. Bà Ỷ Lan nhiếp chánh
4.1.5 5. Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống
4.1.6 6. Lý Thần Tông khuyến khích việc nông
4.1.7 7. Đỗ Anh Vũ lộng quyền
4.1.8 8. Tài kinh quốc của Tô Hiến Thành
4.1.9 9. Lý Cao Tổ thất chính
4.1.10 10. Quách-Bốc chiếm kinh-thành
4.1.11 11. Họ Trần giúp vua Lý
4.1.12 12. Lý Huệ Tông phát điên
4.1.13 13. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng
5 Thời Kỳ Thịnh Trị (1226 – 1340)
5.1 XI. Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226 – 1340)
5.1.1 1. Những việc cải cách đầu tiên
5.1.2 2. Văn học và võ công
5.1.3 3. Phong tục đời Trần
5.1.4 4. Đức độ và chánh trị của Trần Thánh tông
5.1.5 5. Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ
5.1.6 6. Anh tông và Minh tông
5.1.7 7. Việc đánh dẹp về đời Hiến tông
5.2 XII. Nhà Trần (Thời kỳ suy vi: 1341 – 1400)
5.2.1 1. Nhà Trần bắt đầu suy
5.2.2 2. Dương Nhật Lễ tiếm vị
5.2.3 3. Chiêm Thành xâm nhiễu
5.2.4 4. Lê Quý Ly phế lập
5.3 XIII. Nhà Hồ và giặc nhà Minh (1400 – 1418)
5.3.1 1. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần
5.3.2 2. Quân Minh diệt nhà Hồ
5.3.3 3. Trần Giản Định chống Minh
5.3.4 4. Trần Trùng Quang chống Minh
5.3.5 5. Quân Minh chiếm toàn cõi Đại Việt
5.3.6 6. Chính sách nhà Minh
5.4 XIV. Nhà Hậu Lê (Thời kỳ thống nhất: 1418 – 1526)
5.4.1 1. Lê thái Tổ phá giặc Minh
5.4.2 2. Nhà Lê kiến quốc
5.4.3 3. Lê Nghi Dân cướp ngôi
5.4.4 4. Thời kỳ toàn thịnh: Lê Thánh tông
5.4.5 5. Nhà Lê bắt đầu suy
5.4.6 6. Loạn Trần Cảo và Trịnh Duy Sản
5.4.7 7. Chính quyền tan rã
5.4.8 8. Mạc Đăng Dung chuyên quyền
5.5 XV. Nhà Mạc (1527 1592)
5.5.1 1. Ngoại giao và nội chính của Mạc Đăng Dung
5.5.2 2. Nguyễn Kim khởi nghĩa phù Lê
5.5.3 3. Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc
5.5.4 4. Nguyễn Hoàng vào Hóa Châu
5.5.5 5. Trịnh Mạc phân tranh
5.5.6 6. Trịnh Tùng chấp chính
5.5.7 7. Trịnh Tùng diệt Mạc
5.6 XVI. Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê Chúa Trịnh: 1593 – 1729)
5.6.1 1. Giao thiệp buổi đầu với Trung hoa
5.6.2 2. Trịnh Tùng xưng chúa
5.6.3 3. Trịnh Tráng tăng quyền phủ chúa
5.6.4 4. Trịnh Tạc đánh Nguyễn và Mạc
5.6.5 5. Trịnh Căn và nhà Thanh
5.6.6 6. Triều thần nhà Lê
5.6.7 7. Những việc cải cách về thời Trịnh Cương
5.7 XVII. Nhà Lê suy vi (Trịnh Nguyễn phân tranh: 1729 – 1782)
5.7.1 1. Chính sách đồi bại của Trịnh Giang
5.7.2 2. Sự loạn lạc ở Bắc hà
5.7.3 3. Trịnh Doanh và Lê Hiển tông
5.7.4 4. Trịnh Doanh và Trịnh Sâm dẹp loạn
5.7.5 5. Trịnh Sâm đánh chúa Nguyễn
5.7.6 6. Trịnh Sâm hỏng mưu thoán đoạt
5.7.7 7. Đặng Thị Huệ lộng quyền
5.8 XVIII. Cuối đời nhà Lê (1783 – 1786)
5.8.1 1. Loạn kiêu binh ở kinh thành
5.8.2 2. Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất
5.8.3 3. Chúa Trịnh Khải bị bắt
5.8.4 4. Nguyễn Huệ trả quyền Lê Hiển tông
5.8.5 5. Quân Tây sơn rút về Nam
5.8.6 6. Triều đình vua Lê Chiêu Thống
5.8.7 7. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền
5.9 XIX. Nhà Nguyễn Tây Sơn (1787 – 1802)
5.9.1 1. Quân Tây sơn ra Bắc lần thứ hai
5.9.2 2. Lê Chiêu Thống chạy dài
5.9.3 3. Nguyễn Huệ đặt chức Giám quốc ở Bắc hà
5.9.4 4. Quân nhà Thanh sang nước ta
5.9.5 5. Triều đình thời Lê mạt
5.9.6 6. Quang Trung đại phá quân Thanh
5.9.7 7. Cuộc lưu vong của Lê Chiêu thống
6 Tổng kết

Thời kỳ mở nước (Thế kỷ 29 – thế kỷ 2 TCN)
I Nhà Hồng Bàng (2879 – 256 TCN)
1. Mở đầu
Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh
Nam giao là cõi ly minh,
Thiên thư định phận rành rành từ xưa
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gương
2. Kinh Dương vương
Kể từ trời mở viêm bang,
Sơ đầu có họ Hồng bàng mới ra
Cháu đời Viêm đế thứ ba,
Nối dòng Hỏa đức gọi là Đế Minh
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam kiều,
Vụ tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên
Dòng thần sánh với người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân trưởng nước ta,
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương
Hóa cơ dựng mối luân thường
Động Đình sớm kết với nàng Thần Long
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì
3. Lạc Long Quân và Âu Cơ
Lạc long lại sánh Âu ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan hợp cũng kỳ,
Há vì thủy hỏa sinh ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Qui sơn, qui hải khác người biệt ly.
Lạc long về chốn Nam thùy,
Âu cơ sang nẻo Ba vì Tản viên.
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng.
4. Hùng vương và nước Văn lang
Hùng vương đô ở châu Phong,
Ấy nơi Bạch hạc hợp dòng Thao giang.
Đặt tên là nước Văn lang,
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Phong châu, Phúc lộc, Chu diên,
Nhận trong địa chí về miền Sơn tây;
Định yên, Hà nội đổi thay,
Ấy châu Giao chỉ xưa nay còn truyền.
Tân hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ ninh tỉnh Bắc, Dương tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn đồng,
Ấy là Vũ định tiếp cùng biên manh;
Hoài hoan: Nghệ; Cửu chân: Thanh;
Việt thường là cõi Trị, Bình trung châu.
Lạng là Lục hải thượng du
Xa khơi Ninh hải thuộc vào Quảng yên.
Bình văn, Cửu đức còn tên,
Mà trong cương giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc hầu là tướng điều nguyên,
Vũ là Lạc tướng giữ quyền quân cơ;
Đặt quan Bồ chinh hữu tư
Chức danh một bực, đẳng uy một loài.
5. Giao thiệp với Trung Hoa
Vừa khi phong khí sơ khai,
Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiêu.
Bình dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng dương.
Thần quy đem tiến Đào đường,
Bắc Nam từ ấy giao bang là đầu.
Man dân ở chốn thượng lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị sinh.
Thánh nhân soi xét vật tình,
Đem loài thủy quái vẽ mình thổ nhân.
Từ sau tục mới văn thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa thư,
Nước non đầm ấm, mây mưa thái binh.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung quớc thể nào,
Lại đem bạch trĩ dâng vào Chu vương.
Ba trùng dịch lộ chưa tường,
Ban xe tí ngọ chỉ đường Nam quy.
6. Chuyện Phù Đổng Thiên vương
Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói,chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh.
Sứ về tâu trước thiên đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh san,
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.
Miếu đình còn dầu cố viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu truyền có không?
7. Chuyện Sơn tinh và Thủy tinh
Lại nghe trong thủa Lạc Hùng
Mị châu có ả tư phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung trang.
Thừa long ai kẻ đông sàng sánh vai?
Bỗng đàu vừa thấy hai người,
Một Sơn tinh với một loài Thủy tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu hoa đã thấy Sơn tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi gia.
Cung đàn tiếng địch xa xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thủy tinh lỡ bưởc chậm chân,
Đùng đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt mù,
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia,
Sơn thần hỏa phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
8. Chuyện Chử Đồng tử và Tiên dung
Bổ di còn chuyện trích tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái châu.
Ra vào nương náu hà châu.
Phong trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng các, buồm xuôi Nhị hà,
Chử đồng ẩn chốn bình sa
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.
Thừa lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hóa về Bồng châu,
Đông an, Dạ trạch đâu đâu,
Khói hương nghi ngút truyền sau muôn đời.
9. Hết đời Hồng Bàng
Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường đế sau tầy Noãn vương
II. Nhà Thục (258 – 207 TCN)
1. Thần Kim quy giúp vua Thục
Thục từ dứt nước Văn lang
Đổi tên Âu lạc, mới sang Loa thành.
Phong khê là đất Vũ ninh,
Xây thôi lại lở, công trình biết bao
Thục vương thành ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang sứ hiện vào kim qui.
Hóa ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục vương cảm tạ tấm lòng hiệu linh.
Lại bàn đến sự chiến tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ tình quân vương.
Dặn sau làm máy Linh quang,
Chế ra thần nỏ, dự phòng việc quân.
2. Trung quốc đánh Âu Lạc
Bấy giờ gặp hội cường Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu cơ muốn nặng túi tham,
Đồ Thư, Sử Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh nam mấy chốn bièn thùy,
Quế lâm, Tượng quận thu về bản chương.
Đặt ra úy, lịnh rõ ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ gìn.
Hai người thống thuộc đã quen,
Long xuyên, Nam hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thủy bộ hai quân,
Tiên du ruổi ngựa, Đông tân đỗ thuyền.
Thục vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa.
Bình giang rạch nửa sơn hà
Bắc là Triệu úy. Nam là Thục vương.
3. Trọng Thủy và Mị Châu
Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị Châu
Gả cho Trọng Thủy, con đầu Triệu vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh thân giả tiếng Bắc qui.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thủy chung
Rằng: ” Khi đôi nước tranh hùng,”
” Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?”
” Trùng lai dù họa có ngày,”
” Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau”
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.
4. Triệu Đà diệt Thục
Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu úy, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu li,
Còn đem ái nữ đề huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim qui đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm trỏn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?
III. Nhà Triệu (207 – 111 TCN)
1. Triệu Vũ vương thần phục nhà Hán
Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ hiểm đóng ngoài Phiên ngu.
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm dương,
Mới sai Lục Giả đem sang ấn phù.
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thùy gìn giữ cơ đồ vững an.
Gặp khi gà Lữ gáy càn,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
Vì ai cấm chợ ngăn sông,
Để cho dứt nẻo quan thông đôi nhà.
Thân chinh hỏi tội Tràng sa
Mân, Âu muôn dặm mở ra một lần.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục giả cựu thần lại sang.
Tỉ thư một bức chiếu vàng,
Ngỏ điều ân ý, kể đường thủy chung.
Triệu vương nghe cũng bằng lòng,
Mới dâng tạ biểu một phong vào chầu.
Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,
Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.
Trăm hai mươi tuổi mới già,
Tính năm ngự vị kể già bảy mươi.
2. Triệu Văn vương và Triệu Minh vương
Văn vương vừa nối nghiệp đời,
Lửa binh đâu lại động ngoài biên cương.
Phong thư tâu với Hán hoàng,
Nghĩa thanh sớm đã giục đường cất quân.
Vương Khôi vâng lịnh tướng thần,
Ải lang quét sạch bui trần một phương.
Hán đình có chiếu ban sang,
Sai con Triệu lại theo đường cống nghi.
Xe rổng phút bỗng mây che,
Minh vương ở Hán lại về nối ngôi.
Bợm già bỗng rấm họa thai,
Vợ là Cù thị vốn người Hàm đan
Khuynh thành quen thói hồng nhan,
Đã chuyên sủng ái lại toan tranh hành.
Dâng thư xin với Hán đình,
Lập con thế tử, phong mình cung phi.
3. Cù thị xin nhập Hán
Ai vương thơ ấu nối vì,
Mẹ là cù hậu, nhiều bề riêng tây.
Cầu phong đã rắp những ngày,
Ngoài thông Bắc sứ trong gầy lệ giai.
Khéo đâu dắc díu lạ đời,
Sứ là Thiếu Quý vẫn người tình nhân.
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hòa thân một lòng.
Nghĩ rằng: về Hán là xong,
Tình riêng phải mượn phép công mới già.
Làm thư gửi sứ đưa qua;
Mẹ con đã sắm sửa ra sang chầu.
4. Lữ Gia phá mưu Cù Thị
Lữ Gia là tướng ở đầu.
Đem lời can gián bây mưu xa gần.
Một hai ngăn đón hành trần:
” Để cho Triệu bích về Tần sao nên.”
Nàng Cù đã quyết một bên.
Lại toan mượn lấy sứ quyền ra tay.
Tiệc vui chén cúc giở say,
Mắt đưa cao thấp, giáo lay dùng dằng.
Đang khi hoan yến nửa chừng,
Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra.
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần.
Đôi bên hiềm khích thêm phần
Mụ Cù yếu sức, sứ thần non gan.
5. Hán đánh Nam Việt
Vũ thư đạt đến Nam quan,
Hán sai binh mã hai ngàn kéo sang
Lữ Gia truyền hịch bốn phương:
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô;
Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,
Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.
Rắp toan bán nước làm công.
Quên ơn thủa trước, không lòng mai sau.
Cũng tuồng Lữ Trĩ khác đâu,
Chồi non chẳng bẻ, rễ sâu khó đào.
Quan binh một trận đổ vào,
Lửa nào tiếc ngọc, nắng nào tiếc hoa.
6. Nhà Triệu mất
Vệ Dương lên nối nghiệp nhà,
Trong là quốc nạn, ngoài là địch nhân.
Hai nghìn giết sạch Hán quân,
Đem cờ sứ tiết để gần ải quan.
Tạ từ giả tiếng nói van,
Mấy nơi yếu hại sai quan đề phòng,
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp công.
Trong thành một ngọn lửa thông,
Chiêu hàng ngoài mạc, hội đồng các dinh.
Chạy ra lại gặp truy binh,
Vệ vương, Lữ tướng buộc mình cửa hiên.
Kể từ Triệu lịch kỷ niên,
Năm ngoài chín chục, ngôi truyền năm vua.
Trách ai gây việc tranh đua,
Vắn đài vận nước, được thua cơ trời.
Thời kỳ chống Bắc thuộc (Thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 10 SCN)
IV. Nhà Hán và Hai bà Trưng (111 TCN 43 SCN)
1. Chính sách nhà Tây Hán
Giao Châu mới thuộc nước người,
Ấy về Tây Hán là đời Nguyên phong.
Bản đồ vào sách hỗn đồng,
Đất chia chín quận, quan phong thú thần.
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cương.
Tuần tuyên mới có Tích Quang,
Dạy dân lễ nghiã theo đường hoa phong.
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền.
Sính nghi lại giúp bổng tiền,
Khiến người bần khổ thỏa nguyền thất gia.
Văn phong nhức dấy gần xa,
Tự hai hiền thú ấy là khai tiên.
Luân hồi trăm có dư niên,
Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy người.
2. Hai bà Trưng dựng nền độc lập
Đường ca lâu đã vắng lời,
Đến như Tô Định là người chí hung.

Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Aỉ quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan
V. Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 – 544)
1. Chính sách nhà Đông Hán
Trải Minh, Chương đến Hiếu, An,
Tuần lương đã ít, tham tàn thiếu đâu.
Mới từ Thuận đế về sau,
Đặt quan thứ sử thuộc vào chức phương.
Kìa như Phàn Diễn, Giả Xương,
Chu Ngu, Lưu Tảo dung thường kể chi.
Trương Kiều thành tín phủ tuy,
Chúc Lương uy đức, man di cũng gần.
Hạ Phương ân trạch ngấm nhuần,
Một châu tiết việt hai lần thừa tuyên.
2. Lý Tiến, Lý Cầm làm quan nhà Hán

Tuần lương lại có Mạnh Kiên,
Khúc ca Giả phủ vang miền trung châu.
Ba năm thăng trạc về chầu,
Thổ quan Lý Tiến mới đầu Nam nhân.
Sở kêu:” Ai chẳng vương thần,
Sĩ đồ chi để xa gần khác nhau?”
Tình từ động đến thần lưu,
Chiếu cho cống sĩ bổ châu huyện ngoài.
Lý Cầm chầu chực điện đài,
Nhân khi Nguyên đán kêu lời xa xôi.
Rằng:” Sao phủ tái hẹp hòi?
Gió mưa để một cõi ngoài Viêm phương “.
Tấm thành cũng thấu quân vương,
Trung châu lại mới bổ sang hai người.
Nước Nam mấy kẻ nhân tài,
Mới cùng người Hán chen vai từ rày.

3. Họ Sĩ tự chủ
Lửa lò Viêm Hán gần bay,
Thế chia chân vạc, nào hay cơ trời.
Tranh nhau ba nước ba nơi,
Cầm quyền sinh sát mặc người phong cương.
Nho lưu lại có Sĩ vương,
Khơi nguồn Thù Tứ, mở đường lễ văn.
Phong tiêu rất mực thú thần,
Sánh vai Đậu Mục, chen chân Triệu Đà.
Sĩ Huy nối giữ tước nhà,
Dứt đường thông hiếu, gây ra cừu thù.
Cửa hiên phút bỗng hệ tù,
Tiết mao lại thuộc về Ngô từ rầy.
4. Bà Triệu Ẩu đánh Ngô
Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.
Anh hùng chán mặt phong trần,
Nữ nhi lại cũng có lần cung đao.
Cửu chân có ả Triệu kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Gặp cơn thảo muội cơ trời,
Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh.
5. Ngô Tấn tranh nhau Giao Châu
Từ giờ Ngô lại tung hoành,
Đặt làm Giao, Quảng hai thành mới phân.
Tôn Tư rồi lại Đặng Tuân,
Lữ Hưng, Dương Tắc mấy lần đổi thay.
Đổng Nguyên, Lưu Tuấn đua tay,
Kẻ Ngô, người Tấn những ngày phân tranh.
Đào Hoàng nối dựng sứ tinh,
Tân xương, Cửu đức, Vũ bình lại chia.
Mười năm chuyên mặt phiên ly,
Uy gia bốn cõi, ân thùy một châu.
Khi đi, dân đã nguyện lưu,
Khi già, thương khóc khác nào từ thân.
6. Chính sách nhà Tấn
Ngô công nối dấu phương trần,
Hai mươi năm lẻ nhân tuần cũng yên.
Dân tình cảm kết đã bền,
Tước nhà Cố Bật lại truyền Cố Tham.
Dân tình khi đã chẳng kham,
Dẫu là Cố Thọ muốn làm ai nghe.
Quận phù lại thuộc Đào Uy,
Rồi ra Đào Thục, Đào Tuy kế truyền.
Bốn đời tiết việt cầm quyền,
Phiên bình muôn dặm, trung hiền một môn.
Tham tàn những lũ Vương Ôn,
Binh qua nối gót, nước non nhuộm trần.
Tấn sai đô đốc tướng quân,
Sĩ Hành là kẻ danh thần chức cao.
Dẹp yên rồi lại về trào,
Uy danh nào kém họ Đào thuở xưa.
Nguyễn Phu tài trí có thừa,
Phá năm mươi lũy tảo trừ giặc Man.
7. Họ Đỗ ba đời làm thứ sử
Châu diên lại có thổ quan,
Đỗ công tên Viện dẹp đoàn Cửu chân.
Tướng môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ Độ thêm phần uy danh.
Bổng riêng tán cấp cùng manh,
Cơm rau áo vải như hình kẻ quê.
Dâm từ cấm thói ngu mê,
Dựng nhà học hiệu giảng bề minh luân.
Ân uy ra khắp xa gần,
Cửa thành đêm mở, gió xuân một trời.
Hoàng Văn phủ ngữ cũng tài,
Một nhà kế tập ba đời tuần lương.
8. Giao châu loạn
Đến triều Lưu Tống hưng vương,
Hòa Chi, Nguyên Cán sai sang hội đồng.
Đuổi Dương Mai, giết Phù Long,
Khải ca một khúc tấu công về trào.
Gió thu cuốn bức chinh bào,
Y thường một gánh, qui thiều nhẹ không.
Từ khi vắng kẻ chiết xung,
Tràng Nhân, Lưu Mục tranh hùng mấy phen.
Pháp Thừa cũng chức tuần tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại ty.
Dưới màn có Phục đăng Chi,
Cướp quyền châu mục, lộng uy triều đình.
Tề suy, Nguyên Khải tung hoành,
Hùng phiên chiếm giữ cô thành một phương.
Bắc triều đã thuộc về Lương,
Lại sai Lý Thốc chiêu hàng nẻo xa.
Giao châu một giải sơn hà,
Ái Châu lại mới đặt ra từ rày.
VI. Nhà Tiền Lý (544 – 603)
1. Lý Nam Đế dựng nền độc lập
Kể từ Ngô, Tấn lại đây,
Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.
Cỏ cây chan chứa bụi trần,
Thái bình mới có Lý Phần hưng vương.
Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
Binh qua gặp lúc phân nhương lại về.
Cứu dân đã quyết lời thề,
Văn thần, vũ tướng ứng kỳ đều ra,
Tiêu Tư nghe gió chạy xa,
Đông tây muôn dặm quan hà quét thanh.
Vạn Xuân mới đặt quốc danh,
Cải nguyên Thiên đức, đô thành Long biên.
Lịch đồ vừa mới kỷ niên,
Hưng vương khí tượng cũng nên một đời.
Quân Lương đâu đã đến ngoài,
Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chinh.
Cùng nhau mấy trận giao binh,
Thất cơ Tô Lịch, Gia ninh đôi đường.
Thu quân vào ở Tân xương,
Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài.
Mới hay ” nhật phụ mộc lai,”
Sấm văn trước đã an bài những khi.
2. Triệu Quang Phục phá Lương
Bấy giờ Triệu mới thừa ky,
Cứ đầm Dạ trạch, liệu bề tấn công.
Lý vương phút trở xe rồng,
Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doanh.
Hương nguyền trời cũng chứng minh,
Rông vàng trao vuốt giắt vành đầu mâu.
Từ khi long trảo đội đầu,
Hổ hùng thêm mạnh, quân nào dám đương.
Bá Tiên đã trở về Lương,
Dương Sằn còn ở chiến trường tranh đua.
Một cơn gió bẻ chồi khô,
Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra,
Bốn phương phẳng lặng can qua,
Theo nền nếp cũ, lại ra Long thành.
3. Lý Phật Tử đánh Triệu quang Phục
Lý xưa còn có một cành,
Tên là Thiên Bảo náu mình Ai Lao.
Chiêu binh lên ở Động đào,
Họ là Phật Tử cũng vào hội minh.
Đào lang lại đổi quốc danh,
Cũng toan thu phục cựu kinh của nhà.
Cành dâu mây tỏa bóng tà,
Bấy giờ Phật Tử mới ra nối giòng,
Rừng xanh gió phất cờ hồng,
Đề binh kéo xuống bẹn sông tung hoành.
Triệu vương giáp trận Thái bình,
Lý thua rồi mới thu binh xin hoà.
Triệu về Long đỗ Nhị hà,
Lý về Hạ mỗ, ấy là Ô diên.
Hai nhà lại kết nhân duyên,
Nhã lang sánh với gái hiền Cảo nương.
Có người: Hống, Hát họ Trương,
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu.
Rằng:” Xưa Trọng Thủy, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan dắc mối Châu Trần sao nên?”
Trăng già sao nỡ xe duyên?
Để cho Hậu Lý gây nền nội công.
Tình con rể, nghĩa vợ chồng,
Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau.
Lâu la mới ngỏ tình đâu,
Nhã lang trộm lấy đâu mâu đổi liền.
Trở về giả chước vấn yên,
Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang.
Triệu vương đến bước vội vàng,
Tình riêng còn chửa dứt đường cho qua.
Đem con chạy đến Đai nha,
Than thân bách chiến phải ra đường cùng!
4. Lý Phật Tử hàng Tùy
Từ nay Phật Tử xưng hùng,
Hiệu là Nam đế nối dòng Lý vương.
Phong châu mới mở triều đường.
Ô diên, Long đỗ giữ giàng hai kinh.
Tùy sai đại tướng tổng binh,
Lưu Phương là chức quản hành Giao châu.
Đô long một trận giáp nhau,
Xin hàng Lý phải sang chầu Tấn dương.
Từ giờ lại thuộc Bắc phương,
Mấy năm Tùy loạn rồi Đường mới ra.
VII. Nền đô hộ của nhà Đường (603 – 905)
1. An nam đô hộ phủ
Quan Tùy lại có Khâu Hòa,
Đem dâng đồ tịch nước ta về Đường.
An nam mới lại canh trương,
Đặt Đô hộ phủ theo đường Trung Hoa.
Mười hai châu lại chia ra:
Giao, Phong, Lục, Ái, Chi, Nga, Diễn, Tràng.
Vũ an, Phúc Lộ, Hoan, Thang,
Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài.
2. Mai Thúc Loan khởi nghĩa
Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc đế mở ra,
Cũng toan quét sạch sơn hà một phương.
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách hai đàng giáp công.
Vận đời còn chửa hanh thông.
Nước non để giận anh hùng nghìn thu.
3. Giặc Đồ Bà
Trấn nam lại đổi tên châu,
Một đời canh cải trước sau mấy kỳ.
Xa khơi ngoài chốn biên thùy,
Đồ bà giặc mọi đua bề phân tranh.
Bá Nghi hợp với Chính Bình,
Dẹp đoàn tiểu khấu, xây thành Đại La.
4. Phùng Hưng khởi nghĩa
Xiết bao phú trọng, chính hà,
Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng?
Đường lâm mới có Phùng Hưng,
Đã tài kiêu dũng, lại lưng phú hào.
Cõi Tây nổi việc cung đao,
Đô quân tôn hiệu, Tản Thao hiệp tình.
Đem quân thẳng đến vây thành,
Đại La thế bức, Chính Bình hồn tiêu.
Nhân phủ trị mở ngôi triều,
Phong châu một giải nhiếp điều mấy niên.
Đế hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.
Phùng An con nối thơ ngu,
Nghe quan nhu viễn bầy mưu hàng Đường.
5. Chuyện Lý Ông Trọng
Kể từ đô hộ Triệu Xương,
Thành La xây lại vững vàng hơn xưa.
Thuyền chơi qua bến sông Từ,
Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sao.
Thấy người hai trượng dài cao,
Bàn kinh, giảng truyện khác nào văn nhân.
Cùng nhau như gửi tâm thần,
Tỉnh ra mới rõ nguyên căn tỏ tường.
Lý Ông Trọng ở Thụy hương,
Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
Làm quan hiệu úy đem quân ngữ Hồ.
Uy danh đã khiếp Hung nô,
Người về Nam quốc, hình đồ Bắc phương.
Hàm dương đúc tượng người vàng,
Uy thừa còn giúp Tần hoàng phục xa.
Hương thơm cổ miếu tà tà,
Từ nay tu lý mới là phong quang.
6. Quan lại nhà Đường
Triệu công tuổi tác về Đường,
Quý Nguyên, Bùi Thái tranh quyền với nhau.
Triều đình kén kẻ trị châu,
Triệu công vâng mệnh xe thiều, lại sang.
Bản kiều vừa nhận dấu sương,
Bến hồng đã định, khói lang cũng tàn.
Trương Đan thay chức phiên hàn,
Tập nghề thủy chiến, tạo thuyền đồng mông.
Đại la mới đắp lũy vòng,
Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái tu.
Quan tham ai chẳng oán thù,
Kìa như Tượng Cổ sư đồ bạn ly.
Quan hiền ai chẳng úy uy,
Kìa như Mả Tổng man di đầu hàng.
Nguyên Gia dời phủ Tô giang,
Đến năm Bảo lịch dời sang Tống bình.
Giao châu binh mã tung hoành,
Thăng Triều đã dẹp, Dương Thanh lại nồng.
Kìa ai tôn trở chiết xung,
Mã công tên Thực anh hùng kém chi.
Tiết thanh cảm vật mới kỳ,
Dưới dòng Hợp phố châu đi cũng về.
Kiềm châu xa ruỗi mã đề,
Hồng bay còn dấu tuyết nê chưa mòn.
Nhũng quan lại gặp Vũ Hồn,
Thành lâu lửa cháy, dinh đồn quân reo.
Đoàn công vâng mệnh Đường triều.
Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tan.
Thôi trung thổ, lại ngoại man,
Châu Nhai, Nguyên Hựu sai quan mấy lần.
Nho môn có kẻ tướng thần,
Họ Vương tên Thức kinh luân gồm tài.
Thành môn nghiêm nghị trong ngoài,
Trồng cây trúc mộc, tập bài cung đao.
Châu dân đều thấm ân cao,
Chiêm thành, Chân lạp cũng vào hiệu cung.
7. Giặc Nam Chiếu
Xe thiều vừa trở về Đông,
Giặc Man thừa khích ruổi giong cõi ngoài.
Vương Khoan, Lý Hộ phi tài,
Đường sai Thái Lập lĩnh bài Giao Châu.
Biên thư mấy bức về tâu,
Kẻ xin lưu thú, người cầu bãi binh.
Ghen công vi hoặc, Thái Kinh,
Thờ ơ để việc biên tình mặc ai.
Tiếc thay muôn dặm thành dài,
Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xung.
Ngu Hầu tiếp chiến bên sông,
Quyết liều một trận đều cùng quyên sinh.
Vua Đường tuyên chỉ triệt binh,
Bỏ hàm Đô hộ, đặt hành Giao Châu.
Trấn, đồn, cửa bể, đâu đâu,
Tống Nhung, Thừa Huấn hợp nhau một đường.
Dùng dằng nào dám tiến sang,
Tám ngàn quân bỏ cương tràng sạch không.
Dối tâu lại muốn cầu công,
Rồi ra sự phát đều cùng nghị lưu.
8. Cao Biền dẹp Nam Chiếu
Cao Biền là tướng lạc điêu,
Tài danh sớm đã dự vào giản tri.
Quân phù vâng lệnh chỉ huy,
Tiệp thư sai một tiểu ty về chầu.
Gia quan cho lĩnh tiết mao,
Đặt quân Tĩnh hải biên vào bản chương.
Một châu hùng cứ xưng vương,
Thành La rộng mở, kim thang vững bền.
Tuần hành trải khắp sơn xuyên,
Đào Thiên uy cảng, thông thuyền vãng lai.
Chín năm khép mở ra tài,
Thành trì truyền dấu, miếu đài ghi công.
Rồi khi trở ngựa Hán trung,
Cao Tầm là cháu nối dòng xưng phiên.
Họ Tăng, tên Cổn cũng hiền,
Giao Châu di ký còn truyền một chương.
Thời kỳ xây dựng Độc lập và thống nhất (Thế kỷ thứ 10)
VIII. Nhà Ngô (906 – 967)
1. Họ Khúc dấy nghiệp
Ba trăm năm lẻ Tùy, Đường,
Lại trong Ngũ quý tang thương cũng dài,
Hồng châu Khúc Hạo hùng tài,
Gặp đời thúc quý toan bài bá vương.
Cõi nhà hùng cứ nam phương,
Cung cầu một lễ, Hán Lương hai lòng.
Qui mô cũng rắp hỗn đồng,
Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên.
Thừa gia vừa được tái truyền,
Bởi cầu Lương tiết hóa nên Hán tù.
Dương Đinh Nghệ lại báo thù,
Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.
Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng,
Kiều công Tiện lại nỡ lòng sao nên.
2. Ngô Quyền phá quân Nam Hán
Dương công xưa có rể hiền,
Đường lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô.
Vì thầy, quyết chí phục thù,
Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
Hán sai thái tử Hoằng Thao,
Đem quân ứng viện toan vào giúp công.
Bạch Đằng một trận giao phong,
Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu.
Quân thân đã chính cương trù,
Giang sơn rầy có vương hầu chủ trương.
Về Loa thành mới đăng quang,
Quan danh cải định, triều chương đặt bày.
3. Dương Tam Kha tiếm ngôi
Nền vương vừa mới dựng xây,
Tiếc cho hưởng nước chưa đầy sáu năm.
Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,
Cán Long tuyền để trao cầm tay ai?
Tam Kha là đứa gian hồi,
Lấy bè thích lý chịu lời thác cô.
Cành dương đè lấn chồi ngô,
Bình vương tiếm hiệu, quốc đô tranh quyền.
4. Nhà Ngô phục hưng
Ngô vương vốn có con hiền,
Trưởng là Xương Ngập nối truyền thế gia.
Trà hương lánh dấu yên hà,
Hộ trì lại gặp tôi là Phạm công.
Xương Văn em thứ con dòng,
Nương mình phủ dưỡng, cam lòng kinh doanh.
Nhân khi ra đánh Thái bình,
Vén tay tả đản, về thành tập công.
Khoan hình rồi lại giáng phong,
Tư tình, công nghĩa thủy chung lưỡng tuyền.
Yên vui lại nhớ anh hiền,
Rước tìm Xương Ngập chung quyền quốc gia.
Chi lan xum họp một nhà,
Anh xưng Thiên Sách, em là Tấn Vương.
Cùng nhau đều hưởng giàu sang,
Dù khi chếch lệch biên tường cũng nguôi.
Bốn năm Thiên Sách vừa rồi,
Tấn Vương rầy mới chuyên ngôi một mình.
Sính tài lại hiếu việc binh,
Thao giang đã tĩnh, Thái bình lại vây.
Trận tiền một mũi tên bay,
Khinh thân vàng ngọc, trách này bởi ai?
Tiếc thay chửa được lâu dài,
Mười lăm năm mới hai đời đến đây.
IX Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967 1009)
1. Thập nhị sứ quân
Nghiệp Ngô rầy có ai thay?
Đua nhau lại, phó mặc tay quần hùng.
Tiên du riêng một đề phong,
Nguyễn Công Thủ Tiệp cứ vùng Nguyệt Thiên
Đường lâm riêng một sơn xuyên,
Ngô Công Nhật Khánh cứ miền Tản Thao.
Tây phù liệt có Nguyễn Siêu,
Ngô Xương Xí giữ Bình kiều một phương.
Tế giang này có Lữ Đường,
Nguyễn Khoan hùng cứ Vĩnh tường phải chăng?
Phạm Phòng Át giữ châu Đằng,
Kiều Tam Chế giữ ngàn rừng châu Phong.
Đỗ Giang kìa Đỗ Cảnh Công;
Kiều công tên Thuận ở trong Hồi hồ.
Kiến ong Siêu loại tranh đua,
Lý Khuê một cõi trì khu dầu lòng.
Kình nghê Bố hải vẫy vùng,
Trần công tên Lãm xưng hùng một nơi.
Phân tranh hội ấy nực cười!
Mười hai quan sứ mỗi người mỗi phương.
2. Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất quốc gia
Xây vần trong cuộc tang thương,
Trải bao phân loạn mới sang trị bình.
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,
Con quan thử sử ở thành Hoa lư.
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lau.
Dập dìu kẻ trước người sau,
Trần ai đã thấy vương hầu uy dung.
Một mai về với Trần công,
Hiệu xưng Vạn thắng, anh hùng ai qua.
Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ tướng đều là quét thanh.
3. Chính sách nhà Đinh
Trường yên đầu dựng đô thành.
Cải nguyên là hiệu Thái bình từ đây.
Ngìn năm cơ tự mới xây,
Lên ngôi hoàng đế đặt bầy trăm quan.
Có đưòng bệ có y quan,
Đẳng uy có biệt, giai ban có thường.
Tống phong giao chỉ quận vương,
Cha con đều chịu sủng chương một ngày.
Hồng Bàng để mối đến nay,
Kể trong chính thống từ đây là đầu.
Tiếc không học vấn công phu,
Chuyện xưa ít biết, lo sau vụng đường.
Già tăng cũng dự quan sang,
Bặc, Điền, Cơ, Tú đều phường vũ nhân.
Nội đình năm vị nữ quân,
Nặng tình kiêm ái, quên phần di mưu.
Đã phong Đinh Liễn con đầu,
Hạng Lang là thứ nhẽ nào đổi thay?
Pháp hình cũng lạ xưa nay,
Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân.
4. Nhà Đinh mất ngôi
Chơi bời gần lũ tiểu nhân,
Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mê lòng.
Trùng môn thưa hở đề phòng,
Để cho Đỗ Thích gian hùng nỡ tay.
Nối sau Thiếu đế thơ ngây,
Lê Hoàn tiếp chính từ rầy dọc ngang.
Tiếm xưng là Phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình.
Bặc, Điền vì nước liều mình,
Trách sao Cự Lạng tán thành mưu gian
5. Lê Hoàn phá quân Tống
Chợt nghe binh báo Nam quan,
Cùng nhau phù lập Lê Hoàn làm vương.
Trước mành, vâng lệnh nàng Dương,
Trong cung đã thấy áo vàng đưa ra,
Trường yên đổi mặt sơn hà,
Đại Hành trí lược thực là cũng ghê!
Vạc Đinh đã trở sang Lê,
Nàng Dương chăn gối cũng về hậu cung.
Nguy nga ngói bạc, cột đồng,
Cung đài trang sức buông lòng xa hoang,
Tự mình đã trái luân thường,
Lấy chi rủ mối, dựng giường, về sau.
6. Nhà Lê thất chính
Đoàn con đích, thứ tranh nhau,
Để cho cốt nhục thành cừu bởi ai?
Trung tông vừa mới nối đời,
Cấm đình thoắt đã có người sính hung,
Ngọa triều thí nghịch hôn dung,
Trong mê tử sắc, ngoài nồng hình danh,
Đao sơn, kiếm thụ đầy thành,
Thủy lao bào lạc ngục hình gớm thay.
Bốn năm sầu oán đã đầy,
Vừa tuần Lê rụng đến ngày Lý sinh.
Thời kỳ phát triển (Thế kỷ 11 – đầu thế kỷ 19)
X. Nhà Hậu Lý (1010 – 1225)
1. Lý Thái Tổ
Bắc giang trời mở thánh minh,
Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy.
Lê triều làm chức chỉ huy,
Lũ Đào Cam Mộc ứng kỳ phù lên.
Đầu năm cải hiệu Thuận Thiên,
Thăng Long mới đổi đặt tên kinh thành.
Định ra thuế lệ phân minh,
Túc xa, quản giáp quân danh cũng tường.
Hỗn dồng một mối phong cương,
Hai mươi bốn lộ các đường mới chia.
Cử long sấm dậy binh uy,
Diễn châu gió động tinh kỳ thân chinh.
Biện loan gặp lúc hối minh,
Hương nguyền cảm cách, sóng kình cũng êm.
Bốn phương trong trị, ngoài nghiêm,
Chiêm Thành, Chân Lạp xa đem cung cầu.
Ngựa man sang tiến Bắc triều,
Tống hoàng ban thưởng quan bào thêm vinh.
Ví hay đạo học tinh minh,
Đế vương sự nghiệp nước mình ai hơn?
Có sao tin hoặc dị đoan,
Say vui đạo Phật lưu tiên cảnh chùa?
Để cho dân tục tranh đua,
Ni cô nối gót, tăng đồ chen vai.
Bởi vì sinh cửa Như lai,
Tiêu sơn từ thuở anh hài mới ra.
Sóng tình chìm nổi ái hà,
Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sai.
Tự mình đã dựng lệ giai,
Khiến nên con cái, thêm bài tương tranh.
2. Lý Thái Tông bình Nùng, phục Chiêm
Thái Tông nối nghiệp thủ thành,
Anh em lại rắp đua giành ngôi cao.
Cùng nhau binh mã sấn vào,
Cấm thành bỗng chốc xôn xao chiến trường.
Trận tiền giết Vũ đức Vương,
Đông Chinh, Dực Thánh tìm đường chạy xa.
Khoan hình lại xuống chiếu tha,
Thân phiên đã định, nước nhà mới yên.
Ban hình luật, canh tịch điền,
Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh.
Mừng xem ” Phiên phục, Nùng bình”,
Huy xưng có chữ rành rành biểu tiên.
Vắn dài là số tự nhiên,
Tụng kinh cầu thọ, khéo nên chuyện cười.
3. Lý Thánh Tông, một ông vua nhân dũng
Thánh Tông văn học hơn đời,
Bình Chiêm, đánh Tống, đủ tài kinh luân.
Khuyến nông chăm việc cần dân,
Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.
Thánh hiền tô tượng học cung,
Đặt khoa bác sĩ, ưu dung đại thần.
Ân riêng mưa móc đượm nhuần,
Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm.
Hồ tây vui thú Dâm đàm,
Nỡ đem của nước xây làm cung tiên.
Chuông Sùng Khánh, tháp Báo Thiên,
Phật vàng đúc tượng, say thiền lạ sao.
4. Bà Ỷ Lan nhiếp chánh
Nhân Tông tuổi chửa là bao,
Ngoài ra triều yết, trong vào giảng minh.
Thụ di có Lý Đạo Thành,
Ỷ Lan hoàng hậu buông mành giúp nên.
Mở khoa bác học cầu hiền,
Ba thăng một mẫu, thuế điền nhẹ thay!
Có khi xem gặt, xem cầy,
Lòng chăm điền dã, một ngày mấy tao.
Mưa ân ngấm khắp dồi dào,
Chuộc người bần nữ gả vào quan phu.
5. Lý Thường Kiệt bại Chiêm, phá Tống
Thân chinh xe ngựa trì khu,
Phá Sa động bắt man tù Ngụy Phang.
Chiêm Thành nộp đất xin hàng,
Ba châu qui phụ một đường thanh di.
Tống binh xâm nhiễu biên thùy,
Tướng quân Thường Kiệt dựng cờ Bắc chinh.
Bên song Như Nguyệt trú dinh,
Giang sơn dường có thần linh hộ trì.
Miếu tiền phảng phất ngâm thi,
Như phân địa thế, như trì thiên binh.
Bấy giờ Tống mới hư kinh,
Giảng hòa lại trả mấy thành cố cương.
Lại còn hối hận một chương:
” Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng nguyên”
Năm mươi năm lẻ lâu bền,
Vũ công văn đức rạng truyền sử xanh.
Thượng dương sao nỡ bạc tình,
Để bà Dương hậu một mình ngậm oan.
Kìa Lê văn Thịnh mưu gian,
Thương chi quái hổ mà khoan lưới hình!
Phật từ như quả chứng minh,
Chuông chùa Diên Hựu đã thành phúc cai.
Cớ sao Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?
6. Lý Thần Tông khuyến khích việc nông
Thần Tông sinh cửa Sùng hiền,
Dấu hang thi giải còn truyền Sài sơn.
Thức nồng nhộm vẻ chi lan,
Thông minh học vấn kiêm toàn cả hai.
Năm đầu vừa mới lên ngôi,
Giảng cầu trước đã mở bài kinh diên.
Qui nông cho lính canh phiên,
Rộng ân lại trả quan điền cho dân.
7. Đỗ Anh Vũ lộng quyền
Anh Tông còn thuở xung nhân,
Đỗ Anh Vũ lấy ngoại thân lộng hành.
Ra vào trong trướng, ngoài mành,
Cùng Lê Thái Hậu có tình riêng chung.
Tống giam đã bắt vào trong,
Mà Lê Hậu lại còn lòng đeo đai.
Rượu cơm vẫn cứ đưa mời,
Vàng cho ngục tốt liệu bài thoát ra.
Nghị đồ rồi lại được tha,
Để đoàn Vũ Đái đều là thác oan.
8. Tài kinh quốc của Tô Hiến Thành
Rồi ra vắng mặt quyền gian,
Hiến Thành hết sức cán toàn mới nên.
Khi triều Tống, khi sính Nguyên,
Một niềm cung thuận, đôi bên được lòng.
An nam Tống mới cải phong,
Quốc danh từ ấy rạng dòng viêm phương.
Thành nam mở chốn võ tràng,
Tập tành cung ngựa phô trương tinh kỳ.
Uy danh rậy đến biên thùy,
Chiêm thành, Ngưu hống man di cũng bình.
Tuần du đã tỏ dân tình,
Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xa.
Trừ quân vì một ấu niên.
Tuổi đà còn bé tìm đường ngoại biên
Thác cô nhờ có tôi hiền,
Dẫu người hối chúc mà quyền chẳng sai.
Cao Tông ba tuổi nối đời,
Hiến Thành cư nhiếp, trong ngoài đều yên.
Di lưu còn muốn tán dương.
Để rồi thay đổi bao đường nhiễu nhương
9. Lý Cao Tổ thất chính
Tiếc không dùng kẻ trung tương,
Cao Tông hoang túng mọi đường ai can?
Dấu xe quanh khắp giang san,
Chính mình lỗi tiết, du quan quá thường.
Lại thêm thổ mộc cung tường,
Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
Nhạc Chiêm rầu rĩ khéo bầy,
Những là tai biến từ này hiện ra.
Trâu đâu lên ngọn am la,
Thước đâu làm tổ góc nhà Kính thiên.
Bốn phương trộm cướp nổi lên,
Quân Chiêm, người Tống xâm biên mấy kỳ.
Vui chơi nào có biết gì,
Thờ ơ phó chuyện an nguy mặc trời.
10. Quách-Bốc chiếm kinh-thành
Quyền-cương ngày một đổi dời,
Phạm-Du đã phản lại vời về kinh.
Bỉnh-Di là kẻ trung-thành,
Nghe dèm mà nỡ gia-hình cớ sao?
Bởi ai gây việc oan-cừu,
Để cho Quách-Bốc sấn vào kim giai.
Xe loan lánh chạy ra ngoài,
Hoàng-thân đế thích mỗi người một phương.
11. Họ Trần giúp vua Lý
Trừ quân đi đến Thiên trường.
Tình cờ lại gặp một nường tiểu thư.
Con nhà Trần Lý công ngư.
Lưới chài nhưng cũng phong tư khác thường.
Trăng già đưa mối tơ vương,
Mới hay con tạo mở đường di duyên.
Họ Trần từ ấy nổi lên.
Kết bè thích lý, dựng nền tiếm giai.
Trần Tự Khánh ở phương ngoài,
Đem quân Hải ấp vào nơi đô thành.
12. Lý Huệ Tông phát điên
Huệ tông gặp bước gập ghềnh,
Nhẹ ân mẫu hậu, nặng tình phu nhân.
Lạng châu xe đã Bắc tuần,
Nửa đêm riêng với nàng Trần lẻn đi.
Gặp quân Tự khánh rước về,
Đuơng cơn gió bụi bốn bề chưa êm.
Huệ tông cuồng tật lại thêm.
Khi ngày đứng múa khi đêm nằm dài.
Xuất gia lại muốn tu trai,
Ngôi thiêng phó thác cho người đào thơ.
Đằng sơn bóng nhật đã mờ,
Hai trăm mười sáu Lý cơ còn gì?”
13. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng
Chiêu hoàng là phận nữ nhi,
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
Xây vần cơ tạo khéo sao?
Bỗng xui Trần Cảnh hiện vào hầu trong.
Người yểu điệu, kẻ thư phong,
Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây,
Vẩy nước chậu, vắt khăn tay,
Khi đêm đập bóng, khi ngày ngồi chung.
Hoa đào đã dạn gió đông.
Vua tôi phận đẹp, vợ chồng duyên may.
Chiếu rồng ban xuống năm mây.
Mừng rằng nữ chúa ngày nay có chồng.
Thời Kỳ Thịnh Trị (1226 – 1340)
XI. Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226 – 1340)
1. Những việc cải cách đầu tiên
Đông A tỏ mặt vừng hồng,
Thái tông cải hiệu Kiến trung rõ ràng.
Trần Thừa là Thái thượng hoàng,
Chuyên quyền thính đoán, gồm đường kinh luân.
Soạn làm thông chế lễ văn,
Thuế điền đã định, số dân cũng tường.
Tướng thần mới đặt bình chương,
Huyện châu sai kẻ khoa trường trị dân,
Bạ đầu thi kẻ lại nhân.
Hiệu quân Tứ thánh, Tứ thần mới chia.
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tường.
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ Độ chuyên đường trị dân.
2. Văn học và võ công
Thượng hoàng phút đã từ trần,
Thái tông tuổi mới đến tuần mười hai.
Cao minh đã có tư trời,
Lại thêm Thủ Độ vẽ vời khôn ngoan.
Sùng văn, tô tượng Khổng, Nhan,
Dựng nhà Quốc học, đặt quan Giám thần,
Bảy năm một hội thanh vân,
Anh tài náo nức dần dần mới ra.
Trạng nguyên, bảng nhỡn, thám hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái học chư sinh,
Lại thi tam giáo chia rành ba khoa.
Thân chinh trỏ ngọn thiên qua,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tan.
3. Phong tục đời Trần
Vì ai, đạt gánh giang san?
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu hoàng duyên trước làm sao?
Gả đi bán lại, coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu cung
Bởi ai đầu mở hôn phong,
Khiến nên một đạo khuê phòng thẹn riêng!
Thuần bôn dong thói ngửa nghiêng,
Họ đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì.
Thiên Thành công chúa vu quy,
Sao Trần Quốc Tuấn cướp đi cho đành?
Sính nghi đem tiến thiên đình
Thụy bà lăng líu, Trung Thành ngẩn ngơ:
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật tượng, đình thờ Thích ca.
Tin lời phong thủy khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cười.
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc cung.
4. Đức độ và chánh trị của Trần Thánh tông
Thánh tông hiếu hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh thơi.
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến lạc, cõi ngoài ấm phong.
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di mưu cho kẻ nối dòng ngày sau.
Văn nho khuya sớm giảng cầu,
Kẻ tu sử ký, người chầu kinh diên.
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn luyện tập thuyền Cửu sa.
5. Trần Hưng Đạo phá Mông Cổ
Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân tông hùng lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng Đạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.
Hoài Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Đã hay thiên tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngọa vân.
6. Anh tông và Minh tông
Anh Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn đức, ngoài cần vũ công.
Có châm để dạy Đông cung.
Thủy vân có tập vui cùng bút nghiên.
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông A.
Quyện cần rồi lại xuất gia,
Minh tông kế thống cũng là hiền vương.
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường mối sau.
Tiếc không biện biệt ngư châu
Để cho tà nịnh ở đầu giai ban.
Khắc Chung thêm dệt lời gian,
Quốc Chân mắc phải tiếng oan thiệt mình.
7. Việc đánh dẹp về đời Hiến tông
Hiến tông làm máy lung linh,
Nghiêm xem tinh độ vận hành không sai.
Thạch đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Đông.
Thừa bình lại hiếu vũ công,
Đà giang xa mã, Nam nhung tinh kỳ
Cổ quăng mấy kẻ truy tùy,
Nhữ Hài, Chiêu Nghĩa đều về thủy cung
Kiềm châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rều.
XII. Nhà Trần (Thời kỳ suy vi: 1341 – 1400)
1. Nhà Trần bắt đầu suy
Dụ tông em lại thừa diêu,
Ngôi thay anh cả, quyền theo Thượng hoàng.
Thượng thư mới đặt tỉnh đường,
Đề hình chuyển vận chức thường có tên.
Khuyến nông sai sứ đồn điền,
Vân đồn đặt trấn tra thuyền khách nhân.
Khu tào thống lĩnh cấm quân,
Phong đoàn lại mới kén dần các đô.
Uy thanh xa động biên ngu,
Chiêm thành Chế Mộ dâng đồ thổ nghi
Mong nhờ đưa lối về quê,
Hay đâu gặp gió trở về luống công.
Thượng hoàng đã vắng mặt trong,
Nào ai kiêng sợ mà lòng chẳng di?
Đền Song quế, ao Thanh trì,
Muông chim hoa cỏ thiếu gì trò chơi!
Trong cung cờ bạc chơi bời,
Tiệc vui chuốc chén, trận cười leo dây!
Đạo thường chẳng cẩn phòng vi,
Chị em chung chạ loạn bề đại luân.
2. Dương Nhật Lễ tiếm vị
Truyền ngôi con đứa ưu nhân,
Để Dương Nhật Lễ tiếm trần dựng lên.
Thói nhà bài hước đã quen,
Tiếng hòa nhịp phách, hát chen cung đàn.
Hiến từ đã phải hàm oan,
Trần công mưu hở thân tàn cũng thương!
Nghệ tông dòng dõi thiên hoàng,
Đà giang lánh dấu, liệu đường khuất thân,
Tiềm mưu với kẻ tôn thần,
Đem về xã tắc nhà Trần thủa xưa.
Yêu phân dành đã tảo trừ,
Cũng là nối một mối thừa lại sau.
3. Chiêm Thành xâm nhiễu
Tiếc sao một bực ưu nhu,
Đông A từ ấy cơ đồ mới suy.
Giậu phên trống trải biên thùy,
Giặc Chiêm giong ruổi đô kỳ xôn xao.
Quý Ly cho dự khu tào,
Báu thiêng lại để gian hào khải du
Duệ tông hăm hở phục thù,
Đánh Chiêm nào quản tri khu dặm trường.
Khinh mình vào động Ky mang,
Tinh kỳ tan tác gió sương mịt mù.
Em là Phế đế hôn ngu,
Chôn tiền giấu của như đồ trẻ chơi.
4. Lê Quý Ly phế lập
Quý Ly quyền lấn trong ngoài
Buông lời sàm gián quên bài tôn thân.
Truyền vời Phế Đế vào sân,
Lụa đào một tấm bể trần kết oan.
Thuận tông tuổi mọn tài hèn,
Ngồi không mà để chính quyền mặc ai.
Phải chăng bởi tại mưu người,
Mà điềm trẫm triệu cơ trời lạ sao!
Thượng hoàng một giấc chiêm bao,
” Bạch kê, xích chủy” ứng vào câu thơ.
Loạn trưng đã hiện từ giờ,
Mà đồ tứ phụ ai ngờ vẽ ra!
Chim con đem gửi ác già,
Chắc đâu phó thác hẳn là đắc nhân!
XIII. Nhà Hồ và giặc nhà Minh (1400 – 1418)
1. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần
Quý Ly gắm ghé vạc Trần.
Quyết dời kẻ chợ về gần An tôn.
Đã xui truyền vị cho con,
Ngọc Thanh lại kết oan hồn một giây.
Gặp khi Thiếu Đế thơ ngây,
Khát Chân, Trần Hãng đêm ngày hợp mưu.
Hội minh vừa mới lên lầu,
Ba trăm đồ đảng cùng nhau hiệp tình.
Dùng dằng chưa kịp cất binh,
Hở cơ một phút tan tành như tro.
Quý Ly mới đổi họ Hồ,
Quốc danh là hiệu Đại Ngu chương hoàng.
Truyền ngôi con cả Hán Thương,
Tự xưng là Thái thượng hoàng ở trong.
Sai người dâng biểu cầu phong,
Dối Minh xin để nối dòng quốc quân.
2. Quân Minh diệt nhà Hồ
Nguyễn Khang giả tiếng họ Trần,
Sang Minh xin lấy viện quân đưa về.
Chi lăng nghe động cổ bề,
Lý Bân, Mộc Thạnh trỏ cờ tới nơi.
Quân Minh nhân thế đuổi dài,
Nhị Hồ mới chạy ra ngoài phương xa.
Núi Cao vọng, bến Kỳ la,
Đường cùng phải bắt cũng là trời xui!
Tôn vinh kể được mấy hơi,
Sáu năm tiếm vị, muôn đời ô danh
3. Trần Giản Định chống Minh
Quý Ly tội ác đã đành,
Rồi ra lại gặp người Minh hung tàn.
Chia phủ, huyện, đặt quân quan,
Cỏ cây đều phải lầm than hội này
Dòng Trần chưa dứt một dây,
Triệu Cơ còn rắp ra tay đồ hồi.
Lại phù Giản Định lên ngôi,
Cảnh Chân, Đặng Tất vua tôi hiệp tình.
Mở cờ đánh với quân Minh,
Phá đồn Cổ lộng, đốt thành Bô cô.
Ví hay nhân thế tràng khu,
May ra khôi phục cơ đồ cũng nên.
Trùng hưng cơ tự chưa bền,
Bỗng không đem kẻ tướng hiền giết đi,
Cho nên hào kiệt bạn ly,
Cánh vây không có, còn gì mà mong?
4. Trần Trùng Quang chống Minh
Tướng môn lại có con dòng,
Đặng Dung, Cảnh Dị mới cùng hợp mưu.
Một hai quyết chí đồng cừu
Cùng đem binh sĩ ruổi vào Chi la.
Lại tìm dòng dõi Trần gia,
Tôn phù Quý Khoáng, ấy là Trùng Quang.
Đem binh vào phủ Thiên tràng,
Đón vua Giản Định về đàng Nghệ an.
Cùng nhau gánh việc gian nan,
Hạ hồng tế ngựa, Bình than đỗ thuyền.
Quân Minh cố giữ thành bền,
Bỗng đâu Trương Phụ băng miền lại sang.
5. Quân Minh chiếm toàn cõi Đại Việt
Từ khi Giản Định đầu hàng,
Nghệ an đất cũ Trùng Quang lại về.
Quân Minh chiếm giữ Bắc kỳ,
Vua Trần lánh ở Nam thùy một nơi.
Đặng Dung, Cảnh Dị mấy người,
Thế cùng dù có tướng tài cũng thua.
Trước sau mười bốn đời vua,
Một trăm tám chục xuân thu chưa chầy.
Loạn cơ bởi tự ai gầy?
Quý Ly tiếm thiết tội dây muôn đời.
Chẳng qua lịch đổi, số dời,
Xui ra cho đứa gian hồi nhuốm tay.
6. Chính sách nhà Minh
Cốc lăng trời khéo đổi thay,
Giận riêng bờ cõi từ nầy thuộc Minh.
Người trí thức, kẻ tài danh,
Nam sơn đào độn, Bắc đình câu lưu,
Thuế tơ, thuế thóc tham cầu,
Mỏ vàng mỏ bạc, trưng thâu cũng nhiều;
Săn bạch tượng, hái hồ tiêu,
Mò châu, cấm muối, lắm điều hại dân.
XIV. Nhà Hậu Lê (Thời kỳ thống nhất: 1418 – 1526)
1. Lê thái Tổ phá giặc Minh
Mới hay cơ tạo xoay vần,
Có khi bĩ cực đến tuần thái lai.
Thiếu chi hào kiệt trong đời,
Non xanh nước bạc có người kinh luân.
Lương giang trời mở chân nhân,
Vua Lê Thái tổ ứng tuần mới ra.
Lam sơn khởi nghĩa từ nhà,
Phong trần lắm lúc kể đà gian nguy.
Lạc xuyên đầu giết Mã Kỳ,
Nghệ, Thanh một giải thu về bản chương.
Chia quân kinh lược mọi đường,
Hai kinh đã định, bốn phương cũng bình.
Vương Thông bền giữ cô thành.
Viện binh hai đạo Bắc đình tiếp sang.
Trời nam đã có chủ trương,
Mà cơ chế thắng miếu đường cũng tinh.
Chi lăng các đạo phục binh,
Liễu Thăng, Mộc Thạnh liều mình nẻo xa.
Vương Thông thế túng cầu hòa,
Quyền phong Trần Cảo gọi là Quốc vương.
Ngôi thiêng sao xứng tài thường.
Trần Công trẫm sát để nhường long phi.
2. Nhà Lê kiến quốc
Thuận thiên niên hiệu cải đề,
Non sông mới thuộc về Lê từ rầy,
Quan danh, quân hiệu mới thay,
Bản đồ đổi lại huyện này, phủ kia.
Dựng nhà học, mở khoa thi,
Triều nghi, quốc luật một kỳ giảng tu
Mười năm khai sáng cơ đồ,
Sáu năm bình trị qui mô cũng tường.
Thái tông rộng mở khoa trường,
Lập bia tiến sĩ trọng đường tư văn.
Chín năm noi nghiệp cơ cần,
Viễn di mến đức, cường thần sợ uy.
Tuổi xanh hoang túng nhiều bề,
Vườn xuân lắm lúc say mê vì tình.
Đông tuần về đến Bắc ninh,
Riêng cùng Thị Lộ quên mình bởi ai?
Nhân tông tuổi mới lên hai,
Quyền trong mẫu hậu, chính ngoài thần công.
Mười năm một hội đại đồng,
Văn mô rạng trước, vũ công phục ngoài.
Đánh Chiêm thành, cất Bí cai,
Đổ bàn, Cổ lũy các nơi hướng tiền.
3. Lê Nghi Dân cướp ngôi
Diên ninh vừa độ trung niên,
Nhân tông tuổi cả mới lên ngự trào.
Nghi Dân cốt nhục nỡ nào,
Tiềm mưu đêm bắc thang vào nội cung
Mẹ con đương thủa giấc nồng,
Hồn tiên liều với gian hùng một tay.
Nghi Dân chuyên tiếm từ đây,
Lương tâm đã dứt, ác cai lại nồng.
Đình thần nghị tội truất phong,
Rước Gia vương, ngự đền rồng cải nguyên.
4. Thời kỳ toàn thịnh: Lê Thánh tông
Thánh tông cốt cách thần tiên,
Lại thêm kinh thánh truyện hiền gia công,
Quốc âm, Đường luật tinh thông,
Thiên văn, toán pháp, binh nhung cũng tường.
Tài cao mại, đức thù thường.
Kiến văn đã rộng, thi trương cũng già,
Ba năm lại mở một khoa,
Tân hưng, đại tị theo nhà Thành Châu,
Nhạc âm, lễ chế giảng cầu,
Quan danh, phục sắc theo trào (triều) Đại Minh.
Mở Quảng nam, đặt Trấn ninh
Đề phong muôn dặm uy linh ai bì.
Kỷ công núi có Đá bia,
Thi văn các tập ‘ Thần khuê còn truyền.
Thừa diêu lại có con hiền,
Hiến tông nhân thứ rạng nền tiền huy.
5. Nhà Lê bắt đầu suy
Túc tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy Mục thứ chi nối đời.
Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ thân.
Văn Lang xướng suất phủ quân.
Thần phù nối áng phong trần một phương.
Giản Tu cùng phái ngân hoàng,
Vào Thanh hợp với Văn Lang kết thề.
Đem binh vây bức đô kỳ,
Quỷ vương khuất mặt, quyền về Trư vương.
Lại càng dâm ngược kiêu hoang.
Trăm gian, nghìn nóc, cung tường xa hoa.
Lại càng bác tước họ nhà.
Cành vàng lá ngọc đều là điêu linh.
6. Loạn Trần Cảo và Trịnh Duy Sản
Phương ngoài Trần Cảo lộng binh,
Mà trong Duy Sản mống tình bạn quân.
Đem binh vào cửa Bắc thần,
Bích câu một phút mông trần bởi ai.
Giềng Lê khi đã đổi dời,
Mặc tay Duy Sản đặt người chủ trương
Đã tôn con Mục ý vương,
Lại mưu phù lập Chiêu hoàng cớ sao?
Thị thành vừa lúc xôn xao,
Lại đưa xa giá ruổi vào cõi Tây,
Lòng trời khử tật mới hay,
Giết Duy Sản lại mượn tay giặc Trần.
Tướng tài còn có Trần Chân,
Nguyệt giang chống với giặc Trần mấy phen
Ngụy Trần vào cứ Đồng Nguyên,
Truyền ngôi con cả, cải nguyên Tuyên hòa,
Cạo đầu vào cửa Thích già,
Y qui nương bóng Di đà độ thân.
7. Chính quyền tan rã
Trời sinh ra hội phong trần,
Mạc Đăng Dung lại cường thần nổi lên.
Trần Chân tay giữ binh quyền,
Trên ngờ thế cả, dưới ghen tài lành
Tiếc thay có tướng can thành,
Tin sàm mà nỡ dứt tình chẳng tha.
Vì ai gây gỗi oan gia,
Để cho Nguyễn Kính lại ra báo thù.
Kinh sư khói lửa mịt mù.
Xe loan ra cõi Bảo châu tỵ trần.
Nguyễn Sư cũng đảng nghịch thần,
Nửa năm phù lập hai lần quốc vương.
Ngàn Tây một cõi chiến trường,
Phó cho Mạc súy sửa sang một mình.
8. Mạc Đăng Dung chuyên quyền
Đăng Dung cậy có công danh,
Thuyền rồng, tán phượng lộng hành sợ chi.
Chiêu Tông gặp lúc hiềm nghi,
Nửa đêm lén bước chạy về Tây phương.
Đăng Dung lập lại Cung hoàng,
Hành cung tạm trú Hải dương cõi ngoài.
Xe loan về đến kinh đài,
Sẵn sàng thiền chiếu ép bài sách phong.
Họa tâm từ ấy càng nồng
Lương châu Tây nội cam lòng cho đang.
XV. Nhà Mạc (1527 1592)
1. Ngoại giao và nội chính của Mạc Đăng Dung
Mạc rầy rõ mặt tiếm cường,
Thăng long truyền nước, Nghi dương dựng nhà.
Dỗ người lấy vẻ vinh hoa,
Nhưng lòng trung nghĩa ai mà sá theo.
Cầu phong sai sứ Bắc triều,
Dâng vàng, nộp đất nhiều điều dối Minh.
Lê thần có kẻ trung trinh,
Trịnh Ngung sang đến Bắc đình tỏ kêu.
Minh tham lễ hậu của nhiều,
Phụ tình trung nghĩa, quên điều thị phi.
Đăng Dung thỏa chước gian khi,
Tuổi cao rồi lại truyền về Đăng Doanh.
Mã giang đầu xướng nghĩa thanh,
Gần xa đâu chẳng nức tình cần vương.
Được thua mấy trận chiến trường.
Nghìn thu tiết nghĩa đá vàng lưu danh.
2. Nguyễn Kim khởi nghĩa phù Lê
Cành Lê có độ tái vinh,
Xui nên tá mệnh trời sinh thánh hiền.
Đức vua Triệu tổ ta lên,
Cất quân phù nghĩa giúp nền trung hưng,
Sầm châu ỷ thế nguồn rừng,
Mười năm khai thác mấy từng nước non,
Dù khi đỉnh tộ suy mòn,
Cương trù chưa nát vẫn còn tôn Lê.
Trang tông lưu lạc tìm về,
Chia binh Thúy đả, mở cờ Ai lao.
Lôi dương một trận binh giao,
Phá tan nghịch đảng tiến vào Nghệ an
Cỏ hoa mừng rước xe loan,
Thổ hào ứng nghĩa dân gian nức lòng,
Tây đô quét sạch bụi hồng,
Dặm tràng thẳng trỏ ngọn đòng tràng khu
Hẹn ngày vào tới Đông đô,
Một hai thu phục cơ đồ thủa xưa.
Độc sao hàng tướng tiến dưa!
Trước dinh Ngũ trượng bỗng mờ tướng tinh.
3. Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc
Tiếc thay công nghiệp thùy thành,
Để cho Trịnh Kiểm thay mình thống quân
Sáu năm vừa hội hanh truân,
Đỉnh hồ đâu đã đến tuần mây che.
Trung tông nhờ cậy dư uy,
Mạc thần mấy kẻ cũng về hiệu trung.
Biện dinh quân mạnh, tướng hùng,
Bốn phương hào kiệt nức lòng y quang.
Đông kinh trỏ ngọn việt vàng,
Phúc Nguyên Mạc chúa chạy sang Kim thành.
Thần phù thuyền giã lênh đênh,
Lại còn Kính Điển đeo tình quấy trêu.
Quan binh theo ngọn thủy triều,
Duyên giang một trận, nước bèo chảy tan.
Anh tông nối nghiệp gian nan,
Tây đô một giải giang san cõi nhà.
Mạc vào xâm nhiễu Thanh hoa,
Thái sư Trịnh Kiểm lại ra tiễu bình.
4. Nguyễn Hoàng vào Hóa Châu
Hóa châu có đất biên thành,
Bốn bề sơn hải trời dành kim thang.
Trịnh công tâu với Lê hoàng,
Chọn người ra giữ một phương thành dài.
Bản triều Thái tổ hùng tài,
Gióng cờ ra trấn cõi ngoài từ đây.
Việt mao khi đã đến tay,
Hoành sơn một giải mới gây cơ đồ.
5. Trịnh Mạc phân tranh
Mặt trong đành đã khỏi lo,
Trịnh công chuyên ý trì khu cõi ngoài.
Quận Gia, quận Định mấy người,
Hưng, Tuyên binh hợp các nơi thêm dầy.
Mạc dần suy yếu từ nay,
Vận Lê xem đã đến ngày trùng hanh.
Đem quân về giữ Tây kinh,
Bể Thanh lại lặng tăm kình như không.
Nhân khi Mậu Hợp ấu trùng,
Mở đường Phố cát, qua sông Bồ đề.
Mạc vào, quân lại rút về,
Mạc lui, quân lại bốn bề kéo ra.
Tuyết sương trăm trận xông pha,
Trịnh Công vì nước cũng đà cần lao.
6. Trịnh Tùng chấp chính
Tuổi già vừa giải tiết mao,
Con là Trịnh Cối lại vào đổng nhung.
Kiêu hoang quen thói con dòng,
Binh quyền lại để Trịnh Tùng thay anh,
Cối, Tùng một gốc đôi cành,
Vinh khô đã khác, ân tình cũng khuê,
Anh em mâu thuẫn hai bề,
Thừa cơ Mạc lại kéo về nội xâm.
Mạc lui, Tùng mới manh tâm,
Ngoài trương thanh thế, trong cầm quyền cương.
Lại mưu tàn hại trung lương,
Vàng đưa ngoài cửa, búa trương dưới màn.
Tạ tình phụ tấm niềm đan,
Đem Lê Cập Đệ giết oan nỡ nào!
Bằng không nổi trận ba đào,
Để cho xa giá chạy vào Nghệ an.
Giá điền vừa mới hồi loan,
Lôi dương đã nổi tiếng oan giữa vời.
Thế tông con thứ nối đời,
Trịnh Tùng phù lập cùng loài giả danh.
7. Trịnh Tùng diệt Mạc
Cõi ngoài giặc Mạc tung hoành,
Bắc hà cát cứ mấy thành nhân dân.
Giáng uy nhờ có lôi thần,
Nhân khi Mậu hợp đến tuần thiên tru
Mạc thần mấy kẻ vũ phu,
Sao mai lác đác, lá thu rụng rời.
Xuất binh vừa gặp cơ trời,
Đường ghềnh len lỏi ra ngoài Thiên quan.
Tràng khu một lối duyên san,
Huyện châu gió lướt, Tràng an lửa nồng.
Bỏ thành, Mạc chạy qua sông,
Đuổi sang Phượng nhỡn đường cùng mới thôi,
Kể từ Ngụy Mạc tiếm ngôi,
Năm đời truyền kế sáu mươi năm chầy.
Trần ai quét sạch từ rày,
Về kinh ban yến, tiệc bầy thưởng công.
XVI. Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê Chúa Trịnh: 1593 – 1729)
1. Giao thiệp buổi đầu với Trung hoa
Mới sai sứ giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin nghi.
Sai quan hội khám một kỳ,
Phong làm Đô thống, cơ mi gọi là!
Phùng Khoan sứ tiết cũng già,
Biểu từ biện chiết thật đà thiết minh.
Mấy lời ôn dụ đinh ninh,
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày.
2. Trịnh Tùng xưng chúa
Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh nầy lại lên.
Tùng xem căn cứ đã bền,
Công danh càng thịnh, uy quyền càng cao.
Rỡ ràng ngọc sách, tinh bao,
Gia phong Nguyên súy, dự vào sủng chương
Bình an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm thiết, mở đường khải du.
Kính Tông còn độ ấu cô,
Đống lương ai kẻ xanh phù vạc Lê?
Triều thần những lũ Bùi Khuê,
Lại tìm Mạc nghiệt theo về Kính Cung.
Nghi dương tro tắt lại nồng,
Thị thành nổi áng bụi hồng bởi ai?
Nhân khi giá ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô thành.
Quan quân ra đánh lại bình,
Thặng dư mới phát tự Thanh ngự về.
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tay.
Bốn phương tai biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu cữu biết đời thịnh suy.
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh chúa lại nghi Lê hoàng.
Sinh con gặp đứa vô lương,
Châu liên sao nỡ quên đường quân thân?
3. Trịnh Tráng tăng quyền phủ chúa
Thừa gia theo lối cường thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân tuần đã quen,
Thần tông vừa mới cải nguyên,
Sách phong Trịnh Tráng đã ban từ giờ.
Thành đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gì?
Chẳng qua là dạ gian khi,
Làm cho rõ mặt phúc uy tự nhà.
Chân Tông tuổi mới mười ba,
Hững hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lòng.
Quốc vương Minh mới cải phong,
Bảy năm lịch số vừa chung một đời
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng hoàng lại đổi mặt ra tân hoàng.
Thờ ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính quyền phó mặc Trịnh vương, biết gì.
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường thần.
Sắc phong chiếu dụ ân cần,
Phó vương Trịnh lại thêm phần tôn vinh.
Cả giầu sang, lớn quyền hành,
Giang sơn chung một triều đình chia đôi.
4. Trịnh Tạc đánh Nguyễn và Mạc
Tiếm phong, Trịnh Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài bồi cho con.
Càn cương ngày một suy mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu trung,
Bản triều mở dấu Kỳ phong,
Thánh thần truyền dõi một lòng tôn Lê.
Quyền gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc kỳ tiến chinh.
Sáu năm rồi mới bãi binh,
Lũy dài còn dấu uy linh để truyền.
Vận Lê còn buổi truân chuyên,
Huyền tông thơ ấu để quyền Tây vương.
Đẳng uy đã biến lễ thường,
Vào chầu không lạy, miếu đường có ai?
Thiên nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự tiền.
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải bộ gây nền tranh vương.
Vũ công lại muốn phấn dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao bình.
Mạc vào cầu viện Yên kinh,
Phong làm Đô thống tung hoành cõi xa.
Bốn châu riêng một sơn hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngô.
Gia tông vừa nối cơ đồ,
Xe loan đã giục trì khu ra ngoài.
Phòng biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, lũy dài phá tan,
Mã đầu đã trở quy an,
Hà trung Trịnh lại đặt quan lưu đồn.
5. Trịnh Căn và nhà Thanh
Về nhà lập lại Trịnh Côn (Căn)
Nam vương theo lối quyền môn một dòng.
Đêm ngày bí các thong dong,
Văn thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc Trinh tham tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu binh?
Hy tông hoàng đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc nghiệt mấy đời đến nay.
Di thư sang với Quảng tây,
Một lần hội tiễu từ này chạy xa.
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị xuyên, Bảo lạc, Nà oa, Lộc bình.
Thổ quan lại có tư tình,
Tham vàng đem giới kệ đình chuyển di.
6. Triều thần nhà Lê
Bên ngoài xâm tước nhiều bề,
Ở trong chính sự chỉnh tề được bao?
Lễ gì hơn lễ bang giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu ban.
Thế mà những kẻ cư quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn vinh.
Tại triều mấy kẻ trâm anh,
Nguyễn Đang, Đồng Trạch công thanh một đường.
Thế Vinh tài học ưu trường,
Nguyễn Hành, Hà Mục văn chương cũng già.
Bởi ai thiên hạ âu ca,
Chẳng quan tham tụng Vãn hà là chi?
Bởi ai thiên hạ sầu bi,
Chẳng quan tham tụng Lê Hy hãnh thần?
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lê.
Mồi giầu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ trụ làm bia trong đời!
7. Những việc cải cách về thời Trịnh Cương
Dụ tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố gia
Lục phiên lại đặt tư nha,
Bao nhiêu tài phú đều là về tay.
Các quan trấn thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống hạt từ rầy chia hai.
Vũ thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên ly.
Lấy năm điều khảo trấn ti,
Cứ trong điển tối mà suy hay hèn.
Thẩm hình đặt viện phủ tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp ti.
Vũ khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao lược, thử nghề dao cung.
Ba trường phúc thí đã xong,
Đề danh tạo sĩ bảng rồng cũng vinh.
Kén thêm tứ trấn binh đinh,
Vệ quân mới đặt sáu dinh từ rầy.
Công tư điền thổ xưa nay,
Sai quân khám đạc san tay dân cùng
Tuần hành có sứ khuyến nông.
Giữ gìn đê lộ, xét trong dân tình.
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta.
Lập bia trên Đổ chú hà,
Giới cương tự đó mới là phân minh.
Qui mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng tiếm tự mình ra chi?
Lập phủ đường ở Cổ bi,
Toan đem kinh quốc dời về cố hương
Đông cung đã lập Duy Tường,
Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao?
XVII. Nhà Lê suy vi (Trịnh Nguyễn phân tranh: 1729 – 1782)
1. Chính sách đồi bại của Trịnh Giang
Trịnh Giang quen lối gian hào.
Truất ngôi Vĩnh Khánh hãm vào tội nhân.
Thuần Tông đặt bỏ mấy lần,
Phúc uy mặc sức cường thần mới ghê.
Ý tông còn tuổi hài đề
Danh tuy chính thống, quyền về phó vương.
Trịnh càng dâm ngược kiêu hoang,
Đêm ngày luống những tham đường vui chơi.
Dấu xe giong ruổi quanh trời,
Sửa sang cảnh Phật, vẽ vời động tiên.
Quỳnh lâm, Hương hải, Hồ thiên,
Của thiên hạ chất cửa thiền biết bao?
Kho tàng ngày một tiêu hao,
Bán khoa, mua tước tiền vào sáu cung
Phó vương còn chửa cam lòng,
Thượng vương lại giả sắc rồng nhà Thanh.
Tội trời kể đã quánh doanh,
Sao cho nghiệp báo đến mình mới thôi.
Bỗng đâu một tiếng thiên lôi,
Thất kinh ngơ ngác như người chứng điên.
Ở hang lại gọi cung tiên,
Để đoàn nội thụ chuyên quyền lộng uy.
2. Sự loạn lạc ở Bắc hà
Lòng người đâu chẳng loạn ly,
Ếch kêu, ác họp thiếu gì gần xa!
Sơn nam có giặc Ngân già,
Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ấy là giặc Đông.
Sơn tây: nghịch Tế, nghịch Bồng ;
Động ngoài ba mặt, nhộn trong bốn bề.
Nằm hang Trịnh có biết gì!
Quận Bào, quận Thực đua bì tranh công.
3. Trịnh Doanh và Lê Hiển tông
Phó vương quen lối nhà dòng,
Chẳng phò Trịnh thị sao xong việc đời?
Nguyễn công Quí Cảnh mấy người,
Vào trong định sách ra ngoài diệu binh.
Cùng nhau phù lập Trịnh Doanh,
Thái vương Trịnh lại tôn anh làm vì.
Sai quan kinh lược bốn bề,
Khải ca mấy khúc đều về tấu công.
Cơ mưu Trịnh cũng gian hùng,
Nghĩ mình chuyên tiếm ắt lòng ai ưa.
Có Lê mới có đến giờ,
Phải cầu hiền đức để nhờ phúc chung.
Kìa người mắt phượng râu rồng,
Duy Diêu vốn cũng là dòng thần minh.
Hạ đài khuất bóng tiền tinh,
Khuôn thiêng còn để một cành phúc chi.
Hay đâu cầu ứng cũng kỳ,
Bỗng xui Trịnh chúa tạm di ra ngoài.
Vũ công một giấc hiên mai,
Mơ màng dường thấy phong tài đế vương.
Tinh kỳ nhã nhạc lạ nhường,
Thái bình nghi vệ rõ ràng chẳng ngoa.
Sáng mai vừa mới tỉnh ra,
Duy Diêu xảy đến chơi nhà lạ sao?
Thấy người mà nghiệm chiêm bao,
Mới hay trẫm triệu ứng vào tự nhiên.
Nghe lời Trịnh mới phù lên,
Hiển tông từ ấy chịu truyền nối ngôi.
4. Trịnh Doanh và Trịnh Sâm dẹp loạn
Vận Lê đến lúc suy đồi,
Chắp tay rủ áo lặng ngồi mặc ai.
Gặp khi nhiều việc chông gai,
Loạn trong Ba phủ, giặc ngoài bốn phương
Văn thần có kẻ phấn dương,
Phạm công Đình Trọng gồm đường lược thao.
Phao sơn trỏ ngọn cờ đào,
Nguyễn Cừ đã phá, Nguyễn Cầu cũng tan.
Nguyễn Phương cứ Độc tôn sơn,
Tuyên, Hưng là đất, lâm man là nhà.
Trịnh vương quyết chí xông pha,
Huyệt sào quét sạch, binh xa mới về.
Quyền gian kế tập quen lề,
Trịnh Sâm lại cũng sính nghề vũ công.
Mạnh thiên hang thẳm núi cùng,
Hãy còn Hoàng Chất lâm tùng ẩn thân.
Sai Đoàn Nguyễn Thục đem quân,
Cùng rừng săn thú một lần mới thanh.
Lại toan dẹp cõi Trấn ninh,
Chỉn e địa thế, dân tình chưa quen.
Địa đồ ai khéo vẽ nên,
Thu ngoài man cảnh về bên khuyết đình.
Gần xa đã tỏ tình hình,
Mới sai chư tướng đề binh đánh liền,
Chiềng quang thành lũy vững bền.
Bồ chông núi cả cũng nên hiểm trời.
Biến đâu trửu dịch lạ đời!
Nửa đêm mở lũy cho người tiến sang.
Bởi mưu Ngũ Phúc chiêu hàng
Nguyễn Thiều trong lại đem đàng nội công.
Vậy nên Duy Mật thế cùng,
Hỏa viêm một phút cô dung cũng liều.
5. Trịnh Sâm đánh chúa Nguyễn
Cậy công Trịnh mới thêm kiêu,
Càng đầy đức sắc, càng nhiều ác cai,
Vu oan nỡ đặt nên lời,
Để cho thái tử thiệt tài thông minh.
Phúc uy chuyên tiếm một mình.
Mạo giầy điên đảo, nghĩa danh còn gì?
Thế mà vạc cả duy trì,
Bởi tiên liệt thánh Nam Kỳ nối ngôi.
Nền danh phận, đạo vua tôi,
Gian hùng mất vía đứng ngồi sao an.
Bây giờ có giặc Tây san,
Ở trong lại có Phúc Loan lộng hành.
Thừa cơ Trịnh mới sai binh,
Đưa thư vào trước kể tình ngoại thân.
Rằng: ” Toan trừ đứa lộng thần,
Cùng nhau quét sạch bụi trần cõi Tây.”
Lá cờ theo ngọn gió bay,
Thừa hư trực để vào ngay nhà Hồ.
Phúc Loan đem lại hiến phù,
Trịnh binh nhân thế tràng khu dưới thành.
Đôi bên lập lũy phân dinh,
Trầm than mấy trận quan binh hiểm nghèo.
Độ quân nó bắc phù kiều,
Thúy hoa phất phới qua đèo Hải vân.
Quảng nam đồn trú lục quân,
Trong Tây ngoài Trịnh, xa gần với ai?
Thuyền rồng vào bến Đồng nai,
Long hưng còn đợi cơ trời có khi.
6. Trịnh Sâm hỏng mưu thoán đoạt
Gió thu lần úa cành Lê,
Ác bay chưa biết đỗ về nhà ai.
Ngụy Tây gắm ghé mặc ngoài,
Trịnh Sâm trong lại sai người cầu phong.
Vũ Trần Thiệu kể là trung,
Mặt tuy ứng mệnh, nhưng lòng vẫn kiên.
Động đình xa vượt bè tiên,
Trên trời dưới nước tấm nguyền sạch trong.
Biểu tiên phó ngọn đuốc hồng,
Ngậm cười thề với chén nồng, cho xuôi.
Làm cho vỡ mật gian hồi,
Mà người chìm nổi trong đời thẹn riêng.
7. Đặng Thị Huệ lộng quyền
Xoay vần hay có khuôn thiêng,
Càng già cỗi ác, càng nghiêng sóng tình.
Tuyên phi là gái khuynh thành,
Đem bề ân ái chuyên vành phúc uy.
Cướp quyền đích trưởng dựng bè đồng mông
Yêu cơ khí diễm càng nồng.
Khiến nên Trịnh Khải sinh lòng âm mưu.
E khi sự thế đáo đầu,
Ước cùng các trấn đều vào giúp công
Điển thư có đứa hầu trong,
Tin lòng nên mới ngỏ cùng Ngô Nhâm.
Người sao chẳng chút lương tâm!
Khoa danh đã nhục, quan trâm cũng hoài!
Lòng riêng tham đắm mùi đời,
Phụ tình thầy tớ, cãi lời phụ thân
Quyết đem sự ấy củ trần,
Làm cho Trịnh Khải một lần châu liên.
XVIII. Cuối đời nhà Lê (1783 – 1786)
1. Loạn kiêu binh ở kinh thành
Sâm già, Cán lại thiếu niên
Phó cho Hoàng Bảo giúp nên sao đành?
Tuyên phi học thói buông mành,
Trong dưa dưới mận nhân tình đều nghi.
Ở trong Khải mới thừa ky,
Ngoài quân ba phủ nhân khi lộng hành
Cùng nhau sáp huyết hội minh,
Trống hồi chửa dứt, các dinh đã vào.
Cửa thành binh lửa xôn xao,
Một cơn cỏ nội cá ao còn gì!
Cán vong, Khải lại tiếm vì,
Phủ binh từ ấy nhiều bề tuyên kiêu,
Hung hăng ngoài phố trong triều,
Phá nhà cướp của, dập dìu vào ra.
Đầy đường những tiếng oán ta,
Văn thần, võ tướng đều là bó tay.
2. Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất
Tiến đồn nghe đến giặc Tây,
Tiềm mưu còn rắp đợi ngày xuất chinh.
Có tên Nguyễn Chỉnh tài danh,
Nhân khi tao loạn đem mình hàng Tây.
Cơ quan mưu lược vẽ bầy,
Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoài.
Tây sơn biết tỏ một hai,
Chia quân thủy bộ quyết bài kéo ra.
Ngọn cờ trổ lối sơn pha,
Hải vân đồn trấn, đâu là chẳng tan?
Cánh buồm đè lớp cuồng lan,
Cát dinh, Động hải quân quan chạy dài.
Ngụy Tây còn sợ mặt ngoài,
Rắp ngăn Tràng lũy tính bài phân vương
Khéo đâu Chỉnh lại đưa đường,
Rằng: ” Trong sự thế chi nhường cho ai?
Tướng công uy nhức bên trời,
Này cơ phát trúc hẳn mười chẳng xa.
Bấy lâu họ Trịnh gian tà,
Binh kiêu, dân oán ắt là bại vong.
Uy trời ai giám tranh phong,
Hãy xin thừa thắng ruổi giong cõi ngoài.”
Phải chăng Huệ mới nghe lời,
Lại cho Nguyễn Chỉnh, lĩnh bài tiên phong.
Lá buồm theo ngọn gió đông,
Vượt qua cửa bể vào sông Vị Hoàng.
Quân dung, đâu mới lạ nhường!
Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra.
3. Chúa Trịnh Khải bị bắt
Bụi hồng mờ mịt kinh hoa,
Lục môn, Thúy ái gần xa tan tành.
Quyết liều Trịnh mới thân chinh,
Tây luông giáp trận quân mình đảo qua
Nài voi toan trở lại nhà,
Cờ Tây sơn đã mở ra đầy thành.
Qua Hạ lôi rắp lánh mình.
Giữa đường gặp đứa phụ tình bắt ra.
4. Nguyễn Huệ trả quyền Lê Hiển tông
Ngụy Tây vốn kẻ hung tà,
Còn e người chốn Bắc hà khó xong.
Phù Lê có biểu mật phong,
Mặt ngoài trung nghĩa, trong lòng gian phi.
Hiển tông tuổi tác đã suy,
Nghe tin binh biến biết gì là đâu.
Vừa khi Nguyễn Huệ vào hầu,
Vấn an lại kể gót đầu đinh ninh.
Rằng: ” Nghe họ Trịnh cường hoành,
Vậy đem quân nghĩa quét thanh bụi trần.
Chủ trương mừng thấy đông quân.
Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mưa.”
Phúc lành chúc chữ cửu như.
Của tin mấy quyển đồ thư dâng vào,
Bệ rồng ban chiếu tinh bao,
Gia phong Nguyễn Huệ đương trào quốc công.
Ngọc Hân vừa trạc đào hồng,
Ép duyên kim cải kết lòng sài lang,
Đương cơn đòng bác ngổn ngang,
Thực hư chưa tỏ, biến thường ai tin.
Hơi tàn gần trở gót tiên,
Lại vời Nguyễn Huệ gửi quyền quốc gia.
Một hai xin trở về nhà,
Bóng đèn, tiếng búa giám là di duyên.
5. Quân Tây sơn rút về Nam
Bảo thành kinh lý đã yên,
Ngôi cao phó lại cháu hiền thừa gia.
Duy Kỳ nối giữ nghiệp nhà.
Cải nguyên Chiêu thống mới là sơ niên.
Huệ còn lưu ở Long biên,
Anh là Nguyễn Nhạc theo miền lại ra.
Rước mời ngày tiếp đôi ba,
Bệ từ, Nhạc mới lân la tự tình
” Đất, dân đâu cũng triều đình,
Giao lân rồi sẽ cất mình Nam qui.”
Nửa đêm ám hiệu cuốn kỳ
Bao nhiêu tài hóa chuyên về sạch không.
Bỏ Nguyễn Chỉnh ở Thăng long.
Cũng toan cắt cánh mở lồng với ai.
Về quê Chỉnh mới giả bài,
Rằng vâng mật chỉ hồi sai đất nhà.
Mộ quân hương dõng đem ra,
Ngoài là chống giặc, trong là giữ kinh.
6. Triều đình vua Lê Chiêu Thống
Cựu thần mấy kẻ công khanh,
Thoái hưu để việc miếu đình mặc ai?
Tân khoa còn có một hai,
Bùi Dương, Trần Án cũng người trung trinh.
Cùng nhau phụng sắc triệu binh,
Thổ hào củ tập vào kinh hộ tùy.
Phân vân tranh lập nhiều bề,
Kẻ phò Trịnh Lệ, người suy Trịnh Bồng.
Yến đô lại cứ tập phong,
Những mưu phò Trịnh, quên lòng tôn Lê.
Mậu Xưng, Tích Nhưỡng kể chi,
Phùng Cơ còn biết thị phi nhẽ thương,
Trách thay Trọng Tế họ Dương,
Cũng trong khoa bảng, cùng phường đai cân
Sao không biết nghĩa quân thần
Bầy mưu phế lập sắp quân vây thành.
Non sông còn mặt triều đình,
Bạc đen xem thấy nhân tình mà ghê.
7. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền
Lê hoàng căm giận nhiều bề,
Mật thư sai sứ đưa về Nghệ an.
Chỉnh xưa tuy giả mưu gian,
Được thư rầy mới nở gan anh hùng.
Hịch bay đâu cũng nức lòng,
Tứ thành Tứ đột quân ròng hơn muôn,
Dặm trường thẳng ruổi chinh an
Nghệ, Thanh quét sạch mấy đoàn kiến ong,
Yến đô sức yếu thế cùng,
Theo Dương Trọng Tế qua vùng Bắc ninh.
Đại quân tiến đến kinh thành,
Long tân ngự duyệt, đại đình thưởng công.
Loan thư ban trước thềm rồng
Cha phong Bằng quận, con phong tước hầu.
Trăm quan ngôi thứ ở đầu,
Cánh vây sum họp, phủ lầu nghênh ngang.
XIX. Nhà Nguyễn Tây Sơn (1787 – 1802)
1. Quân Tây sơn ra Bắc lần thứ hai
Bốn phương lại động khói lang,
Ngụy Tây riêng mặt bá vương một trời,
Nhạc, Qui Nhơn; Lữ, Đồng nai;
Quảng Nam, Nguyễn Huệ; trong ngoài chia nhau.
Nhân cơ lại dấy qua mâu,
Văn Nhâm vâng lệnh quân phù kéo ra.
Qua Nghệ an, đến Thanh hoa,
Thổ sơn giáp trận Trinh hà áp binh.
Giặc ra đến đất Ninh bình,
Chỉnh đem hai vạn tinh binh quyết liều.
Một đêm thuyền trái buồm xiêu,
Vì con sơ suất, đền điều thua công.
2. Lê Chiêu Thống chạy dài
Văn Nhậm kéo đến Thăng long,
Lê Hoàng thảng thốt qua sông Nhị hà.
Bắc ninh cũng đất dân nhà.
Bạc thay Cảnh Thước sao mà bất nhân!
Nỡ nào quên nghĩa cố quân
Đóng thành không rước, sai quân cướp đường.
Ngự bào cũng nhuộm mầu sương,
Nguyệt giang, Mục thị nhiều đường gian nguy.
Tây binh thừa thế cùng truy,
Cha con Nguyễn Chỉnh một kỳ trận vong.
Bắt phu canh giữ bên sông,
Kìa Dương Đình Tuấn cũng mong phù trì.
Chước đâu phản gián mới kỳ,
Để cho xa giá chạy về Chí linh.
Vội vàng chưa định hành dinh,
Mà Đinh Tích Nhưỡng nỡ tình đuổi theo!
Giải vây lại có thổ hào,
Lũ Hoàng Xuân Tú cũng đều cần vương,
Thừa dư vừa đến Thủy đường,
Kẻ về tấu tiệp, người sang đầu thành.
Bỗng đâu thuyền bạt vào Thanh,
Nước non man mác, quân tình ngẩn ngơ.
3. Nguyễn Huệ đặt chức Giám quốc ở Bắc hà
Văn Nhâm tự ấy lại giờ,
Vỗ về sĩ tốt, đợi chờ chúa công.
Huệ sao tàn nhẫn cam lòng,
Một gươm nỡ quyết chẳng dong tướng thần.
Mới đòi hào mục xa gần,
Xem nhân tình có mười phần thuận không?
Nguyễn Huy Trạc cũng hào hùng,
Một thang tiết nghĩa quyết lòng quyên sinh.
Biết thiên hạ chẳng thuận tình,
Lập người giám quốc đem binh lại về.
4. Quân nhà Thanh sang nước ta
Lê Hoàng truân kiển nhiều bề,
Mẹ con cách trở biết về nơi đâu?
Thái từ lạc tới Long châu,
Thổ quan dò hỏi tình đầu thủy chung.
Cứ lời đạt đến Quảng đông,
Gặp Tôn Sĩ Nghị cũng lòng mục lân,
Một phong biểu tấu chín lần,
Càn long có ý ân cần vì Lê.
Đền rồng ban ấn tử nê,
Đem quân bốn tỉnh trao về một tay.
Nam quan thẳng lối đường may,
Tắt qua trấn Lạng, sang ngay sông Cầu.
Tập công phá trại Nội hầu,
Theo đường Kinh bắc, tới đầu Nhị giang.
Rượu trâu đâu đã sẵn sàng,
Vua Lê mừng thấy đón đàng khao binh.
Tôn công quân lệnh túc thanh,
Tơ hào chẳng phạm, tấm thành cũng phu
Qua sông mới bắc cầu phù,
Tây luông quân đóng, Đông đô ngự vào.
Quốc vương sẵn ấn tay trao,
Truy tùy thưởng kẻ công lao nhọc nhằn.
5. Triều đình thời Lê mạt
Bao nhiêu hào kiệt xa gần,
Đua nhau đều đến cửa quân đầu thầm
Xưa sao vắng vẻ hơi tăm!
Rầy sao hiệp lực đồng tâm lắm người!
Viêm lương mới tỏ thói đời.
Dạ trong đã chán, mặt ngoài cũng khinh.
Song mà ỷ thế nhà Thanh.
Thờ ơ với kẻ nước mình mặc ai!
Cơ mưu những chắc lưng người.
Để cho đất nước trong ngoài mất trông!
6. Quang Trung đại phá quân Thanh
Quân Thanh đã được Thăng long,
Một hai rằng thế là xong việc mình.
Dùng dằng chẳng chịu tiến binh,
Nhác đường phòng thủ, mống tình đãi hoang.
Ngụy Tây nghe biết sơ phòng,
Giả điều tạ tội, quyết đường cất quân.
Dặm tràng nào có ai ngăn,
Thừa hư tiến bức đến gần Thăng long.
Trực khu đến lũy Nam đồng,
Quan Thanh dẫu mấy anh hùng mà đang?
Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều chém dứt, quân mình thác oan.
7. Cuộc lưu vong của Lê Chiêu thống
Ngẩn ngơ đến ải Lạng sơn,
Theo sau còn có quân quan mấy người.
Cầm tay Sĩ Nghị than giài,
Vì mình kiển bộ nên người luống công,
Nhẽ đâu lại giám bận lòng,
Xin về đất cũ để mong tái đồ.
Tôn công cũng có tiên trù,
Đã dâng một biểu xin cầu viện binh.
Quế lâm còn tạm trú mình,
Bỗng đâu nghe chiếu nhà Thanh triệu về.
Phụng sai có sứ hộ tùy,
Sự đâu lại gặp những bề trở nan.
Sứ thần là Phúc Khang An,
Đã e xa cách, tại toan dối lừa.
Dần dà ngày tháng thoi đưa,
Lê hoàng luống những đợi chờ Yên kinh.
Tấc gang khôn tỏ sự tình,
Dẽ xem con Tạo giúp mình hay không?
Từ khi tam phẩm gia phong,
Mới hay Thanh đế cam lòng thế thôi!
Lỡ làng đến bước xa xôi,
Nhưng trong đạo chúa nghĩa tôi chẳng dời.
Lê Hân, Lê Quýnh mấy người,
Như Tòng, Ích Hiểu cũng lời thệ minh,
Tòng vong đều kẻ trung trinh,
Mã đồng khen cũng có tình tôn quân.
Vua Lê phút lánh cõi trần,
Non sông cách diễn mấy lần xa xa,
Bình Tây nhờ Thánh triều ta,
Kẻ gần an chốn, người xa tìm về,
Sang Thanh mấy kẻ theo Lê,
Còn ai cũng động lòng quê ngậm ngùi.
Vận Lê đến thế là thôi,
Ba trăm sáu chục năm rồi còn chi?
Tổng kết
Mới hay có thịnh, có suy,
Hang sâu, núi cả có khi đổi dời
Trước sau tính lại trăm đời,
Có trời, có đất, có người chủ trương,
Khai tiên là họ Hồng Bàng,
Thụy thay, Triệu đổi thường thường suy di,
Rồi ra hợp hợp chia chia,
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê mấy đời,
Thiếu chi chuyện vãn đầy vơi!
Hiếm điều đắc thất, hiếm người thị phi!
Lại còn nhiều việc tín nghi,
Sự muôn năm cũ chép ghi rành rành
Bút son vâng mệnh đan đình,
Gác lê lần giở sử xanh muôn đời
Chuyện xưa theo sách diễn lời,
Phải chăng xin đã gương Trời rạng soi

Previous Older Entries

Xem thêm Truyện Tàu tại

quyensach.blogspot.com

thudoquan.blogspot.com

sites.google.com/site/thudoquan

textviet.wordpress.com